Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tổng hợp câu hỏi và đáp án ôn tập môn Kinh tế chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.3 KB, 25 trang )

1
Câu 1 : Phân tích các chức năng và phương pháp khoa học của Kinh tế chính trị
Mác-Lênin. Lý giải tại sao C.Mác đã không tính tới công quản lý của nhà tư bản khi phân
tích bản chất của phương thức sản xuất TBCN ?
Bài Làm
Kinh tế chính trị học là một bộ môn khoa học nghiên cứu các quy luật sản xuất xã hội và
phân phối của cải vật chất trong các giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội loài người. Trong
quá trình hình thành và phát triển, KTCT học đã có nhiều trường phái khác nhau. Trong phương
thức sản xuất TBCN xuất hiện các trường phái KTCT học tư sản cổ điển, KTCT học tư sản cận
đại, KTCT học tư sản hiện đại. Các trào lưu này đều bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản.
Phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và tiếp thu có phê phán những yếu tố
khoa học trong kinh tế chính trị học tư sản cổ điển, Mác và Anghen đã xây dựng nên kinh tế
chính trị học vô sản thực sự khoa học, được Lênin phát triển trong điều kiện lịch sử mới trở
thành KTCT học Mác-Lenin, là một bộ phận hợp thành quan trọng nhất của lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, là vũ khí tư tưởng cho phong trào cộng sản và phong trào công nhân quốc tế trong
thời đại ngày nay.
Kinh tế chính trị học Mác-Lênin giúp ta có được phương pháp luận đúng, một mặt để làm
cơ sở cho các môn kinh tế khác, mặt khác nhờ phương pháp luận đúng để có thể nhận thức được
bản chất của các hiện tượng của các quá trình kinh tế và từ đó tìm ra các quy luật kinh tế, bao
gồm các quy luật kinh tế chung là các quy luật có ở mọi nền kinh tế và các quy luật đặc thù ở
từng hình thức sản xuất của nền kinh tế, quy luật riêng có trong từng phương thức sản xuất.
Trong phạm vi lớn, chức năng thực tiễn của kinh tế chính trị học Mác-Lênin góp phần
quan trọng để hình thành mô hình, đường lối chiến lược kinh tế. Từ đó làm cơ sở cho các chính
sách kinh tế ở từng thời kỳ phát triển của các quốc gia. Trong phạm vi nhỏ là phạm vi doanh
nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh. Mục đích trực tiếp của các doanh nghiệp là hiệu quả
kinh tế, hay là lợi nhuận. Do vậy, các doanh nghiệp không thể sử dụng một cách trực tiếp của
các nguyên lý của kinh tế chính trị học Mác-Lênin vào trong quá trình kinh doanh để có được
hiệu quả cao, lợi nhuận nhiều, nhưng nó có thể giúp cho doanh nghiệp thích nghi được với các
quy luật kinh tế, nhờ đó mà phát triển bền vững hơn.
Vậy Kinh tế chính trị học Mac – Lê nin có những chức năng gì đối với đời sống xã hội
trong những giai đoạn phát triển nhất định ?


- Chức năng nhận thức : Nhận thức là chức năng chung của mọi khoa học, là lý do xuất
hiện của các khoa học trong đó có kinh tế chính trị. Một môn khoa học nào đó còn cần thiết là vì
còn có những vấn đề cần phải nhận thức, khám phá. Kinh tế chính trị học nghiên cứu, giải thích
các hiện tượng và quá trình kinh tế theo bản chất của các hiện tượng, các quá trình kinh tế của
đời sống xã hội để từ đó phát hiện ra các quy luật kinh tế : quy luật chung, quy luật đặc thù và
những quy luật riêng chi phối sự vận động của chúng, giúp con người vận dụng các quy luật đó
một cách có ý thức vào hoạt động thực tiễn nhằm đạt hiệu quả kinh tế, xã hội cao.
- Chức năng thực tiễn : Cũng giống nhiều môn khoa học khác, chức năng nhận thức của
kinh tế chính trị không có mục đích tự thân, không phải nhận thức để nhận thức, mà nhận thức
để phục vụ cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Đó là chức năng thực tiễn của kinh tế chính trị.
Thực tiễn vừa là nơi xuất phát vừa là nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn của lý luận kinh tế.
Căn cứ để đánh giá tính đúng đắn của lý luận kinh tế là ở sự phát triển của nền sản xuất xã hội,
tính hiệu quả của hoạt động kinh tế.
Nếu phân theo phạm vi, KTCT cũng có những chức năng khác nhau. Với phạm vi
toàn bộ nền kinh tế quốc dân, KTCT góp phần quan trọng vào hoạch định đường lối,
chiến lược KT cho các quốc gia ở từng thời ký phát triển. Với phạm vi doanh nghiệp,
KTCT góp phần tạo hành lang cho DN KD có được hiệu quả bền vững hơn.
- Chức năng phương pháp luận : Kinh tế chính trị là nền tảng lý luận cho một tổ hợp các
khoa học kinh tế. Những kết luận của kinh tế chính trị rút ra mang tính bản chất, quy luật sẽ là
2
cơ sở lý luận cho các khoa học kinh tế cụ thể hơn: những môn KTCT cơ sở và chuyên ngành
(như kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, giao thông ) không những thế nó còn cần
thiết cho các môn KHXH khác (như địa lý kinh tế, dân số học, lịch sử kinh tế quốc dân, lý
thuyết về quản lý một cách trực tiếp hay gián tiếp .
- Chức năng tư tưởng : KTCT học rất gần với nhà nước. Mỗi nhà nước có bản chất
XH không giống nhau và ngay ở một quốc gia do một nhà nước thống trị cũng có những
giai đoạn khác nhau. Đó là cơ sở để góp phần hình thành đường lối chiến lược KT nên
KTCT thể hiện rõ chức năng tư tưởng trong mối quan hệ hai chiều với nhà nước.
Là môn khoa học xã hội, kinh tế chính trị có chức năng tư tưởng. Trong các xã hội có
giai cấp, chức năng tư tưởng của kinh tế chính trị thể hiện ở chỗ các quan điểm lý luận của nó

