Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Bình luận bài thơ Hạt gạo làng ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.63 KB, 4 trang )

Trần Đăng Khoa sinh ra và lớn lên tại một vùng quê thuộc tỉnh Hải
Dương, từ nhỏ ông đã được nhiều người cho là “thần đồng thơ trẻ” vì lúc Trần
Đăng Khoa đang học cấp 1 bằng sự hiểu biết đời sống nông thôn và nhờ tài
năng đặc biệt, Trần Đăng Khoa đã cho ra đời nhiều bài thơ, tập thơ hết sức sâu
sắc, rung động, giàu ý nghĩa nhưng lại rất trẻ con. Năm 1968, khi mới 10 tuổi,
tập thơ đầu tiên của ông Từ góc sân nhà em (tập thơ tiếp theo là Góc sân và
khoảng trời) được nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản. Có lẽ tác phẩm nhiều
người biết đến nhất của ông là bài thơ "Hạt gạo làng ta", sáng tác năm 1968,
được thi sĩ Xuân Diệu hiệu đính, sau được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc.
Hạt gạo làng ta
………………
Hạt vàng làng ta.
Mở đầu bài thơ tác giả cho ta thấy rất rõ những cảnh vật, hình ảnh rất
quen thuộc ở vùng quê, nông thôn nước ta.
" Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay…”
Ở lứa tuổi ấy mà biết nghĩ như thế là sâu sắc lắm. Từ một thực tế có tính khoa
học là cây lúa hút chất dinh dưỡng dưới bùn, đất ra hoa trổ bông, kết hạt ( như
ai cũng biết) thì nhà thơ bằng sự tinh tế của tâm hồn còn nghe được, cảm nhận
được " vị phù sa". " hương sen thơm" trong hạt gạo. Và hơn thế nữa có cả tình
người, lòng người ấp ủ.
Làm ra hạt gạo thật gian khổ biết chừng nào. Ca dao cổ có câu thấm thía:
" Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần."
Đó là cách phát biểu trực tiếp, có tính chất luân lí, hơi nghiêng về lí trí. Còn
trong bài thơ này, Trần Đăng Khoa đã nói thực tế hơn.


" Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy… "
Bão dập, nắng lửa, mưa dầm, thiên nhiên của đất nước Việt Nam đới khắc
nghiệt này đã đổ vào đầu bà con nông dân bao nhiêu nhọc nhằn (bán mặt cho
đất, bán lưng cho trời) để làm ra hạt gạo, mà cụ thể nhất là bà mẹ của mình:
Bốn câu thơ cuối của khổ thơ thứ hai có sức chứa lớn về nội dung, về hình thức
biểu hiện. Nghĩ bằng cách nghĩ của trẻ con, tác giả mới so sánh cái nước do mặt
trời hun nóng lên ở ruộng với nước nóng mà ta đun nấu lên; nước nóng đến mức
"chết cả cá cờ" thì phải là dưới con mắt và suy nghĩ của trẻ con mới nhìn thấy
được. Vì sao vậy? Cá cờ là loài cá còn gọi là cá thia lia, thân đuôi nhiều màu sắc
sặc sỡ, các cậu bé ở nông thôn mà bắt được là thường đem về nuôi ở chai, lọ
thủy tinh như ở thành phố người ta nuôi cá vàng.
Nước nóng chết cả cá, như chết mất con cá cờ thì quả là tiếc đứt ruột. Phải có
con mắt trẻ con, tâm lí trẻ con mới viết được hai câu thơ:
"Nước như ai nấu,
Chết cả cá cờ. "
" Cua ngoi lên bờ" không sống ở nông thôn không có thực tế ruộng đồng thì
không có câu thơ đó. Nóng quá, cua phải ngoi lên bờ, nhưng bất ngờ đến sửng
sốt:
" Cua ngoi lên bờ,
Mẹ em xuống cấy…"
Hai câu thơ, hai hình ảnh đối nghịch nhau gây một chấn động tình cảm mạnh
trong lòng người đọc. Có phải nói gì nhiều về những vất vả của người mẹ để

