Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

các cuộc cải cách hành chính trên thế giới và kinh nghiệm áp dụng cho nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.09 KB, 26 trang )

Đại học quốc gia Hà Nội
KHOA LUẬT
Môn học: Cải cách hành chính
Hà Nội, 10/2012
Danh sách nhóm 5
1. Nguyễn Thanh Bình
2. Trần Văn Lý
3. Phan Trà My
4. Nguyễn Thị Kim Oanh
5. Nguyễn Văn Thái
6. Phan Thanh Thủy
2
Các cuộc cải cách hành chính trên thế giới và
kinh nghiệm áp dụng cho nước ta
Hướng tới một nền hành chính đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong giai
đoạn mới. Sự chuyển mình mạnh mẽ của đất nước cùng với những sự thay đổi to lớn của
bối cảnh quốc tế đặt ra những yêu cầu và thách thức mới, đòi hỏi cải cách hành chính
trong giai đoạn tới phải thay đổi hẳn phương hướng và cách thức tiến hành.
Việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và ủy
viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã tạo cơ hội lớn cho Việt
Nam tham gia vào thị trường thế giới; đồng thời, cũng đặt ra những thách thức không nhỏ
trong việc thực hiện các cam kết của Việt Nam với WTO. Hơn lúc nào hết, cải cách hành
chính là một yêu cầu cấp bách để Việt Nam phát triển kinh tế và tăng sức cạnh tranh trên
thị trường quốc tế, biến cơ hội thành thế mạnh của mình. Ngày nay, cải cách hành chính
là vấn đề mang tính toàn cầu. Cả các nước đang phát triển và các nước phát triển đều xem
cải cách hành chính như một động lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trường kinh tế, phát
triển dân chủ và các mặt khác của đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ năm 1986, trong
khoảng thời gian đó, đồng thời với việc đổi mới về kinh tế thì cải cách hành chính cũng
được tiến hành. Cuộc cải cách hành chính được thực hiện từng bước thận trọng và đã thu
được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Cải cách hành chính đang thể hiện rõ vai trò quan


trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước. Việt Nam đang là nước xuất
khẩu gạo đứng hàng thứ hai, thứ ba trên thế giới, công nghiệp và dịch vụ phát triển, đầu
tư nước ngoài xu hướng chung là tăng, nhiều vấn đề xã hội đang được giải quyết tốt…
Tuy nhiên, Ở Việt Nam đang còn rất nhiều vấn đề kinh tế - xã hội đã tồn tại từ lâu và mới
nảy sinh cần phải được giải quyết tích cực và có hiệu quả. Bên cạnh đó, bối cảnh toàn cầu
hoá đang đặt ra trước Việt Nam những thách thức và cơ hội mới đòi hỏi phải có những cố
gắng cao độ. Điều đó cũng có nghĩa là quá trình cải cách hành chính ở Việt Nam còn rất
nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục giải quyết. Cái khó trong cải cách hành chính Ở
Việt Nam là phải tiến hành một cuộc cải cách hành chính có tính chất cách mạng sang
quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng dân chủ. Do đó, việc tham khảo
kinh nghiệm cải cách hành chính ở các nước (trong đó có Nhật Bản) là hết sức cần thiết
để đẩy mạnh và có kết quả hơn nữa công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước.
Bài làm của nhóm chúng tôi tập trung tìm hiểu một vài cuộc cải cách hành chính
nổi tiếng trên thế giới qua đó rút ra bài học kinh nghiệm cho cuộc cải cách hành chính
đang diễn ra ở Việt Nam.
1. Cải cách hành chính ở nhóm các quốc gia có tương đối nhiều điểm tương đồng
với nước ta (vị trí địa lý, chế độ chính trị, xuất phát điểm của nền kinh tế…)
1.1. Nhật Bản
3
1.1.1.Tóm tắt quá trình cải cách
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật là nước bại trận nền kinh tế bị tàn phá kiệt quệ là
nước đông dân, nguyên liệu đều phải nhập khẩu cho nên sau chiến tranh Nhật gặp rất
nhiều khó khăn. Tuy nhiên nhờ những chính sách hợp lý của chính phủ Nhật Bản nhanh
chóng phục hồi và đạt bước phát triển mạnh mẽ vượt bậc, đặc biệt từ cuối thập niên 90
thế kỷ 20 cho tới ngày nay.Để đảm bảo sự phát triển bền vững chính phủ Nhật đã không
ngừng tiến hành các chính sách cải cách kinh tế, xã hội.Đặc biệt là việc cải cách hành
chính nhằm tinh gọn bộ máy lãnh đạo, giảm số người làm tại các cơ quan hành chính
nhằm đạt hiệu quả cao trong giải quyết công việc đồng thời giảm chi tiêu công.
Việc cải cách được bắt đầu từ tháng 10-1996, Nhật Bản thành lập Hội đồng Cải cách
hành chính và cải cách cơ cấu để tiến hành nghiên cứu, soạn thảo một báo cáo để trình

lên Chính phủ. Hơn một năm sau, tháng 12-1997, bản báo cáo cuối cùng của Hội đồng đã
hoàn tất và được Chính phủ thông qua.
Dựa vào kết quả khảo sát, nghiên cứu trên, tháng 6-1998, Nhật Bản đã ban hành một
đạo luật (cơ bản) về cải cách cơ cấu Chính phủ Trung ương và lập ra Ban Chỉ đạo Cải
cách cơ cấu Chính phủ Trung ương. Trên cơ sở Luật Cải cách Chính phủ, Nhật Bản đã
ban hành liên tiếp 17 luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trung ương và cơ quan
hành chính độc lập (7-1999), 61 luật quy định vai trò, chức năng của các bộ và các cơ
quan mới dự kiến sẽ thành lập (12-1999) và 90 nghị định của Chính phủ về tổ chức bên
trong của các bộ, các hội đồng và các tổ chức khác (5-2000).
Sau gần 4 năm tiến hành từng bước những công việc trên, một bộ luật cơ bản, các luật
khác và nhiều văn bản dưới luật về cải cách hành chính và cơ cấu của Nhật Bản đã lần
lượt được ban hành và tất cả bắt đầu có hiệu lực từ ngày 6-1-2001. Với việc ban hành
một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật như vậy, cuộc cải cách hành chính và cơ
cấu tại Nhật Bản, về cơ bản được xem là thành công. Các tổ chức lâm thời được lập ra để
làm nhiệm vụ cải cách đã hoàn thành công việc và đã giải tán.
Kết quả thu được rất thành công, bộ máy Chính phủ ở trung ương được thu gọn đáng
kể, từ 23 Bộ và một Văn phòng xuống còn 12 Bộ và một Văn phòng; số lượng các tổ
chức bên trong của các CQHC giảm đáng kể, từ 128 đơn vị cấp vụ, cục và tương đương
thuộc các CQHC trước đây, nay đã giảm xuống còn 96 đơn vị; từ 1.600 đơn vị cấp phòng
và tương đương thuộc các cơ quan, tổ chức, nay giảm xuống còn 995 đơn vị. Số lượng
công chức làm việc tại các CQHC giảm khoảng 300.000 người và sẽ còn tiếp tục giảm
trong thời gian tới; vai trò của Văn phòng Nội các đã được nâng tầm so với các Bộ; tăng
cường quyền lực và khả năng kiểm soát của Thủ tướng đối với các Bộ. Trước cải cách,
đa phần các chính sách được các Bộ đề xuất, sau cải cách thì những chính sách quan
trọng có tầm chiến lược được Thủ tướng chỉ đạo và đề xuất…
Cuộc cải cách hành chính và cải cách cơ cấu tại Nhật Bản hiện nay được đánh giá là
một cuộc cải cách lớn nhất kể từ thời Minh Trị đến nay. Nhật Bản tiến hành cuộc cải cách
này với những lý do :
4
- Sau những thành công rực rỡ về kinh tế, Nhật Bản có tâm lý chung là ỷ lại : các đơn

vị hành chính cấp dưới chờ đợi cấp trên, thiếu chủ động, không dám tự quyết ; nhân dân
cũng có tâm lý ỷ lại vào Nhà nước.
- Trong nội bộ Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản (LDP) – đảng cầm quyền hiện nay – có
sự phân hóa sâu sắc, chia thành nhiều phe phái, mỗi phe phái có thủ lĩnh riêng. Vì sự tồn
tại của mình, Thủ tướng luôn coi trọng mối quan hệ giữa các phe phái trong đảng và làm
sao cố gắng giữ mối quan hệ hài hòa giữa họ.
Mặt khác, theo cơ chế hiện hành, Chủ tịch Đảng cầm quyền đương nhiên sẽ trở thành
Thủ tướng, làm cho Thủ tướng luôn có những hạn chế nhất định.
- Bản thân nền hành chính Nhật Bản cũng có những hạn chế nhất định, nhất là sự chia
rẽ theo ngành dọc. Mỗi bộ dường như là một lãnh địa riêng. Các chính trị gia cũng có
những quyền lợi riêng trong việc hoạch định chính sách. Trên thực tế, trong Chính phủ
Nhật Bản hiện nay hình thành các nhóm lợi ích cục bộ. Nền hành chính Nhật Bản, vì thế,
được đánh giá là không thông suốt, thiếu ổn định và thiếu khả năng thay đổi chính sách
một cách hiệu quả, thiếu khả năng phản ứng nhanh trong các tình huống cấp bách về
thiên tai, chưa nói đến những vấn đề lớn khác như an ninh, quốc phòng.
Các nhà nghiên cứu và quản lý đều cho rằng, Chính phủ, Thủ tướng và nói chung cả
hệ thống hành chính Nhật Bản hiện nay có xu hướng phục vụ quyền lợi của các nhóm
nhỏ, không đại diện quyền lợi của đông đảo công chúng.
Những vấn đề trên đặt ra yêu cầu về một cuộc cải cách lớn nhằm nâng cao tinh thần
tự lập, giảm bớt sự ỷ lại vào Chính phủ ; tăng cường vai trò lãnh đạo, kiểm soát của Thủ
tướng đối với các phe phái trong đảng cầm quyền và đối với nền hành chính ; đồng thời
xây dựng bộ máy Chính phủ gọn nhẹ, minh bạch, hiệu quả hơn.
Mục tiêu cải cách của Nhật Bản là xây dựng một chính phủ có bộ máy gọn nhẹ, hiệu
quả ; hoạch định được những chính sách mang tầm chiến lược, toàn diện để đáp ứng với
sự thay đổi thường xuyên của tình hình ; có những quan điểm linh hoạt, mềm dẻo để
quản lý tốt những vấn đề khẩn cấp, bất thường và có những quan điểm rõ ràng, thể hiện
tinh thần trách nhiệm cao đối với nhân dân.
Nội dung cơ bản của cải cách cơ cấu ở Nhật Bản là tăng cường sự lãnh đạo của Thủ
tướng và Nội các ; tổ chức lại các bộ theo hướng giảm số lượng các bộ, tăng cường vai
trò tập trung quyền lực cho Thủ tướng ; xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính độc