xuất phát từ lợi ích và bảo vệ lợi ích của những giai cấp hoặc tầng lớp xã hội nhất định. Các lý
luận kinh tế chính trị của giai cấp tư sản đều phục vụ cho việc củng cố sự thống trị của giai cấp
tư sản, biện hộ cho sự bóc lột của giai cấp tư sản.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin là cơ sở khoa học cho sự hình thành thế giới quan, nhân
sinh quan và niềm tin sâu sắc vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
nhằm xoá bỏ áp bức bóc lột giai cấp và dân tộc, xây dựng thành công xã hội mới - xã hội chủ
nghĩa.
Kinh tế chính trị học Mác-Lênin giúp ta có được phương pháp luận đúng, một mặt để
làm cơ sở cho các môn kinh tế khác, mặt khác nhờ phương pháp luận đúng để có thể nhận thức
được bản chất của các hiện tượng của các quá trình kinh tế và từ đó tìm ra các quy luật kinh tế,
bao gồm các quy luật kinh tế chung là các quy luật có ở mọi nền kinh tế và các quy luật đặc thù
ở từng hình thức sản xuất của nền kinh tế, quy luật riêng có trong từng phương thức sản xuất.
Để nghiên cứu kinh tế chính trị học Mác-Lênin phải có phương pháp khoa học.
Kinh tế chính trị học có nhiều phương pháp, tựu chung lại có thể phân thành 02 loại
phương pháp sau:
a. Những phương pháp khoa học chung: là phương pháp mà mọi môn KH đều phải dung
tới, tuy nhiên cần nhấn mạnh đến 03 phương pháp sau:
Thứ nhất, phương pháp trừu tượng hóa. Trong kinh tế chính trị cũng như trong các khoa
học xã hội nói chung, phương pháp trừu tượng hóa có ý nghĩa nhận thức lớn lao, dng để loại bớt
những quan hệ, yếu tố không bản chất để tiếp cận được với những quan hệ, yếu tố bản chất hơn.
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng để nâng từ nhận thức kinh nghiệm
lên thành nhận thức khoa học, từ trực quan sinh động lên tư duy trừu tượng. Để sử dụng phương
pháp này, người ta thường tìm các biện pháp để loại bỏ những yếu tố, những quan hệ không bản
chất để tập trung vào những yếu tố và quan hệ bản chất hơn của các sự vật và hiện tượng, hình
thành các phạm trù, quy luật, rồi sau đó vạch rõ mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng. Trong
khoa học tự nhiên, để phát hiện các quy luật, để chứng minh các giả thiết, có thể thực hiện trong
phòng thí nghiệm. Nhưng trong kinh tế chính trị, để chứng minh cho một tư tưởng kinh tế chỉ có
thể thông qua cuộc sống thực tế với tất cả mối quan hệ xã hội hiện thực.
Vì không hiểu đúng phương pháp trừu tượng hóa khoa học nên có ý kiến cho rằng: Các
học thuyết kinh tế của Mác thiếu tính thực tiễn do sử dụng nhiều giả định khi phân tích. Thực ra,

khi vận dụng một cách đúng đắn thì trừu tượng hóa là sức mạnh của tư duy khoa học, không làm
cho tư duy xa rời hiện thực mà giúp hiểu rõ hiện thực ở cấp độ bản chất, hiểu quy luật vận động
của hiện thực, điều mà nhận thức cảm tính không bao giờ có thể đạt được. Ví dụ để phát hiện
bản chất của chủ nghĩa tư bản có thể và cần phải trừu tượng hóa, không tính đến sản xuất hàng
hóa nhỏ của những thợ thủ công và nông dân các thể, mặc dù nó vẫn tồn tại ở mức độ nhiều hay
ít trong mỗi nước tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, không được bỏ qua quan hệ hàng hóa-tiền tệ,
nhất là không được bỏ qua việc chuyển sức lao động thành hàng hóa vì không có quan hệ hàng
hóa- tiền tệ và không có hàng hóa sức lao động thì cũng không tồn tại chủ nghĩa tư bản. Chính
vì vậy mà có ý kiến cho rằng: “Do Mác đưa ra các giả thiết khi nghiên cứu đã làm cho các kết
luận xa rời thực tế cuộc sống khiến chúng không còn mang tính khoa học” là ý kiến sai và đã
được giải thích ở trên.
3
Thứ hai, phương pháp logic kết hợp lịch sử trong nghiên cứu. Quan hệ logic đó là quan
hệ tất nhiên, nó nhất định xảy ra khi có những tiền đề cho quan hệ đó. Lịch sử đó là những hiện
thực của logic ở một đối tượng cụ thể, trong một không gian và thời gian xác định. Sự thống
nhất giữa logic và lịch sử là xuất phát từ quan niệm cho rằng xã hội ở bất cứ nấc thang phát triển
nào cũng đều là một cơ thể hoàn chỉnh, trong đó mỗi yếu tố đều nằm trong mối liên hệ qua lại
nhất định. Lịch sử là một quá trình phức tạp và nhiều vẽ, trong đó chứa đựng những ngẫu nhiên,
những sự phát triển quanh co. Tuy nhiên sự vận động của lịch sử là một quá trình phát triển có
tính quy luật. Phương pháp lịch sử đòi hỏi phải nghiên cứu các hiện tượng và quá trình kinh tế
qua các giai đoạn phát sinh, phát triển và tiêu vong của chúng trong một không gian và thời gian
xác định. Phương pháp logíc lại đòi hỏi phải tìm ra cái chung cho mỗi sự phát triển đó. Quan hệ
logíc là quan hệ có tính tất nhiên, nhất định xảy ra khi có tiền đề. Việc nghiên cứu lịch sử sẽ
giúp cho việc tìm ra logíc nội tại của đối tượng và sự nhận thức về cơ cấu nội tại của xã hội lại
làm cho nhận thức về lịch sử trở nên khoa học. Điều này thể hiện rõ trong công trình nghiên cứu
của Mác về chủ nghĩa tư bản.
Như đã biết tư bản thương nghiệp tồn tại từ lâu trước chủ nghĩa tư bản. Nhưng khi
nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, Mác không bắt đầu từ tư bản thương nghiệp, sở dĩ như thế là vì đối
tượng nghiên cứu của Mác là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà trong lịch sử chủ nghĩa
tư bản ra đời bằng hai cách: Một là, người sản xuất hàng hóa nhỏ vươn lên thành nhà tư bản, hai

