Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

một số giải pháp xoá đói giảm nghèo cho các tỉnh miền núi phía bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.84 KB, 91 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Đối với những nước chậm phát triển, nghèo đói là một trong những
vấn đề nan giải, phức tạp có liên quan nhiều mặt kinh tế, chính trị, xã hội.
Đây là vấn đề bức thiết không chỉ của từng quốc gia mà của toàn thế giới.
Trong những năm thập kỷ gần đây bên cạnh các biện pháp để đạt được mục
tiêu tăng trưởng kinh tế, nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế đã tập trung
nghiên cứu cũng như có những chương trình hành động nhằm giảm tình
trạng nghèo đói.
Ở nước ta mặc dù trước đây và nhất là từ khi đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến tình trạng nghèo
đói thông qua chương trình, chính sách và giải pháp phát triển sản xuất
nhằm xoá đói giảm nghèo như chương trình hỗ trợ việc làm tăng thu nhập,
cải thiện vị trí xã hội cho người nghèo khổ… nhưng hiệu quả đạt được còn
thấp, còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết. Mặt khác, đói nghèo
tập trung chủ yếu vào vùng nông thôn (90% trong tổng dân cư nghèo đói).
Đặc biệt là các vùng miền núi đi lại khó khăn, trình độ dân trí thấp việc xoá
đói giảm nghèo lại càng khó khăn hơn. Vùng miền núi phía Bắc là vùng mà
có tỷ lệ nghèo đói cao, có 30 dân tộc thiểu số, chiếm 50% số dân tộc thiểu
số cả nước. Xuất phát từ tình hình trên em chọn đề tài: “ Một số giải pháp
xoá đói giảm nghèo cho các tỉnh miền núi phía Bắc đến năm 2005 ” làm đề
tài nghiên cứu cho luận vân tốt nghiệp.
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Dựa trên những vấn đề lý luận và phương pháp luận để xem xét đánh
giá vấn đề nghèo đói của vùng miền núi phía Bắc.
Phân tích và đánh giá thực trạng nghèo đói và nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này ở vùng núi phía Bắc. Từ đó đề xuất các biện pháp chủ yếu
nhằm giảm tỷ lệ nghèo đói.
1
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Nghiên cứu tình hình nghèo đói và xoá đói giảm nghèo hiện nay, từ đó
đưa ra các giải pháp xoá đói giảm nghèo. Phạm vi nghiên cứu: là những hộ


đói nghèo ở vùng miền núi phía Bắc.
Kết cấu luận văn tốt nghiệp gồm 3 chương:
CHƯƠNG I: Một số vấn đề lí luận chung về đói nghèo
CHƯƠNG II: Thực trạng xoá đói giảm nghèo của các tỉnh miền núi phía
Bắc
CHƯƠNG III: Một số giải pháp xoá đói giảm nghèo cho các tỉnh miền
núi phía Bắc đến năm 2005
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp lô gíc
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Phương pháp phân tích tổng hợp
2
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO
Đói nghèo là một hiện tượng kinh tế – xã hội mà chúng ta đang phải
đối mặt từ lâu ở mọi quốc gia, mọi giai đoạn lịch sử của mỗi quốc gia.
Nhưng do chúng ta chưa chú ý đến nó có thể bị che lấp bởi cái bóng của sự
tăng trưởng mạnh mẽ. Chỉ khi nào chúng ta quan tâm đến người cùng khổ
chúng ta mới giật mình nhận thấy tỷ lệ những người sống trong đói nghèo ở
quốc gia mình đang ở con số rất cao. Vấn đề đói nghèo và xoá đói nghèo đã
được nhiều nhà kinh tế cũng như nhiều nhà xã hội học quan tâm đến mà đi
đầu là trường phái kinh tế học cổ điển sau đó đã rất nhiều trường phái quan
tâm. Những lí thuyết này đã được vận dụng thành công vào trong thực tiễn
xoá đói giảm nghèo của mình.
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO.
Hiện nay đói nghèo vẫn là vấn đề nan giải ở nhiều nước nhất là các
nước đang phát triển- nơi mà tỷ lệ đói nghèo còn rất cao. Đôi khi có nhiều
đoàn đi khảo sát tình trạng đói nghèo ở các nước này, nhưng họ đã bỏ qua
nhiều vùng vì những lí do như: Đường giao thông khó khăn, kinh phí ít và

thế là những vùng này bị lãng quên trong đói ngèo. Đây cũng là tình trạng
phổ biến ở các nước đang phát triển. Như vậy thành tựu của tăng trưởng
kinh tế không những không “thấm” đến người nghèo mà nó còn làm tăng
thêm khoảng cách giàu nghèo. Vấn đề ở đây là tăng trưởng có đi liền với
công bằng xã hội hay không. Trong khi những vùng thành thị và những
vùng phát triển với đường sá thuận lợi ngày càng nhận được nhiều nguồn
vốn đầu tư từ nước ngoài, từ những thành tựu tăng trưởng thì những vùng
nông thôn vùng sâu vùng xa cơ sở hạ tầng thấp kém người dân ở đây ngày
càng rơi vào tình cảnh khốn cùng. Chúng ta không phủ nhận lí thuyết về các
3
giai đoạn phát triển nhưng chúng ta cũng không thể không lo ngại sự lớn
dần lên hố sâu ngăn cách giàu ngèo giữa các vùng, các quốc gia.
1. Một số khái niệm liên quan đến đói nghèo.
Trong đời sống thực tiễn cũng như trong nghiên cứu các vấn đề kinh tế
xã hội chúng ta thường thấy các khái niệm như “đói nghèo” hoặc “nghèo
khổ”, “giàu nghèo” và “phân hoá giàu nghèo”. Vậy “đói nghèo” là gì ?.
Trước hết trong nghiên cứu vấn đề đói nghèo có một khái niệm cần
được sáng tỏ đầu tiên đó là khái niệm về “nhu cầu tối thiểu”. Ở đây nhu cầu
tối thiểu được hiểu là những đảm bảo ở mức độ tối thiểu 3 nhu cầu thiết
yếu của cuộc sống con người gồm: ăn, mặc, ở và nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày gồm văn hoá, y tế, đi lại, giao tiếp.
Việc thoả mãn những nhu cầu tối thiểu trong đời sống sinh hoạt của
mỗi thành viên trong xã hội ở những mức độ khác nhau do mức thu nhập
của họ quyết định. Những người có mức thu nhập được xếp hạng cao trong
xã hội sẽ được thoả mãn đầy đủ mọi sinh hoạt xã hội của bản thân thì gọi là
những người giàu. Những người có mức thu nhập thấp, không đủ khả năng
đáp ứng nhu cầu tối thiểu của đời sống sinh hoạt xã hội thì gọi là những
người nghèo. Giữa giàu và nghèo có một khoảng cách chênh lệch về thu
nhập được gọi là “ranh giới giàu nghèo”.
Định nghĩa về đói nghèo có rất nhiều, như định nghĩa Robert Mc