lập.
Phương pháp thực hiện cải cách là quy định rõ phạm vi thẩm quyền của các bộ và
thiết kế những thủ tục chặt chẽ để phối hợp công tác giữa các bộ ; thiết lập một hệ thống
tổ chức để đánh giá giá trị, đánh giá chính sách và đặc biệt là xây dựng các bộ phận thông
tin mạnh ; tách bộ phận kế hoạch, hoạch định chính sách khỏi các cơ quan có chức năng
tổ chức, thực hiện và tư nhân hóa những công việc có thể tư nhân hóa được.
5
1.1.2.Bài học kinh nghiệm
Để thúc đẩy công cuộc CCHC nói chung và cải cách thể chế hành chính nói riêng ở
Việt Nam, việc học tập kinh nghiệm nước ngoài trong bối cảnh hội nhập là hết sức cần
thiết. Sở dic chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm từ Nhật Bản là do những lý do sau :
- Nhật Bản là quốc gia - do yếu tố lịch sử - có rất nhiều kinh nghiệm trong việc tiếp thu
những thành tựu của pháp luật nước ngoài cũng như các xu thế cải cách tiến bộ trên thế
giới
- Nhật Bản là điển hình của quốc gia chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của hai hệ thống
pháp luật tiêu biểu trên thế giới là hệ thống luật châu Âu lục địa (ảnh hưởng trước Thế
chiến II) và hệ thống luật Anh - Mỹ (sau thất bại trong Thế chiến II và sự đầu hàng lực
lương Đồng minh), nhưng vẫn giữ được những nét đặc trưng riêng trong tổng thể quá
trình CCHC và cải cách tư pháp;
- Nhật Bản là quốc gia có nền hành chính phát triển hiện đại với công cuộc CCHC diễn
ra lâu đời, từng bước và có kế hoạch, chiến lược cụ thể.
- Nhật Bản là một trong hai quốc gia (cùng với đối tác Thụy Điển) tiến hành các dự án
hợp tác pháp luật sớm nhất với Việt Nam, từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ
XX, cho tới nay vẫn luôn là đối tác lâu năm và tin cậy.
Học tập kinh nghiệm của Nhật Bản liên quan đến cải cách thể chế hành chính cho
thấy nhiều ưu điểm có thể chia sẻ với Việt Nam trong bối cảnh Chính phủ đang đánh
giá Chương trình tổng thể CCHC giai đoạn 2000 - 2010 và xây dựng Chương trình cải
cách giai đoạn 2010 - 2020. CCHC ở Việt Nam cần phải tiếp tục mở rộng nghiên cứu
cả phương diện lý luận và học hỏi kinh nghiệm thực tiễn nước ngoài, trên cơ sở của
việc xây dựng chương trình, kế hoạch, thực hiện và đánh giá quá trình cải cách trong

từng giai đoạn, với mục tiêu xây dựng một nền hành chính hiện diện trong mô hình
Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự dân chủ, hiện đại và vững mạnh.
Cải cách thể chế hành chính ở Nhật Bản luôn bắt nguồn từ khung Hiến pháp hiện
tại của Nhật Bản (1947) với các thay đổi lớn như: xóa bỏ nguyên tắc quân chủ chuyên
chế, thay vào đó là nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân => Đây là nguyên tắc quan
trọng nhất khi Việt Nam muốn tiến hành cải cách hành chính, đó là thật sự trao quyền
lực về tay nhân dân như trong bản Hiến pháp 1946.
Khi tiến hành cải cách hành chính, Nhật Bản đề cao nguyên tắc quản lý dựa trên pháp
luật đã được mềm hóa. Chính sách tư nhân hóa và phi tập trung hóa đã được xây dựng
trên những quan điểm của chủ nghĩa tự do mới. Hướng dẫn hành chính là một nội dung
mới trong quản lý hành chính của Nhật Bản bên cạnh việc duy trì các mệnh lệnh, quyết
định hành chính mang tính bắt buộc, cứng nhắc. Việc tư nhân hóa ba công ty lớn của
Nhà nước, trong đó có Công ty đường sắt Nhật Bản vào cuối những năm 1980, việc
6
chuyển giao các quyền quy định của Nội các thông qua các lệnh từ năm 1983, việc mở
rộng quyền tự quản của cư dân địa phương… là những minh chứng cho nguyên tắc
mềm hóa quản lý nhà nước dựa trên pháp luật. => Hiện nay ở Việt Nam nhà nước nắm
giữ các tập đoàn và tổng công ty lớn trong những lĩnh vực then chốt của cả nước như
Dầu khí, Than Điện… việc chịu sự quản lý của nhà nước khiến các tập đoàn này
không thể tự chủ được trong sản xuất kinh doanh, đa số các tập đoàn này đều rơi vào
tinh trạng thô lỗ(vinashin,vinalines, điện lực…), tạo lên gánh nặng cho ngân sách nhà
nước cũng như kéo lùi tăng trưởng kinh tế đất nước. Việc quản lý chạt chẽ từ trung
ương tới địa phương bên cạnh mặt tích cực cũng có những hạn chế như han chế quyền
tự quyết, quyền dân chủ ở địa phương và phụ thuộc chính quyền trung ương tạo sự ỷ
lại ở cấp trên. Vì vậy tiến hành cải cách hành chính đồng thời với việc nới lỏng các
quyền tự do cho người dân để họ tham gia 1 cách sâu rộng vào việc quản lý giám sát
các cơ quan nhà nước, tư nhân hóa, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo
sự cạnh tranh công bằng trong nền kinh tế giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước
Thành lập các tổ chức công cộng độc lập. Các doanh nghiệp tư nhân được cho phép
thành lập và hoạt động nhằm xử lý các công việc chung của cộng đồng một cách đơn

giản hóa và đạt hiệu quả, như các công ty môi trường, xử lý rác thải, thu gom đồ đạc
đã qua sử dụng. Từ tháng 4/2004, các trường đại học công lập đã được chuyển từ quy
chế quản lý đội ngũ cán bộ, công chức sang quy chế quản lý như đối với người lao
động trong khu vực kinh tế tư nhân và nâng cao tính tự chủ của các tổ chức công cộng
độc lập này.
- Chính phủ Nhật Bản nỗ lực cải cách hệ thống công vụ, theo đó chế độ thâm niên
công tác bị bãi bỏ, thay vào đó là hệ thống tuyển dụng và trả lương dựa trên năng lực.
Cải cách thể chế, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Cải cách chính
quyền địa phương trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc của Hiến pháp, trong đó các cơ
quan này phải thực sự là các tổ chức bảo vệ và thực thi có hiệu quả các quyền con
người và quyền tự do cơ bản của người dân.
- Thành lập các tổ chức công cộng độc lập trong mỗi tỉnh và liên tỉnh nhằm xử lý các
công việc chung một cách hiệu quả và đơn giản hóa.
Theo đề xuất cải cách của Nội các do Thủ tướng Hashimoto Ryutaro khởi xướng
năm 1997 với khẩu hiệu: “Tập trung cải cách Chính phủ và bộ máy hành chính hướng
tới thế kỷ XXI”, một cơ cấu chính quyền mới, rút gọn và hiệu quả đã được xây dựng
năm 2001. Theo đó, cơ cấu 12 bộ như trước đây đã được tổ chức lại thành 10 bộ =>
Việt Nam hiện nay có 18 Bộ và 4 cơ quan ngang bộ(năm 2007 là 26 Bộ và cơ quan
ngang bộ 12 cơ quan thuộc chính phủ) điều đó cho thấy chúng ta đang tinh gon bộ máy
nhà nước nhằm hạn chế sự chồng chéo công việc giữa các Bộ tạo hiệu quả trong giải
quyết công việc
1.2. Hàn Quốc
1.2.1.Tóm tắt quá trình cải cách
7
Trong những thập niên gần đây, Hàn Quốc là một trong những quốc gia có tốc độ
phát triển kinh tế nhanh nhất. Tuy nhiên không phải vì thế mà bộ máy điều hành chính
phủ Hàn Quốc không có những hạn chế và yếu kém. Cuộc khủng hoảng kinh tế cuối năm
1997 đã cho thấy điều đó. Bộ máy điều hành của Chính phủ Hàn Quốc đã bộc lộ những
điểm yếu và cần được cải tiến để có thể thích ứng với thực tế hiện nay. Ðể có một Chính
phủ nhỏ vững mạnh và hiệu quả, Hàn Quốc đã không ngừng đẩy mạnh công cuộc cải

