MỤC LỤC
Lời mở đầu……………………………………………………………… 2
I. Nhận thức chung 5
1. Khái niệm 5
1.1. Quản lý nhà nước 5
1.2. Hội quần chúng 5
1.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với các hội quần chúng 6
2. Vai trò, ý nghĩa của việc quản lý hội quần chúng có chất lượng 7
II. Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với các hội quần
chúng 8
1. Tình hình tổ chức, hoạt động của các hội quần chúng 8
1.1. Tình hình tổ chức 8
1.2. Tình hình hoạt động 12
1.3. Ưu điểm, hạn chế trong tổ chức, hoạt động của các hội 17
1.3.1. Ưu điểm…………………………………………………………… 17
1.3.2. Hạn chế………………………………………………………… 17
2. Ưu điểm, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với các hội
quần chúng…………………………………………………………… 18
2.1. Ưu điểm…………………………………………………………… 18
2.2. Hạn chế……………………………………………………………… 19
3. Nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế………………………………… 19
3.1. Nguyên nhân của những kết quả đạt được………………………… 21
3.2. Nguyên nhân của những hạn chế…………………………………… 21
II. Một số kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối
với các hội quần chúng…………………………………………………. 22
Kết luận……………………………………………………………… 24
1
Lời mở đầu
Tiềm lực và sức mạnh của nhân dân là vô bờ bến. Tiềm lực ấy một khi
được khơi dậy và tập hợp trong một tổ chức tự nguyện dưới sự lãnh đạo của
Đảng thì có thể tạo ra sức mạnh ngàn lần, vượt qua mọi khó khăn thử thách, góp
phần đưa dân tộc và đất nước tiến lên vững bền.
Ngay từ khi ra đời, trải qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn khẳng
định các tổ chức tự nguyện nhân dân luôn có vai trò quan trọng. Các hội quần
chúng được xem là lực lượng tập hợp sức mạnh quần chúng rất mạnh mẽ. Trong
giai đoạn đất nước đổi mới hiện nay, Đảng ta càng chú trọng đến công tác phát
huy sức mạnh và quản lý các hội quần chúng.
Thành phố Đà Nẵng được Bộ Chính trị xác định là thành phố trung tâm
của miền Trung thể hiện ở Nghị quyết số 33/NQ-TW ngày 16/10/2003 của Bộ
Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lợi thế về truyền thống đấu tranh chống giặc
ngoại xâm; trong hoà bình, nhân dân Đà Nẵng cần cù, thông minh, sáng tạo xây
dựng thành phố ngày càng phát triển hiện đại, tạo điều kiện để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ngày càng nhanh. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ thúc đẩy
quá trình khai thác các nguồn lực của các thành phố Nam Lào, Đông Bắc
Campuchia và Thái Lan sẽ tạo cơ hội cho Đà Nẵng phát huy điều kiện vị trí địa
lý để phát triển.
Trình độ dân trí, lao động của thành phố Đà Nẵng tương đối cao so với
mức trung bình của cả nước đã tạo điều kiện và cơ hội để Đà Nẵng chuyển đổi
công nghệ sản xuất tiên tiến. Đà Nẵng còn là nơi hội tụ nhiều nhà khoa học, nơi
tập trung các các cơ sở đào tạo của miền Trung, đứng thứ 4 về số giáo viên, thứ
3 về số sinh viên trong số 5 thành phố lớn của Việt Nam. Hàng năm các trường
đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tại Đà Nẵng đã đào tạo hàng ngàn
lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, trình độ tay nghề đáp ứng nhu cầu về
nguồn nhân lực không chỉ cho thành phố mà còn cho cả khu vực miền Trung.
2
Cơ sở vật chất của các ngành sản xuất được quan tâm phát triển đúng mức.
Các khu công nghiệp mới được hình thành, đã thu hút được nhiều nhà đầu tư
trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển, công nghệ sản xuất được thay thế
bằng công nghệ tiên tiến và đang diễn ra nhanh chóng. Lực lượng kinh tế tư nhân
đã phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đầu tư nước ngoài tăng
mạnh, doanh nghiệp tư nhân phát triển cả về số lượng và chất lượng. Lực lượng
lao động tăng cao, quy mô kinh tế không ngừng phát triển. GDP bình quân đầu
người của Đà Nẵng đứng thứ 4/64 tỉnh, thành phố trong cả nước.
Vai trò, điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi đó đã tác động mạnh đến tổ
chức và hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn thành phố; tạo ra những điều
kiện thuận lợi đáp ứng nhu cầu của cộng đồng về sự phát triển đa dạng, phong
phú theo sở thích, ngành nghề, lĩnh vực, giới và các xu hướng xã hội khác; đáp
ứng và thúc đẩy sự năng động tích cực của cộng đồng, thỏa mãn nhu cầu và
nguyện vọng gắn bó với nhau trong một tổ chức hòa bình, hòa hợp tâm lý, hòa
hợp lợi ích phát triển. Từ đó, thông qua vai trò của các tổ chức hội, đã huy động,
tập hợp đông đảo các thành phần, nguồn lực xã hội khác nhau tham gia, đóng
góp tích cực vào việc quản lý cộng đồng, phát triển xã hội. Vì vậy, những năm
qua, sự phát triển và vai trò của tổ chức xã hội đối với sự phát triển xã hội trên
địa bàn thành phố chuyển biến khá mạnh mẽ, góp phần quan trọng vào việc xây
dựng một thành phố Đà Nẵng năng động, phát triển, giàu mạnh, văn minh. Tuy
nhiên xu hướng phát triển đó đặt ra yêu cầu rất cao trong công tác quản lý hiệu
quả đối với các hội.