Namara, Chủ tịch ngân hàng thế giới: nghèo khổ cùng cực là một điều kiện
sống bị hạn chế bởi suy dinh dưỡng, mù chữ, bệnh tật, ô nhiễm môi trường,
tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao và tuổi thọ thấp, còn tệ hại hơn với bất cứ định
nghĩa nào khả dĩ chấp nhận được về một cuộc sống bình dị nhất của con
người. Định nghĩa này vẫn luôn là lời mô tả đầy sức thuyết phục về thực
trạng cay đắng của cuộc sống mà một bộ phận dân số trên thế giới phải trải
qua. Hay còn có một định nghĩa nữa về đói nghèo của ESCAP trong các hội
nghị bàn về xoá đói giảm nghèo trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương ở
4
Băng Cốc tháng 9/1993: Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không
được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã
hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập
quán của từng địa phương. Như vậy đói nghèo là một khái niệm mang tính
chất tương đối nhưng ở mức độ như thế nào đi nữa nó cũng bao gồm 2 mức
độ đói và nghèo.Theo cách hiểu thông thường thì nghèo có nghĩa là túng
thiếu. Trên thế giới cũng có nhiều khái niệm về nghèo, nhưng phổ biến hơn
cả là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. “Nghèo khổ tuyệt đối” hay còn
gọi là nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng
thoả mản các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Còn nghèo tương
đối là tình trạng của một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của
cộng đồng tại địa phương.
Thông thường nghèo đói đi đôi với thiếu đói, được hiểu là tình trạng
của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu, chưa đủ khả năng
đảm bảo có lương thực cần thiết để tồn tại. Trong bộ phận này có những
người “đói gay gắt”- bộ phận thiếu thốn và cực khổ nhất và ta có định
nghĩa: “đói gay gắt là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức tối thiểu, đói ăn, chịu dứt bữa từ trên ba tháng trở lên”.
Cá nhân nghèo lại thường nằm trong các hộ nghèo (các gia đình
nghèo). Do đó để vấn đề nghiên cứu được sáng tỏ cần phải hiểu thế nào là
hộ và hộ nghèo. Hộ là tất cả những người cùng sống trong một mái nhà bao

gồm những người cùng chung huyết thống, cùng ăn chung và cùng có
chung ngân quỹ. Hộ nông dân là là một đơn vị cơ bản của xã hội có liên
quan tới sản xuất, tái sản xuất, tiêu dùng và các hoạt động kinh tế - xã hội
khác. Chức năng kinh tế của hộ như: sản xuất lương thực, thực phẩm, nghề
phụ được xem gắn liền với môi trường sản xuất. Trong một môi trường
sản xuất như nhau nhưng các hộ lại có những khả năng tổ chức thực hiện
những chức năng kinh tế khác nhau. Do đó sẽ làm ảnh hưởng tới thu nhập
5
của từng hộ. Từ đó ta có khái niệm hộ nghèo: “Hộ nghèo là những hộ có thu
nhập bình quân tính theo đầu người nằm dưới giới hạn nghèo đói. Giới hạn
nghèo đói được thể hiện ở mức thu nhập bình quân đầu người. Theo đánh
giá chung của nhiều nước, hộ có mức thu nhập bé hơn 1/3 mức trung bình
xã hội là hộ nghèo, tức là sống dưới mức 420USD/năm hay 35USD/tháng
theo quy định của ngân hàng thế giới.
2. Mối quan hệ tăng trưởng, nghèo đói và phân phối thu nhập.
Chúng ta có thể thấy rằng vấn đề nghèo đói thường xuất hiện do tình
trạng kém phát triển hoặc phát triển không cân đối, do chiến lược phát triển
không chú ý căn nguyên của nghèo đói mà tưởng lầm rằng với sự tăng
trưởng kinh tế nghèo đói sẽ giảm bớt. Vấn đề nghèo đói thường đi đôi với
thu nhập và phân phối thu nhập không công bằng. Do vậy vấn đề xoá đói
giảm nghèo liên quan mật thiết với tăng trưởng kinh tế và công bằng hay
phúc lợi xã hội mà người dân được hưởng.
2.1 Hệ quan điểm và các biện pháp phân phối thu nhập.
Phương pháp thông thường nhất để đánh giá ảnh hưởng của sự phát
triển đến phúc lợi là thông qua nghiên cứu về phân phối và thu nhập. Hai
kiểu phân phối thu nhập thường đựơc nhắc tới là phân phối theo chức năng
và phân phối theo mức độ. Phân phối theo chức năng có liên quan đến sự
phân chia giữa các nhân tố của sản xuất theo truyền thống là đất đai, lao
động và tư bản. Phân phối thu nhập theo mức độ có liên quan đến việc phân
chia thu nhập của tất cả các hạng người và gia đình, được chia thành từng

loại trên cơ sở mức độ thu nhập gia đình. Lựa chọn một trong những cách
phân phối trên đây mặc dù khá công bằng nhưng hiện tượng “kẻ được nhiều
người được ít” là không thể tránh khỏi. Để hiểu sự phân phối loại này người
ta thường sử dụng mô hình đường cong Loren (mô hình1). Đường cong
Loren chỉ ra tỷ lệ phần trăm của tổng thu nhập cộng dồn của người nhận.
6
Hình dạng của đường cong này chỉ ra mức độ bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập.
Mô hình 1: Đường cong Loren.
Đường cong Loren.