là người thương nhân lúc đầu chỉ đón lấy sản phẩm thừa của người sản xuất nhỏ, dần dần nắm
lấy sản xuất đầu tư xây dựng xí nghiệp để đưa nhiều hàng hóa ra thị trường. Trong hai cách trên
nhà tư bản đề đảm nhận cả sản xuất và lưu thông. Sau này sự lớn lên của qui mô kinh doanh mới
dẫn đến sự phân công xã hội xuất hiện loại nhà tư bản chuyên trách khâu lưu thông, tức là nhà
tư bản thương nghiệp. Chính vì vậy khi phân tích lôgíc, Mác đã giả định rằng tư bản công
nghiệp là một thể thống nhất đảm nhiệm cả khâu lưu thông, dịch vụ tiền tệ, thanh toán. Rồi sau
mới phân tích sự ra đời của tư bản thương nghiệp, tư bản cho vay và tín dụng ngân hàng. Đây
chính là biểu hiện của sự kết hợp chặt chẽ lôgíc và lịch sử.
Thứ ba, phương pháp thống nhất: về nguyn tắc phải thống nhất các khái niệm và phạm
trù kinh tế vì chng l cc yếu tố của mọi kết luận khoa học v nguyn lý khoa học. Khái niệm và
phạm trù là cơ sở để hình thành các nguyên lý khoa học, chúng phải được hình thành và sử dụng
một cách thống nhất, nhờ đó mà mang tính phổ biến.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như thống kê, phân tích, tổng hợp, đồ thị, sơ đồ,
toán học… để thực hiện nghiên cứu KT.
b. Những phương pháp riêng của kinh tế chính trị học Mác-Lênin bao goàm: đó là những
phương pháp triết học Mac-Lênin như:
- Phương pháp cơ bản của KTCT Mac - Lênin là phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử. Phương pháp này đòi hỏi phải có quan điểm khách quan, trung thực, xem xét sự
vật một cách toàn diện, mang tính hệ thống, trong sự vận động và phát triển, có quan điểm lịch
sử cụ thể. Xem xét hiện tượng và quá trình kinh tế trong mối liên hệ chung và sự tác động lẫn
nhau trong trạng thái phát triển không ngừng, trong đó, sự tích lũy những biến đổi về lượng sẽ
dẫn đến những thay đổi về chất.
Phương pháp duy vật biện chứng coi nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập. Đây là phương pháp chính mà C.Mác đã sử dụng trong tác phẩm Tư
bản khi phân tích sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất TBCN, vận dụng phương pháp
duy vật biện chứng để phân tích: "Con người không thể tự ý lựa chọn QHSX nói chung và quan
hệ sở hữu nói riêng một cách chủ quan duy ý chí. Kiểu quan hệ SX - QHSH này hay kiểu QHSX
- QHSH khác tùy cuộc vào tính chất và trình độ của LLSX xã hội". Bất cứ một sự cải biến nào
về mặt QHSH đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những LLSX mới. LLSX quyết định
QHSX, khi trình độ và tính chất của LLSX phát triển, biến đổi thì sớm hay muộn QHSX cũng

phát triển, biến đổi theo cho phù hợp. Tuy nhiên, QHSX không hoàn toàn thụ động, mà có tác
động trở lại LLSX, QHSX thúc đẩy LLSX phát triển khi nó phù hợp với tính chất và trình độ
4
LLSX. Trái lại, QHSX trở nên kìm hãm, trói buộc LLSX khi nó lỗi thời hoặc vượt trước không
phù hợp với tính chất, trình độ LLSX.
Sự nhận thức khoa học các quá trình xã hội của kinh tế học chính trị Mac - Lênin đòi hỏi
phải dựa vào phương pháp logic thống nhất với lịch sử. Quan hệ logic là tất nhiên, nhất định xảy
ra khi có những tiền đề cho quan hệ đó. Lịch sử là những hiện thực của logic ở một đối tượng cụ
thể, trong không gian và thời gian xác định. Sự thống nhất giữa logic và lịch sử xuất phát từ
quan điểm cho rằng xã hội ở bất kỳ nấc thang nào cũng đều là một cơ thể hoàn chỉnh, trong đó
mọi yếu tố đều nằm trong mối liên hệ qua lại. Lịch sử là một quá trình phức tạp, nhiều vẽ, trong
đó chứa đựng những ngẫu nhiên, những sự phát triển quanh co. Tuy nhiên, sự vận động của lịch
sử là một quá trình phát triển có tính quy luật. Phương pháp lịch sử đòi hỏi phải nghiên cứu hiện
tượng và quá trình kinh tế qua các giai đoạn phát sinh, phát triển và tiêu vong của chúng trong
một không gian, thời gian xác định. Phương pháp logic lại đòi hỏi phải tìm ra cái chung cho mỗi
sự phát triển đó. Việc nghiên cứu lịch sử sẽ giúp cho việc tìm ra logic nội tại của đối tượng và
sự nhận thức về cơ cấu nội tại của xã hội làm cho nhận thức về lịch sử trở nên khoa học. Điều
này thể hiện rõ trong công trình nghiên cứu của Mac về CNTB.
Tóm lại, để nghiên cứu kinh tế chính trị học Mác-Lênin cần có phương pháp khoa học,
tổng hợp nhiều phương pháp, trong đó phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là
trọng tâm, kết hợp với các phương pháp khác.
* Có ý kiến cho rằng “Các Mác đã không công bằng khi không tính tới công quản lý của
nhà TB, khi phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong PTSX TBCN”. Ý kiến đó là
không đúng thực chất bởi vì khi phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong PTSX TBCN,
C.Mác sử dụng PP trừu tượng hóa khoa học. Việc bác bỏ không tính công quản lý của nhà TB là
để nhằm mục đích tập trung vào việc nghiên cứu làm rõ vấn đề lao động công nhân có bị bóc lột
hay không trong PTSX TBCN, cũng như làm rõ quan hệ giữa giai cấp tư sản và GCCN. Mục
đích của PTSX TBCN là sản xuất ra giá trị thặng dư, nhưng để tạo ra được giá trị thặng dư nhà
TB phải tìm ra trên thị trường một loại hàng hóa đặc biệt, mà khi tiêu dùng giá trị sử dụng của
nó không mất đi mà được bảo tồn và chuyển sang giá trị sản phẩm hàng hóa mới với một lượng

