Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kì mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.16 KB, 13 trang )

BỘ MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài thảo luận:
Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường định hướng XHCN trong
thời kì mới
PHỤ LỤC

I.
II.

Mở đầu:
Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường trong thời

III.
IV.
V.

kì đổi mới
1. Tính tất yếu tồn tại khách quan
2. Tư duy của Đảng trước thời kì đổi mới
3. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường trong thời kì đổi mới
a. Từ đại hội VI đến đại hội VIII
b. Từ đại hội IX đến đại hội XI
Những thay đổi về tư duy của Đảng ta
Những thành tựu, ý nghĩa sau hơn 25 năm đổi mới
Phương hướng và giải pháp của Đảng để phát triển kinh tế thị

trường trong những năm tiếp theo
1. Những hạn chế và nguyên nhân của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay
VI. Phương hướng và giải của Đảng ta để phát triển kinh tế thị



VII.

trường định hướng XHCN trong những năm tiếp theo.
Kết luận


MỞ ĐẦU
Từ năm 1975, khi cả nước độc lập. Cách mạng dân tộc dân chủ hoàn
thành trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã chủ trương giữ vững quan điểm cũng
như con đường mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn là tiến lên chủ
nghĩa xã hội, quyết tâm đưa đất nước trở thành một nước giàu mạnh
về kinh tế, ổn định về kinh tế chính trị, xã hội công bằng văn minh. Để
đạt được nư vậy, Đảng ta đã chủ trương phải ưu tiên phát triển kinh tế
và coi đó là vấn đề sống cịn và một trong số đó là xây dựng kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên thực tế vấn đề nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng
đầu của nhiều nhà kinh tế trong nhiều thập kỷ qua. Do đó mà ở nước
ta cũng như các nước khác trên thế giới muốn tìm tịi mơ hình quản lý
kinh tế vĩ mơ thích hợp và hiệu quả hơn. Trong báo cáo chính trị của
Ban chấp hành Trungương khố VIII trình đại hội IX của Đảng ta có đề
cập : “ Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, qui hoạch,
kế hoạch, chính sách nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực của nền kinh tế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động”.
Chính vì vậy mà xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là một yếu tố tất yếu cơ bản của quá trình đổi mới quản
lý kinh tế ở nước ta, và nhờ có đường lối đúng đắn kinh tế nước ta đã
thoát khỏi những khủng hoảng đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đời sống
nhân dân được cảithiên đáng kể, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng

an ninh quốc gia được giữ vững. Nước ta từ một nước có nền kinh tế
quan liêu, bao cấp đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên quy luật giá trị và tín hiệu cung
cầu của thị trường.
Với đề tài: “Đường lối của Đảng về kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa trong thời kì đổi mới” nhóm 6 mong muốn giúp các bạn
sinh viên có thể hiểu và nắm bắt kiến thức về những thay đổi tư duy và


thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường trong
thời kì đổi mới ở Việt Nam.

II.

Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường trong thời kì đổi
mới

1. Tính tất yếu tồn tại khách quan
Theo C.Mác, sản xuất và lưu thơng hàng hố là hiện tượng vốn có của
nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Những điều kiện ra đời và tồn tại của
kinh tế hàng hố cũng như các trình độ phát triển của nó do sự phát
triển của lực lượng sản xuất tạo ra.
Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam.
- Phân cơng lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất
hàng hố chẳng những khơng mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả
về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực,
từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân
công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng
ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.

- Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu
tồn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu
tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó, tồn tại nhiều
chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có
thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
- Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có
sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, có
lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế cịn có sự khác nhau về trình
độ kỹ thuật - cơng nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản
xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
- Quan hệ hàng hố - tiền tệ cịn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối
ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát
triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là
người chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường
thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá.


Như vậy, khi kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu, khách
quan, thì khơng thể lấy ý chí chủ quan mà xố bỏ nó được.

2. Tư duy của Đảng trước thời kì đổi mới
Cơ chế quản lí kinh tế ở nước ta trước thời kì đổi mới là cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu, bao cấp.

