Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phân tích mối quan hệ giữa đổi mới phương thức điều hành tổ chức công và cải cách tổ chức hiện nay_5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.37 KB, 10 trang )

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
CƠ SỞ TẠI HUẾ

TIỂU LUẬN
ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG
TỔ CHỨC CÔNG
HỌ VÀ TÊN: Nguyễn Mạnh Hùng
LỚP: HCC 16M
MÔN: Tổ chức điều hành tổ chức công

A Lưới, tháng 01/2013
Bài tiểu luận: MÔN TỔ CHỨC ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG
TỔ CHỨC CÔNG
Học viên: NGUYỄN MẠNH HÙNG
Lớp Cao học HCC 16M, cơ sở HVHC miền Trung
Câu 1. Phân tích mối quan hệ giữa đổi mới phương thức điều hành tổ
chức công và Cải cách hành chính hiện nay?
Tổ chức công là tổ chức của hệ thống bộ máy nhà nước hoặc tổ chức công
ích được nhà nước công nhận, bao gồm cán bộ, công chức được tuyển dụng, bổ
nhiệm theo quy chế công chức hoặc theo thể thức hợp đồng để thực hiện công vụ
nhà nước. Tổ chức công có vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và có cơ cấu tổ
chức do luật công quy định, được sử dụng công quyền để tổ chức công việc Nhà
nước hoặc dịch vụ công vì lợi ích chung của xã hội, cộng đồng.
1. Tầm quan trọng của việc đổi mới kỹ thuật điều hành tổ chức công:
1.1. Về mặt kinh tế:
Nâng cao hiệu quả công việc giảm chi phí đầu vào, kiểm soát được quỹ thời
gian của tổ chức công.
1.2. Phương diện xã hội:
- Tạo mối quan hệ gắn bó giữa nhà nước với nhân dân. người dân có cơ hội
đóng góp nhiều hơn cho cơ quan tổ chức.
- Giao lưu với các nước rút kinh nghiệm học hỏi ở các nước tiên tiến để quản


lý hiệu quả hơn trên các lĩnh vực.
1.3. Phương diện chính trị:
- Là biện pháp góp phần thực hiện chủ trương đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước trong việc cải cách hành chính và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
1.4. Đối với bộ máy quản lý Nhà nước:
- Giúp các tổ chức quản lý tốt hơn trong công việc và thuận lợi trong kiểm
tra giám sát các hoạt động .
- Phát hiện những sai lầm của tổ chức công cũng như của người lãnh đạo,
vừa thu thập thông tin trong điều hành tổ chức công.
2
- Định hướng đổi mới kỹ thuật điều hành, đảm bảo tính khoa học trong điều
hành tổ chức công, tạo được sự điều hành thuận lợi đơn giản.
- Giảm dược cường độ lao động nhưng tăng năng suất lao động góp phần
tinh giảm biên chế trong các cơ quan hành chính Nhà nước.
2. Với sự phát triển của KHKT hiện nay thì việc xây dựng một nền hành
chính phát triển cần phải có sự đổi mới liên tục với môi trường nó đang tồn
tại. Vì vậy cần phải đổi mới các biện pháp kĩ thuật điều hành tổ chức công:
- Xây dựng các mô hình mẫu và quy trình chuẩn cho quá trình điều hành lãnh
đạo của các tổ chức công.
- Đổi mới kỹ thuật điều hành tạo nề nếp làm việc khoa học hiệu quả trong
các cơ quan nhà nước.
- Cần phải xây dựng các mô hình mẫu và các quy trình chuẩn cho từng loại
hình cơ quan có cùng đặc điểm, cơ cấu, hoạt động giống nhau.
Ví dụ: Xây dựng mô hình mẫu cho các ngân hàng, các cơ quan chuyên môn
cấp huyện hoặc tỉnh…
- Ngoài cơ sở vật chất thì việc có một quy trình chuẩn là việc cần thiết cho
nhiệm vụ điều hành hoạt động của các tổ chức công, xây dựng các thiết chế cần
thiết để các cơ quan có thể vận hành thống nhất. Cơ chế vận hành hoạt động có vai
trò quan trọng trong việc xây dựng một nề nếp làm việc khoa học tại các cơ quan