lớn hơn bản thân nó đó là hàng hóa sức lao động. Với việc loại bỏ công lao động của nhà quản
lý TB và phân chia TB thành TB bất biến và TB khả biến, Mác đã vạch rõ nguồn gốc của giá trị
thặng dư là do lao động làm thuê của công nhân lao động làm ra và sản phẩm do công nhân làm
ra thuộc sở hữu của nhà TB nên giá trị tăng thêm của sản phẩm do sức lao động của công nhân
làm ra bị nhà TB chiếm đoạt. Như vậy, khi nghiên cứu nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư trong
PTSX TBCN chủ yếu để làm rõ bản chất bóc lột của nhà TB và quan hệ giữa nhà TB với giai
cấp công nhân, vai trò quản lý của nhà TB đóng vai trò thứ yếu và không cần đề cập đến.
Câu 2 : Trình bày khái niệm, phân tích và cho ví dụ về vai trò của tư liệu sản xuất trong
nền kinh tế xã hội. Quy luật ưu tiên sản xuất tư liệu sản xuất trong tái sản xuất xã hội, liên
hệ về vận dụng quy luật đó trong nền kinh tế VN.
* Sự phát triển của XH loài người gắn liền với quá trình SX vật chất , mà trong đó bất kỳ
nền sản xuất xã hội nào, kể cả nền sản xuất hiện đại, đều bao gồm ba yếu tố cơ bản là: sức lao
động của con người, tư liệu lao động và đối tượng lao động.
- Sức lao động: là tổng hợp thể lực và trí lực của con người, là điều kiện cơ bản của sản
xuất ơ bất kỳ xã hội nào. Nói cách khác, sức lao động là những năng lực của con người để hình
thành khả năng lao động sản xuất tạo ra những của cải vật chất và tinh thần cho đời sống xã hội.
Khi sức lao động hoạt động thì trở thành lao động. Lao động là hoạt động riêng của loài người,
nó khác về cơ bản với hoạt động bản năng của động vật … Năng lực gồm hai loại:
Thứ nhất là thể lực, đó là năng lực để duy trì lao động có tính thể lực của con người, nó
bao gồm thể chất và khí chất. Trong đó thể chất là năng lực nội sinh của con người đảm bảo
năng lượng cần thiết cho người trong quá trình lao động, thường được biểu hiện ra bằng tình
5
trạng sức khỏe của mỗi người. Khí chất là năng lực về mặt tâm lý để hình thành cá tính của mỗi
người trong hoạt động.
Thứ hai là trí lực, đó là năng lực sáng tạo của con người, là cơ sở cho hoạt động trí tuệ,
thường bao gồm những kinh nghiệm, những tri thức đã được tích lũy cùng với khả năng vận
dụng những kinh nghiệm và tri thức đó trong quá trình hoạt động.
Yếu tố thể lực không thể thiếu đối với sức lao động, nhưng là yếu tố có giới hạn cả về
mặt tự nhiên cũng như mặt xã hội. Năng lực sáng tạo của con người khác với yếu tố sản xuất
vật chất khác ở chỗ nó không mất dần đi trong quá trình sử dụng mà chỉ mất đàn đi khi không

được sử dụng. Càng sử dụng lại càng có năng lực cao hơn. Không những thế, chính năng lực
sáng tạo của con người mới làm cho quá trình lao động của con người khác với những hoạt động
có tính bản năng của thế giới sinh vật.
- Đối tượng lao động: là những vật mà lao động của con người tác động vào nhằm cải
biến chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Đối tượng lao động gồm có: Loại có sẵn trong tự
nhiên mà lao động của con người chỉ cần tách nó khỏi môi trường tồn tại của nó là có thể sử
dụng được, như gỗ trong rừng nguyên thủy, cá ngoài biển, than ở mỏ… Loại đã có sự tác động
của lao động gọi là nguyên liệu, như thép thỏi trong nhà máy cơ khí, gỗ ở xưởng mộc … Với sự
phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, con người ngày càng tạo ra nhiều đối tượng lao
động có chất lượng mới.
- Tư liệu lao động: là toàn bộ là những vật mà con người dùng để tác động vào đối tượng
lao động, để truyền dẫn lao động của mình tới đối tượng lao động làm biến đổi chúng theo yêu
cầu của mình. Tư liệu lao động gồm: Công cụ lao động là bộ phận quan trọng nhất của tư liệu
lao động, nó tác động trực tiếp với đối tượng lao động, quyết định trực tiếp năng suất lao động.
Trình độ công cụ lao động là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. Hệ thống
các yếu tố vật chất phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất như băng chuyền, ống dẫn, cần trục,
bể chứa… Những yếu tố vật chất khác không tham gia trực tiếp quá trình sản xuất, nhưng có tác
dụng quan trọng đến toàn bộ nền sản xuất xã hội, như đường sá, các phương tiện giao thông vận
tải, thông tin liên lạc, … gọi chung là kết cấu hạ tầng của sản xuất xã hội. Nên sản xuất càng
hiện đại, càng đòi hỏi kết cấu hạ tầng sản xuất phát triển và hoàn thiện.
Tư liệu lao động và đối tượng lao động là các yếu tố vật chất của quá trình sản xuất;
chúng hợp thành tư liệu sản xuất. Quá trình lao động là quá trình kết hợp và tác động của các
yếu tố sản xuất nói trên, tức là sự kết hợp của sức lao động và tư liệu sản xuất.
Tư liệu sản xuất là đối tượng chiếm hữu quan trọng nhất, nếu ai là người chiếm hữu
những tư liệu sản xuất thì người đó là người chủ của quá trình kinh tế và nền kinh tế.
Đối tượng lao động có thể là những yếu tố vật chất, phi vật chất; có thể do con người tạo
ra hoặc tự nhiên tạo ra và một yếu tố nào đó có thể là đối tượng lao động của nhiều ngành sản
xuất khác nhau.
Trong tư liệu lao động, hệ thống máy móc công cụ được xác định có vai trò quan trọng
nhất, nó được phân biệt các thời đại kinh tế với nhau, theo thời gian chúng sẽ ngày càng hiện