Trong trường hợp tổng quát, đường cong Loren sẽ nằm giữa đường 45
0

trục phần trăm cộng dồn người nhận. Sự bất bình đẳng càng tăng khi đường
này càng cách xa đường thẳng 45
0
(đường hoàn toàn bình đẳng).
2.2. Số đo về sự bất bình đẳng và nghèo khổ
Trong một thời gian dài các nhà thống kê đã quan tâm đến việc tìm ra
một số đo có thể biểu diễn cụ thể hơn mức độ bất bình đẳng trong phân phối
thu nhập. Các số đo thống kê thông thường như độ lệch chuẩn, điều đó có
những sai lệch đáng kể. Số đo thường được dùng nhất là hệ số Gini, được
tính toán trên cơ sở đường cong Lorenz. Nếu phần diện tích được giới hạn
bởi đường 45
0
và đường cong Lorenz được ký hiệu là A và phần còn lại của
tam giác vuông được giới hạn bởi đường cong Lorenz và hai đường vuông
góc được ký hiệu là B thì hệ số Gini được tính như sau:

7
% céng dån TN
% céng dån ®Çu ngêi
A B
Hệ số Gini = Diện tích (A)/ Diện tích (A+B)
Có thể thấy rằng, về mặt lý thuyết giá trị của hệ só Gini là từ 0 (hoàn
toàn bình đẳng) đến 1 (hoàn toàn bất bình đẳng). Về mặt thực tế giá trị của
hệ số Gini là trong khoảng từ 0 đến 1. Ngân hàng thế giới (WB) nhận thấy
rằng trong thực tế giá trị của hệ số Gini thay đổi trong phạm vi hẹp hơn từ
0,2 đến 0,6. Tuy hệ số Gini đã lượng hoá được mức độ bất bình đẳng về
phân phối thu nhập, nhưng các nhà kinh tế nhận thấy rằng hệ số Gini cũng
chỉ phản ánh được mặt tổng quát nhất của sự phân phối, trong một số
trường hợp chưa đánh giá được những vấn đề cụ thể.
2.3 Tăng trưởng làm giảm nghèo khó như thế nào?
Mô hình 2: Mô hình chữ U ngược của Kuznet.
Hệ số Gini
Thu nhập đầu người
Theo Kuznet, trong giai đoạn đầu, khi thu nhập đầu người chưa cao thì
hệ số bất bình đẳng vẫn còn thấp. Đến giai đoạn bắt đầu phát triển mức độ
bất bình đẳng ngày càng cao. Nhưng đến một mức thu nhập nào đó hệ số
này sẽ giảm đi. Hay nói một cách khác tăng trưởng đã ảnh hưởng tới hệ số
Gini hay tới sự giảm nghèo đói.
Nhưng muốn biết được tăng trưởng làm giảm nghèo đói như thế nào,
chúng ta cần phải biết ai được hưởng những thành tựu tăng trưởng đó.
Người giàu hay người nghèo? Muốn giải thích được điều này, lại cần tới
8
giải đáp về trình độ bình đẳng trong quốc gia về phân phối thu nhập. Có
những nền kinh tế tăng trưởng cao nhưng tỷ lệ nghèo đói vẫn cao (thậm chí
tăng cùng tốc độ tăng trưởng). Ở các nước kinh tế thị trường đang phát
triển, việc lập kế hoạch cho sự phát triển kinh tế bền vững từ những năm

1950 được chi phối bởi niềm tin rằng: sự tăng trưởng sẽ “thấm” dần đến
người nghèo và làm lợi cho mọi thành viên của xã hội. Theo đường lối này
người ta hy vọng người nghèo sẽ được lợi từ tăng trưởng kinh tế thông qua
mối quan hệ phân phối lại thu nhập trực tiếp. Song, ở phần lớn các nước
đang phát triển việc phân phối lại còn đang hạn chế, cho nên cách này
không hiệu quả mấy.
Tăng trưởng GDP vẫn là yếu tố chung cần thiết và quan trọng nhất cho
mọi chiến lược. Song điều này không có ý nghĩa là tăng trưởng kinh tế lúc
nào cũng có lợi cho người nghèo. Vấn đề giải quyết ở đây là các nước phải
lựa chọn con đường phát triển như thế nào để hạn chế mức thấp nhất tỷ lệ
nghèo đói. Muốn vậy phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và
phát triển hay nói cách khác giữa tổng thu nhập xã hội và công bằng trong
phân phối thu nhập đó. Đó cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng
nghèo đói của một bộ phận dân cư.
2.4 Nghèo đói làm chậm quá trình phát triển.
Chúng ta thấy rằng: phát triển kinh tế góp một phần quan trọng làm
giảm tỷ lệ đói nghèo. Đó là ảnh hưởng tích cực, đến lượt mình tình trạng
đói nghèo ảnh hưởng tới tăng trưởng và phát triển theo chiều hướng tiêu
cực. Nghèo đói đã gây nên những vấn đề như: tệ nạn xã hội, vấn đề ô nhiễm
môi trường mà đây là những yếu tố kìm hãm sự phát triển. Vấn đề ở đây
là các nước phải lựa chọn con đường phát triển như thế nào: hướng vào tăng
trưởng hay phát triển (trong đó có tăng phúc lợi cho người nghèo). Hiện nay
các nước trên thế giới thường lựa chọn con đường đi kết hợp cả tăng trưởng
và phát triển hay nói cách khác là tăng trưởng đi đôi với giảm đói nghèo.
9
3. Các quan điểm về đói nghèo trên thế giới.
3.1 Trường phái cổ điển.
Trong khoa học xã hội và nhân văn, các nhà kinh tế học là người đầu
tiên trong việc nghiên cứu vấn đề đói nghèo. Ngay từ đầu thế kỹ 21 đã có
những công trình nghiên cứu mang tính phụ trợ cho cuộc phân tích về phân

phối thu nhập. Lý thuyết nghèo đói có thể bắt nguồn từ những tư tưởng của
trường phái cổ điển, chủ yếu dựa vào luật điều hành phân phối các yếu tố
thu nhập. Theo cách tiếp này, quá trình phát triển được thông qua sự tăng
trưởng. Lý thuyết này dự đoán mức tăng bất bình đẳng và nghèo khổ trong
những giai đoạn đầu và giảm dần ở các giai đoạn phát triển sau.
3.2 Trường phái tân cổ điển.
Cơ sở cho lý thuyết về nghèo khổ cho trường phái này xuất phát từ lý
luận: giá trị của các yếu tố đầu vào (lao động và sản xuất) và sản phẩm đầu
ra đồng thời được xác định qua cạnh tranh và phụ thuộc vào mức độ khan
hiếm trên thị trường “hoàn hảo”. Khi đó thu nhập của hộ sẽ được đánh giá
qua các nguồn thu từ lao động và tài sản của hộ đó. Theo họ, thu nhập từ
lao động có tỷ lệ nhiều hơn so với thu nhập từ tài sản thì sự bất bình đẳng
về thu nhập và sự nghèo khổ giảm đi, còn thu nhập quốc gia sẽ tăng lên.
Luận điểm này rất có ý nghĩa trong các chính sách định hướng tăng trưởng
tạo ra sự phân phối thu nhập mang tính đồng đều hơn. Một ý đồ quan trọng
của trường phái này là nhằm giải thích mức độ chênh lệch giàu nghèo từ
“nguồn lực con người”. Họ cho rằng các cá nhân càng có thời gian đào tạo
lâu thì sẽ càng được nhiều bù đắp hàng năm dưới dạng thu nhập. Như vậy
phân hoá giàu nghèo là một tất yếu. Tuy nhiên họ đã bỏ qua sự khác biệt về
cơ hội giáo dục hay đào tạo và có thể giải quyết các vấn đề trên thông qua
việc tạo ra các cơ hội bình đẳng, mà việc học hành không những có tầm
quan trọng như sự đầu tư vào nguồn vốn mà còn là một quá trình tuyển
chọn. Mà điều đó lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: cơ cấu thị trường, tập
10
quán, địa vị xã hội và đặc biệt là thu nhập. Với người nghèo, thu nhập của
họ đã thấp, họ lấy đâu để có phần giành được những cơ hội này.
3.3. Quan điểm của Fields (1980):
Chúng ta đã được biết rằng bất bình đẳng về thu nhập và đói nghèo sẽ
tăng cao ở các giai đoạn đầu và giảm dần ở các giai đoạn sau. Theo Fields,
xu hướng gia tăng bất bình đẳng và nghèo khổ được giải thích bởi ba yếu tố