các cấp.
Ví dụ: Đảng và Nhà Nước đã ban hành một số văn bản về quy chế trong hoạt
động của cơ quan các cấp và đã có kết quả rất khả thi.
Thiết lập một chế độ trách nhiệm rõ ràng trong hoạt động công vụ và phải
bám sát từng bước đi của quá trình giải quyết công việc trong thực tế.
Ví dụ: Khi đã ban hành một văn bản thì ai chịu trách nhiệm về toàn bộ văn
bản, ai chịu trách nhiệm soạn thảo, kí duyệt, ban hành … khi có sai phạm thì ai
chịu trách nhiệm ở khâu nào?
- Tăng cường việc sử dụng các thiết bị hiện đại để hỗ trợ xử lý công việc cần
thiết trong hoạt động của tổ chức công, đặc biệt là việc thu thập xử lý thông tin và
truyền đạt các quyết định quản lý.
- Xây dựng các thiết bị hiện đại trên cơ sở không ngừng phát huy giá trị
truyền thống văn hoá của dân tộc.
Trang thiết bị văn phòng hiện nay gồm rất nhiều loại như: Máy vi tính, máy
fax, máy in, bàn ghế, tủ hồ sơ, văn phòng phẩm, các thiết bị truyền tin, …. Các thiết
bị này sẽ nâng cao hiệu quả làm việc, hiệu quả công việc, giúp cho việc thu thập xử
lý thông tin một cách chính xác và nhanh chóng. Chúng liên kết với nhau tạo thành
cơ sở dữ liệu phong phú giúp cho các nhà quản lý có các thông tin cần thiết để giải
3
quyết công việc hàng ngày và đưa ra hoạch định chiến lược. Đó là mô hình các
chính phủ điện tử trên thế giới đã rất thành công và mang lại hiệu quả rất lớn.
Ngoài chức năng là tăng hiệu quả công việc thì các thiết bị này còn giúp các
tổ chức công trở nên văn minh thân thiện với môi trường hơn (giảm tiếng ồn, giảm
khói bụi, thoáng mát) nhưng phải phù hợp với điều kiện thực tế của tổ chức công,
tránh sự lãng phí.
- Xây dựng các định mức cần thiết và tiêu chuẩn hoá công việc phù hợp với
điều kiện thực tế của đơn vị.
Quản lý hành chính là công việc phức tạp và có nhiều công đoạn liên quan
với nhau nên đòi hỏi tính tự giác cao và định mức cần thiết mới giúp cho công việc
trôi chảy và hoàn thành đúng yêu cầu công việc.