- Nhà nước quản lí nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính

-

-


-

dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống
dưới. Tất cả phương thức sản xuất, nguồn vật tư , tiền vốn, bộ
máy nhân sự, tiền lương… đều do các cấp thẩm quyền quyết
định. Nhà nước giao chỉ tiêu, lỗ nhà nước bù, lãi nhà nước thu.
Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản
xuất kinh doanh nhưng lại khơng chịu trách nhiệm pháp lí đối với
các quyết định của mình. Nếu xảy ra thiệt hại thì do nhà nước
gánh chịu. Doanh nghiệp khơng có quyền tự chủ sản xuất , kinh
doanh.
 Các doanh nghiệp sẽ khơng có cơ hội để phát triển do bị chi
phối bởi nhà nước.
Quan hệ hàng hóa- tiền tệ bị coi nhẹ chỉ mang tính hình thức,
quan hệ hiện vật là chủ yếu. Chế độ “ cấp phát- giao nộp”
 Rất nhiều loại hàng hóa quan trọng như trí tuệ, chất xám, sức
lao động, bằng sáng chế bị rẻ rúm , chúng khơng được coi là
hàng hóa về pháp lí.
Bộ máy nhà nước cồng kềnh, nhiều cấp trung gian kém năng
động.
 Đây là nơi phát sinh ra các đội ngũ cán bộ hoạt động kém hiệu
quả, phong cách cửa quyền, quan lieu mà lại được hưởng
lương nhiều hơn người lao động.

Các hình thức bao cấp:

- Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật

-


-

tư thấp hơn nhiều lần giá trị thực của nó trên thị trường, hạch
tốn kinh tế chỉ là hình thức
Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Phân phối vật tiêu dùng cho công
nhân định mức qua tem phiếu, chế độ cào bằng không phân phối
theo lao động.
Bao cấp theo chế độ phát vốn của ngân sách:Tăng gánh nặng
ngân sách, làm việc sử dụng kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “ xincho”. Bên cạnh đó cịn thủ tiêu, kìm hãm sự tiến bộ của khoa học
công nghệ .
 Nước ta đang lâm vào tình trạng trì trệ, lạc hậu và khủng
hoảng 1 cách nghiêm trọng.


3. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường trong thời kì đổi mới
3.1. Từ đại hội VI đến đại hội VIII
Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế
thị trường. So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường
có sự thay đổi căn bản và sâu sắc phát triển chung của nhân loại.
Một là, kinh tế thị trường khơng phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư
bản mà kaf thành tựu phát triển chung của nhân loại.
Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nơ lệ, hình thành
trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong chủ nghĩa tư bản. Trao
đổi mua bán hàng hóa là phương thức giải quyết mâu thuẫn trên. Tuy
nhiên, kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có sự khác nhau về trình
độ phát triển. Kinh tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại làm
cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao.
Chủ nghĩa tư bản khơng sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó, kinh tế thị
trường với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải là sản

phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của
nhânloại. Chỉ có thể chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay cách
sử dụng kinh tế thị trường theo lợi nhuận tối đa của chủ nghĩa tư bản
mới là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản.
Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó cịn tồn tại
khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Đại hội VII của Đảng (6-1991) trong khi khẳng định chủ trương tiếp tục
xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh
của các thành phần kinh tế quốc dân thống nhất, đã đưa ra kết luận
quan trọng rằng sản xuất hàng hóa khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội,
nó tồn tại khách quan và cần thiết cho xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII (6-1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh
công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội cịn tồn tại sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường nên chúng ta đã
xem kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ
nghĩa, đã thực hiện phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu,
còn thị trường chỉ được coi là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế


hoạch do đó khơng cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Vào thời kì đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ KTTT, nếu biết vận
dụng đúng , thì có vai trị rất lớn đối với sự phát triển kinh tế- xã hội. có

thể dùng cơ chế thị trường làm cơ sở phân bổ các nguồn lực kinh tế,
dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng hàng hóa, điều
hịa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thong qua cơ chế cạnh
tranh, thúc đẩy tiến bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém.

3.2.