chủ yếu là sự tích luỹ được tập trung ở nhóm người có thu nhập cao, tăng
phần thu nhập từ khu vực phi nông nghiệp do thu nhập từ nông nghiệp
tương đối đồng đều và mở rộng hơn những chênh lệch ngân sách trong công
nghiệp và các ngành phi nông nghiệp do áp dụng các công nghệ mới. Việc
giảm mức độ nghèo khổ và bất bình đẳng ở các giai đoạn sau là do vai trò
của các biện pháp chính trị, pháp luật nhằm hạn chế tích luỹ tài sản và
chuyển thu nhập cho nhóm người ở bậc thang thấp hơn trong xã hội.
3.4. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:
Ngay từ những năm 50 của thế kỉ XIX, Cac Mac và Ph-Angghen, khi
bắt đầu lập học thuyết của mình, họ đã viết những tác phẩm nổi tiếng
nghiên cứu về tình trạng nghèo khổ của giai cấp tư sản và những người lao
động dưới ách thống trị của chủ nghĩa tư bản trong tác phẩm như “Bản thảo
kinh tế – triết học” năm 1844 của Mac, “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”
năm 1845 của Ph-Angghen, “Tư bản” của C.Mac và Ph-Angghen. Ở đó họ
đã mô tả thực cảnh nghèo đói của giai cấp vô sản phải bán sức lao động
trong các xưởng chợ của nông dân bị cưỡng đoạt ruộng đất, mất hết tư liệu
sản xuất phải chạy ra các đô thị, bổ sung vào đội quân thất nghiệp. Trái
ngược với thực trạng đó, là sự giàu có tột độ của thiểu số người thuộc giai
cấp tư sản. Theo họ nguồn gốc sâu xa của tình trạng nghèo đói trên là ở chỗ
chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ở chế độ áp bức bóc lột
và tình trạng nô dịch con người. Do đó muốn xoá bỏ cảnh đói nghèo phải
xoá bỏ chế độ tư hữu bóc lột ấy.
11
Tiếp tục những giải thích trên, sau Cách mạng Tháng 10 năm 1917
trong bước chuyển từ “chính sách cộng sản thời chiến” sang chính sách
“kinh tế mới” V.I. Lenin là người chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá,
dùng lợi ích vật chất như là một nhân tố kích thích, một đòn bẩy kinh tế để
khuyến khích mọi người lao động, giải phóng sản xuất, phát triển kinh tế.
Đó là một trong những biện pháp để xoá bỏ căn bản tình trạng đói nghèo,
nhất là khu vực nông thôn, miền núi trong công cuộc xây dựng xã hội mới.

Tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mac-Lenin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
xây dựng nên lí luận về cách mạng giải phóng dân tộc chống thực dân.
Ngay từ những ngày đầu của cách mạng Người đã đặc biệt chăm lo đến đời
sống của nhân dân. Người coi dốt, đói cũng là giặc. Chính vì thế Người đã
sớm phát động cuộc thi đua ái quốc, kêu gọi toàn dân đem sức tăng gia sản
xuất, thực hành tiết kiệm, nhường cơm sẻ áo cho nhau, quyên góp gạo để
cứu đói. Ngay từ thời gian này Người đã coi tư tưởng sâu sắc về xoá đói
giảm nghèo, phải từng bước phấn đấu cho đất nước phú cường, nhà nhà
phồn thịnh.
II. TIÊU CHUẨN, ĐẶC ĐIỂM VÀ NGUYÊN NHÂN ĐÓI NGHÈO Ở
VIỆT NAM:
1. Tiêu chuẩn nghèo đói của Việt Nam
1.1. Tiêu chuẩn đói nghèo do ngân hàng thế giới xác định cho Việt
Nam:
Ngân hàng thế giới đã xác định những tiêu chuẩn về đói nghèo cho
Việt nam gồm 2 giới hạn: giới hạn đói nghèo về mức năng lượng tiêu thụ
một ngày và thu nhập bình quân hàng năm. Theo tiêu chuẩn tổ chức này
giới hạn đói nghèo là 2200 kcalo/người/ngày là một giới hạn chuẩn và cho
rằng đó là khối lượng calo cần thiết cho hoạt động hàng ngày và cho sức
khoẻ lâu dài. Trên cơ sở mức bình quân gia quyền theo dân số của các giới
hạn riêng cho mỗi vùng. Ngân hàng thế giới đã xác định giới hạn đói nghèo
trung bình quốc gia là 1.090.000 đồng/người/năm ở Việt nam. Tính trung
12
bình giới hạn đói nghèo nằm ở mức cao đối với khu vực thành thị:
1.293.000 đồng/người/năm so với 1.040.000 đồng/người/năm ở khu vực
nông thôn. Với giới hạn đói nghèo này khoảng 51% dân số Việt nam được
xếp vào diện đói nghèo. (Việt Nam nghèo đói và chiến lược, Ngân hàng thế
giới, tháng 1-1995)
1.2. Tiêu chuẩn đói nghèo do Bộ LĐTBXH công bố:
Bộ Lao động Thương binh và xã hội là cơ quan thuộc Chính phủ được