Để có cái nhìn rõ hơn về các hội quần chúng trên địa bàn thành phố, tôi
thực hiện tiểu luận “Nâng cao hiệu quả quản lý các hội quần chúng trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng hiện nay”.
Đối tượng nghiên cứu chính của tiểu luận là các hội quần chúng, cụ thể là
các hội quần chúng được thành lập theo quy định tại Nghị định số 45/2010/NĐ-
CP ngày 25/9/2010 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, hoạt
3
động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự trang trải kinh phí, tự chịu trách
nhiệm trước pháp luật, không phải các hội hoạt động tự phát như hội đồng
hương, câu lạc bộ, hội dòng tộc,…
Phạm vi nghiên cứu là trên địa bàn thành phố Đà Nẵng hiện nay, trong đó
chú trọng nghiên cứu các hội hoạt động trong phạm vi thành phố.
I. Nhận thức chung
1. Khái niệm
1.1. Quản lý nhà nước
4
Quản lý là hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức và định hướng
của chủ thể quản lý vào một đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã
hội và hành vi của con người, nhằm duy trình tính ổn định và phát triển của đối
tượng theo những mục tiêu đã định.
Theo đó, ta có thể hiểu quản lý nhà nước là sự tác động bằng pháp luật của
các chủ thể mang quyền lực nhà nước tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện
chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước.
Quản lý nhà nước có chủ thể là các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực
hiện chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đối tượng quản lý của nhà nước là
toàn bộ dân cư và các tổ chức trong phạm vi tác động quyền lực nhà nước. Phạm
vi của quản lý nhà nước là trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại gia nhằm thỏa mãn nhu cầu
của nhân dân. Đồng thời, quản ý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, lấy
pháp luật làm công cụ quản lý chủ yếu nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của
xã hội.
1.2. Hội quần chúng
Ở nước ta, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể chân chính
của quyền lực. Bởi vậy, hệ thống chính trị ở nước ta là cơ chế, là công cụ thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hệ thống
chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân được thành lập, hoạt động trên cơ sở
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm
nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Bên cạnh đó còn có loại hình tổ chức hội
quần chúng.
5
Hội quần chúng là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng
ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội
viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp
phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt
động theo quy định của pháp luật.
Với định nghĩa đó, hội gắn với năm nguyên tắc hoạt động cơ bản là: Tự
nguyện; tự quản; Dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch; tự bảo đảm kinh
phí hoạt động; không vì mục đích lợi nhuận; tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và
điều lệ hội.
Hội có các tên gọi khác nhau: hội, liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp
hội, câu lạc bộ có tư cách pháp nhân và các tên gọi khác theo quy định của pháp
luật (sau đây gọi chung là hội).
Các tổ chức hội quần chúng có vị trí, vai trò quan trọng trong mặt trận đại
đoàn kết toàn dân tộc, trong vận động, tập hợp hội viên và các tầng lớp nhân dân
thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với các hội quần chúng
Hoạt động quản lý nhà nước đối với các hội quần chúng do các cơ quan
trong bộ máy nhà nước có chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp thực hiện.
Đối tượng quản lý của nhà nước là các hội quần chúng hoạt động trong phạm vi
cả nước, tỉnh, thành phố, quận, huyện, phường xã. Phạm vi là trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội mà các hội hoạt động: kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng, ngoại giao nhằm thỏa mãn nhu cầu của nhân dân. Mặc dầu các hội
quần chúng không nằm trong hệ thống chính trị song vẫn hoạt động dưới sự
quàn lý của Nhà nước, hoạt động quàn lý nhà nước đối với các hội quần chúng
mang tính quyền lực nhà nước, lấy pháp luật làm công cụ quản lý chủ yếu.
6
Hiện nay, hoạt động quản lý nhà nước đối với các hội quần chúng gồm các
nội dung sau:
- Xây dựng trình hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hội;
- Hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương, các hội và công dân thi hành pháp
luật về hội;
- Cho phép thành lập; chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể; đổi tên và
phê duyệt điều lệ hội;
- Hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác quản lý hội;
- Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hội;
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về hội; kiểm tra việc thực
hiện điều lệ hội đối với các hội;
- Quản lý việc ký kết hợp tác quốc tế về hội theo quy định của pháp luật;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về hội;
- Tổng hợp báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động và quản lý hội.
Các nội dung trên được Nhà nước phân định rõ trách nhiệm quản lý đối với
từng cơ quan, ban, ngành để các hội quần chúng hoạt động đảm bảo tuân thủ
pháp luật.