Ví dụ: Khi bộ phận tiếp dân nhận được đơn khiếu nại, tố cáo thì phải chuyển
đến bộ phận có trách nhiệm giải quyết và trả kết quả cho người dân trong thời gian
nhất định. Nếu không giải quyết thì công việc sẽ bị tồn đọng, trì trệ, không hiệu
quả.
Trên thế giới thì các tiêu chuẩn hoá được xây dựng một cách có hệ thống như
mẫu các văn bản, mẫu hồ sơ thống nhất.
- Đổi mới quy trình kiểm tra hoạt động của các tổ chức công.
Xây dựng và áp dụng những quy trình kiểm tra thực tế và hiện hữu phù hợp
với mỗi cơ quan tổ chức.
Xây dựng quy trình đơn giản mà đối tượng bị kiểm tra cũng có thể tham gia
vào quá trình kiểm tra.
Tránh kiểm tra hời hợt chiếu lệ nhưng không làm phức tạp hoá vấn đề trong
khi làm việc.
- Tăng cường bồi dưỡng kỹ năng hành chính cho cán bộ, công chức
Để hoàn thành tốt công việc của mình thì yêu cầu cán bộ, công chức phải có
những kỹ năng nhất định nên họ cần được đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên.
VD: Để ban hành một văn bản thì họ cần biết thẩm quyền của mình, các vấn
đề liên quan, các văn bản đã ban hành nếu không nắm bắt được thì họ sẽ ban hành
văn bản trái quy định của pháp luật, văn bản sau sẽ chồng chéo văn bản trước,
không có hiệu lực…
Trên thực tế, khi cán bộ, công chức đã làm trái các quy định của pháp luật
một phần do cố ý làm trái pháp luật nhưng một phần do năng lực cán bộ, công chức
yếu kém gây khó khăn cho công cuộc cải cách hành chính của nước ta.
Sử dụng công nghệ tiên tiến và áp dụng phương pháp khoa học để tính toán
hiệu quả của các quy trình điều hành hành chính nhưng đây là mô hình mới áp
dụng vào nước ta nên chưa phổ biến, vẫn áp dụng lối làm việc thủ công, chưa quan
4
tâm đến môi trướng làm việc. kỹ năng làm việc yếu kém gây phiền hà cho nhân dân
khi liên hệ công việc.
Trên thế giới, cán bộ, công chức được đào tạo bồi dưỡng kỹ năng theo yêu

cầu công việc. Chúng ta cũng cần phải đào tạo theo yêu cầu công việc, thực hiện tốt
góp phần trong tiến trình cải cách hành chính để hoà nhập với sự phát triển của nền
hành chính thế giới.
Để đạt được các kết quả trên thì chúng ta phải làm việc một cách đồng bộ
phải tiến hành thường xuyên và đánh giá những gì đã đạt được và rút kinh nghiệm
cho các hoạt động sau.
Trong năm biện pháp trên thì biện pháp “tăng cường bồi dưỡng kỹ năng
hành chính cho cán bộ, công chức” là quan trọng nhất. Vì:
- Con người là gốc của mọi công việc nên khi muốn thay đổi công việc thì
cần thay đổi tư duy là vấn đề quan trọng và là tiên quyết.
Khi có kỹ năng làm việc thì cán bộ, công chức mới có khả năng áp dụng các
phương pháp trên một cách dễ dàng và có hiệu quả. Đây là tiền đề cho mọi thành
công trong công việc.
Ví dụ 1: Với sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin hiện nay thì mỗi
cán bộ, công chức phải có kỹ năng sử dụng máy vi tính trong công việc để khai
thác, xử lý, truyền tin và sử dụng thông tin. Như vậy, sau khi được đào tạo thì họ sẽ
sử dụng máy vi tính thành thạo, tốc độ cập nhật nhanh chóng, xử lý thông tin chính
xác sử dụng thông tin có hiệu quả.
Ví dụ 2: với cán bộ tiếp dân thì cần kỹ năng giao tiếp. Nếu được đào tạo tốt
thì việc tiếp dân sẽ có hiệu quả hơn, tạo được sự hài lòng của khách hàng đối với tổ
chức đó, giảm sự phiền hà trong công việc, sử dụng thời gian hiệu quả hơn.
3. Mối quan hệ giữa đổi mới phương thức điều hành tổ chức công và Cải
cách hành chính:
Mối quan hệ giữa đổi mới phương thức điều hành tổ chức công và Cải cách
hành chính là hai phạm trù gắn kết chặt chẽ, bổ sung và tương trợ lẫn nhau. Đổi
mới phương thức điều hành tổ chức công tức là thực hiện chủ trương về cải cách
hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Để làm được điều
đó, tổ chức công phải tự điều chỉnh tổ chức, phương thức quản lý thích ứng và vận
dụng đầy đủ, đúng đắn phương thức điều hành với việc cải cách nền hành chính, tổ
chức công phải tác động vào nền hành chính để phát huy những yếu tố tích cực,

xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật, đảm bảo tiến bộ và bình đẳng xã
hội.
- Nền hành chính nhà nước là hệ thống các yếu tố hợp thành về tổ chức (bộ
máy, con người, nguồn lực công) và cơ chế hoạt động để thực thi quyền hành pháp.
Cấu trúc nền hành chính nhà nước bao gồm: Hệ thống thể chế; cơ cấu tổ chức và cơ
chế vận hành của bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ, công chức hành chính; nguồn
5
lực tài chính và cơ sở vật chất. Để nâng cao hiệu quả, hiệu lực nền hành chính (tổ
chức công là một trong những bộ phận cấu thành) là cần phải cải cách đồng bộ các
yếu tố trên.
- Cải cách nền hành chính nhà nước (hay của tổ chức) là một bộ phận của cải
cách tổ chức và hoạt động của hệ thống bộ máy hành chính nhà nước nói chung (và
tổ chức công nói riêng), nhằm làm cho hoạt động thực thi quyền hành pháp ngày
càng thích ứng hơn với yêu cầu của sự vận động nền kinh tế, xã hội của mỗi tổ
chức, đơn vị, địa phương.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về hệ thống pháp luật, nâng cao
chất lượng về xây dựng hệ thống pháp luật và thể chế về tổ chức, hoạt động của các
tổ chức, cơ quan là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của cải cách hành
chính.
- Hiệu quả của cải cách nền hành chính là đặc điểm của tổ chức, vận hành
của tổ chức, là hiệu quả của việc quản lý của bộ máy hành chính (tức tổ chức), nội
dung và phương thức lãnh đạo của tổ chức nói chung và tổ chức công nói riêng.
- Hiệu lực của nền hành chính và đổi mới phương thức điều hành tổ chức
công là sự thật hiện đúng, kịp thời có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao và
tuân thủ pháp luật của tổ chức công để đạt được mục tiêu đề ra. Ở khía cạnh khác,
hiệu lực của cải cách hành chính còn biểu hiện ở sự nghiêm túc, khẩn trương, triệt
để của tổ chức công trong việc điều hành, quản lý của tổ chức và cán bộ, công
chức, nhân dân trong việc thực thi chính sách, pháp luật của nhà nước trên phạm vi
toàn xã hội.
- Đổi mới phương thức điều hành tổ chức công và Cải cách hành chính đều

có mục đích phục vụ sự nghiệp phát triển cộng đồng và nhu cầu thiết yếu của công
dân, tức là xây dựng nền hành chính công tâm, trong sạch, không theo đuổi mục
đích lợi nhuận, không đòi hỏi người được phục vụ phải trả thù lao.
- Hiệu lực của việc cải cách hành chính là kết quả đạt được của bộ máy, tổ
chức ở sự tương quan với mức độ chi phí các nguồn lực (tài chính công) trong quan
hệ và hiệu quả xã hội.
- Hiệu quả của công tác điều hành tổ chức công và Cải cách hành chính được
thực hiện thông qua việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức về số lượng, cơ cấu hợp lý, có trình độ, năng lực, phẩm chất gắn liền với vị trí
việc làm trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Để nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành chính và hiện đại hóa nền
hành chính là nâng cao hiệu quả quản lý điều hành từ trung ương đến địa phương
trong một chỉnh thể thống nhất.
4. Định hướng và biện pháp đổi mới kỹ thuật điều hành hiện nay:
6
- Xây dựng và áp dụng kỹ thuật điều hành, tổ chức công vụ, kết hợp hiện đại
với truyền thống;
- Bảo đảm tính khoa học của quá trình điều hành;
- Tạo được sự điều hành thuận lợi, đơn giản và phù hợp;
- Giảm nhẹ cường độ và nâng cao năng suất lao động, góp phần tinh giản
biên chế;
- Xây dựng mô hình mẫu và quy trình chuẩn cho quá trình điều hành hoạt
động của các cơ quan;
- Tăng cường sử dụng thiết bị hiện đại để xử lý công việc, đặc biệt là thu
thập, xử lý thông tin, truyền đạt các quyết định;
- Xây dựng các định mức cần thiết và thực hiện việc tiêu chuẩn hoá trong
công việc;
- Đổi mới quy trình kiểm tra hoạt động của cơ quan, tổ chức công;
- Bồi dưỡng kỹ năng hành chính cho cán bộ, công chức.