nhà nước giao trách nhiệm nghiên cứu và công bố chuẩn mực đói nghèo của
cả nước qua từng thời kì.
Trước đây theo thông báo số 1751/LĐTBXH ngày 20 tháng 5 năm
1997 của Bộ Lao động Thương binh và xã hội đưa ra như sau:
- Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân một người trong hộ một
tháng quy ra gạo dưới 13 kg tương đương 45 nghìn đồng (tính chung cho
mọi vùng).
- Hộ nghèo: là những hộ có mức thu nhập bình quân quy ra gạo:
+ Vùng nông thôn, miền núi, hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng (tương
đương 55 nghìn đồng).
+ Vùng nông thôn đồng bằng, trrung du: dưới 20 kg/người/tháng
(tương đương 70 nghìn đồng).
+ Vùng thành thị dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90 nghìn
đồng).
Chuẩn mức đói nghèo này là mức tối thiểu (xét trên phạm vi cả nước),
tuỳ thuộc vào điều kiện của từng địa phương có thể đưa chuẩn mức đói
nghèo cao hơn quy định trên nhưng phải đáp ứng điều kiện của thông báo
số1751/LĐTBXH đó là:
+ Thu nhập bình quân đầu người cao hơn thu nhập trung bình của cả
nước.
13
+ Có tỷ lệ hộ đói nghèo thấp hơn tỷ lệ đói nghèo trung bình của cả
nước.
+ Tự cân đối được ngân sách và tự giải quyết được các chính sách đói
nghèo theo chuẩn mực nâng lên.
Theo chuẩn mực đói nghèo này, đến hết năm 1998 cả nước còn
khoảng 2,5 triệu hộ (khoảng 12,5 triệu người), đói nghèo chiếm tỷ lệ 15,7%
trong đó có 300.000 hộ thường xuyên thiếu đói. Đến năm 2000 thì tỷ lệ đói
nghèo giảm xuống còn 11,4%.
- Xã nghèo là xã bao gồm các đặc trưng sau:

+ Tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm trên 40% số hộ trong xã.
+ Thiếu các cơ sở hạ tầng, đường giao thông, trạm điện, trường tiểu
học, trạm y tế, nước sạch sinh hoạt.
Nay có sự thay đổi chuẩn mực đói nghèo của Việt nam vào cuối năm
2000, thông qua quyết định số 1143/2000 QĐ-LĐTBXH. Quy định chuẩn
mực đói nghèo như sau:
- Hộ nghèo:
+ Vùng nông thôn miền núi hải đảo: 80.000 đồng/tháng.
+ Vùng nông thôn đông bằng 100.000 đồng/tháng.
+ Vùng thành thị 150.000 đồng/tháng.
- Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên theo tiêu chuẩn
nghèo và chưa đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu. Theo tiêu chuẩn mới này năm
2000 cả nước còn 1,5 triệu hộ nghèo khoảng 7,5 triệu người, chiếm tỷ lệ
17% trong đó hộ thường xuyên thiếu đói chiếm gần 11% tổng số hộ trong
cả nước. Về cơ sở hạ tầng đã có trên 90% xã có đường ô tô đến trung tâm
xã, 80% xã có đủ trường lớp học bậc tiểu học, 98% xã có trạm y tế, 80% có
14
hệ thống công trình thuỷ lợi, 50% số hộ được sử dụng nước sạch, 85% xã
có nguồn điện sinh hoạt đến trung tâm xã, 70% xã có chợ.
Mục tiêu nước ta đến năm 2005: giảm tỷ lệ hộ đói nghèo xuống dưới
10%, trung bình mỗi năm giảm 1,5-2% khoảng 28-30 vạn hộ/năm, không
để đói kinh niên. Xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã nghèo như
thuỷ lợi nhỏ, trường học, trạm y tế, đường dân sinh, điện nước sinh hoạt,
chợ Hàng năm tạo việc làm cho 1,4-1,5 triệu lao động giảm tỷ lệ sử dụng
thời gian lao động nông thôn lên 80%.
Để đạt được điều đó, cần có mục tiêu cụ thể: trang bị kiến thức, nâng
cao dân trí cho các hộ đói nghèo để họ áp dụng thiết bị kĩ thuật trong sản
xuất kinh doanh, nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi, tăng thu nhập, đồng
thời bảo vệ môi trường sinh thái.
2. Đặc điểm của các hộ nghèo ở Việt nam:

2.1. Nghề nghiệp, tình trạng việc làm và trình độ học vấn:
2.1.1. Người nghèo chủ yếu là những người nông dân:
Trong giai đoạn 1993 đến năm 1998 đã có sự thay đổi dần dần về tỷ lệ
dân cư tính theo nhóm nghề nghiệp. Tỷ trọng những hộ có chủ hộ làm việc
trong các ngành nông nghiệp, chế tạo và xây dựng đã giảm đi chút ít và tỷ
trọng các hộ có chủ hộ làm việc trong các căn phòng hay dịch vụ bán hàng
tăng lên không đáng kể. Mức nghèo ở Việt nam giảm chủ yếu do tỷ lệ
người nghèo trong tong nhóm nghề nghiệp giảm đi chứ không phải do có sự
chuyển dịch trong cơ cấu nghề nghiệp.
Bảng 1: Tình trạng nghề nghiệp và việc làm của người nghèo năm 1998
Đặc điểm
Tỷ lệ nghèo % Tỷ lệ trong
tổng số người
nghèo (%)
Tỷ lệ trong
tổng số dân số
%
Nghề nghiệp chính:
15
-Nông nghiệp
-Chế tạo
-Dịch vụ bán hàng
-Nhân viên văn phòng
-Nghề khác
-Nghỉ hưu
-Những người khác không làm
việc
48
26
13

10
6
26
30
79
9
3
2
0
4
3
61
13
9
7
1
6
4
Tổng cộng 37 100 100
Nguồn: VLSS 98, Tổng cục thống kê (1999)
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy đói nghèo là một hiện tượng mang tính
đặc thù của nông thôn, các tính toán về tỷ lệ nghèo theo nghề nghiệp và theo
loại chủ lao động cũng chỉ ra rằng những người sống ở dưới ngưỡng nghèo
thường là thành viên của hộ có chủ hộ là nông thôn tự do. Trong năm 1998 gần
80% người nghèo làm việc trong nông nghiệp và là những người lao động tự
do.
Khả năng có được một dạng thu nhập ổ định nào đó từ công ăn việc
làm hay từ các khoản chuyển nhượng của phúc lợi xã hội được xem là một
chỉ tiêu vô cùng quan trọng để đánh giá mức sống của các hộ. Phần lớn các
hộ nghèo được phỏng vấn đều có lao động chính trong gia đình làm việc

trong các khu vực không chính thức và do vậy các hộ này sống dựa vào
những khoản thu nhập rất bất thường.
2.1.2. Người nghèo thường có trình độ học vấn thấp, thiếu kĩ năng làm việc
và thông tin:
Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên và gần 90% số
nghèo là những người chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn.
16
Những người thậm chí còn chưa hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học
có tỷ lệ nghèo cao nhất 57%. Ngược lại rất hiếm có trường hợp đã tốt
nghiệp đại học lại thuộc diện đói nghèo (chỉ chiếm 4%).
Bảng 2: Trình độ học vấn của người nghèo.
Đặc điểm Tỷ lệ nghèo % Tỷ lệ tính trong tỷ
số người nghèo %
Tỷ lệ trong tổng
dân số %
Không đi học
Tiểu học
Phổ thông cơ sở
Phổ thông trung học
Dạy nghề
Đại học
57
42
38
25
19
4
12
39
37