cách Chính phủ trong thời gian qua.
Khủng hoảng năm 1997 đã buộc Hàn Quốc đối diện với một nhận thức thực tế là,
các phương thức cũ trong điều hành bộ máy nhà nước đã trở nên lạc hậu trong giai đoạn
mới và cần có những thay đổi cơ bản để vực lại nền kinh tế của đất nước. Hàn Quốc đã
khẩn trương nghiên cứu những bài học kinh nghiệm quốc tế để xây dựng Chương trình
cải cách khu vực công, nhằm khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ,
tập trung trên bốn lĩnh vực chính: hợp tác, tài chính, lao động và khu vực công, trong đó
xem việc tăng cường thúc đẩy cơ chế thị trường là nhiệm vụ trọng tâm.
Hàn Quốc đã thành lập Uỷ ban đặc trách trực thuộc Tổng thống, chịu trách nhiệm
lập kế hoạch ngân sách, cải cách Chính phủ và đưa vào thử nghiệm nhiều ý tưởng cải
cách mới, một trong số đó là chế độ lương, thưởng dựa theo đánh giá chất lượng hoạt
động của từng cá nhân (hoàn toàn trái với cơ chế trả lương dựa theo cấp bậc kiểu truyền
thống), tiến hành giảm biên chế, từng bước thực hiện việc thuê khoán dịch vụ công, mở
rộng phạm vi hoạt động của khu vực tư…
Cải cách được tiến hành tại tất cả các đơn vị thuộc khu vực công, với trọng tâm là
tái cơ cấu nhằm làm gọn nhẹ bộ máy, áp dụng nguyên tắc cạnh tranh và nguyên tắc chất
lượng thực thi công việc, đã xây dựng một hệ thống tiêu chí và đánh giá cải cách, theo đó
các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, theo định kỳ, phải nộp báo cáo cải cách hàng quý cho
Ủy ban đặc trách. Kết quả việc thực hiện nhiệm vụ cải cách của từng cơ quan sẽ là cơ sở
để tính toán phân bổ ngân sách cho cơ quan này vào năm sau. Đồng thời, việc phản hồi
thông tin và chế độ thưởng phạt minh bạch đã khuyến khích việc thực hiện sự cam kết
đối với cải cách…
Kết quả thu được từ quá trình cải cách rất khả quan. Về thể chế, đã sửa đổi các
quy định của nhà nước để bảo đảm sự thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của thị
trường trên nguyên tắc giảm bớt sự can thiệp của nhà nước và giảm chi phí cho người
dân. Các lĩnh vực được cải cách về thể chế là quản lý hành chính (QLHC), nhân sự, quản
lý tài chính; quản lý doanh nghiệp công và quản lý lao động. Cải cách tổ chức bộ máy
hành chính (BMHC), chú trọng phân cấp là vấn đề mấu chốt nhất. Về cải cách công vụ
và công chức, đã đưa yếu tố cạnh tranh vào chế độ tuyển dụng theo nguyên tắc minh
bạch và công khai. Ban hành cơ chế đánh giá công chức đi đôi với điều chỉnh chế độ tiền

lương. Hiện nay, tại Hàn Quốc, bình quân có 27 công chức/1.000 dân, trong khi tỷ lệ này
ở Mỹ là 75,4, Pháp là 82,2…; đã xây dựng được mạng lưới hạ tầng thông tin thuộc loại
tốt nhất trên thế giới, thiết lập xong hệ thống xử lý công việc hành chính trong nội bộ các
cơ quan hành chính (CQHC) thông qua mạng điện tử, tiến hành việc cung cấp dịch vụ
8
công thông qua Internet, kể cả việc cung cấp dịch vụ hành chính thông qua điện thoại di
động, công khai hoá việc xử lý các vấn đề của dân, của doanh nghiệp trên mạng…
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định trong CCHC, nhưng Hàn Quốc vẫn
tiếp tục tiến trình cải cách. Ngày 14/11/2010, Tổng thống Hàn Quốc đương nhiệm Lee
Myung-bak cho biết, Chính phủ đang lập kế hoạch cụ thể về cải cách khu vực hành chính
giai đoạn tiếp theo và sẽ công bố kế hoạch này trong thời gian sớm nhất.
1.2.2.Bài học kinh nghiệm
Việt Nam với điều kiện thiên nhiên thuận lợi và tài nguyên dồi dào hơn Hàn Quốc
mà hiện nay Nước ta vẫn còn đang phải tiếp tục cố gắng rất nhiều để phát triển. Như vậy,
học hỏi kinh nghiệm từ công cuộc cải cách của Hàn Quốc cũng là một điều quan trọng để
có thể rút ra được bài học cho chính mình:
- Chính phủ Hàn Quốc đặc biệt đề cao nhiệm vụ cải cách. Cuộc cải cách bộ máy nhà
nước được đẩy mạnh hơn từ khi Tổng thống Roh Moo-Hyun lên nắm quyền và những
biện pháp mạnh mẽ được áp dụng từ đầu năm 2003 trở lại đây. Mục tiêu đề ra là xây
dựng Chính phủ có hiệu quả, cởi mở, gần dân, được dân tin cậy, minh bạch, hoạt động
linh hoạt, có khả năng cung cấp dịch vụ chất lượng cao và loại trừ tham nhũng.
=> Việt Nam cần phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết của Đảng cầm quyền . Từ kinh
nghiệm CCHC Hàn Quốc nêu trên, ta thấy rằng sở dĩ việc tổ chức, thực hiện thành công
là nhờ sự kiên quyết của Đảng cầm quyền mà đại diện là Tổng thống, Thủ tướng, Chủ
tịch nước… tùy theo thể chế chính trị tại mỗi quốc gia.Ta cần phải có quyết tâm và sự
lãnh đạo quyết liệt từ ngay cấp cao nhất của hệ thống chính trị thì cải cách mới có thể
thành công.
- Về cải cách thể chế của Hàn Quốc, Tư tưởng xuyên suốt được đề ra là sửa đổi các qui
định của nhà nước để bảo đảm sự thích ứng với sự phát triển của thị trường theo hướng
chuyển từ quản lý chặt sang định hướng mở. Thay đổi cơ bản mối quan hệ Nhà nước - thị

trường - xã hội. Bốn lĩnh vực được ưu tiên sửa đổi về thể chế là: quản lý hành chính,
nhân sự, quản lý tài chính; quản lý doanh nghiệp công và quản lý lao động.
Năm 1997, Luật cơ bản về pháp quy hành chính (The Basic Act on Administrative
Regulation) đã được ban hành. Đạo luật này định rõ nguyên tắc cải cách thể chế, xác định
nội dung đổi mới quy trình ban hành, sửa đổi bổ sung và công khai hoá các qui định của
Nhà nước, giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước và giảm chi phí cho dân. Dựa trên Luật
này, Chính phủ đã thành lập Uỷ ban cải cách lập quy để thực hiện việc giám sát, phối
hợp, rà soát các qui định theo chỉ thị của Tổng thống. Cơ cấu của Uỷ ban gồm 20 uỷ viên
do Thủ tướng đứng đầu, 7 thành viên thuộc Chính phủ gồm các Bộ trưởng Tài chính,
Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng, Nội vụ, Tư pháp. Có 13 thành viên không nằm
trong Chính phủ (giáo sư đại học, chủ doanh nghiệp, đại diện giới báo chí, đại diện người
tiêu dùng…), Uỷ ban naỳ được sự hỗ trợ cao của Tổng thống. Uỷ ban họp thường kỳ 2
tuần 1 lần. Các quyết định của Uỷ ban có hiệu lực cao và do Tổng thống phê chuẩn.
9
Mục tiêu của Chính phủ là đến hết năm 2003 phải giảm 50% thủ tục hành chính
hiện hành, trong đó 10 lĩnh vực được ưu tiên là: đầu tư nước ngoài, tài chính, thuế, thành
lập khu công nghiệp, hải quan, đất đai, nhà cửa, an toàn thực phẩm, thể thao, du lịch.
=>> Tổng hợp một số các giải pháp từ nhận thức đến quan điểm và những quy tắc,
phương thức tổ chức hoạt động nhằm từng bước chuyển đổi vai trò của nhà nước để thích
hợp với yêu cầu mới của một xã hội đang phát triển không ngừng và có xu thế hội nhập
rất cao. Thuộc một trong những Nước đang có công cuộc cải cách hành chính, Việt Nam
cần phải xác định trong giai đoạn tiếp theo nên tập trung vào 4 loại chức năng cơ bản:
điều tiết kinh tế, giám sát thị trường, quản lý xã hội và cung ứng một phần dịch vụ công.
Ngoài ra, cùng với việc tinh giản bộ máy, giảm số lượng cán bộ, công chức là nâng cao
năng lực chuyên môn, trách nhiệm với công việc, tinh thần thái độ phục vụ người dân và
chế độ đãi ngộ tương xứng và minh bạch.
- Cải cách cần được tiến hành một cách kiên trì, lâu dài và đồng bộ, toàn diện trong toàn
bộ hệ thống chính trị và hành chính. Hàn Quốc đã bắt đầu cải cách Hành Chính từ rất đã
tiến hành hàng chục năm và chưa có dấu hiện kết thúc, hay nói cách khác là cải cách một
cách liên tục, kéo dài đến nay và sẽ tiếp tục trong thời gian tới