làm ra hạt gạo? Hai câu thơ đó đã nói lên quá nhiều.
Kể ra bài thơ dừng ở đây là được rồi, là đúng với lứa tuổi của người viết. Nhưng
trong thời điểm cả nước dồn sức đánh Mĩ, trẻ con cũng già đi trước tuổi. Các
em không được sống cái hồn nhiên cái tuổi bắt dế, nuôi chim của mình. Trần
Đăng Khoa cũng vậy mà còn hơn thế nữa. Vì thông minh hơn người, em tiếp
cận không khí chính trị, không khí xã hội một cách nhạy bén thể hiện trong các
câu thơ sau:
"Hạt gạo làng ta
Những năm bom Mĩ
Trút trên mái nhà
Những năm khẩu súng
Theo người đi xa
Những năm băng đạn
Vàng hơn lúa đồng
Bát cơm mùa gặt
Thơm hào giao thông…"
Băng đạn vàng như lúa đồng, có lẽ đó là ý thơ hay nhất trong cả bài và cũng là
câu thơ hay nhất trong tất cả những bài thơ viết về người nông dân miền Bắc
trong những năm đánh Mĩ. Câu thơ này hay về sự điển hình, hay về sự so sánh
độc đáo, mới lạ và chính xác. Phải sống trong những năm tháng ấy mới có sự
liên tưởng về bông lúa vàng trĩu hạt với những băng đạn vàng rực, cũng nặng
trĩu trong tay người đánh giặc.
"Bát cơm mùa gặt,
Thơm hào giao thông…."
Vừa nói lên được hoàn cảnh vừa nêu được khí thế đất nước ta lúc bấy giờ.
“Hạt gạo làng ta
Có công các bạn
Sớm nào chống hạn
Vục mẻ miệng gầu
Trưa nào bắt sâu

Lúa cao rát mặt
Chiều nào gánh phân
Quang trành quết đất.”
Ở khổ thơ này tác giả đã cho ta thấy để làm nên hạt gạo cũng có phần góp công
sức của các bạn “ sớm nào chống hạn”, “bắt sâu”, “gánh phân”. Như vậy để làm
ra một hạt gạo thì tốn rất nhiều công sức, nào là gieo hạt, nào là “bắt sâu”,
“gánh phân”, còn phải “chống hạn” trước thời tiết khắc nghiệt. Chính vì thế
người nông dân rất yêu quý hạt gạo. Xem hạt gạo là tài sản quý giá, thiêng liêng
nhất trong cuộc đời của họ.
“Hạt gạo làng ta.
Gửi ra tiền tuyến,
Gửi về phương xa.
Em vui em hát,
Hạt vàng làng ta…”
Giữa lúc miền bắc đang xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa cũng là lúc miền nam
đang chiến đấu quyết liệt chống đế quốc Mĩ xâm lược. Trong chiến tranh những
hạt gạo ở hậu phương rất cần thiết chuyển đến nơi tiền tuyến, làm lương thực
phục vụ cho chiến đấu. Những hạt gạo – hạt vàng đã góp phần tạo nên thắng lợi
to lớn trong công cuộc chiến đấu, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ở khổ thơ cuối
tác giả sử dụng điệp từ “Gửi” đã làm tăng thêm rất nhiều giá trị của hạt gạo,
cũng như tầm quan trọng của hạt gạo đối với tiền tuyến, tác giả đã xem hạt gạo
là hạt vàng. “Em vui em hát” thể hiện tình cảm, sự vui sướng, hãnh diện với hạt
vàng của làng ta. Hạt vàng đã gắn bó rất nhiều với cuộc sống của nhân dân ta,
hạt vàng đã tạo nên sức mạnh dân tộc góp phần tạo nên thắng lợi trong sự
nghiệp cách mạng, giải phóng dân tộc.
Bằng những nét chấm phá rất độc đáo, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã
vẻ ra trước mắt chúng ta những hình ảnh thấm đượm chất nông thôn, thấm
đượm tình cảm yêu thương giữa con người với con người ở vùng quê Việt Nam.
Qua bài thơ ta thấy tác giả vừa miêu tả hạt gạo nghìn đời, vừa nói đến hạt gạo
những năm đánh Mĩ: gian khổ và nghĩa tình. Tác giả biết chọn lọc những từ ngữ

có sức rung động, gợi cảm làm cho người đọc liên tưởng đến những hình ảnh
chiến đấu chống ngoại xâm anh hùng, kiên cường, bất khuất, một hậu phương
hùng mạnh sẵn sàng tiếp tế tiền tuyến.

×