Câu 2: Phân tích các yếu tố cấu thành văn hoá tổ chức công và vai trò
của văn hoá trong tổ chức công?
1 . Các yếu tố cấu thành văn hoá tổ chức công:
1.1. Quan niệm về tổ chức công:
Tổ chức công là tổ chức đặt dưới sự quản lý trực tiếp của nhà nước để tiến
hành một công việc chuyên ngành của nhà nước. Tổ chức công là tổ chức thực hiện
cơ chế điều hành, kiểm soát công việc hành chính, là nơi soạn thảo văn bản để thực
hiện công vụ, đảm bảo thông tin cho hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước, nơi
phối hợp hoạt động thực hiện một nhiệm vụ được nhà nước giao. Là nơi tiếp nhận
yêu cầu, đề nghị, khiếu nại của công dân. Do đó, tổ chức công là một bộ phận hợp
thành tất yếu của thiết chế bộ máy quản lý nhà nước.
1.2. Quan niệm về văn hoá:
Văn hoá là toàn bộ những hoạt động sáng tạo và giá trị của nhân dân một
nước, một dân tộc về mặt sản xuất vật chất và tinh thần trong sự nghiệp dựng nước
và giữ nước. Văn hoá là tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác,
từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán,
lối sống và lao động.
1.3. Quan niệm về văn hoá tổ chức, văn hoá tổ chức công:
Văn hoá tổ chức là hệ thống những giá trị niềm tin, sự mong đợi của các
thành viên trong tổ chức, tác động qua lại với các cơ cấu chính thức và tạo nên
những chuẩn mực hành động như những giả thiết không bị chất vấn về truyền
thống và cách thức là việc của tổ chức mà mọi người trong đó đều tuân theo khi
làm việc.
7
Văn hoá tổ chức công là một hệ thống được hình thành trong quá trình hoạt
động của tổ chức công, tạo nên niềm tin giá trị về thái độ của các nhân viên làm
việc trong tổ chức công, ảnh hưởng đến cách làm việc trong tổ chức công và hiệu
quả hoạt động của nó.
Xây dựng văn hoá tổ chức công là xây dựng một nề nếp làm việc khoa học,
có kỷ cương và dân chủ. Nó đòi hỏi các nhà lãnh đạo, quản lý cũng như các thành