- Việc cải cách chế độ công vụ và công chức cũng được đẩy mạnh từ năm 1998 trở lại
đây, Hiện tại số lượng công chức ở Hàn Quốc khá thấp (576.000 người; bình quân 27
công chức/1.000 dân, trong khi tỷ lệ này ở Mỹ là 75,4, Pháp là 82,2). Nhờ sắp xếp lại
khối sự nghiệp, từ 1997 đến nay Hàn Quốc đã giảm được 7% tổng biên chế.
=>> Xây dựng, đào tạo đội ngũ công chức nhà nước đủ năng lực, có khả năng đáp ứng
được các yêu cầu ngày càng cao trong giai đoạn mới. Kinh nghiệm CCHC của các nước
trên thế giới cho thấy việc xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đủ năng
lực chuyên môn, tinh thần thái độ, có trách nhiệm trong thực hiện công vụ có vai trò rất
quan trong trong thành công của cải cách.
- Hàn Quốc đã xây dựng được mạng lưới hạ tầng thông tin thuộc loại tốt nhất trên thế
giới, đã hoàn tất việc kết nối mạng trung ương-địa phương, thiết lập xong hệ thống xử lý
công việc hành chính trong nội bộ các cơ quan hành chính thông qua mạng điện tử. Hiện
đang hoàn thiện việc cung cấp dịch vụ công thông qua Internet, kể cả việc cung cấp dịch
vụ hành chính thông qua điện thoại di động
=>> Trong thời đại internet, cùng với việc khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão là xu
thế hội nhập quốc tế thì tăng cường đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở kỹ thuật hạ tầng
phục vụ nền hành chính cần được coi như một trong các giải pháp quan trọng hàng đầu
để nâng cao hiệu quả, hiệu lực của BMHC nhà nước.
- Để quản lý và kiểm soát quá trình cải cách, bảo đảm các mục tiêu cải cách được thực
hiện có kết quả, tháng 4/2003 một cơ quan mang tên "Uỷ ban của Tổng thống về đổi mới
chính quyền và phân cấp" đã được thành lập. Chức năng chính của Uỷ ban là tham vấn
cho Tổng thống về các vấn đề có liên quan đến đổi mới chính phủ và phân cấp. Tổ chức
10
của Uỷ ban gồm Ban chỉ đạo, 5 Tiểu ban điều hành, các tổ công tác cố vấn và Văn phòng
kế hoạch và quản lý.
=>> Đề ra, lập ra công cuộc cải cách hành chính là chưa đủ, muốn đạt được kết quả sát
thực nhất với những gì đã đề ra, chúng ta phải kiểm tra và giám sát chặt chẽ từng bước
hoạt động.Có như vậy mới đảm bảo được tính minh bạch, công bằng và rõ ràng.
1.3. Singapore
1.3.1.Tóm tắt quá trình cải cách

Vấn đề cải cách hành chính ở Singapore được đặt ra khá sớm. Từ đầu những năm 70
Chính phủ đã khuyến khích công chức nêu sáng kiến cải cách hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước. Giữa những năm 80 đề ra phong trào "hướng tới sự thay đổi" mà
trọng tâm là kiến nghị các giải pháp về đổi mới cơ chế quản lý để thích ứng với sự thay
đổi. Năm 1991 Chính phủ đề ra chương trình cải cách công vụ mang tên "Nền công vụ
thế kỷ 21".
Mục tiêu của chương trình là xây dựng nền công vụ có hiệu quả, hiệu lực, công chức
nêu cao tinh thần liêm chính, tận tuỵ và có chất lượng dịch vụ cao. Nội dung chương
trình gồm 2 bộ phận:
Thứ nhất: Nâng cao chất lượng công vụ gắn với hợp lý hoá tổ chức bộ máy và
Thứ hai: Xây dựng và phát triển chính phủ điện tử.
*Những kết quả đáng chú ý:
Về cải cách công vụ
Với khẩu hiệu "Kịp thời cho tương lai", ba vấn đề mang tính chiến lược đòi hỏi phải
được thấu suốt về mặt nhận thức là:
- Coi sự thay đổi là cơ hội, chứ không thuần tuý chỉ là thách thức;
- Chấp nhận và chủ động chuẩn bị phương án, giải pháp phù hợp để thích ứng với sự
thay đổi;
- Thực hiện sự thay đổi thông qua hành động nhanh chóng, kịp thời.
Trên tinh thần đó, nội dung ưu tiên được xác định gồm: đầu tư cho việc đào tạo đội
ngũ công chức; đổi mới tổ chức gắn với tạo cơ chế quản lý phù hợp; nâng cao chất lượng
dịch vụ công để làm hài lòng khách hàng (dân).
Để thực hiện mục tiêu đề ra, Chính phủ Singapore đã áp dụng đồng bộ nhiều biện
pháp, trong đó đáng chú ý là:
Thứ nhất: áp dụng bộ quy chuẩn ISO 9000 trong bộ máy hành chính, coi đó vừa là
công cụ cải tiến lề lối làm việc, vừa là công cụ đánh giá hiệu quả, phân loại công chức.
11
Thứ hai, khuyến khích phát huy sự sáng tạo, đưa tinh thần "doanh nghiệp" vào hoạt
động của bộ máy hành chính mà cốt lõi là lấy hiệu quả làm thước đo; cải cách triệt để các
thủ tục hành chính theo hướng chuyển từ bắt buộc, can thiệp sang khuyến khích, hỗ trợ.

Chính phủ Singapore đã thành lập Uỷ ban hỗ trợ doanh nghiệp với chức năng chủ yếu
là thu thập ý kiến phản hồi từ các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn
trong hoạt động, đồng thời lập ra một nhóm công tác gồm khoảng 100 cán bộ, có trình độ
cao đủ sức tìm hiểu, đánh giá và giải quyết các kiến nghị của các doanh nghiệp. Bằng
cách làm này, chỉ trong một thời gian ngắn, trên 50% trong tổng số 1.104 đề nghị của các
doanh nghiệp đã được tiếp nhận và xử lý.
Thứ ba, đề ra chương trình xoá bỏ cách làm việc quan liêu, nhiều tầng nấc của bộ máy
hành chính mang tên "Zero-In-Process". Mục tiêu đề ra là việc gì cũng phải có cơ quan
chịu trách nhiệm, các sáng kiến và đề xuất của dân liên quan đến hoạt động của các cơ
quan hành chính, của công chức phải được xem xét xử lý nhanh. Theo thống kê của bạn,
20% trong tổng số 210 đề xuất xoá bỏ quan liêu của bộ máy hành chính được chấp nhận;
21 trường hợp trùng lắp chức năng giữa các cơ quan đã được loại bỏ.
Thứ tư, thường xuyên rà soát để loại bỏ những qui định lỗi thời không còn phù hợp.
Để làm việc này, một Ban rà soát văn bản đã được thành lập với thành phần là 5 Tổng
thư ký của các bộ; cứ 5 năm tiến hành tổng rà soát một lần.
Về đổi mới công tác đào tạo công chức
Chính phủ Singapore đặc biệt chú trọng đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công
chức, coi đó là giải pháp cơ bản nhất để xây dựng nền công vụ có hiệu quả.
Theo qui định, mỗi cán bộ công chức bắt buộc phải được bồi dưỡng 100 giờ/năm;
Mỗi công chức phải tự đề ra chương trình học tập cho mình, trong đó có việc sử dụng
100 giờ học theo qui định, tối thiểu phải bảo đảm 60% thời lượng phục vụ công việc
trong cương vị hiện tại, 40% cho công việc tương lai. Để khuyến khích việc tự đào tạo,
Chính phủ qui định hỗ trợ 50% chi phí cho người tự học để phục vụ cho công việc đang
đảm trách.
Các hình thức đào tạo, bồi dưỡng công chức được áp dụng là: đào tạo ban đầu (cơ
bản), đào tạo nâng cao, đào tạo mở rộng và đào tạo bổ sung. Trường Công vụ Singapore
thành lập năm 1971. Từ năm 2001 là đơn vị tự chủ của Ban Công vụ trực thuộc Văn
phòng Thủ tướng nhưng không có tài trợ từ phía Chính phủ. Các bộ tự quyết định việc
chọn nơi đào tạo công chức, không nhất thiết phải gửi vào trường công vụ.
Về việc xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử

Chương trình chính phủ điện tử ở Singapore được phát động rất sớm (1983), bắt đầu
từ chủ trương điện toán hoá hoạt động công vụ. Chính phủ đề ra chương trình phát triển
công nghệ thông tin trong hoạt động của Chính phủ, thành lập Hội đồng quốc gia về tin
học hoá (sau này sáp nhập với Cơ quan quản lý truyền thông thành Cơ quan phát triển
12
thông tin của Chính phủ). Từ những năm 90, do nhận thấy áp dụng công nghệ thông tin
không chỉ là công cụ thúc đẩy hoạt động của Chính phủ mà còn là cơ hội để nâng cao
chất lượng cung cấp dịch vụ cho dân, năm 2000 Chính phủ đã ban hành chưong trình
hành động với nhiệm vụ chủ yếu là: phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho công nghệ
thông tin, đào tạo tăng cường năng lực cho đội ngũ công chức về khả năng áp dụng công
nghệ công mới và cung cấp dịch vụ công thông qua Internet. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã
thông qua một loạt các dự án lớn để thực hiện chương trình này như đề án hỗ trợ doanh
nghiệp, đề án cung cấp dịch vụ công thông qua mạng điện tử, đề án đào tạo…
Theo đánh giá, cho đến nay, các mục tiêu đề ra cơ bản đã đạt được. Hầu hết thông tin
về hoạt động của Chính phủ đã được cung cấp trên mạng. Hàng tháng số lượng giao dịch
của dân với chính quyền được thực hiện qua mạng đạt khoảng 14,4 triệu lượt (trong khi
dân số là khoảng 4 triệu). Khoảng 1.600 loại dịch vụ công trong xã hội được tiến hành
qua mạng.
Chương trình hành động thứ 2 được đề ra cho giai đoạn 2003-2006 với 3 nhiệm vụ
trọng tâm là:
- Kết nối và phối hợp các mạng để bảo đảm việc cung cấp thông tin đầy đủ, công
khai, minh bạch
- Nâng cao chất lượng các dịch vụ được cung cấp trên mạng;
- Mỗi công dân được trực tiếp giao dịch với cơ quan Chính phủ thông qua mạng.
Chính phủ Singapore chủ trương sớm hoàn thiện hệ thống cung cấp dịch vụ theo mô
hình "chính phủ di động". Với số dân khoảng 4 triệu người, nhưng trên 3 triệu người sử
dụng điện thoại di động, vì vậy, bằng công nghệ thông tin, cơ quan nhà nước và công
chức có thể giải quyết công việc của dân qua điện thoại di động trong mọi thời điểm.
Ngân sách dành cho phát triển công nghệ thông tin giai đoạn 2001-2003 là 1,5 tỷ đôla
Singapore; giai đoạn 2003-2006 là 1,3 tỷ.