đại, nhờ đó mà quá trình lao động của con người ngày càng gián tiếp hơn và năng suất lao động
ngày càng cao hơn. Nhưng dù đạt tới trình độ hiện đại như thế nào, lao động bao giờ cũng là lao
động của con người, con người sử dụng máy móc chứ không phải máy móc sử dụng con người.
Sự phát triển của nền sản xuất XH gắn liền với sự phát triển của hoàn thiện của các yếu
tố sản xuất. Quá trình chuyển biến nền sản xuất nhỏ, lạc hậu sang nền sản xuất lớn, hiện đại đòi
hỏi phát triển đồng bộ cả ba yếu tố sản xuất của mục tiêu cuối cùng là trang bị công nghệ hiện
đại, tiên tiến trong các lĩnh vực của nền sản xuất XH.
Trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, sức lao động luôn luôn là yếu tố cơ bản,
có tính chất quyết định. Tuy nhiên, bản thân sức lao động có sự biến đổi căn bản về chất lượng
phù hợp với trình độ của tư liệu sản xuất. Nếu trong nền sản xuất thủ công, trình độ sức lao động
6
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và sức cơ bắp thì trong nền sản xuất hiện đại, trình độ sức lao
động dựa vào trí tuệ, tri thức và “chất xám” nói chung. Trong nền sản xuất hiện đại, kho tàng trí
tuệ trở thành tài nguyên quý giá nhất của mỗi dân tộc. Do đó, giáo dục và đào tạo được nhiều
quốc gia coi là quốc sách; ở nước ta, vấn đề này được đặt vào quốc sách hàng đầu. Đại hội Đảng
lần thứ IX của Đảng ta chủ trương: “phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực
con người-yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.” (văn kiện
Đại hội IX, trang 108).
* Quy luật ưu tiên SX TLSX
- Tái SX là quá trình SX được lặp đi lặp lại và biến đổi không ngừng với các chu kỳ nhất
định
- Theo quy mô, có thể phân chia thành TSX giãn đơn, TSX mở rộng. Trong đó: TSX
giãn đơn với quy mô không thay đổi, các yếu tố của quá trình SX không đổi, chưa có sản phẩm
thặng dư, nếu có thì rất ít được cá nhân tiêu dùng hết, đặc trưng của nền SX nhỏ. TSX mở rộng
là quá trình TSX với quy mô ngày càng lớn so với chu kỳ trước, các yếu tố SX tăng lên về số
lượng và chất lượng. Nguồn gốc của TSXx mở rộng là sản phẩm thặng dư. TSX mở rộng là đặc
trưng của nền SX lớn, hiện đại.
- Theo phạm vi: tái SX diễn ra trong từng xí nghiệp gọi là tái SX cá biệt. Tổng thể tái SX
cá biệt trong mối lien hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau trong nền KT gọi là tái sản xuất XH.

Tuy nhiên, ở bất kỳ giai đoạn nào, XH nào, TSX cũng bao gồm các nội dung sau:
+ TSX SLĐ là nhân tố chủ yếu và đầu tiên. SLĐ là yếu tố cơ bản của quá trình SX và
trong quá trình SX đó bị hao mòn, do đó, phải được TSX để thực hiện quá trình SX tiếp theo.
TSX SLĐ còn bao hàm việc đào tạo, đổi mới hệ thống LĐ cũ bằng hệ thống LĐ mới có chất
lượng cao hơn với trình độ mới của TLSX.
+ TSX CCVC bao gồm TSX tiêu dùng và TLSX, cũng là nhân tố khách quan trong quá
trình SX, không thể thiếu trong SXXH. Vật phẩm tiêu dùng dùng để tái tạo SLĐ, còn TLSX để
tiếp tục quá trình SX phát triển. Do đó, phải thường xuyên TSX TLSX. Hơn nữa, nhu cầu về đời
sống và SX thường xuyên tăng lên, CCVC cần được TSX mở rộng, làm tăng số lượng và cải
tiến chất lượng. TSX CCVC biểu hiện ở mức tăng tổng sản phẩm XH, thu nhập quốc dân.
Chỉ tiêu để đánh giá KQ tái SX của cải VC là sự biến đổi của tổng SP XH- là toàn bộ sản
phẩm do lao động của các ngành SX-VC của một nước SX ra trong một thời gian nhất định,
thường là 01 năm, được đo bằng chỉ tiêu hiện vật hoặc chỉ tiêu giá trị (bằng tiển)
Về mặt giá trị: Tổng sản phẩm XH = C + V + M
Trong đó: C là giá trị của toàn bộ TLSX mà XH tiêu dung, V+M là giá trị XH mới được
tạo ra-là TN quốc dân của XH; trong đó V đi vào tiêu dùng cá nhân của người lao động, M giá
trị sản phẩm thặng dư.
Nếu loại bỏ phần hao phí lao động XH đã kết tinh trong các SP trung gian thì tổng
SPXH sẽ tương đồng với Tổng SP Quốc nội-GDP
+ TSX QHSX là quá trình phát triển, củng cố, hoàn thiện quan hệ giữa người với người
về QHSH, quản lý, phân phối làm cho QHSX luôn thay đổi phù hợp với sự phát triển của
LLSX.
+ TSX môi trường tự nhiên là quá trình cải tạo các điều kiện tự nhiên của quá trình SX:
khôi phục độ màu mỡ của đất đai, trồng rừng, tái tạo nguồn tài nguyên, làm trong sạch nguồn
không khí và nước…
Quy luật ưu tiên SX-TLSX trong tái SX XH:
7
Tiền đề chung của các quá trình SX fải được giữ tính cân đối giữa các yếu tố SX theo
những tỷ lệ nhất định. Vi fạm tính cân đối tất yếu ảnh hưởng đến quá trình SX bằng cách fân
chia nền SX XH thành 2 khu vực: KV1: SX TLSX; KV2: SX TL tiêu dùng.

-Trong TSX giản đơn:
+ Gtrị SX ra ở kv1 fải bằg TLSX đã tiêu dùg hết ở kv2. Cầu về TLSX ở kv2 bằng cung ở
kv1. I(V+m) = II(C)
+ Toàn bộ sphẩm ở kv1 bằg tống gtrị TLSX đã hao mòn cả 2 kv. Tổng cung TLSX =
tổng cầu TLSX ở 2 kv. I(C+V+m) = I(C) + II(C)
+ Toàn bộ gtrị sphẩm ở kv2 = tổng sphẩm mới tạo ra ở cả 2 kv. Tổng cung về TL tiêu
dùg XH = tổng cầu về TL tiêu dùg cả 2 kv. I (C+V+m) = I (v+m) + II(v+m)
- Trong TSX mở rộng:
+ Gtrị SX ra ở kv1 fải lớn hơn TLSX đã tiêu dùng hết ở kv2. Cầu về TLSX ở kv2 lớn
hơn cung ở kv1. I(V+m) > II(C)
+ Toàn bộ sphẩm ở kv1 lớn hơn tống gtrị TLSX đã hao mòn cả 2 kv. I(C+V+m) > I(C )
+ II( C).
+ Toàn bộ gtrị sphẩm ở kv2 > tổng sphẩm mới tạo ra ở cả 2 kv.
I (C+V+m) >I (v+m) + II(v+m).
Như vậy, quá trình TSX mở rộng ở kv SX TLSX sẽ quyết định quá trình tích lũy ở kv
SX TL tiêu dùg. Cần fải ưu tiên sx TLSX vì nó quyết định năng suất LĐ trog toàn bộ nền KT
quốc dân.
Từ yêu cầu này C.Mác đã khái quát thành quy luật ưu tiên ptriển TLSX. Lênin đã ptriển
thêm: SX TLSX để Sx TLSX ptriển nhanh nhất, SX TLSX để SX ra TL tiêu dùng và cuối cùng
tăng chậm hơn là SX TL tiêu dùng.
Liên hệ ở Việt Nam:
Đối với Việt Nam, các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất tồn tại khách quan, lâu dài và
thường đan xen lẫn nhau. Trong một đơn vị sản xuất - kinh doanh có thể có nhiều chủ sở hữu
đại diện cho nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất. Đảng ta xác định chế độ công hữu về các
tư liệu sản xuất chủ yếu. nếu xét trong công ty cổ phần bao gồm nhiều cổ đông thuộc loại nhiều
loại hình sở hữu khác nhau (sở hữu công cộng, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân); trong hợp tác xã,
đất đai thuộc sở hữu công cộng, vốn và tư liệu sản xuất có phần thuộc sở hữu tập thể, có phần
thuộc sở hữu của hộ xã viên; trong công ty tư nhân, tư liệu sản xuất thuộc sở hữu tư nhân, nhưng
đất đai, điện, nước thuộc sở hữu công cộng.
Chính sự đa dạng của các loại hình sở hữu và các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất tồn