2. Vai trò, ý nghĩa của việc quản lý hội quần chúng có chất lượng
- Trong xã hội do nhân dân làm chủ, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi
ích xã hội gắn chặt và thống nhất với nhau, trong đó lợi ích nhân dân là động lực
trực tiếp thì công tác vận động nhân dân chỉ có thể thành công nếu trước hết bảo
đảm và đáp ứng được trên thực tế nhu cầu tập hợp, hoạt động xã hội của nhân
dân. Quản lý nhà nước đối với các hội quần chúng có hiệu quả sẽ giúp phát huy
được sức mạnh của quần chúng và quyền làm chủ của nhân dân, huy động được
đông đảo các lực lượng quần chúng tham gia các nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
7
- Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền thì vấn
đề dân chủ hóa xã hội càng là một yêu cầu tất yếu. Do đó, các tổ chức hội quần
chúng sẽ có xu hướng tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tăng nhanh về số lượng,
phong phú về hình thức, đa dạng về phương thức hoạt động và ngày càng có tác
động, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì vậy, quản lý hội
quần chúng có hiệu quả sẽ giúp các hội hoạt động theo đúng chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
II. Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với các hội quần chúng
1. Tình hình tổ chức, hoạt động của các hội quần chúng
1.1. Tình hình tổ chức
Từ khi thành phố Đà Nẵng là đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương,
tình hình kinh tế của thành phố tiếp tục phát triển nhanh, các vấn đề xã hội được
quan tâm giải quyết theo hướng tăng trưởng đi đôi với phát triển bền vững, an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở bước đầu đã có kết quả, có tác dụng phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, tạo điều kiện để đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang
đô thị. Năm 2003 Thành phố Đà Nẵng vinh dự được Chính phủ công nhận là đô
thị loại 1 theo Quyết định số 145/2003/QĐ-TTg ngày 15/7/2003 của Thủ tướng
Chính phủ. Bộ Chính trị có Nghị quyết số 33 NQ/TW ngày 16/10/2003 về xây
dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Theo đó, sự phát triển đa dạng về ngành nghề, lĩnh vực kinh tế cũng như
nhu cầu phong phú, đa dạng của các tầng lớp nhân dân đã tác động mạnh đến
nhu cầu hình thành, thu hút, tập hợp các thành phần xã hội theo sở thích, ngành
nghề, lĩnh vực, giới và các xu hướng xã hội trong các tổ chức hội. Đặc biệt, sau
khi Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về
tổ chức, hoạt động và quản lý hội có hiệu lực, do các quy định về nguyên tắc
thành lập, tổ chức, hoạt động và quy trình, thủ tục được cụ thể, rõ ràng hơn nên
8
số lượng tổ chức hội được thành lập trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tăng nhanh.
Việc đề nghị của công dân, tổ chức cũng như tiếp nhận, thẩm định, cho phép
thành lập, quản lý hoạt động các tổ chức hội trên địa bàn thành phố đúng thẩm
quyền, trình tự, thủ tục, biểu mẫu hướng dẫn quy định tại Nghị định số
45/2010/NĐ-CP và Thông tư số 11/2010/TT-BNV ngày 26 tháng 11 năm 2010
của Bộ Nội vụ quy định chi tiết thi hành Nghị định số 45/2010/NĐ-CP cũng như
các quy định của pháp luật khác có liên quan trên từng lĩnh vực cụ thể mà tổ
chức hội hoạt động.
Tính đến ngày 31/7/2011, tại thành phố Đà Nẵng có 552 hội, trong đó 128
hội hoạt động trong phạm vi toàn thành phố, 102 hội hoạt động hoạt động trong
phạm vi 07 quận, huyện và 322 hội hoạt động hoạt động trong phạm vi 56
phường, xã
Tính đến ngày 31 tháng 7 năm 2012, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có tất
cả 552 tổ chức hội hoạt động trên cả 03 phạm vi thành phố, quận, huyện và
phường, xã. Trong tổng số 552 tổ chức hội hiện có thì hội hoạt động trên phạm
vi thành phố có 128 tổ chức, chiếm tỉ lệ 23%; hội hoạt động trên phạm vi quận,
huyện có 102 tổ chức, chiếm tỉ lệ 18% và hội hoạt động trên phạm vi phường xã
có 322 tổ chức, chiếm tỉ lệ 59%.
Biểu đồ số lượng hội hoạt động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
(tính đến tháng 7 năm 2012)
9
128
102
322
Biểu đồ cơ cấu tổ chức hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
theo 03 phạm vi hoạt động (tính đến tháng 7 năm 2012)
Những năm gần đây, số lượng tổ chức hội gia tăng mạnh qua từng năm, đặc
biệt là các tổ chức hội hoạt động trên phạm vi thành phố và hội hoạt động trên
phạm vi phường, xã, hội hoạt động trên lĩnh vực xã hội từ thiện và hội hoạt động
theo nghề nghiệp. Một mặt, do quy định của pháp luật về thành lập, tổ chức hoạt
động của hội được cụ thể hơn, mặt khác do nhu cầu và các nguồn lực xã hội
ngày càng phong phú, đặc biệt là nhu cầu hoạt động hội trong cộng đồng dân cư
ở phường, xã và nhu cầu hợp tác, liên kết, hỗ trợ nghề nghiệp của khu vực kinh
tế tư nhân trong phạm vi thành phố, nhu cầu huy động nguồn lực xã hội để giải
quyết các vấn đề xã hội như khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt, giúp đỡ gia
đình chính sách, hộ nghèo, các đối tượng bảo trợ xã hội khác nên số lượng tổ
chức, công dân đề nghị thành lập ngày càng nhiều. Năm 2004, toàn thành phố có
302 tổ chức hội thì đến tháng 7 năm 2012 có 552 hội, tăng 250 hội (tăng gần
83% so với năm 2004).
Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009
201
0
201
1
7/2012
Hội có phạm vi
hoạt động trên địa
bàn thành phố
92 97 104 107 109 115 119 124 128
10
59 %
23 %
18 %
Hội có phạm vi
hoạt động trên địa
bàn quận, huyện
49 56 72 80 86 87 88 102 102
Hội có phạm vi
hoạt động trên địa
bàn phường, xã
161 170 190 208 225 243 252 321 322
Tổng cộng 302 323 366 395 420 445 459 546 552
Biểu thống kế số lượng tổ chức hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai
đoạn 2004-2011
Biểu đồ số lượng tổ chức hội hoạt động trên 03 phạm vi ở thành phố Đà
Nẵng giai đoạn 2004-2011
1.2. Tình hình hoạt động
Hoạt động của các hội đã từng bước đổi mới, vừa gắn liền với tôn chỉ, mục
đích của hội, tập trung vận động, tập hợp, giúp đỡ hội viên vừa tích cực tham gia
những vấn đề xã hội cũng như thực hiện một số nhiệm vụ nhà nước giao, góp
phần vào sự phát triển kinh tế- xã hội, ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội của thành phố. Hoạt động của các hội quần chúng trên địa bàn thành phố
hiện nay có nhiều kết quả tốt trên các lĩnh vực sau:
1.2.1. Công tác tuyên truyền, vận động, phổ biến kiến thức
11
Công tác tuyên truyền là nội dung quan trọng được các hội quan tâm và
thường xuyên tổ chức thực hiện. Năm 2011, các hội tổ chức tốt các hình thức
tuyên truyền các chủ trương chính sách lớn của Trung ương và thành phố như
hưởng ứng Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, quán triệt Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 25/9/2010 của Chính phủ
về tổ chức, hoạt động và quản lý quỹ hội và Quyết định số 14/QĐ-UBND ngày
19/5/2011 của Chủ tịch UBND thành phố ban hành quy định về tổ chức, hoạt
động và quản lý nhà nước đối với các tổ chức hội trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và nhà nước trên các lĩnh vực liên quan
và tuyên truyền vận động hội viên thực hiện các nhiệm vụ, điều lệ hội. Dấu ấn
rõ nhất trong công tác tuyên truyền, vận động của hoạt động hội trong năm qua
là ngoài các hoạt động trong các đại hội, lễ kỉ niệm, nhiều tổ chức hội đã chủ
động tổ chức các buổi tập huấn về công tác quản lý, tổ chức vả hoạt động hội,
đây cũng chính là diễn đàn để những người làm công tác quản lý hội nắm bắt
tình hình tư tưởng, nhận thức và ghi nhận những đóng góp của các hội trong sự
phát triển chung của thành phố.
Các hội cũng chú trọng việc phổ biến kiến thức pháp luật trên lĩnh vực
mình hoạt động nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng và hiểu biết pháp luật như
Hội Kế hoạch hóa gia đình tổ chức cung cấp tài liệu tuyên truyền trong các đợt
truyền thông về dân số, vận động người dân thực hiện chính sách kế hoạch hóa
gia đình, Hội Khuyết tật phổ biến các chủ trương, chính sách trợ giúp người
khuyết tật Đáng chú ý là các hoạt động tuyên truyền, vận động những người
làm khoa học và nhân dân tham gia bảo vệ chủ quyền biển đảo quê hương thông
qua các hoạt động tuyên truyền của Hội Luật gia, Hội Khoa học Lịch sử thành
phố…
1.2.2. Hoạt động xóa đói giảm nghèo, cứu trợ nhân đạo
Phát huy những kết quả đã đạt được trong những năm trước đây, năm 2011
các tổ chức hội đã không ngừng vận động, kêu gọi sự chung tay của cộng đồng
12
xã hội trong các hoạt động nhân đạo, từ thiện như cứu trợ cho bà con bị thiệt hại
lớn về người và tài sản do các cơn bão, lũ lụt gây ra, hỗ trợ các hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn, thiếu may mắn trong xã hội.
Trong đó tiêu biểu có những hội như: Hội Đông y thành phố tổ chức khám
chữa bệnh cho 14.434 người (năm 2010 là 5.308 người); châm cứu cho 8185
người (năm 2010 là 1.000 người), với tổng số kinh phí châm cứu, khám chữa
bệnh, cấp phát thuốc miễn phí là 1.051.810.000 đồng (năm 2010 là 358.903.00
đồng). Hội Nạn nhân chất độc da cam thành phố đã vận động với tổng số tiền
trên 05 tỉ đồng để giúp đỡ, hỗ trợ cho các nạn nhân chất độc da cam trên địa bàn
thành phố bằng các hình thức như trợ cấp thường xuyên, trợ cấp đột xuất, hỗ trợ
vốn chăn nuôi sản xuất, khám chữa bệnh, cấp học bổng cho con em và gia đình
nạn nhân chất độc da cam. Hội Từ thiện đã vận động hơn 3.191.218.000 đồng từ
các cá nhân, tổ chức trong nước và 9.536.440.000 từ các tổ chức phi chính phủ
nước ngoài để thực hiện các chương trình từ thiện, nhân đạo cụ thể: xây dựng,
sửa chữa 66 ngôi nhà; hỗ trợ 588 xe lăn, xe lắc tay, xe đặc chủng cho người
khuyết tật và trẻ em bại não; cấp phát 310.210 xuất cháo, cơm trị giá
3.118.540.000 đồng trong chương trình “Bát cháo tình thương”; hỗ trợ viện phí,
mổ tim cho bệnh nhân, trẻ em nghèo số tiền 694.861.000 đồng…
1.2.3. Hoạt động nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ
Hoạt động nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ được các
tổ chức hội, đặc biệt là các hội nghề nghiệp quan tâm, tổ chức và có những kết
quả đáng kể trên các lĩnh vực khác nhau. Trong đó, Liên hiệp các hội Khoa học
và Kỹ thuật đã thường xuyên tổ chức các hoạt động tư vấn, phản biện các đề tài,
đề án trên các lĩnh vực; phối hợp tổ chức hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật
trong học sinh sinh viên. Hội làm vườn tổ chức tập huấn kỹ thuật và triển khai
mô hình trồng bưởi da xanh cho hội viên và bà con nông dân các xã của huyện
Hòa Vang, Liên Chiểu; tổ chức 10 lớp tập huấn kỹ thuật trồng, chăm sóc và
phòng bệnh cho cây trồng; thành lập các câu lạc bộ trồng nấm, nuôi dế, hỗ trợ
13
tiêu thụ sản phẩm cho hội viên. Hội Xây dựng, Hội quy hoạch đô thị và Hội
Kiến trúc sư tích cực tham gia tư vấn, phản biện các Đồ án quy hoạch, các công
trình xây dựng hạ tầng đô thị trọng điểm của thành phố, đặc biệt là 03 tổ chức
hội trên đã kết hợp phát động cuộc thi với đề tài: “Kiến trúc xanh nhằm thích
ứng khí hậu và sử dụng hiệu quả năng lượng tại khu vực Miền Trung – Tây
Nguyên”. Hoạt động tư vấn phản biện của các hội đã góp phần tích cực thúc đẩy
sự phát triển trên các mặt đời sống xã hội của thành phố.