1.3.2.Bài học kinh nghiệm
Đến nay Singapore đứng ở nhóm những nước dẫn đầu về tốc độ phát triển chính phủ
điện tử và đang bước sang giai đoạn "phát triển công dân điện tử", trong nhóm đó 3 bài
học kinh nghiệm được rút ra là:
• Có chiến lược quốc gia tốt làm cơ sở xác định lộ trình cụ thể cho từng ngành, từng
lĩnh vực trong từng giai đoạn;
• Có cơ quan chuyên môn mạnh giúp chính phủ quản lý quá trình phát triển
• Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực.
Ngoài ra, quá trình cải cách Hành Chính của Singapore chúng ta có thể học tập và áp
13
dụng vào cải cách Hành Chính ở Việt Nam đó là: Singapore đã làm những công việc
- Áp dụng bộ quy chuẩn ISO 9000 trong BMHC, coi đó vừa là công cụ cải tiến lề lối
làm việc, vừa là công cụ đánh giá hiệu quả, phân loại công chức.
- Đưa tinh thần “doanh nghiệp” vào hoạt động của BMHC mà cốt lõi là lấy hiệu quả
làm thước đo.
- Thành lập Uỷ ban hỗ trợ doanh nghiệp nhằm tìm hiểu, đánh giá và đề xuất phương
án giải quyết các kiến nghị của doanh nghiệp.
- Đề ra Chương trình xoá bỏ cách làm việc quan liêu, nhiều tầng nấc của BMHC với
mục tiêu là việc gì cũng phải có cơ quan chịu trách nhiệm.
- Thường xuyên rà soát để loại bỏ những quy định lỗi thời không còn phù hợp.
- Đặc biệt chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, coi đó là giải
pháp cơ bản nhất để xây dựng nền công vụ có hiệu quả.
Việt Nam cần đã tập trung phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho công nghệ thông tin,
tăng cường năng lực cho đội ngũ công chức để áp dụng công nghệ mới, tiến tới cung cấp
dịch vụ công thông qua Internet và tiến tới giải quyết công việc của dân qua điện thoại di
động trong mọi thời điểm. Ngoài ra, cần có chính sách cụ thể trong việc trả lương xứng
đáng cho cán bộ, công chức, qua đó hạn chế tối đa nạn tham nhũng, minh bạch hóa chính
phủ, tạo đà cho cán bộ công chức dành hết tâm sức cho công việc được giao và có chính
sách thu hút và sử dụng nhân tài ngoại quốc phải bài bản.
1.4. Trung Quốc

Nhằm xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Chính phủ
Trung Quốc đã tiến hành cải cách hành chính, tập trung vào lĩnh vực quản lý hành chính
và xây dựng chính quyền.
1.4.1. Một số chủ trương lớn về cải cách hành chính
Thứ nhất là cải cách thế chế chính quyền. Mục tiêu của cải cách thể chế là để thực thi
sự chuyển đổi hơn nữa chức năng của Chính phủ, hoàn thiện cơ cấu thể chế Chính phủ,
điều chỉnh sự phân chia thể chế chính phủ, cải thiện mức độ quản lý và xây dựng hệ
thống hành chính, đề cao các hành vi chuẩn mực, hoạt động phối hợp thông suốt, công
bằng, minh bạch, trung thực và có hiệu quả.
Các cải cách về thể chế hướng tới việc xây dựng một thể chế có trách nhiệm hơn đối
với các tài sản thuộc sở hữu nhà nước nhằm mục đích quản lý tốt hơn các tài sản này;
hoàn thiện một hệ thống kiểm soát vĩ mô để đạt được quyền lực kiểm soát vĩ mô tương
14
đối tập trung; hoàn thiện hệ thống quy định về tài chính để kiểm soát rủi ro; củng cố hệ
thống quản lý kinh doanh và thương mại qua việc cải cách hệ thống phân phối, lưu thông
và thực hiện sự liên kết thương mại quốc tế, trong nước và hoàn thiện thể chế liên quan
đến an toàn thực phẩm và an toàn sản xuất.
Thứ hai là nâng cao chức năng quản lý xã hội và dịch vụ công của Chính phủ và
chính quyền địa phương các cấp, trước tiên tập trung vào chuyển đổi chức năng của
Chính phủ. Đây cũng là vấn đề cốt lõi của cải cách hành chính ở Trung Quốc. Chính phủ
đã tiến hành đánh giá thực trạng và đề ra các giải pháp để giải quyết vấn đề chồng chéo
về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan của Chính phủ, chính quyền các cấp Đặc
biệt, sau khi xảy ra dịch SARS năm 2003, chính quyền các cấp đã quan tâm nhiều hơn và
coi trọng chức năng quản lý xã hội và dịch vụ côn, khẩn trưong xây dựng hệ thống y tế
công và hệ thống quản lý tỉnh trạng khẩn cấp.
Thứ ba, tiếp tục cải cách đối với hệ thống phê chuẩn và kiểm tra hành chính. Cải cách
về nội dung này đã được thực hiện trong các nhiệm kỳ trước của Chính phủ và lần này
được đẩy mạnh hơn. Một số lượng lớn các vấn đề về phê chuẩn và kiểm tra hành chính
đã được huỷ bỏ hay quy định thành luật trong thời gian gần đây. Số lượng các vấn đề về
phê chuẩn và kiểm tra hành chính bị huỷ bỏ hay điều chỉnh bởi chính quyền trung ương

là 1.800.
Thứ tư, cải cách ở các thị trấn và tiến hành các cuộc thử nghiệm về hội nhập ở đô thị
và nông thôn đang được tiến hành. Chính phủ Trung Quốc bắt đầu tiến hành cải cách ở
thị trấn từ đầu năm 2000. Ngoài việc tiếp tục giảm và sáp nhập các thi trấn, chính phủ
Trung Quốc hiện này đang cân nhắc cải cách thị trấn như một giải pháp cho vấn đề tồn
tại và kéo dài ở Trung quốc nhiều năm qua. Đó là cấu trúc hai mặt giữa đô thị và nông
thôn. Việc giải quyết này nhằm thực thị chiến lược kiến tạo vùng nông thôn XHCN tiến
tiến của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
* Các biện pháp cải cách
Để thực hiện những cải cách trên, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành một số các biện
pháp thực hiện để đẩy nhanh việc quản lý hành chính theo luật pháp, cụ thể như sau:
Năm 2004, Chính phủ Trung Quốc đã xây dựng và ban hành " Chương trình thực hiện
toàn diện quản lý hành chính của Chính phủ theo Luật". Trong Chương trình đã làm rõ các tư
tưởng chỉ đạo, mục tiêu cụ thể, nguyên tắc cơ bản, yêu cầu và nhiệm vụ chủ yếu để thực hiện
việc quản lý toàn diện hệ thống hành chính trong 10 năm.
Chính phủ đã hỗ trợ, tập trung nâng cao chất lượng xây dựng thể chế trong quá trình
hoàn thiện luật pháp về kinh tế và giám sát thị trường, Chính phủ đã gắn kết tầm quan
trọng của hoạt động lập pháp trong quá trình quản lý xã hội, dịch vụ công và các vấn đề
liên quan đến lợi ích của nhân dân. Từ năm 2003 đến 2007, Chính phủ đã gửi 33 sáng
kiến lập pháp sang Uỷ bản thường trực của Đại hội đại biểu nhân dân và trực tiếp ban
15
hành 125 quy định về hành chính, trong đó có 52 luật và quy định về pháp luật kinh tế và
106 về quản lý xã hội và dịch vụ công
Hệ thống cơ chế và luật pháp về quản lý tình trạng khẩn cấp trong các lĩnh vực thảm
hoạ, nguy hiểm sức khỏe của cộng đồng, dịch bệnh được hoàn thiện để nâng cao khả
năng ngăn chặn và đối phó với tình trạng khẩn cấp.
Xây dựng và ban hành "Luật cấp phép hành chính nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa" để khuyến khích việc chuyển đổi chức năng của Chính phủ và đổi mới phương thức
hành chính. Theo số liệu thống kế, trong 31 tỉnh, vùng tự trị và thành phố thuộc TƯ, 28
Uỷ ban và Bộ đã có 25.797 vấn đề phê chuẩn mang tính hành chính được hoàn thành

(8.666 bị huỷ bỏ và 1.841 được điều chỉnh )
Cải cách sự thi hành luật về mặt hành chính đã đi trước để quy định sự thi hành luật
về mặt hành chính. Đã có 82 thành phố được thí điểm có quyền lực xử phạt hành chính
tập trung được Chính phủ trao quyền, 190 chính quyền thành phố và 804 chính quyền
huyện đã triển khai quyền lực xử phạt hành chính tập trung một cách tương đối Lĩnh
vực có quyền xử phạt hành chính tập trung và thực thi luật hành chính được mở rộng từ
quản lý đô thị đến văn hoá, du lịch, an toàn trong khai thác mỏ, nông nghiệp, nguồn
nước, giao thông Biện pháp cải cách này đã gắn kết quyền lực thực thi, tinh giảm số
người làm việc trong cơ quan nhà nước, nâng cao hiệu năng thực thi luật và giảm đáng kể
việc thực hiện chồng chéo, đổ trách nhiệm và gây phiền nhiễu cho nhân dân trong khi
thực thi luật.
Hệ thống trách nhiệm thực thi luật đã được triển khai để bảo đảm thực hiện đúng luật
và các quy định. Chính phủ và các Bộ ngành, chính quyền địa phương các cấp xác định
trách nhiệm thực thi luật của mình một cách hợp pháp, bố trí nhiệm vụ thực thi luật một
cách khoa học, xây dựng hệ thống đánh giá và hệ thống giám sát, trách nhiệm bổ sung
cho trường hợp đánh gía sai.
Quá trình xem xét lại về mặt hành chính được hoàn thiện để giải quyết những tranh chấp
về mặt hành chính. Những năm gần đây, theo yêu cầu của Đại hội Đại biểu Nhân dân và "
Luật xem xét lại về mặt hành chính", chính quyền và các cơ quan quản lý ở tất cả các cấp đã
liên tục cải thiện hệ thống phối hợp và thủ tục chi tiết về xem xét lại về mặt hành chính, cho
phép xem xét lại về mặt hành chính đóng vai trò thiết yếu trong giải quyết tranh chấp hành
chính, xây dựng mối liên kết chặt chẽ hơn giữa chính quyền và nhân dân, giảm bớt mâu thuẫn
xã hội, duy trì ổn định xã hội và sự hoà hợp.
* Sự cần thiết phải đẩy mạnh cải cách hành chính
Chính phủ Trung Quốc hiện nay đã có những nỗ lực vượt bậc trong cải cách hành
chính và đã đạt được những kết quả rõ rệt. Tuy nhiên, những cải cách này là phức tạp và
khó khăn. Nhiều khó khăn trong quản lý hành chính của chính quyền chưa được đánh giá
đúng mức. Đó là sự chuyển biến chậm chạp về chức năng của chính quyền địa phương,
vấn đề vượt quá giới hạn phê chuẩn hành chính, sự yếu kém trong quản lý xã hội và dịch
16