Từ đại hội IX đến đại hội X

Đại hội IX của Đảng (tháng 4- 2001) xác định nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời
kì q độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của nhà nước theo
định hướng XHCN. Đây là bước chuyển quan trọng từ KTTT chỉ như
cơng cụ, cơ chế quản lí, đến nhận thức coi KTTT như một chỉnh thể, là
cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một kiểu tổ chức kinh tế vừa
tuân thủ theo quy luật của KTTT vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt
chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH. Bản chất của KTTT
định hướng XHCN không phải là kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cũng
khơng phải là KTTT tư bản chủ nghĩa và cũng chưa hồn tồn là KTTT
xã hội chủ nghĩa vì nó chưa có đầy đủ các yếu tố XHCN.
Đại hội X kế thừa tư duy của đại hội IX, đại hội X, XI đã làm sáng tỏ
thêm nội dung cơ bản định hướng XHCN. Tính định hướng XHCN trong
phát triển kinh tế thị trường ở nước ta thể hiện qua 4 tiêu chí:

- Về mục tiêu phát triển: nhằm thực hiện “ dân giàu, nước mạnh,

-


-

xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, giải phóng mạnh mẽ lực
lượng sản xuất và khơng ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đẩy
mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm
giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước
khá giả hơn
Phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm
năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi
vùng miền… phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh
tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, là công cụ chủ
yếu điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh dân chủ công bằng văn minh
Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và cơng
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển,
tăng trưởng kinh tế gắn chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội,


-

văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì
mục tiêu phát triển con người, hạn chế tác động tiêu cực của nền
kinh tế thị trường
Về quản lí: phát huy vai trị làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai
trị quản lí , điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN,
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt
giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy tích cực, hạn chế
tiêu cực của nền kinh tế thị trường, đảm bảo quyền lợi chính đáng

của con người

III Những thay đổi về tư duy của Đảng ta

• Từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất

là cơng hữu về tất cả các tư liệu sản xuất ( bao gồm sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể) đã đi đến kinh nghiệm nền kinh tế của ta
hiện nay và sau này có 3 chế độ sở hữu cơ bản là toàn dân, tập
thể, tư nhân, trên cơ sở đó hình thành nhiều hình thức sở hữu và
nhiều thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân ( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh
tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi
• Từ quan niệm để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa phải nhanh chóng hồn thành việc cải tạo kinh tế tư bản tư
nhân và kinh tế các thể tiểu chủ là những thành phần kinh tế phi
xã hội chủ nghĩa, đã đến quan niệm rằng trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, còn cải
tạo quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất
thiết phải phù hợp với từng bước phát triển của lực lượng sản
xuất.
• Từ quan niệm hai thành phần kinh tế là kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể, với việc nhanh chóng xóa bỏ các thành phần kinh
tế phi xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu đã là nền tảng của nền kinh
tế quốc dân, đã đi đến quan niệm rằng muốn cho 2 thành phần
kinh tế ấy ngày càng trở thành nền tảng vững chắc thì phải trải
qua một quá trình dài xây dựng, đổi mới và phát triển với những
bước thích hợp; trong khi đó vẫn khuyến khích phát triển các
thành phần kinh tế tư nhân, coi như thành phần này là động lực
quan trọng của phát triển kinh tế và phát triển lực lượng sản xuất

• Từ quan niệm nhà nước phái chỉ huy toàn bộ nền kinh tế theo
một kế hoạch tập trung, thống nhất với những chỉ tiêu có tính
pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã đi đến phân biệt rõ chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế. Từ chỗ tuyệt đối hóa vai trò của kế
hoạch, phủ nhận vai trò của thị trường đã đi đến thừa nhận thị
trường vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch chủ
yếu mang tính định hướng và đặc biệt trên bình diện vĩ mơ, cịn
thị trường giữ vai trị trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa


chọn lĩnh vực hoạt đọng và phương án tổ chức sản xuất kinh
doanh
• Từ chỗ chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính
đáng là phân phối theo lao động đã đi đến quan niệm thực hiện
nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức
đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và phân
phối thông qua phúc lợi xã hội. Công bằng xã hội thể hiện không
phải ở chủ nghĩa bình quân trong kinh tế mà là ở chỗ phân phối
hợp lí tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất, ở việc tạo điểu kiện
cho mọi người đến có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực
của mình. Khơng ngăn cấm mọi sự làm giàu mà khuyến khích mọi
người làm giàu chính đáng theo đúng pháp luật, địng thời thực
hiện xóa đói giảm nghèo, hạn chế khoảng cách giàu nghèo
III. Thành tựu, ý nghĩa sau hơn 25 năm đổi mới
Sau hơn 25 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử.
Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm,
khắc phục được nạn lạm phát có lúc trên 700% (năm 1986) xuống mức
lạm phát 12% (năm 1995) và từ đó đến nay lạm phát chỉ còn một con