8
3
1
8
35
36
12
6
3
Tổng cộng 37 100 100
Nguồn: VLSS 98, Tổng cục thống kê 1999
Bản thân các hộ nghèo cũng hiểu được rằng trình độ học vấn là chìa
khoá quan trọng để thoát khỏi đói nghèo. Tuy nhiên các nghiên cứu đó cũng
chỉ ra rằng những vấn đề lớn lên quan đến việc tiếp thu các kĩ năng, các
kiến thức chung và ứng dụng vào việc có được xếp vào các nhóm khá giả
hơn nếu những người trưởng thành trong gia đình có trình độ học vấn nhất
định và hoặc trẻ em trong gia đình được đi học.
2.2. Đặc điểm về nhân khẩu học:
2.2.1. Các hộ nghèo thường có nhiều trẻ em:
Các hộ có nhiều trẻ em thường được các hộ khác coi là nghèo. Những
hộ này không chỉ có ít lao động hơn so với số miệng ăn trong gia đình mà
còn phải trả các chi phí khám chữa bệnh gây bất ổn định cho kinh tế gia
đình. Qua bảng số liệu cho thấy tỷ lệ trẻ em trên mỗi người lao động cao
nhất đối với nhóm hộ chi tiêu nghèo nhất và tỷ lệ này giảm dần khi mức chi
tiêu bình quân đầu người tăng lên.
17
Bảng 3: Số trẻ em dưới 15 tuổi theo hộ gia đình (%)
Nhóm chi tiêu
I
(nghèo nhất)

II III IV V
(giàu nhất)
Việt Nam 2,8 2,2 1,7 1,4 1,2
Nông thôn 2,8 2,2 1,8 1,4 1,3
Thành thị 2,7 2,9 1,6 1,3 1,1
Nguồn: Ngân hàng thế giới ước tính dựa trên số liệu của VLSS 98
Tuy nhiên có thể các số liệu này đã đánh giá quá mức tác động của
quy mô gia đình đối với tình trạng đói nghèo. Bởi khi xét mức chi tiêu bình
quân đầu người chúng ta đã giả định rằng nhu cầu của các thành viên gia
đình là như nhau và không tính đến những khác biệt trong nhu cầu tiêu
dùng của trẻ nhỏ và thiếu niên, cũng như chưa xem xét đến tính kinh tế theo
quy mô trong tiêu dùng ở những hộ đông. Tuy một phần của vấn đề đói
nghèo đối với những hộ có trẻ em chỉ đơn thuần là vấn đề chu kì sống
nhưng chúng ta vẫn còn quan tâm đến khả năng dễ bị tổn thương của các hộ
này khi chi phí về y tế, giáo dục tăng lên. Các hộ nghèo thường con thôi học
trong những lúc gia đình gặp khó khăn hoặc lâm vào khủng hoảng và điều
này không có gì đáng ngạc nhiên. Ba phần tư số hộ trong nhóm hộ nghèo
nhất thường không có đủ khả năng chi trả để có được 2100 đơn vị calo/ngày
và bất cứ khoản chi tiêu nào để mua sắm các mặt hàng khác không phải
lương thực thực phẩm đòi hỏi phải giảm dinh dưỡng của gia đình.
2.2.2. Các hộ mới tách ra khỏi gia đình bố mẹ và trở thành hộ mới, trong
giai đoạn đầu thường trải qua đói nghèo do thiếu đất:
Cũng giống như các hộ có nhiều trẻ em, đói nghèo trong trường hợp
này phần nào là vấn đề của chu kỳ cuộc sống gia đình và sẽ giảm dần theo
thời gian khi các hộ bắt đầu có thu nhập dư thừa, mua sắm thêm tài sản, tạo
lập cách kiếm sống ổ định và có thu nhập khá hơn.
18
Tuy nhiên khả năng phát triển kinh tế gia đình một cách ổ định của các
hộ mới lập này đang ngày càng bị bó hẹp vì họ chỉ được phân cho những
mảnh đất nhỏ hơn với chất lượng thấp hơn.

2.2.3. Những hộ mất đi một thành viên gia đình đã trưởng thành thì đặc
biệt dễ bị tổn thương:
Những hộ bị mất đi lao động trưởng thành do bị chết, bỏ gia đình hoặc
tách ra khỏi hộ thường được cộng đồng xếp vào những nhóm hộ đói nghèo
nhất.
2.3. Khả năng có được các nguồn lực:
2.3.1. Tình trạng thiếu đất ngày càng gia tăng và các hộ nghèo thường có ít
đất hơn:
Các hộ nghèo coi diện tích đất và chất lượng đất là yếu tố quan trọng
quyết định đến mức sống. Các hộ khác thường xem các hộ nông thôn nghèo
là những hộ có đất đai ít hoặc chất lượng kém nên không đáp ứng được nhu
cầu tiêu dùng của những hộ này.
Ví dụ: ở Lào Cai các hộ nghèo có thể có đủ đất đai song đất này
thường nằm quá cách xa, dẫn đến việc đồng áng đòi hỏi phải có nhiều lao
động hơn số lao động hiện có trong hộ. Cơ cấu đất đai của hộ thường khác
nhau tuỳ theo từng thôn tuy nhiên hộ nghèo thường có tỷ lệ phần đất ỏ
Trung du đồi lớn hơn so với đất trồng được lúa và đất được chia cũng
thường dốc hơn và nằm ở xa hơn.
Bảng 4: Phần trăm các hộ ở nông thôn không có đất chia hoặc đất
nương rẫy (%)
Vùng 1993 1998
S

đất trung bình năm 1998
Miền núi phía Bắc
Đồng bằng sông Hồng
Bắc Trung Bộ
2,0
3,2
3,8