tại đan xen với nhau mà hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức liên doanh, liên kết
và các hình thức kinh tế quá độ hết sức phong phú trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Trong các hình thức sở hữu trên thì sở hữu công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu là
nền tảng, là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, nhưng nó chỉ có thể được hình thành từng bước từ
thấp đến cao và chỉ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản.
Đại hội XI của Đảng xác định “Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng
tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản
xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh của mình”.
Chính điều này, cho thấy tư liệu sản xuất đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của nước ta, việc đầu tư phát triển sản xuất tạp trung vào lĩnh vực trọng yếu và có tính lợi thế
của địa phương; tranh thủ tốt các nguồn lực đầu tư của nước ngoài, đồng thời tiếp thu ứng dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn của tư
liệu sản xuất của nước ta. Ngoài việc nắm và làm chủ tư liệu sản xuất, còn tập trung tốt cho việc
8
tái sản xuất, trong đó chú trọng đến quy luật ưu tiên sản xuất để tạo ra nhiều tư liệu sản xuất để
phục vụ cho việc tái mở rộg sản xuất để góp phần tăng nưng suất cho nền kinh tế nước ta.
Câu 3: Tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng và theo chiều sâu, cho ví dụ về quan hệ về
giữa hai loai tăng trưởng. Các quy luật tái sản xuất và ý nghĩa của chúng.
Nêu định nghĩa của hai chỉ số: GDP và GNP, ý nghĩa của mỗi chỉ số. Hãy cho biết
trong những trường hợp nào chúng có trị số bằng nhau ?
Bài làm:
* Trước tiên ta khái niệm tăng trưởng KT là gì ?
Tăng trưởng kinh tế là kết quả của tái sản xuất để phản ánh mức độ tăng lên của nền kinh tế,
phản ánh mức tăng lên của tổng sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Có hai loại:
+ Tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng: Để chỉ nền kinh tế tăng trưởng do có sự tăng lên về số
lượng của các yếu tố sản xuất.
+ Tăng trưởng theo chiều sâu: Để chỉ sự tăng trưởng của nền của nền kinh tế do có sự đầu tư
thêm về chất lượng của các yếu tố sản xuất.
Tăng trưởng theo chiều rộng là hình thức tăng trưởng cần thiết nhưng có giới hạn. Tăng trưởng

kinh tế theo chiều sâu thường ít bị giới hạn hơn và được có ích là tăng trưởng bền vững. Giữa hai loại
tăng trưởng có mối liên hệ lẫn nhau theo quy luật “lượng – chất”.
Để phân biệt hình thức tăng trưởng kinh tế người ta thường so sánh mức tăng trưởng với mức
đầu tư mới ở trong cùng một thời gian. Nếu mức tăng trưởng nhanh hơn mức đầu tư đó là có dấu hiệu
tăng trưởng theo chiều sâu. Nếu chúng bằng nhau là có dấu hiệu tăng trưởng theo chiều rộng (A tăng
trưởng / A Đầu tư) một thời gian >=1.
Do của cải được biểu hiện chủ yếu dưới hình thái giá trị nên tăng trưởng kinh tế được đo bằng
mức gia tăng về tổng giá trị mà xã hội tạo ra. Hiện nay, người ta thường tính tổng của cải xã hội được
tạo ra trong thời kỳ nhất định bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân hoặc tổng sản phẩm quốc nội.
Từ mối quan hệ của tăng trưởng chiều rộng và chiều sâu, Đảng nhà nước ta rất coi trọng việc
đầu tư cấu trúc tăng trưởng cả chiều rộng kết hợp với chiều sâu; cụ thể ta xét trên lĩnh vực công nghiệp
nước ta để làm rõ mối quan hệ trên đó là việc quy hoạch và mở rộng các khu công nghiệp trên cả nước.
Trong đó, tranh thủ kêu gọi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam từ đó là cơ sở thu hút vốn
và công nghệ hiện đại cho nền kinh tế nước ta; bên cạnh đó còn thu hút đầu tư trong nước vào khu công
nghiệp, khu kinh tế mỗi năm hàng tỷ đồng. Như vậy, cho thấy việc mở rộng các khu công nghiệp đã làm
tăng được yếu tố đầu vào nhưnguồn lao động, đất đai, vốn đầu tư, đồng thời còn mua sắm thêm kỹ
thuật, máy mốc công nghệ mới, nguyên vật liệu mới, nâng cao trình độ đội ngũ công nhân lành nghề kết
hợp với việc cải tiến phương pháp quản lý và khai thác máy mốc đã thúc đẩy lĩnh vực công nghiệp nước
ta phát triển mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế mà đại hội XI của Đảng đề ra, đó là:
Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
* Các quy luật của tái sản xuất và ý nghĩa của chúng :
Khái niệm: Tái sản xuất là quá trình sản xuất lập đi lập lại không ngừng với những chu kỳ
ổn định. Tái sản xuất gồm các nội dung: Đó là tái sản xuất ra các của cải; tái sản xuất ra các yếu tố
sản xuất; tái sản xuất ra các quan hệ SX; tái SX ra môi trường KT, XH - TN.
Có nhiều quy luật nhưng chủ yếu là quy luật cân đối và quy luật liên hệ:
Quy luật cân đối: yêu cầu phải duy trì các quan hệ tỷ lệ cân đối giữa các yếu tố, bộ phận,
khu vực của nền kinh tế trong quá trình thực hiện tái SX. Có thể quy thành 03 mối quan hệ cơ
bản:
+ Cân đối giữa các yếu tố SX (TLSX với SLĐ)
+ Cân đối giữa khâu tái SX (khoa học công nghệ)