số; khắc phục được nạn thiếu lương thực trước đây và hiện nay kinh tế
phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực, Việt Nam trở thành
một nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới.
Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước nhằm mục tiêu
đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Cùng với tăng trưởng kinh tế, trong thời kỳ đổi mới,
Việt Nam đã chú ý đến việc thực hiện chính sách cơng bằng xã hội, xóa
đói giảm nghèo. Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được cải thiện một bước đáng kể.
Thành tựu đổi mới ở Việt Nam đã được thể hiện rõ nét trên một số vấn
đề sau đây:
Một là, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi mới của Đảng đã được thể
chế hóa thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế.
Hai là, chế độ sở hữu với nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần được hình thành. Từ sở hữu toàn dân và tập thể, từ kinh tế
quốc doanh và hợp tác xã là chủ yếu đã chuyển sang nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen (nhà nước, tập thể, cá thể
tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài).
Sở hữu toàn dân những tư liệu sản xuất chủ yếu và kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo.


Ba là, các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển
thống nhất trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Cơ
chế thị trường có sự quản lý nhà nước đã và đang đi vào cuộc sống
thay cho cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Các doanh nghiệp, doanh
nhân được tự chủ sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh. Quản lý
nhà nước về kinh tế được đổi mới từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh

lệnh hành chính sang quản lý bằng pháp luật và các công cụ điều tiết
vĩ mô khác.
Bốn là, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội,
xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực.
Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có
quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
2. Ý nghĩa
Việt Nam lựa chọn phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là một sự lựa chọn đúng đắn, đưa đất nước tiến đến mục tiêu
xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam đã giúp nước
ta phá vỡ nền kinh tế mang nặng tính tự cung tự cấp thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, thúc đẩy trình độ xã hội hóa cao của sản
xuất. Nền kinh tế hàng hóa kích thích tính năng động sáng tạo của các
chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, tăng khối lượng
hàng hóa dịch vụ. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh nhằm mục đích là phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất –
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất
mới, tiên tiến.
Thực tiễn 20 năm đổi mới ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ tính đúng
đắn của đường lối phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
hướng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

IV. Phương hướng và giải pháp của Đảng để phát triển kinh tế thị
trường trong những năm tiếp theo
1 Những hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện

nay
- Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn cịn một số hạn chế như:
+ Q trình xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của cơng cuộc đổi
mới tồn diện và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và thống nhất.


+ Vấn đề sở hữu,quản lý và phân phối trong doanh nghiệp nhà nước
chưa giải quyết tốt,gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát
tài sản nhà nước, nhất là khi cổ phần hóa. Doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác còn bị phân biệt đối xử. Việc xử lý các vấn đề
liên quan đến đất đai còn nhiều vướng mắc. Các yếu tố thị trường vã
các loại thị trường hình thành, phát triển chậm, thiếu đồng bộ, vận
hành chưa thơng suốt. Thị trường tài chính, bất động sản, khoa học và
công nghệ phát triển chậm; quản lý nhà nước với các loại thị trường
còn nhiều bất cập. Phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Cơ chế “xin
– cho” chưa được xóa bỏ triệt để. Chính sách tiền lương cịn mang tính
bình qn.
+ Điều hết sức quan tâm là những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa của nền kinh tế chưa được tăng cường còn nhiều hận
chế,yếu kém.
- Những hạn chế trên xuất phát từ các nguyên nhân:
+ Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là vấn đề hồn tồn mới chưa có tiền lệ trong lịch sử. Nhận thức về
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cịn nhiều hạn chế do
cơng tác lý luận chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn. Vấn đề này đã
được Đại hội XI của Đảng khẳng định : “Công tác nghiên cứu lý luận,
tổng kết tực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.”
+ Năng lực thể chế hóa và quản lý, tổ chưc thực hiện của Nhà nước

còn chậm, nhất là trong viêc giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc.
+ Vai trị tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát của
các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội,
các tổ chức xã hội, nghề nghiệp còn yếu.