3,7
4,5
7,7
8890
6491
5001
19
Duyên hải miền Trung
Tây nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
10,7
3,9
21,3
16,9
5,1
2,6
28,7
21,3
5180
13746
13712
10650
Cả nước 8,2 10,1 8148
Nguồn: Ngân hàng thế giới ước tính dựa trên số liệu của VLSS 98
2.3.2. Các hộ nghèo thường bị rơi vào vòng nợ nần luẩn quẩn:
Các hộ nghèo thường rơi vào tình trạng nợ nần do phải đi vay để trang
trải các khoản chi tiêu khẩn cấp như chi phí cho y tế, hoặc phải đi vay để
đầu tư vào một vụ kinh doanh bị thất bại.
2.4. Nguy cơ dễ bị tổn thương và sự cô lập:

2.4.1. Người nghèo đặc biệt là trẻ em nghèo cảm thấy rất dễ bị tổn thương:
Nguy cơ dễ bị tổn thương bởi những khó khăn theo thời vụ bởi đột
biến xảy ra với hộ gia đình và những cuộc khủng hoảng xảy ra với cộng
đồng là một khía cạnh quan trọng của đói nghèo. Những hộ nghèo ít vốn
hoặc ít đất đai (hoặc cả hai) và những hộ chỉ có khả năng trang trải được
các chi tiêu lương thực và phi lương thực thiết yếu khác đều rất dễ bị tổn
thương trước mọi biến cố khiến họ phải bỏ thêm chi phí hoặc bị giảm thu
nhập. Thông thường một thành viên của gia đình ốm vẫn được xem như là
một biến cố nghiêm trọng nhất làm đảo lộn sinh hoạt của gia đình và phải
hằng năm sau các hộ mới có thể phục hồi lại được. Các hộ nghèo nhất phải
dành khoảng 30% chi tiêu phi lương thực cho chi phí y tế. Một vụ mùa thất
bát hoặc một khoản đầu tư không thành công cũng có thể gây ra sự căng
thẳng về mặt kinh tế cho các hộ gia đình.
Tình trạng không an toàn không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế. Do
thiếu thông tin về các quy hoạch phát triển đô thị và giải phóng mặt bằng
nên nhiều hộ không thể biết được thời gian họ còn được phép sống trên khu
20
vực cư trú hiện tại. Các đường dây cáp điện treo thấp cũng là nguy cơ đe
doạ an toàn thể chất và vật chất và có thể gây ra hoả hoạn.
Tệ nạn ma tuý ngày càng gia tăng cũng là nỗi lo lắng của các hộ gia
đình phần nhiều là bởi nó kéo theo sự gia tăng các loại hình tội phạm khác.
Có lẽ những trẻ em nghèo đặc biệt là trẻ em ở thành phố, đang phải sống
trong cảm giác không an toàn.
2.4.2. Các hộ nghèo có cảm giác bị cô lập về xã hội:
Qua phân tích phản ứng và cách thức chống chọi của các hộ nghèo
trong những thời điểm khó khăn của các hộ nghèo chúng ta thấy rằng các
mạng lưới hỗ trợ phi chính thức có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các
hộ nghèo. Ở các làng, vùng sâu, vùng xa, vùng cao mức độ quan hệ xã hội
khác nhau và được đặc trưng bởi các quan hệ hỗ trợ tương hỗ. Do các làng
này khá tương đồng về các điều kiện kinh tế-xã hội nên các hộ luôn luôn

sẵn sàng tình nguyện giúp đỡ người khác khi có khả năng vì trong tương lai
có thể họ cũng phải cần đến sự giúp đỡ tương tự. Điều này có thể bù được
phần nào những bất lợi của cuộc sống ở vùng sâu, vùng xa. Ở những địa
bàn thuộc trung du và đồng bằng tuy vẫn có những hỗ trợ khẩn cấp song
thông thường là bằng tiền và thường tốn kém hơn. Ở các làng bản vùng
trung du và đồng bằng các mối quan hệ xã hội xuất hiện được xem như là
một yếu tố quyết định mức sống của các hộ gia đình. Các hộ có quan hệ xã
hội tốt, gần gũi với chức lãnh đạo địa phương thường có vị thế tốt để tiếp
cận với các chương trình và dịch vụ hỗ trợ của Chính phủ. Một số nhóm hộ
nghèo đã cho biết họ có cảm giác bị cách biệt về xã hội với thế giới rộng
lớn bên ngoài và với các tổ chức đại diện cho họ và phục vụ họ. Một số lý
do bị cô lập liên quan đến dân tộc: Những khác biệt về ngôn ngữ và văn hoá
cùng những khó khăn lớn về khả năng tiếp cận về địa lí làm những người
dân tộc ít người có quan hệ giao lưu rất hạn chế với thế giới bên ngoàI và
hầu như không có điều kiện tiếp xúc với những sáng kiến hay, những thông
21
tin mới. Ngoài ra việc bị cô lập cũng chứa đựng trong nó yếu tố về giới.
Công việc của phụ nữ bận rộn vất vả hơn nhiều so với nam giới và do đó họ
ít có cơ hội tiếp xúc với xã hội, học hỏi và tham dự các cuộc họp của làng.
Điều nay làm tăng thêm sự chênh lệch. Ở Việt Nam người đàn ông thường
đóng vai trò là người đại diện cho gia đình trong các cuộc họp của làng và
các công việc xã hội. Và bản thân các hộ nghèo cũng luôn cảm thấy xa lạ
trước những quyết định có liên quan đến họ.
2.4.3. Các hộ nghèo nằm ở vị trí địa lí cách biệt và bên lề xã hội:
Các số liệu thu thập được từ bảng câu hỏi xã trong điều tra mức sống
dân cư cho thấy hầu hết dân sống ở các làng xã có điều kiện đi lại được. Chỉ
có 4% sống ở các làng bản xa đường giao thông (hơn 5 km) hoặc có đường
giao thông nhưng việc đi lại khó khăn (không đi lại trong vòng 3 tháng hoặc
hơn trong 1 năm) và không có đường thuỷ thay thế. Tuy nhiên trong số 4%,
tỷ lệ người nghèo nhiều gấp hơn 2 lần so với nhóm người còn lại.