viên của cơ quan phải quan tâm đến hiệu quả hoạt động chung của cơ quan mình.
Muốn như thế cán bộ phải tôn trọng kĩ luật cơ quan, phải chú ý đến danh dự của cơ
quan trong cư xử với mọi người, đoàn kết và hợp tác trên những nguyên tắc chung,
chống lại bệnh quan liêu, hách dịch, cơ hội.
1.4. Các yếu tố cấu thành văn hoá tổ chức công:
1.4.1. Các yếu tố bên trong:
- Con người: Đây là yếu tố quan trọng bậc nhất, quyết định văn hoá tổ chức
công. Con người là nhân tố cơ bản, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu
quả của tổ chức công. Tinh thần tự quản, tính tự giác của cán bộ, công chức làm
việc trong tổ chức công cao hay thấp, mối quan hệ giữa các thành viên trong tổ
chức, xung đột giữa các thành viên trong cơ quan ở mức độ lớn hay nhỏ, cách giải
quyết các xung đột, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao hay thấp,…tất cả những
yếu tố đó tạo nên văn hoá tổ chức công.
- Thể chế: Hệ thống thể chế trong các tổ chức công cũng là vấn đề cần bàn
tới. Thể chế có hoàn thiện, có đảm bảo tính nghiêm minh được mọi cá nhân trong
tổ chức tuân thủ thì kỷ luật trong tổ chức công mới được đảm bảo. Từ đó mọi hoạt
động của các tổ chức công diễn ra một cách có hệ thống, theo chuẩn mực đã được
đề ra, tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng của các cơ quan, đơn vị đó. Sự
phối hợp hoạt động giữa các cơ quan, các bộ phận và các tổ chức khác nhau trong
tổ chức công cũng là một yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng. Các công việc, các
nhiệm vụ sẽ được thực hiện một cách suôn sẻ, đạt mục tiêu khi có sự phối hợp nhịp
nhàng, đồng bộ giữa mọi tổ chức, cơ quan ở mọi lĩnh vực trong cả một hệ thống
rộng lớn tổ chức công.
- Tài chính: Tài chính của mọi tổ chức công đều phụ thuộc vào nguồn ngân
sách nhà nước. Nguồn tài chính mà nhà nước có được là rất hạn hẹp. Việc sử dụng
nguồn tài chính đó để tiến hành các hoạt động của các tổ chức cần được xem xét
hợp lí, tránh việc thâm hụt ngân sách, lãng phí tiền bạc của nhà nước, làm giảm
hiệu quả chất lượng tổ chức công.
- Văn hóa tổ chức: Nền tảng văn hóa của tổ chức là yếu tố ảnh hưởng lớn đến
đạo đức, tác phong làm việc của các thành viên trong tổ chức công. Vấn đề đạo đức

và trách nhiệm của người quản lý và các thành viên trong tổ chức là nhân tố tinh
thần, tác động. Văn hóa tổ chức là cách ứng xử, giao tiếp, cách phối hợp thực hiện
công việc giữa các thành viên trong tổ chức và giữa các nhân viên với công dân.
Phải làm sao để nhân viên trong tổ chức thấy rằng họ có cơ hội để làm việc tốt
8
nhất. Họ tin rằng ý tưởng của mình được tính đến, họ cảm thấy những đồng nghiệp
của họ có cam kết với chất lượng. Họ tạo ra một sự liên kết trực tiếp giữa công việc
của mình với sứ mệnh của tổ chức. Tạo được niềm tin giữa các thành viên trong tổ
chức với nhau và giữa khách hàng với tổ chức đặc biệt là coi trọng vấn đề đạo đức
công vụ, nhấn mạnh nền hành chính phục vụ nhân dân thì hiệu quả cũng như chất
lượng của tổ chức công cũng theo đó mà tăng lên.
- Thông tin: Thông tin về các văn bản hành chính, thông tin về các loại thủ
tục (các loại giấy tờ biểu mẫu, quy trình thực hiện, thời gian giải quyết, phí và lệ
phí…) khi được công khai sẽ tạo điều kiện cho người dân thụ hưởng tốt hơn dịch
vụ mà nhà nước cung cấp. Trong mọi tổ chức công, sự công khai thông tin là điều
quan trọng không thể thiếu.
- Mục tiêu tổ chức: Các mục tiêu được đề ra thích đáng và mức độ hoàn
thành công việc theo mục tiêu cao hay thấp. Có những trường hợp đề ra mục tiêu
quá cao trong khi tổ chức đó không có đủ điều kiện để thực hiện thì mức độ hoàn
thành công việc cũng không cao. Cho nên khi đề ra các mục tiêu cần chú ý tới điều
kiện hoàn cảnh ở trong tổ chức đó.
- Cơ cấu tổ chức: Việc sắp xếp bố trí nhân sự trong các tổ chức công có phù
hợp hay không cũng là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng. Nhân viên
làm việc trong các cơ quan tổ chức có được sắp xếp vào đúng vị trí, đúng ngành
nghề, phù hợp với năng lực mà họ có, có phát huy được năng lực làm việc hay
không cũng là vấn đề cần chú ý vì nó liên quan đến chất lượng, đến hiệu quả làm
việc trong các tổ chức công.
1.4.2. Các yếu tố bên ngoài:
- Môi trường chính trị;
- Hệ thống cơ sở pháp luật của nhà nước;