1.2.4. Hoạt động đối ngoại
Trong năm 2011, các hội thuộc Liên hiệp các tổ chức hữu nghị cũng như
các tổ chức hội thành viên tổ chức nhiều hoạt động đối ngoại nhân dân khá hiệu
quả. Ngoài các hoạt động nhân các dịp lễ kỉ niệm, Liên hiệp hội đã tổ chức một
số hoạt đáng chú ý như: vận động quyên góp được 1.2 tỷ đồng giúp đỡ nạn nhân
trận động đất, sóng thần tại Nhật Bản; phối hợp tổ chức chương trình sinh viên
Lào ở nhà dân (homestay); tham dự giao lưu quảng bá du lịch và thương mại
của 05 tỉnh miền Bắc Thái Lan đồng thời quảng bá du lịch của Đà Nẵng, Trong
năm, Liên hiệp đã tổ chức 01 đoàn ra và đón 07 đoàn vào thuộc chương trình
giao lưu, hữu nghị giữa các hội với bạn bè quốc tế. Liên hiệp Các tổ chức hữu
nghị thành phố Đà nẵng cũng đã vận động các tổ chức phi chính phủ nước ngoài
với tổng trị giá 5,4 tỉ đồng.
Ngoài ra, năm qua đánh dấu nhiều bước tiến trong công tác đối ngoại vận
động tài trợ của các tổ chức hội. Các hội đã chủ động, tích cực tìm kiếm và sử
dụng hiệu quả nguồn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ có yếu tổ nước ngoài
như VNAH (Viet Nam Assistance for the Handicapped), Save the Children,
Đông Tây hội ngộ của Mỹ; tổ chức Care the people của Ý; Siloam Chritian
Ministries của Anh; La Goutte D'eau của Pháp; Bilan của Bỉ, Kết quả từ công
tác đối ngoại vận động tài trợ đã góp phần rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả
hoạt động của các hội.
1.2.5. Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội
14
Các hội, liên hiệp hội đã động viên, phát huy trí tuệ của đông đảo các thành
viên, hội viên tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chủ trương, chính sách, pháp
luật, các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các địa
phương, phát huy và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, tư vấn và phản biện xã
hội đối với các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Cụ thể, Hội Luật gia được giao tham gia đóng góp ý kiến vào các dự án
Luật và sửa đổi, bổ sung luật như dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi, Luật Tài
nguyên nước, Luật Xuất bản, Luật Điện lực,…Hội Xây dựng, Hội Quy hoạch
phát triển đô thị được giao góp ý, phản biện các đồ án quy hoạch thành phố và
các công trình xây dựng của thành phố.
Thông qua công tác tư vấn, giám định và phản biện xã hội, các hội đã góp
phần xây dựng môi trường thực hành dân chủ và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền, tham gia trực tiếp và việc giám sát hoạt động của bộ máy công quyền,
của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước và phản biện xã hội, góp phần hoàn
thiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, ngăn chặn và khắc phục tình
trạng quan liêu, làm quyền của các tổ chức và cá nhân được trao quyền quản nhà
nước. Qua đó có thể thấy hoạt động tư vấn, giám định và phản biện xã hội góp
phần giúp công tác quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước đối với hội được
nâng cao và ngày càng hoàn thiện.