 Vấn đề hiện nay: Kinh tế thị trường định hướng XHCN: Sức
mạnh hay lực cản của nền kinh tế Việt Nam?
Tại hội thảo khoa học “Một số vấn đề lý luận - thực tiễn cốt yếu về
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” gần
đây, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng “Kinh tế thị trường
định hướng XHCN làm sức mạnh quốc gia tăng lên rõ rệt”.
TS. Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh
tế Trung ương đánh giá rằng, từ khi tiến hành đổi mới kinh tế thì nền
kinh tế Việt nam đã có những bước chuyển biến rõ rệt, thời gian đầu
nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nhưng những năm gần đây có chậm lại.
Các kết quả đạt được đó là thành tựu của nền kinh tế thị trường, việc
hòa nhập quốc tế và sự chủ động, sáng tạo của người dân. Tuy nhiên
cho đến nay khái niệm nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN là gì và
nội dung như thế nào thì vẫn chưa được xác định rõ ràng.Cho nên, TS.
Lê Đăng Doanh nói:“Đến hiện nay đang chưa rõ, nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN có đầu, mình, chân tay thế nào và cho đến nay chưa


ai mơ tả nó được rõ rệt. Cho nên tơi nghĩ rằng việc khẳng định Kinh tế
thị trường định hướng XHCN đã có những tác động tích cực có lẽ phải
nghiên cứu thêm”.
Cũng theo TS. Lê Đăng Doanh hiện nay nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN đang chịu sự can thiệp quá mức của nhà nước đã gây
nhiều tranh cãi. Do đó để thúc đẩy kinh tế phát triển mạnh đúng như
khả năng của nó, theo ơng nhà nước cần phải tơn trọng sự cạnh tranh

bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, chống độc quyền và áp dụng
đúng và đủ cơ chế thị trường.
Nói về những hạn chế của kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện
nay, theo TS. Lê Đăng Doanh đó là nguyên nhân của sự phát triển kinh
tế thiếu hiệu quả, đồng thời nó là mầm mống của việc tham nhũng và
lợi ích nhóm trong các doanh nghiệp nhà nước. Điều đó dẫn đến bảng
xếp hạng của kinh tế Việt nam đang ở mức thấp trong nhiều năm gần
đây. TS. Lê Đăng Doanh nói:“Hiện nay nền kinh tế thị trường của Việt
nam đang chịu sự tác động của nhà nước trên mức bình thường và có
hàng loạt các cam kết đang gây tranh cãi. Ví dụ như việc nhà nước can
thiệp vào hệ thống giá hiệu quả đến đâu, giữ ổn định giá có giữ được
không và hiệu quả như thế nào?”
Đường lối phát triển kinh tế quốc gia là một trong những yếu tố quan
trọng nhất trong cương lĩnh chính sách của đảng cầm quyền, để thúc
đẩy và kích thích nền kinh tế phát triển. Nếu chính sách kinh tế khơng
rõ ràng, cụ thể và đảm bảo tính khoa học mà chỉ nhằm thể hiện cho
mục đích chính trị thì chắc chắn nó sẽ trở thành lực cản của quốc gia.

2 Phương hướng và giả pháp của Đảng để phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa trong những năm tiếp theo.
- Tiếp tục nghiên cứu và xác định mơ hình phát triển nền kinh tế

-

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phát triển đồng bộ các loại thị trường
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hịa bình,
hợp tác và phát triển. Chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương

-


hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Phát huy tối ưu các lợi thế so sánh của đất nước trong phân công
lao động và hợp tác quốc tế, trên cơ sở đó tạo ra những đột phá

-

mới về kinh tế.
Phát triển nền kinh tế theo hướng hiện đại, có sức cạnh tranh cao.
Lấy con người làm trung tâm phát triển.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả và năng lực quản lí của nhà nước
trong kinh tế.


- Thực hiện tốt mục tiêu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa bảo
đảm trnahs tụt hậu nền kinh tế và bảo đảm các bước đi vững

-

chắc trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức lại những luận điểm, mơ hình phát triển kinh tế của
các nước phát triển

Kết luận

Kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là
thành tựu phát triển chung của nhân loại. Kinh tế thị trường cũng tồn
tại khách quan trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là
một phạm trù nghiên cứu rộng lớn cần nhiều thời gian, tư liệu và sự
tham gia của các nhà nghiên cứu chuyên môn. Trong khuôn khổ nội

dung đề tài: “Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trong thời kì đổi mới” đã trình bày quá trình thay đổi tư duy
của Đảng khẳng định tính đúng đắn và cần thiết của kinh tế thị trường
định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa, đồng thời trình bày những


thành tựu và hạn chế, hay thách thức của nền kinh tế Việt Nam hiện
nay. Trên cơ sở đó đưa ra phương hướng và giải pháp cụ thể để phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.



×