vụ công, sự không rõ ràng trong chức năng, hợp tác không hiệu quả giữa các cơ quan,
tính lạc hậu của phương thức quản lý, tình trạng giải quyết không triệt để những vấn đề
liên quan đến lợi ích của người dân, đặc biệt là chủ nghĩa hình thức, quan liêu, gian lận,
lãng phí, thiếu ý thức của một bộ phận công chức trong quản lý hành chính và tình trạng
tham nhũng trầm trọng ở một số cơ quan và một số địa phương. Đây là những vấn đề thu
hút mối quan tâm của nhân dân và toàn xã hội và việc đẩy mạnh cải cách hành chính trên
phạm vi sâu rộng hơn nữa là tiếng nói dứt khoát của Đảng Cộng sản, Nhà nước Trung
Quốc và toàn xã hội.
* Những yêu cầu đảm bảo thành công của cải cách hành chính
Theo kế hoạch cải cách hành chính của Hội nghị TƯ lần thứ 17 Đảng Cộng sản Trung
Quốc, mục tiêu của cải cách hành chính hướng tới là " xây dựng chính quyền hướng về dịch
vụ" và tạo dựng một hệ thống quyền lực tương xứng với trách nhiệm, phân chia công việc một
cách hợp lý, giúp hình thành phương thức hoạch định chính sách có tính khoa học và bảo đảm
thực thi trôi chảy, giám sát có hiệu quả thông qua chức năng chuyển đổi, minh bạch các mối
quan hệ, tối ưu hoá tổ chức và làm tăng hiệu quả.
Để thực hiện thành công kế hoạch cải cách này, có 2 yêu cầu đặt ra và cần được xem
xét để bảo đảm thành công của cải cách.
Thứ nhất là thiết kế một kế hoạch tốt. Thiếu một kế hoạch tổng thể là vấn đề nghiêm
trọng trong cải cách hành chính trước đây ở Trung Quốc. Các cải cách tìm cách lấp các
chỗ hở hơn là tìm ra nguyên nhân của vấn đề. Kế hoạch cho cải cách hành chính không là
biểu thị quyền. Kết cục là không có cơ cấu tổ chức và cơ cấu quyền lực tương đối ổn định
trong chính quyền và cơ cấu quản trị hiệu quả Nhà nước chưa được hình thành.
Thứ hai là tạo ra bước ngoặt trong hạn chế quyền lực công. Vấn đề nổi bật trong quản
lý của Chính phủ Trung Quốc hiện nay là cơ chế hạn chế quyền lực công hiệu quả vẫn
chưa được xây dựng. Điều này giải thích lý do tại sao một số lãnh đạo Đảng và Nhà nước
thậm chí ở vị trí lãnh đạo cấp cao có hành vi tham nhũng trong những năm gần đây. Nó
không chỉ huỷ hoại lòng tin của công chúng mà còn gây ra những nguy hiểm cho đất
nước và nhân dân. Có nhiều mối quan tâm nhằm hạn chế quyền lực công trong một vài
cải cách hành chính trước đây. Tuy nhiên, tình trạng tham nhũng lan tràn gây ra những
mối nghi ngờ về hiệu quả của cải cách.

Ngoài việc thực hiện các yêu cầu trên, cần phải giải quyết đồng thời một số vấn đề
khác nhằm đảm bảo cho công cuộc cải cách hành chính đạt được thành công.
• Xây dựng hệ thống khuyến khích hoạch định chính sách có tính khoa học, đảm bảo sự
thực thi trôi chảy và giám sát hiệu quả. Điều này yêu cầu phải chuyển đổi phương thức
suy nghĩ truyền thống và tạo ra sự thay đổi to lớn trong cơ cấu chính quyền.
• Tìm kiếm các biện pháp hiệu quả để kiểm soát lợi ích của các Bộ và các đơn vị
cung cấp dịch vụ công. Trong dài hạn, các biện pháp để hạn chế quyền lực công sẽ
17
không được tìm ra nếu như các cơ quan của Chính phủ chưa từ bỏ việc tranh giành
lợi ích với người dân, việc hoạch định chính sách của Chính phủ thiếu sự vô tư và
các hoạt động của Chính phủ chưa được chuẩn hoá.
• Cải cách hệ thống chính trị cần được thực hiện đồng thời với cải cách hành chính
để hỗ trợ xây dựng cơ chế hạn chế quyền lực trong thời kỳ cải cách. Cải cách hành
chính không thể chơi bóng một mình. Nếu chúng ta dự định hạn chế quyền lực của
chính phủ từ phía chính trị thì chúng ta phải mở rộng quyền của người dân, luật
hoá quyền của Đảng, xoá bỏ đặc quyền và sự cản trở của quyền lực công.
1.4.2.Bài học kinh nghiệm
Hướng tới một nền hành chính đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong
giai đoạn mới. Sự chuyển mình mạnh mẽ của đất nước cùng với những sự thay đổi to lớn
của bối cảnh quốc tế đặt ra những yêu cầu và thách thức mới, đòi hỏi cải cách hành chính
trong giai đoạn tới phải thay đổi hẳn phương hướng và cách thức tiến hành.
Việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và
ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã tạo cơ hội lớn cho
Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới; đồng thời, cũng đặt ra những thách thức
không nhỏ trong việc thực hiện các cam kết của Việt Nam với WTO. Hơn lúc nào hết, cải
cách hành chính là một yêu cầu cấp bách để Việt Nam phát triển kinh tế và tăng sức cạnh
tranh trên thị trường quốc tế, biến cơ hội thành thế mạnh của mình.
Chính vì thế mà Việt Nam đã học tập từ Trung Quốc cách ứng xử trong WTO.
Trung Quốc đã tận dụng rất tốt việc gia nhập WTO, đặc biệt là những quy định về chống
phá giá hàng hoá. Thứ nhất, họ sử dụng những quy định của WTO để bảo vệ các lợi ích

kinh tế của mình. Có thể thấy hầu hết các điều tra về chống bán phá giá đều nhằm trực
tiếp vào Trung Quốc, nhưng Trung Quốc cũng chủ động điều tra nhằm vào các nước
khác. Đó là một bài học có thể rút ra từ Trung Quốc, và một bài học nữa là Trung Quốc
sử dụng các quy định của WTO nhưng cũng thay đổi chúng để tăng lợi thế cho mình.
Ở đây có một bài học rất thú vị, và cũng là bài học cho Việt Nam, đó là khi đàm
phán, nếu các nước công nhận Trung Quốc là nền kinh tế thị trường, điều sẽ có lợi trong
các vụ kiện chống bán phá giá, Trung Quốc sẽ nhường một số điều khoản liên quan đến
lợi ích kinh tế. Rõ ràng là Trung Quốc không vi phạm các quy định của WTO, nhưng
biến đổi chúng theo hướng có lợi cho mình. Đây là điều đáng để Việt Nam học tập vì
trong các vụ kiện bán phá giá, việc các bạn bị coi là nền kinh tế phi thị trường là một trở
ngại lớn.
Tuy nhiên, Việt Nam sẽ đi con đường đổi mới của riêng mình:
Đổi mới cũng có nhiều con đường khác nhau và Việt Nam có nhiều điều để tự
hào về công cuộc đổi mới của mình. Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh mà
không gia tăng quá nhanh tình trạng bất bình đẳng. Trung Quốc có tốc độ phát triển
nhanh và sự gia tăng bất bình đẳng cũng nhanh.
18
Điều đáng nói nữa là thông điệp từ chính quyền trung ương. Ngay từ đầu Chính
phủ Việt Nam đã nói rõ rằng không muốn “phát triển bằng mọi giá”. Còn thông điệp của
chính quyền trung ương Trung Quốc khi quán triệt đến cấp địa phương đã khiến nhiều
người hiểu rằng phải tìm cách giàu hơn những người khác. Và hậu quả của điều đó chính
là những gì mà ngày nay Trung Quốc đang phải giải quyết
Tuy nhiên, Việt Nam rất nên học tập Trung Quốc ở chỗ đầu tư xứng đáng cho cơ
sở hạ tầng, tạo điều kiện tiếp cận các nguồn lực để mọi người đều có cơ hội phát triển.
2. Cải cách hành chính ở một số quốc gia khác
2.1. Vương quốc Anh
2.1.1.Tóm tắt quá trình cải cách
Ở Anh 30 năm qua, Chính phủ luôn đặt trọng tâm vào cải cách thể chế, coi đây là
nhiệm vụ hàng đầu. Từ năm 1980 có 9 lần cải cách, trong đó có những cải cách quan
trọng: năm 1982 thực hiện sáng kiến về quản lý tài chính, bước đầu giao quyền quản lý