1.2.6. Hoạt động trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể
thao và những lĩnh vực khác
Về hoạt động lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, các hội đã phát
động, tổ chức nhiều phong trào thi đua phong phú nhân các dịp lễ tết, các ngày
lễ lớn, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần và nâng cao thể chất trong
nhân dân thành phố. Các hội như Liên đoàn Bóng đá, Cầu lông, Quần vợt đều có
tổ chức các giải trong các đợt sinh hoạt chào mừng các ngày lễ trong năm, các
hoạt động của các hội thuộc Liên hiệp các hội văn học - Nghệ thuật cũng đã diễn
ra sôi nổi, các Hội Xây dựng, Hội Kiến trúc sư, Hội Nhà báo, Hội Tù yêu nước,
15
Liên hiệp các hội Văn học – Nghệ thuật… đã tổ chức các tập san, bản tin để
giúp cho hội viên có điều kiện tham gia sinh hoạt văn hoá, nghệ thuật…
Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật thường xuyên duy trì các cuộc vận
động sáng tác trên các lĩnh vực văn, thơ, hội họa, điêu khắc…Tổ chức Trại Điêu
khắc quốc tế Hội Cựu Thanh niên xung phong, Hội Liên hiệp thanh niên, Hội
Cựu giáo chức và các hội khác tổ chức nhiều hình thức tuyên truyền, vận động,
tổ chức cho hội viên và quần chúng tham gia cuộc vận động Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Hội Sinh vật cảnh tổ chức thi Đá cảnh và
trưng bày đá cảnh, sinh vật cảnh, gỗ lụa, tranh tượng dân gian tại Hội hoa xuân
và các dịp lễ, tết tại thành phố cũng như tham gia các lễ hội ở các địa phương
bạn.
Nhiều hội đã tổ chức biểu dương những cá nhân, tập thể có nhiều đóng góp
cho phong trào xây dựng hội như Hội Khuyến học, Hội Khoa học Lịch sử tổ
chức trao kỉ niệm chương của Hội cấp trung ương tặng ghi nhận đóng góp của
những thành viên ban sáng lập Hội, Hội Người khuyết tật tổ chức tuyên dương
gương điển hình người khuyết tật năm 2011,
1.3. Ưu điểm, hạn chế trong tổ chức, hoạt động của các hội
1.3.1. Ưu điểm
- Nhìn chung, các hội đã tuân thủ đúng quy định tại Nghị định số
45/2010/NĐ-CP của Chính phủ, hầu hết các hội đã chấp hành tốt việc xây dựng,
thông qua và trình duyệt điều lệ hội làm cơ sở để hội hoạt động, đến kỳ đại hội
các hội báo cáo kế hoạch và xin phép cơ quan có thẩm quyền phê duyệt mới tiến
hành Đại hội.
- Các hội hoạt động trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, tập hợp đông
đảo hội viên là cán bộ đương chức, hưu trí, các nhà khoa học… Được sự lãnh
16
đạo của cấp uỷ Đảng và tạo điều kiện của chính quyền các cấp, các hội đã tổ
chức nhiều hoạt động phong phú, tham gia vào quá trình xã hội hoá một số lĩnh
vực như: Y tế; Giáo dục; Thể dục-Thể thao; Văn học-Nghệ thuật của thành phố.
Hoạt động từ thiện, nhân đạo; tư vấn, phản biện và giám định xã hội; tham gia
giải quyết việc làm; bảo vệ môi trường, đối ngoại nhân dân… đã đóng góp lớn
vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
1.3.2. Hạn chế
- Một số hội có xu hướng hành chính hóa hoạt động, thành lập từ sự áp đặt
của hội cấp trên hoặc cố gắng xây dựng hệ thống hội từ trung ương đến cơ sở,
trái với tinh thần của Chỉ thị 42-CT/TW “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với các tổ chức và hoạt động của các hội quần chúng”.
- Còn một số hội hoạt động chưa thường xuyên, nặng hình thức, mang tính
chất hành chính, lúng túng trong phương thức hoạt động.
- Nhiều tổ chức hội, đặc biệt là các hội xã hội thiếu chủ động, hoạt động
còn dựa vào sự hỗ trợ của nhà nước về trụ sở, phương tiện hoạt động, biên chế,
kinh phí,…
- Chế độ thông tin báo cáo của các hội chưa tốt hoặc báo còn sơ sài, chưa
kịp thời thông tin cho cơ quan quản lý khi thay đổi cán bộ chủ chốt, trụ sở và
các thông tin liên lạc của hội.
- Một số hội chưa thực hiện đầy đủ chức năng, vai trò của mình, hoạt động
còn mang tính hình thức, thiếu bền vững, ít quan tâm chăm lo đến nhu cầu,
nguyện vọng của hội viên, hoạt động mang nặng tính tổ chức sự kiện đến đánh
bóng danh tiếng chứ chưa mang tính chiều sâu.
- Cán bộ hội tuy nhiệt tình, có kinh nghiệm, song do kiêm nhiệm hoặc tuổi
cao nên thời gian dành cho hoạt động quá ít, có hiện tượng quan lieu, “viên chức
hóa”, thậm chí có trường hợp hội được xem là “sân sau” của đơn vị chủ quản và
lãnh đạo hết tuổi công tác trong cơ quan nhà nước.
17
- Một số hội nội bộ lãnh đạo mất đoàn kết, làm giảm uy tín của hội và hội
viên. Một số lợi dụng danh nghĩa của hội để hoạt động kinh doanh vì mục tiêu
lợi nhuận, một số sa vào hoạt động kinh tế, ít quan tâm đến mục đích hoạt động
chính của mình. Một số hội trong mối quan hệ với đối tác tổ chức phi chính phủ
nước ngoài có biểu hiện coi trọng lợi ích kinh tế, chưa chú trọng đúng mức đến
an ninh, chính trị, trong khi đó các thế lực thù địch đang tìm cách tranh thủ
hướng các tổ chức xã hội hoạt động theo tiêu chí phương tây tại Việt Nam nhằm
lợi dụng các tổ chức xã hội để thực hiện các mục đích chính trị chống phá nhà
nước.
- Hoạt động tư vấn, giám định, phản biện xã hội chưa được các hội chú
trọng, chưa phát huy hết khả năng của hội.