Mặc dù các làng nhìn chung đều có mạng lưới đường bộ và đường
thuỷ song việc được sử dụng các dịch vụ giao thông lại là một vấn đề phức
tạp. Hơn 12% người dân sống trong các làng không có điều kiện sử dụng
giao thông cơ giới (kể cả giao thông công cộng và xe cộ thuê ngoài). Giữa
mức sống và khả năng được sử dụng các dịch vụ giao thông vận tải chỉ ra
rằng có quan hệ tỷ lệ nghịch rõ rệt: số những người không được sử dụng các
dịch vụ giao thông vận tải thuộc nhóm hộ nghèo nhất nhiều gấp 5 lần so với
những hộ thuộc nhóm giàu nhất. Ở các làng không có giao thông cơ giới, tỷ
lệ người nghèo nhiều gấp 1,5 lần so với làng có hệ thống giao thông. Như
vậy những kết qủa điều tra này cho thấy cần tập trung vào việc cung cấp các
dịch vụ giao thông vận tải và điều này quan trọng hơn so với việc xây dựng
cơ sở hạ tầng ở các vùng nghèo.
B ng 5: T l ng i không có i u ki n s d ng giao thông c gi i phânả ỷ ệ ườ đề ệ ử ụ ơ ớ
theo nhóm chi tiêu.
22
Nhóm chi tiêu Tổng
Số
I
nghèo nhất
II III IV V
giàu nhất
Tỷ lệ người không được
sử dụng giao thông cơ
giới công cộng hoặc tư
nhân %
37,5 21,3 19,1 14,5 7,5 100
3. Nguyên nhân đói nghèo:
3.1 Nguyên nhân nghèo đói ở Việt Nam.
Nguyên nhân đói nghèo là sự đan xen, thâm nhập vào nhau của tất cả các
yếu tố ngẫu nhiên và tất nhiên, cả cái cơ bản và tức thời, cả nguyên nhân sâu

xa lẫn nguyên nhân trực tiếp cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, tự
nhiên lẫn kinh tế xã hội. Quy tụ lại gồm có 4 nhóm nguyên nhân chủ yếu sau:
Nhóm 1: Nhóm nguyên nhân khách quan, tức là nhóm nguyên nhân do
điều kiện tự nhiên xã hội. Những nguyên nhân khách quan về mặt tự nhiên
như: đất đai canh tác ít, đất đai cằn cỗi, ít màu mỡ, khó canh tác, năng suất
cây trồng vật nuôi đều thấp, thời tiết khí hậu không thuận lợi cho sản xuất,
xa xôi hẻo lánh địa hình phức tạp, giao thông khó khăn (như ở các tỉnh
vùng núi phía Bắc, Tây nguyên và khu bốn cũ). Mỗi năm Việt nam phải
chịu đựng 10 cơn bão lụt thiệt hại rất lớn về người và của, năm 1996 tổng
số thiệt hại lên đến 8.000 tỷ đồng, năm 1998 thiệt hại lên tới 1.500 tỷ đồng.
Bên cạnh đó còn có khách quan về mặt xã hội như sự quan tâm của xã hội
đối với người nghèo, hậu quả chiến tranh để lại
Nhóm 2: Nhóm nguyên nhân chủ quan, đây là nguyên nhân do bản
thân con người lao động chủ yếu là: thiếu hoặc không có vốn, thiếu kiến
thức kinh nghiệm làm ăn, đông con, thiếu lao động, rủi ro, ốm đau.
23
Nhóm 3: Nhóm nguyên nhân do thiếu thị trường. Đối với người nghèo
tất cả mọi biện pháp cứu trợ có giá trị nhất thời không thể làm thay đổi hoàn
cảnh đói nghèo kinh niên. Điều quan trọng để tự họ vượt lên qua đói nghèo
là đẩy mạnh sản xuất, tăng thu nhập. Muốn vậy phải có thị trường cung cấp
vật tư nông nghiệp, nguyên vật liệu cũng như thị trường tiêu thụ nông sản.
Nhóm 4: Nhóm nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách thiếu hoặc
không đồng bộ về chính sách đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực
khó khăn, chính sách khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách
làm ăn, khuyến nông lâm ngư, chính sách trong giáo dục đào tạo y tế giải
quyết đất đai định canh định cư, kinh tế mới và nguồn đầu tư còn hạn chế.
3.2. Nguyên nhân nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Vùng miền núi phía Bắc có những nguyên nhân đặc trưng sau:
Thứ nhất đó là do địa hình bị chia cắt và phần đa là dốc, nguồn nước
thiếu trong mùa khô. Mặc dù vùng miền núi phía Bắc chiếm diện tích 1/3 cả

nước nhưng chủ yếu là đồi núi, đất nông nghiệp ít: bình quân trên người
bằng 1182 m
2
(so với bình quân toàn quốc bằng 96,2%).
Thứ hai do lịch sử để lại đến nay tài nguyên môi trường sống bị huỷ
hoại nghiêm trọng, hệ thống cơ sở hạ tầng còn kém phát triển, đặc biệt là
giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Nên sự tiêu thụ sản phẩm khó.
Thứ ba là trình độ dân trí và kĩ thuật sản xuất của một bộ phận đáng
kể dân cư còn hạn chế ảnh hưởng tới năng suất và hiệu quả lao động đặc
biệt là vùng cao vùng xa.
4. Xu hướng đói nghèo ở Việt Nam.
Cho dù được tính toán đo đạc như thế nào thì tỷ lệ nghèo ở Việt nam
đã giảm đi trong thời gian qua. Kết quả đó được thể hiện về mặt định lượng
bằng chi tiêu tính trên đầu người cao hơn, những chỉ tiêu xã hội được cải
thiện và ngay cả bản thân hộ nghèo cũng cảm nhận rằng cuộc sống nói
chung đã trở nên khá hơn trong những năm gần đây.
24
Bảng 6: Tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam qua các năm %
Năm 1998 1999 2000 2001
15,7 13,33 11,4 16
(chuẩn mới)
Bảng 7: Thu nhập bình quân một người một tháng của hộ tăng lên
Đơn vị tính: nghìn ngđồ
1996 1999
*Cả nước
Thành thị
Nông thôn
*Đồng bằng sông Hồng
*Đông Bắc và Tây Bắc
*Bắc Trung Bộ

*Duyên hải Nam Trung Bộ
*Tây nguyên
*Đông Nam Bộ
*Đồng bằng sông Cửu Long
226,7
509,4
187,9
223,3
173,8
174,1
194,7
265,6
378,1
242,3
295
832,5
225
280,3
210
212,4
252,8
344,7
527,8
342,1
Nguồn: Tư liệu kinh tế xã hội
Bảng 8: Chi đời sống bình quân một người một tháng của hộ
Đơn vị tính: nghìn ngđồ
1996 1999
25

×