tài chính và nhân sự cho người đứng đầu các cơ quan quản lý theo ngành dọc; năm 1987
thực hiện cải cách trong việc trả lương theo hướng “linh hoạt” đối với một số vị trí công
tác; năm 1994 thực hiện chương trình hành động mới đối với những người hạn chế về
năng lực đang làm việc trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước; năm 2006 ban hành
Quy chế công chức.
Trước đây, Ban chỉ đạo Cải cách được đặt ở Bộ Công thương, nhưng sau đã
chuyển về Văn phòng Nội các và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng. Ban này đã
đưa ra quy định là các bộ, ngành phải xây dựng kế hoạch hàng năm với các mục tiêu cụ
thể trên cơ sở kế hoạch cải cách tổng thể của Ban quy định và gắn kế hoạch này với dự
toán ngân sách của mỗi cơ quan. Chính phủ duy trì một bộ phận chuyên trách chịu trách
nhiệm cải cách thể chế tại trung ương và trong phạm vi từng bộ, ngành. Chính phủ Anh
cũng như Chính phủ hàng loạt quốc gia EU đã đưa ra mục tiêu cắt giảm gánh nặng hành
chính cụ thể và tiến hành tham vấn các doanh nghiệp nhằm đảm bảo các nỗ lực cải cách
thực sự sẽ phục vụ cho doanh nghiệp.
2.1.2.Bài học kinh nghiệm
+ Về cải cách thể chế:
- Khu vực hành chính nhà nước ở Anh với những thể chế, thủ tục hành chính, cơ
chế quản lý và con người, công chức qua thời gian đã dần trở nên xơ cứng, không
năng động, nhanh nhạy phản ứng với những thay đổi của cơ chế kinh tế, của tình
hình xã hội. Để thay đổi hệ thống này theo hướng năng động và linh hoạt hơn
nước Anh tham khảo và đưa ra những kinh nghiệm, cách quản lý và cơ chế quản
lý của khu vực kinh tế tư nhân vào. Điều này được thể hiện ở những điểm chủ yếu
sau: Đánh giá hoạt động của từng công chức, từng tổ chức theo kết quả đầu ra,
theo tác động của kết quả đó. Đây là sự thay đổi hết sức cơ bản trong quản lý nhân
sự và tổ chức, việc đánh giá hoạt động thường căn cứ đầu vào, thì nay đã chuyển
sang chú trọng vào kết quả đầu ra.
19
- Nước Anh thực hiện việc ký kết thoả thuận công vụ giữa các Bộ với Bộ Tài chính.
Đây là một loạt thoả thuận, hợp đồng nhằm tạo ra một khuôn khổ ổn định cho Bộ
hoạt động, không cho phép tăng ngân sách chi tiêu của Bộ nếu không chứng minh

được kết quả sẽ có, buộc các Bộ tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu của mình
theo trọng tâm do Chính phủ đã định, tạo điều kiện để các Bộ phân bổ kinh phí và
giám sát hoạt động của các tổ chức thuộc Bộ. Các Bộ đàm phán và đi đến thống
nhất ký với Bộ Tài chính cho 3 năm, trong đó nội dung quy định rõ: Mục tiêu,
nhiệm vụ của Bộ; các chỉ số, mục tiêu phải phấn đấu, cụ thể là giảm sai sót trong
hoạt động, cải tiến, nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ dân, Chính phủ điện tử;
Nguồn lực phân bổ cho các Bộ trong 3 năm, được cụ thể hoá trong các chương
trình, mục tiêu.
+ Về quản lý đội ngũ nhân sự hành chính công:
- Quản lý cán bộ công chức ở Anh đã chuyển sang đánh giá công chức theo kết quả
đầu ra, tác động của kết quả. Thực hiện phân loại, đánh giá công chức và chuyển
kết quả đánh giá công chức hàng năm cho Hội đồng lương để quyết định việc nâng
lương của công chức, do đó tạo ra động lực thực sự cho công chức làm việc và
phấn đấu, xoá bỏ được cơ chế đến hẹn lại lên lương. Tập trung xây dựng và phát
triển đội ngũ công chức cao cấp, nhất là ở Văn phòng Nội các để đủ sức tham mưu
cho Thủ tướng trong hoạch định chính sách, chiến lược, pháp luật. Nâng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng công chức. Điều mà nước Anh nhấn mạnh ở đây là lần
đầu tiên trong lịch sử hành chính Anh, các Bộ trưởng phải có nghĩa vụ tham dự
các khoá bồi dưỡng tại Trường Hành chính công, phá bỏ quan niệm truyền thống
đã là Bộ trưởng thì thôi không cần phải bồi dưỡng và đào tạo thêm.
2.2. Ai Cập
2.2.1.Tóm tắt quá trình cải cách
Công cuộc cải cách thể chế bắt đầu từ năm 2007 trên cơ sở sáng kiến của Hội
đồng cạnh tranh Ai Cập, được thực hiện tại 11/34 bộ và cơ quan nhà nước với sự ra đời
của Đề án cải cách thể chế (ERRADA). Khác với Đề án 30 tại nước ta, Đề án ERRADA
chủ yếu tập trung vào hệ thống các quy định liên quan đến hoạt động của khối doanh
nghiệp và các ngành nghề kinh doanh. Ban chỉ đạo Đề án này có đại diện của nhà nước,
đại diện của khối doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu. Tính đến tháng 3/2010, đã rà soát
được 3.542 quy định kinh doanh, trong đó kiến nghị hủy 21,5%, sửa đổi 4,8%, hợp nhất
28,7%. Đề án ERRADA góp phần quan trọng cho việc Ai Cập tăng 60 bậc trong Báo cáo

môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới. Một số điểm đáng chú ý trong quá trình
hình thành và thực hiện Đề án ERRADA: có sự tham gia rất tích cực của khối doanh
nghiệp tư nhân; Đề án triển khai trên cơ sở tự nguyện của các Bộ, ngành và không được
coi là một mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống chính trị như Đề án 30 tại Việt Nam, vì
vậy việc thực hiện chưa thật đồng bộ giữa các Bộ, ngành; đã huy động được nguồn tài trợ
lớn của Hoa Kỳ cho cải cách và phát triển kinh tế.
20
2.2.2.Bài học kinh nghiệm
Công cuộc cải cách hành chính ở Ai Cập đã cho ta định hướng quan trọng trong quá
trình cải cách là giảm thiểu các quy định hành chính trùng lặp, chồng chéo; sự đồng lòng
của cả khối doanh nghiệp tư nhân trong việc cải cách và nghiên cứu kinh nghiệm của Ai
Cập trong việc học tập kinh nghiệm quốc tế và kêu gọi được nguồn vốn quốc tế (cụ thể là
từ Mỹ) phục vụ CCHC, phát triển kinh tế. Trong chuyến thăm Ai Cập năm 2009, Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã thăm và làm việc với
một số Bộ, cơ quan của Ai Cập để tìm hiểu về thủ tục cải cách hành chính và thúc đẩy
quan hệ song phương. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Phúc đã làm việc với Bộ trưởng Bộ Cải
cách Hành chính Ai Cập Ahmed Darwish. Trong suốt cuộc gặp hai bên đã trao đổi kinh
nghiệm cải cách thủ tục hành chính tại mỗi nước. Những giải pháp như phát triển cơ sở
dịch vụ cho hộ gia đình hay dịch vu mua sắm công mà Ai Cập đã triển khai thành công là
bài học tốt cho Việt Nam. Bộ trưởng cho rằng, kinh nghiệm mà các nước có được là rất
quý để hai bên hỗ trợ nhau nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích cho người dân. Trong thời gian
tới, Việt Nam và Ai Cập có thể hợp tác trong các lĩnh vực tổ chức bộ máy minh bạch,
liêm chính; đào tạo nguồn nhân lực cấp cao và phát triển cổng Chính phủ điện tử.
Việt Nam cũng đã có cơ hội làm việc với Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ tại Ai Cập
(USAID), được giới thiệu về chương trình cải cách hành chính của Ai Cập và đã làm
việc với Chương trình hỗ trợ kỹ thuật cho cải cách chính sách Ai Cập (Tapr II). Đây là
một dự án của USAID tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trên các lĩnh vực
thương mại, hiện đại hóa lĩnh vực tài chính, ổn định chính sách kinh tế vĩ mô, tạo điều
kiện dịch vụ thuận lợi cho khu vực tư nhân
3. Vận dụng kinh nghiệm của các quốc gia khác vào quá trình cải cách hành chính

của Việt Nam
Lịch sử đã chỉ ra rằng bất kỳ một cuộc cải cách nào cũng đều có mục tiêu, mục đích
xã hội của nó. Mục tiêu cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay là: xây dựng một nền
hành chính trong sạch, vững mạnh, tiết kiệm, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân ngày một
tốt hơn.
Cải cách hành chính ở Việt Nam được tiến hành nhiều năm nay với những lộ trình
khác nhau từ thấp tới cao. Bắt đầu là việc cải cách một bước thủ tục hành chính trong
việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức, đến cải cách một bước nền hành chính
nhà nước với ba nội dung là: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính
nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Ngày nay cải cách hành chính đã chuyển
sang một bước mới với bốn nội dung: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành
chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công.
Trong những năm qua cải cách hành chính ở Việt Nam đã góp phần xây dựng nhà
nước pháp quyền:
21
- Về thể chế hành chính: Hiến pháp được sửa đổi, ban hành các Luật mới và các văn
bản dưới luật về tổ chức bộ máy nhà nước; Sửa đổi bổ sung một số điều Pháp lệnh cán
bộ, công chức; ban hành các nghị định để cụ thể hóa Pháp lệnh, cán bộ, công chức Điều
quan trọng là: các văn bản về tổ chức bộ máy nhà nước là đã quy định khá cụ thể quyền
hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, từng bước thể hiện sự phân cấp trong quản
lý giữa Trung ương và địa phương; các văn bản pháp luật về công vụ, cán bộ, công chức
đã quy định khá cụ thể các quyền, nghĩa vụ của các cán bộ, công chức và đã bước đầu đi
theo hướng chuyên biệt hoá các đối tượng những người phục vụ trong cơ quan, tổ chức
nhà nước.
- Về bộ máy hành chính: giảm dần các đầu mối quản lý, số lượng các cơ quan quản lý
nhà nước đã giảm xuống đáng kể, thủ tuc hành chính được cải cách theo hướng "một
cửa", mẫu hóa các văn bản hành chính, giấy tờ, công khai các thủ tục hành chính. Chính
việc cải cách thủ tục hành chính này đã góp phần hạn chế sự sách nhiễu, phiến hà, tham
những của các công chức hành chính trong khi giải quyết các công việc của công dân.
Đây là điểm căn bản nhất của cải cách hành chính góp phần xây dựng nhà nước pháp