2. Ưu điểm, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với các hội
quần chúng
2.1. Ưu điểm
- Sự ra đời của các văn bản quy định về quản lý hội từ trung ương đến địa
phương đã hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý của các cơ quan quản lý nhà
nước, đồng thời định hướng cho các hội hoạt động theo pháp luật và điều lệ hội.
Căn cứ các văn bản quy định của trung ương và tình hình thực tế tại địa phương,
UBND thành phố Đà Nẵng đã ban hành Quyết định số 14/QĐ-UBND ngày
19/5/2011 của UBND thành phố ban hành quy định về tổ chức, hoạt động và
quản lý nhà nước đối với các tổ chức hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Về
việc xác định hội có chính sách đặc thù và chính sách hỗ trợ cho các hội. Sau khi
Thủ tướng chính phủ có Quyết định số 68/2010/QĐ-TTg ngày 01/11/2010 về
việc quy định hội có tính chất đặc thù và Quyết định số 30/2010/QĐ-TTg ngày
01/6/2011 về chế độ thù lao đối với người đã nghỉ hưu giữa chức danh lãnh đạo
chuyên trách tại các hội, UBND thành phố Đà Nẵng đã chỉ đạo các cơ quan
chuyên môn tham mưu đề xuất các hội các tính chất đặc thù và chính sách hỗ trợ
dành cho các hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng phù hợp với tình hình thực tế
18
ở địa phương. Hiện nay, Chủ tịch UBND thành phố đã công nhận 17 hội có tính
chất đặc thù hoạt động trong phạm vi thành phố Đà Nẵng. Đầu năm 2012,
UBND thành phố Đà Nẵng cũng đã có quyết định về chính sách hỗ trợ cho các
hội.
- UBND thành phố đã có nhiều chính sách hỗ trợ các hội, hỗ trợ kinh phí,
trụ sở, điều kiện làm việc, biên chế,…giúp các hội có nhiều điều kiện thuận lợi
để hoạt động. Hiện nay có 09 hội hoạt động trong phạm vi thành phố và 02 hội
hoạt động trong phạm vi quận, huyện được hỗ trợ biên chế, định suất lao động.
TT Tên hội được hỗ trợ biên chế, định suất lao động
Hội hoạt động trong phạm vi thành phố
1. Liên hiệp các tổ chức hữu nghị
2. Liên Minh Hợp tác xã
3. Hội Chữ thập đỏ
4. Liên hiệp các hội văn học - nghệ thuật
5. Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật
6. Hội người mù
7. Hội Nạn nhân chất độc da cam
8. Hội Nhà báo
9. Hội Đông y
10. Hội Tù yêu nước
Hội hoạt động trong phạm vi quận, huyện
1. Hội Chữ thập đỏ
2. Hội Người mù
19
- Quy trình thành lập hội và phê duyệt điều lệ hội được các cơ quan tham
mưu cho Chủ tịch UBND thành phố thẩm định chặt chẽ.
- Giải quyết các thủ tục hành chính theo đúng quy định cải cách hành chính
của thành phố.
- Việc ủy quyền quản lý cho cơ sở bước đầu đảm bảo được công tác quản
lý ở địa phương, giảm bớt công việc của Chủ tịch UBND thành phố và Sở Nội
vụ, thuận tiện cho các hội trong việc giữ liên hệ thường xuyên với cơ quan quản
lý ở ngay địa phương mình.
- Tổng hợp báo cáo về trung ương kịp thời, đầy đủ để theo dõi tình hình
hoạt động hội địa phương.
- Công tác hướng dẫn, kiểm tra các hội hoạt động và giải quyết chế độ được
kịp thời. Trong năm 2011, Sở Nội vụ thành phố đã tổ chức một lớp tập huấn
công tác hội đối với cán bộ lãnh đạo hội hoạt động trong phạm vi thành phố Đà
Nẵng và phối hợp với các hội tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ lãnh đạo các
hội hoạt động trong phạm vi quận, huyện, phường, xã.
2.2. Hạn chế
- Công tác theo dõi trên lĩnh vực chuyên môn của các Sở chuyên ngành đối
với hoạt động hội, quỹ chưa được coi trọng. Ngoài các hội có lãnh đạo là cán bộ
đương chức ở các Sở, ngành có thể tạo điều kiện cho hội tham gia công tác phản
biện xã hội, tổ chức hội thảo, hội nghị,…thì hầu như các Sở, ngành chưa thực sự
quan tâm và tạo điều kiện cho hội phát huy vai trò của mình.
- Công tác theo dõi, hướng dẫn nghiệp vụ, quản lý, thanh tra, kiểm tra hoạt
động của các hội chưa được đầu tư đúng mức.
- Việc phân cấp quản lý hội còn chưa mạnh mẽ nên việc quản lý các hội
hoạt động trong phạm vi quận, huyện thuộc thẩm quyền UBND thành phố còn
20
nhiều bất cập, chưa sâu sát, các hội chỉ thực hiện báo cáo hoạt động với UBND
quận, huyện.
3. Nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế
3.1. Nguyên nhân của những kết quả đạt được
- Cấp ủy các cấp đã quan tâm và tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác hội;
tổ chức sơ kết, tổng kết, xây dựng chương trình hành động thực hiện các chỉ thị
của Đảng trong từng thời kỳ, từng loại tổ chức hội, đáp ứng được yêu cầu thực
tế, phù hợp với nguyện vọng của đông đảo hội viên.
- Các cấp chính quyền đã có nhiều đổi mới trong công tác quản lý nhà nước
đối với các tổ chức và hoạt động của các hội quần chúng, quan tâm tạo điều kiện
thuận lợi để hội hoạt động.