- Xu thế hoạt động của thế giới;
- Các yếu tố của môi trường tự nhiên;
- Các mối quan hệ của tổ chức;
- Các công dân tại nơi tổ chức hoạt động;
- Văn hóa hành chính của hệ thống công vụ;
- Tiến độ phát triển của khoa học kỹ thuật;
- Đời sống kinh tế văn hoá của đất nước.
2. Vai trò của văn hoá trong tổ chức công:
Văn hóa bao giờ cũng gắn liền với sự phát triển, là chìa khóa của sự phát
triển và tiến bộ xã hội.
- Đối với tổ chức công, phải xây dựng được văn hóa tổ chức công tiến bộ,
văn minh, hiện đại từ đó góp phần tạo nên nề nếp làm việc khoa học, có kỷ cương,
9
dân chủ. Tạo được tình đoàn kết và chống lại bệnh quan liêu, cửa quyền. Môi
trường văn hóa tổ chức công tốt đẹp sẽ tạo được niềm tin của CBCC với cơ quan,
với nhân dân góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công.
- Tính tự giác của CBCC trong công việc sẽ đưa tổ chức công này phát triển
vượt hơn lên so với tổ chức công khác.
- Văn hóa tổ chức công cũng có sự kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những
tính văn hóa từ bên trong và bên ngoài tổ chức công, từ quá khứ đến tương lai cho
nên trong một chừng mực nào đó sẽ giúp tổ chức công tạo nên những chuẩn mực,
phá tính cục bộ, sự đối lập có tính bản thể của các thành viên. Hướng các CBCC
đến một giá trị chung, tôn trọng những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực văn hóa
của tổ chức công. Đó chính là làm cho CBCC hoàn thiện mình.
- Mỗi kiểu văn hóa có vai trò khác nhau đối với tiến trình phát triển của tổ
chức công. Kiểu văn hóa quyền lực giúp tổ chức công có khả năng vận động nhanh,
tạo nên tính bền vững trong khi theo đuổi mục tiêu của mình. Kiểu văn hóa vai trò
giúp tổ chức công phát huy hết năng lực của CBCC, khuyến khích họ hăng say với
công việc từ đó nhanh chóng đạt được mục tiêu của tổ chức công. Xây dựng, đổi
mới, chấn chỉnh không ngừng hoàn thiện tổ chức công giúp tổ chức công phát

triển bền vững, nhanh chóng đạt hiệu quả cao. Thắng lợi của mỗi tổ chức công
không chỉ là mục tiêu kinh tế, chính trị hay xã hội mà trước hết và hơn hết đó là
văn hóa tổ chức công. Con người tác động đến việc hình thành văn hóa tổ chức
công thì đồng thời văn hóa tổ chức công với những giá trị bền vững của nó sẽ tác
động trở lại đối với việc hoàn thiện nhân cách, phẩm chất, năng lực của mỗi cá
nhân tồn tại trong nó.
Xây dựng văn hoá tổ chức công là xây dựng một nề nếp làm việc khoa học,
có kỷ cương và dân chủ. Nó đòi hỏi các nhà lãnh đạo, quản lý cũng như các thành
viên của tổ chức công phải quan tâm đến hiệu quả hoạt động chung của tổ chức
mình. Muốn như thế cán bộ, công chức phải tôn trọng kỷ luật tổ chức, phải chú ý
đến danh dự của tổ chức trong cư xử với một người, đoàn kết và hợp tác trên những
nguyên tắc chung, chống lại bệnh quan liêu, hách dịch, cơ hội, góp phần xây dựng,
đổi mới và hiện đại nền hành chính nhà nước.
10

×