quyền.
Một vấn đề nữa trong cải cách hành chính ở Việt Nam là phân cấp trong quản lý nhà
nước. Phân cấp thực chất là việc chuyển dần các công việc, nguồn lực do chính quyền
trung ương nắm giữ cho chính quyền địa phương các cấp một cách lâu dài, ổn định bằng
các văn bản luật, dưới luật, nhằm mở rộng dân chủ, phát huy tính chủ động sáng tạo của
chính quyền địa phương. Trong xu hướng phân cấp bộ máy hành chính nhà nước ở trung
ương sẽ tập trung vào việc xây dựng chính sách, bảo đảm sự thống nhất về thể chế, việc
giải quyết những vấn đề lớn của quốc gia, còn những việc thuộc phạm vi cộng đồng lãnh
thổ do cộng đồng lãnh thổ giải quyết. Như vậy, vấn đề phân cấp gắn với vấn đề dân chủ,
dân chủ là cốt lõi của nhà nước pháp quyền, không có dân chủ thì không có nhà nước
pháp quyền, không mở rộng quyền chủ động sáng tạo của chính quyền địa phương thì
không có nhà nước pháp quyền. Bởi vì chỉ có thể thông qua những thiết chế dân chủ, phát
huy tính dân chủ, sáng tạo của cộng đồng lãnh thổ mới có thể tạo lập được môi trường
thuận lợi để nhân dân các cộng đồng lãnh thổ kiểm soát được hoạt động của nhà nước.
Kinh nghiệm Cải cách hành chính (CCHC) quốc tế rất phong phú, đa dạng và Việt
Nam có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm để vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước
mình:
Thứ nhất, sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết của Đảng cầm quyền. Từ kinh nghiệm
CCHC của một số quốc gia nêu trên, ta thấy rằng sở dĩ việc tổ chức, thực hiện CCHC tại
các nước này thành công là nhờ sự kiên quyết của Đảng cầm quyền mà đại diện là Tổng
thống, Thủ tướng, Chủ tịch nước tùy theo thể chế chính trị tại mỗi quốc gia. Phải có
quyết tâm và sự lãnh đạo quyết liệt từ ngay cấp cao nhất của hệ thống chính trị thì cải
cách mới có thể thành công
22
Thứ hai, cải cách bắt đầu từ thay đổi nhận thức. Cần tạo được sự đồng thuận, thống
nhất trong quan điểm và nhận thức về cải cách của lãnh đạo và đội ngũ cán bộ, công chức
trong các cơ quan công quyền và người dân về chủ trương, đường lối cải cách do Đảng
cầm quyền lãnh đạo. CCHC làm thay đổi nhận thức về vai trò và chức năng của nhà nước
(trong bối cảnh thế giới liên tục biến động và phát triển) từ quản lý sang hỗ trợ và phục
vụ. Mục tiêu của cải cách là lấy yêu cầu của người dân, cộng đồng và doanh nghiệp làm

cơ sở cho những quyết sách của nhà nước với phương châm phục vụ là công khai, minh
bạch và thuận lợi. Nhà nước trong giai đoạn tiếp theo nên tập trung vào 4 loại chức năng
cơ bản: điều tiết kinh tế, giám sát thị trường, quản lý xã hội và cung ứng một phần dịch
vụ công. Ngoài ra, cùng với việc tinh giản bộ máy, giảm số lượng cán bộ, công chức là
nâng cao năng lực chuyên môn, trách nhiệm với công việc, tinh thần thái độ phục vụ
người dân và chế độ đãi ngộ tương xứng và minh bạch. Đây là tổng hợp một số các giải
pháp từ nhận thức đến quan điểm và những quy tắc, phương thức tổ chức hoạt động
nhằm từng bước chuyển đổi vai trò của nhà nước để thích hợp với yêu cầu mới của một
xã hội đang phát triển không ngừng và có xu thế hội nhập rất cao.
Thứ ba, cải cách cần được tiến hành một cách kiên trì, lâu dài và đồng bộ, toàn diện
trong toàn bộ hệ thống chính trị và hành chính. Chúng ta thấy rất nhiều nước bắt đầu
CCHC từ rất lâu (Malaysia từ những năm 60 thế kỷ trước, Singapore cải cách từ đầu
những năm 70, Trung Quốc từ năm 1979 ) đã tiến hành hàng chục năm và chưa có dấu
hiện kết thúc, hay nói cách khác là cải cách một cách liên tục, kéo dài đến nay và sẽ tiếp
tục trong thời gian tới. Tại quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về thể chế
chính trị là Trung Quốc, cải cách được tiến hành toàn diện tại các cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp, trong đó CCHC tại cơ quan hành pháp giữ vai quan trọng.
Thứ tư, xây dựng, đào tạo đội ngũ công chức nhà nước đủ năng lực, có khả năng đáp
ứng được các yêu cầu ngày càng cao trong giai đoạn mới. Kinh nghiệm CCHC của các
nước trên thế giới cho thấy việc xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đủ
năng lực chuyên môn, tinh thần thái độ, có trách nhiệm trong thực hiện công vụ có vai trò
rất quan trong trong thành công của cải cách. Nhu cầu cần đáp ứng của xã hội ngày càng
cao và đa dạng, vì vậy đội ngũ cán bộ, công chức cần được thường xuyên đào tạo, nâng
cao trình độ, nâng cao năng lực thực hành, kỹ năng giải quyết các vấn đề mới mà thực
tiễn luôn đặt ra. Việc đưa ra các quyết sách phù hợp với từng ngành, từng địa phương,
với từng hoàn cảnh và điều kiện, trên cơ sở các mục tiêu chung, đòi hỏi cán bộ, công
chức phải có năng lực phù hợp và liên tục được tăng cường.
Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức phù hợp với yêu cầu phát triển là việc làm lâu
dài, bắt đầu từ khâu tuyển dụng cán bộ, công chức cho đến đào tạo, phát triển, đề bạt hay
khen thưởng cần hợp lý, rõ ràng, minh bạch. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy,

chế độ đãi ngộ, thưởng phạt hợp lý là một động lực rất lớn giúp cho cán bộ, công chức
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Quan tâm đến chính sách đãi ngộ đối với cán bộ,
công chức, trước hết là chế độ lương, thưởng và các điều kiện bảo đảm cho cán bộ công
chức toàn tâm và có trách nhiệm với công việc và đồng thời hoàn thiện hệ thống thể chế
23
trong nền công vụ, bảo đảm rõ ràng về thẩm quyền, tính trách nhiệm đối với từng vị trí,
chức danh.
Thứ năm, tăng cường đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở kỹ thuật hạ tầng phục vụ nền
hành chính quốc gia. Trong thời đại internet, cùng với việc khoa học kỹ thuật phát triển
như vũ bão là xu thế hội nhập quốc tế thì tăng cường đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở kỹ
thuật hạ tầng phục vụ nền hành chính cần được coi như một trong các giải pháp quan
trọng hàng đầu để nâng cao hiệu quả, hiệu lực của BMHC nhà nước.
Thứ sáu, vận dụng các bài học kinh nghiệm, tăng cường giao lưu hợp tác quốc tế về
CCHC. Các quốc gia tiến hành cải cách nền hành chính đều nghiên cứu kinh nghiệm
quốc tế về CCHC, mặc dù không có khuôn mẫu hay trình tự nhất định cho CCHC của
từng nước, tuy nhiên việc cử các tổ chức, cá nhân đi nghiên cứu học tập CCHC tại các
quốc gia đã tiến hành cải cách để về vận dụng vào nước mình là việc làm rất cần thiết.
Ngoài ra, có thể nghiên cứu kinh nghiệm của Ai Cập khi đã kêu gọi được nguồn vốn
quốc tế (cụ thể là từ Mỹ) phục vụ CCHC và phát triển kinh tế.
Tóm lại việc cải cách hành chính ở Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai
đi theo hướng làm cho bộ máy hành chính hoàn thiện hơn, hoạt động có hiệu quả hơn,
phục vụ nhân dân ngày một đúng pháp luật, tốt hơn và tiết kiệm nhất, dần từng bước
chuyển nền hành chính từ cơ quan cai quản thành các cơ quan phục vụ dân, làm các dịch
vụ hành chính đối với dân, công dân là khách hàng của nền hành chính, là người đánh gía
khách quan nhất về mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính.
Tất cả những mục tiêu đó của cải cách hành chính cũng là nhằm góp phần xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Cải cách hành chính và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay -

PGS.TS Đinh Ngọc Vượng, Viện Nhà nước và Pháp luật, Việt Nam
2. Giới thiệu tổng quan về đề án 30 và hướng dẫn việc thống kê thủ tục hành chính,
24
Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ
3. Cải cách hành chính tại một số quốc gia và kinh nghiệm vận dụng vào Việt Nam
đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 197-thang-6-2011 ngày 20/06/2011, TS.
Nguyễn Văn Cường - Vụ Địa phương, Văn phòng Chính phủ
4. Hàn Quốc trên đường phát triển và Tìm hiểu nền hành chính Hàn Quốc, Nhà xuất
bản Thống kê, Hà Nội
5. Một số kinh nghiệm cải cách hành chính Nhật Bản – www.vysajp.org
6. Caicachhanhchinh.gov.vn
7. />option=com_content&view=article&id=1661%3Akinh-nghiem-cai-cach-hanh-
chinh-cua-mot-so-nuoc&catid=14%3Acai-cach-hanh-chinh&Itemid=28&lang=vi
8. />sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=2&cad=rja&ved=0CCUQFjAB&url=h
ttp%3A%2F%2Fcaicachhanhchinh.gov.vn%2FUploads
%2FTapChiToChucNhaNuoc
%2Fbai14.doc&ei=PEaiULGZGcmfiAfP0oCIDA&usg=AFQjCNEEQywUzXKP
H2guP9ojFsrThZXqqg&sig2=gSvxtW3E1WvAWyr7JyP5aQ
9. />view=article&id=57caicachhanhchinh.gov.vn/uploads/News/2560/ /vi.BAI
%2014.doc
MỤC LỤC
25

×