- Việc đưa một số tổ chức hội hoạt động trong phạm vi thành phố vào khối
thi đua đã trở thành động lực thúc đẩy hoạt động của các hội.
3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
- Một số cấp ủy đảng chưa quan tâm lãnh đạo, triển khai; thiếu kiểm tra,
đôn đốc thường xuyên.
- Một số văn bản quản lý nhà nước về hội, về chế độ, chính sách không còn
phù hợp nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung nên các cơ quan quản lý nhà nước
và hội khó thực hiện, thiếu các chế tài xử lý hội, hội vi phạm thì việc xử lý chưa
cương quyết, còn nể nang.
- Công tác phân cấp quản lý hội còn hạn chế, chưa cụ thể, còn chồng chéo
khiến việc quản lý hội chưa thống nhất, thiếu chặt chẽ.
- Các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực chuyên môn chưa mạnh dạn
giao cho hội thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội nên chưa
giúp hội khẳng định được vai trò với xã hội.
21
- Mối quan hệ phối hợp giữa Mặt trận Tổ Quốc và các đoàn thể chính trị -
xã hội với các hội quần chúng có lúc, có nơi chưa chặt chẽ, chưa phát huy đầy
đủ vai trò nòng cốt trong các hội quần chúng.
- Công tác quản lý hội vẫn còn khó khăn do số lượng hội nhiều và ngày
càng gia tăng, đội ngũ công chức ngành nội vụ ở địa phương mỏng, nhiệm vụ
chuyên môn khác nhiều nên chưa bố trí được lực lượng chuyên trách.
II. Một số kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối
với các hội quần chúng
- Tăng cường công tác lãnh đạo của cấp ủy đảng các cấp để nâng cao hiệu
quả quản lý hội, định hướng để các hội hoạt động theo đúng chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước.
- Cần tăng cường công tác phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể chính trị với các hội, phát huy vai trò nòng cốt, tập hợp quần chúng
của mặt trận, thúc đẩy các hội tham gia xây dựng lực lượng quần chúng vững
mạnh dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng.
- Nhà nước cần hoàn thiện và ban hành kịp thời các văn bản quản lý hội, có
cơ chế chính sách phù hợp để phát huy tính chủ động của hội tham gia vào các
hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội.
- Tăng cường cơ chế hỗ trợ của Nhà nước đối với các tổ chức hội tham
gia thực hiện nhiệm vụ xã hội.
+ Có cơ chế, chính sách cụ thể để hỗ trợ về chi phí hành chính, chi phí
thực hiện nhiệm vụ đối với các tổ chức hội trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ xã
hội, cùng chính quyền giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội như cứu trợ
thiên tai, giúp đỡ gia đình chính, người nghèo, nạ nhân chiến tranh, đối ượng
bảo trợ xã hội khác…
+ Thực hiện việc hỗ trợ trên nguyên tắc tổ chức nào có tham gia thì được
hỗ trợ; hỗ trợ theo từng nhiệm vụ, chương trình cụ thể; có sự thẩm tra, xem xét,
22
phê duyệt theo định kỳ của cơ quan quản lý nhà nước về hội và cơ quan tài
chính và cơ quan lao động-thương binh và xã hội;
- Các cơ quan quản lý nhà nước cần quan tâm sâu sát công tác quản lý hội,
tăng cường phân cấp để các cơ quan quản lý các cấp có cơ chế quản lý sát sao,
chặt chẽ. Chẳng hạn, tại thành phố Đà Nẵng thì cần phân cấp để UBND các
quận, huyện quản lý các hội hoạt động trong phạm vi quận, huyện.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện, nhân rộng các mô
hình, điển hình tốt, đồng thời kiên quyết xử lý những vi phạm hoặc làm trái điều
lệ hội.
- Tăng cường giám sát hoạt động hợp tác quốc tế của các hội nhất là việc
nhận các khoản tài trợ có yếu tố nước ngoài.
- Tăng cường công tác tập huấn, giáo dục tư tưởng, pháp luật đối với cán
bộ lãnh đạo hội, xây dựng đội ngũ cán bộ hội nhiệt tình, tâm huyết, am hiểu sâu
sắc các lĩnh vực hội mà mình tự nguyện tham gia.
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về hội để có cơ sở dữ liệu phục vụ công
tác nghiên cứu và quản lý hội quần chúng.
Kết luận
Hội quần chúng là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng
ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội
viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp
phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt
động theo quy định của pháp luật với các nguyên tắc: tự chủ, tự quản, tự trang
trải kinh phí và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.
23
Với các đóng góp cho xã hội trên nhiều mặt hoạt động trên các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ…các hội ngày càng khẳng định
được vai trò của mình trong lực lượng quần chúng đông đảo.
Nhận thức được điều đó, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều biện pháp nâng
cao hiệu quả quản lý đối với các hội. Tại thành phố Đà Nẵng, công tác này đã và
đang được đặt ra một cách nghiêm túc, nhất là đối với các cơ quan trực tiếp thực
hiện công tác quản lý nhà nước đối với các hội.
Trước những thách thức của xu thế hội nhập và mặt trái của nền kinh tế thị
trường, thành phố Đà Nẵng tiếp tục có nhiều biện pháp để đưa công tác hội vào
quy củ, phát huy vai trò của hội quần chúng, đóng góp vào công cuộc phát triển
của thành phố.
24