+ Cân đối giữa các khu vực của nền KT(KV SX TLSX, KV SX TL tiêu dùng)
Các tỉ lệ cân đối được xác lập trong qui luật cân đối được coi là cơ sở của các chỉ tiêu
KT trong hệ thống kế hoạch hóa.
9
- Qui luật liên hệ: Tái sx xh có thể fân thành các khâu: sx – fân fối – trao đổi – tiêu dùng.
Trog đó sx là khâu mở đầu, trực tiếp tạo ra của cải. Fân fối và trao đổi là các khâu trung gian nối
sx với tiêu dùng. Phân phối thường gồm phân phối các yếu tố sản xuất và sản phẩm; phân phối
cho SX và cho tiêu dung cá nhân. Trao đổi thường gồm trao đổi hoạt động trong SX và trao đổi
SP sau quá trình SX. Tiêu dung là khâu cuối cùng kết thúc một quá trình hay một chu kỳ SX.
Tiêu dung có thể là tiêu dung SX hay tiêu dùng cá nhân. Tiêu dùng tạo ra nhu cầu và mục đích
cho SX và được thực hiện bởi SX, PP và trao đổi. Các khâu tái SX có thể phân thành hai quá
trình lớn quá trình SX và quá trình lưu thông ( gồm PP,TĐ,TD). Các khâu và các quá trình tái
SX vừa có vị trí, chức năng độc lập với nhau, vừa có mối liên hệ quyết định đối với nhau
 Các quyết định quản lí sẽ có hiệu quả hơn khi quyết định đó có tính tới mối liên hệ giữa
các khâu và các quá trình trong tái sx xh.
Tiền đề kinh tế chung của quá trình SX là phải giữ được tính cân đối giữa các yếu tố SX theo
những tỉ lệ nhất định. Vì phạm vi tính cân đối tất yếu làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất bằng cách
phân chia nền SX xã hội thành 2 khu vực. Khu vực I đó là khu vực SX TLSX; Khu vực II là khu vực SX
TLTiêu dùng.
Mác đã rút ra quy luật vận động tái SX xã hội như sau:
- Tái SX giản đơn:
+ Thứ nhất, giá trị SX ra ở khu vực I, phải bằng TLSX đã tiêu dùng hết ở khu vực II. Cầu về
TLSX ở khu vực II bằng cung ở khu vực I.
I (v+m) = II (c)
+ Thứ hai: Toàn bộ giá trị sản phẩm ở khu vực I phải bằng tổng giá trị TLSX đã hao mòn ở cả
hai khu vực. Tổng cung TLSX bằng tổng cầu TLSX ở cả hai khu vực.
I (c+v+m) = I (c) + II (c)
+ Thứ ba: Toàn bộ giá trị sản phẩm ở khu vực II phải bằng tổng giá trị sản phẩm mới sáng tạo ra
ở cả hai khu vực. Tổng cung về TL tiêu dùng XH bằng tổng cầu TL tiêu dùng ở cả hai khu vực.
II (c+v+m) = I (v+m) + II (v+m)

- Tái sản xuất mở rộng:
+ Thứ nhất: Giá trị mới ở khu vực I phải lớn hơn giá trị TLSX đã tiêu dùng ở khu vực II: I (v+m)
> II (c)
+ Thứ hai, tòan bộ giá trị và sản phẩm khu vực I phải lớn hơn tổng giá trị tư liệu SX đã tiêu dùng
ở cả 2 khu vực: I(C+V+m) > I(C)+II(C).
Thứ ba, tòan bộ giá trị mới ở cả 2 khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm ở khu vực II.
I(V+m)+ II(V+m) > II(C+V+m)
Ý nghĩa của chúng:
Qua quy luật tái sản xuất xã hội cho chúng ta thấy như sau:
Tái SX giản đơn chỉ đạt mức đủ nuôi sống con người, chưa có sản phẩm thặng dư hoặc số ít
sản phẩm thặng dư nhưng lại tiêu dùng hết cho cá nhân. Đây là đặc trưng của nền sx nhỏ thủ công.
Còn tái sản xuất mở rộng đòi hỏi phải đạt trình độ năng suất lao động vượt qua số lượng sản phẩm
tất yếu và tạo ra sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều, tiết kiệm trong SX , trong tiêu dùng song đến
cùng đều tiết kiệm thời gian , giảm lao động tất yếu, tăng cường lao động thặng dư.
Trong quá trình SX luôn luôn duy trì tính cân đối chung của các yếu tố SX theo những tỷ lệ
nhất định nếu vi phạm sẽ ảnh hưởng đến quá trình tái SX.
Trong nền kinh tế thị trường thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tất cả những điều kiện này
điều biến đổi thành bấy nhiêu điều kiện cho một quá trình không bình thường của tái sản xuất, thành
bấy nhiêu khả năng khủng hoảng, bởi vì tính tự phát của nền sản xuất, bản thân sự cân bằng chỉ là sự
ngẫu nhiên.
Tái sản xuất của vật chất (gồm các vật phẩm tiêu dùng và TLSX) là nhân tố khách quan
không thể thiếu của sản xuất xã hội. Trong quá trình sản xuất, sản phẩm xã hội thường được tiêu
10
dùng cho cá nhân và cho sản xuất, vật phẩm tiêu dùng để tái sản xuất sức lao động, còn tư liệu sản
xuất để tiếp tục quá trình sản xuất. Vì vậy, phải thường xuyên tái sản xuất ra chúng. Hơn nữa nhu
cầu về đời sống và SX thường xuyên tăng lên, do đó của cải vật chất cần được tái SX mở rộng, làm
cho số lượng thường xuyên tăng lên và chất lượng được cải tiến nâng lên.
Trong trường hợp nền KT phát triển tự phát, các tỉ lệ cân đối hình thành một cách tự phát
sau thời kỳ khủng hoảng KT. Khi đó khoa học KT chính là biện pháp tự bảo vệ của quy luật cân đối.
Đối với nền KT phát triển có ý thức, những tỉ lệ cân đối sẽ là cơ sở cho các chỉ tiêu trong hệ thống

kế hoạch hóa.
Về quy luật liên hệ : Quá trình tái sản xuất bao gồm nhiều khâu và nhiều quá trình các khâu
và các quá trình đó có vị trí chức năng đối lập với nhau, nhưng chúng có mối quan hệ nhưng chúng
còn có mối quan hệ quyết định lẫn nhau ở trong một chu kỳ tái sản xuất, các khâu của quá trình lưu
thống sẽ do quá trình SX quyết định. Đến lược chúng các khâu của quá trình lưu thông sẽ quyết định
đối với quá trình sản xuất ở chu kỳ tái sản xuất kế tiếp. Người quản lý phải ra quyết định điều chỉnh
SX cho chu kỳ kế tiếp bằng tác động bằng khâu lưu thông trước đó. Tác động SX sẽ làm ảnh hưởng
lưu thông sau đó.
* Về chỉ số GDP và GNP :
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): là tổng gía trị tính bằng tiền của những hàng hóa và dịch
vụ mà 1 nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của mình (dù là sản phẩm ở trog nước hay nước
ngoài). Tổng sphẩm quốc dân thườg được nêu ra trước tiên để so sánh, đánh giá quy mô, mức độ
phát triển, thành tựu KT và mức sống giữa các nước.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị tính bằng tiền của những toàn bộ hàng hóa và
dịch vụ mà một nước SX ra trên lãnh thổ nước đó ( dù nó thuộc về ai, thuộc người trog nước hay
người nước ngoài).
So sánh tổng sphẩm quốc dân GNP với tổng sphẩm trog nước GDP ta thấy: GNP = GDP +
Thu nhập ròng từ tái sx ở nước ngoài.
Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài bằng thu nhập chuyển về nước của người nước đó
làm việc ở nước ngoài trừ đi thu nhập chuyển ra khỏi nước của người nước ngoài làm việc tại nước
đó.
* Thông số GNP = GDP có 3 trường hợp sau:
+ Thông số tổng hợp trên qui mô toàn thế giới ( không phân biệt quốc gia, lãnh thổ và của sở
hữu).
+ Những quốc gia có nền kt hoàn toàn khép kín (không đầu tư kinh doanh sản xuất ở nước
ngoài cũng như không liên doanh nhận đầu tư ở nước ngoài.
Ví dụ: trong thời kỳ Việt Nam “bế quan tỏa cảng” và bị Mỹ cấm vận, việc chuyển thu nhập
về nước của kiều bào Việt Nam không đáng kể, Việt Nam không đầu tư ở nước ngoài, các nhà đầu
tư ở nước ngoài không đầu tư vào Việt Nam, lúc này tổng sản phẩm quốc dân GNP bằng tổng sản
phẩm trog nước GDP.

+ Nước có phần gía trị thu về từ nước ngoài cân bằng với phần gía trị phải trả cho người
nước ngoài ở trog nước.
Ví dụ: thu nhập chuyển về nước của người nước đó làm việc ở nước ngoài là 10 triệu USĐ
và chuyển ra khỏi nước của người nước ngoài làm việc trog nước đó là 10 triệu USĐ thì tổng sản
phẩm trog nước GDP và tổng sản phẩm quốc dân GNP bằng nhau.
Câu 4 : Phân biệt hàng hoá sức lao động với các hàng hoá khác.Nguyên nhân sâu xa của
hiện tượng khủng hoảng thừa trong kinh tế hàng hoá. Phải chăng sản xuất hàng hóa chỉ ra
đời và tồn tại trong nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất?
Bài làm:
11
Trong bất cứ chế độ XH nào, SLĐ cũng là điều kiện cơ bản của SX. Nhưng SLĐ trở
thành HH trong những điều kiện LS nhất định.
Người lao động phải được tự do về thân thể, có như vậy người LĐ mới thực sự làm chủ
SLĐ, tự do chi phối SLĐ của mình, kể cả tự do đem bán.
Người LĐ bị tước đoạt hết TLSX chủi trong điều kiện ấy, người LĐ mới bán SLĐ của
mình, vì họ không còn cách nào khác để sinh sống, chỉ khi nào SLĐ trở thành một thứ HH thì
SX HH giản đơn mới trở thành SXHH TBCN đó là thời điểm ra đời của CNTB.
Chính tác dụng làm phân hóa người SX của QL giá trị những tích lũy nguyên thủy của
TB đã làm cho 2 điều kiện nói trên xuất hiện nhanh chóng.
Là HH, SLĐ cũng có 2 thuộc tính: giá trị và giá trị sd riêng đặc biệt của HH SLĐ là ở
chổ nó bao hàm yếu tố tinh thần và LS. Giá trị HH SLĐ cũng do thời gian lao động XH tất yếu
để SX và tái SX ra nó quyết định, SX và tái SX SLĐ trước hết được thực hiện qua tiêu dùng của
công nhân. Bởi vậy giá trị SLĐ là giá trị toàn bộ các SH cần thiết để duy trì đời sống của công
nhân.
Giá trị HH SLĐ bao gồn những bộ phận hợp thành như sau: giá trị các TL SH cần thiết
cho công nhân, phí tổn đào tạo công nhân, giá trị các TLSH cần thiết cho gia đình công nhân.
Giá trị SD của HH SLĐ biểu hiện ở chổ: thỏa mãn nhu cầu nào đó của người
mua.Nhưng khác với các hàng hóa khác, nó có một giá trị SD đặc biệt là tạo ra được một lượng
giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó. Chính giá trị SD đặc biệt này là chìa khóa để giải đáp mâu
thuẩn của công thức chung của TB và nó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc nghiên cứ quá

trình SXTBCN. Chính quá trình này chỉ rỏ động cơ, mục đích và kết quả vận động của TB. Do
đó nó cũng vạch trần sự bóc lột tinh vi của GC TS đối với GC CN làm thuê được che dậy bằng
những khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái”, vạch rỏ cơ sở khách quan của cuộc đấu tranh GC
giữa GC VS & GCTS, khẳng định rằng CHTB tất yếu sẽ được thay thế bằng một PTSX cao
hơn.
Sự khác nhau giữa HH SLĐ với các HH khác:
Mua bán SLĐ chính là thuê và cho thuê quyền SD SLĐ trong một khoảng thời gian nào
đó với những điều kiện và giá cả nhất định. Người LĐ trao quyền SD SLĐ nhưng vẫn giữ
nguyên tư hữu đối với SLĐ của mình.
Hàng hóa SLĐ là một HH đặc biệt, có tính nhân văn, không giống với bất cứ một loại
HH thông thường nào. Nó có những khác biệt với HH thông thường và cả những HH đặc biệt
khác ở các điểm sau:
- Về sự tồn tại: SLĐ tồn tại trong cơ thể sống của một con người cụ thể, không thể tách rời
con người ấy nên nó tùy thuộc vào tuổi tác, giới tính, đặc điểm dân tộc, trình độ VH trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề, sức khỏa của người LĐ.
- Tính nhân văn SLĐ sẽ được phát huy nếu việc SD phù hợp với giới hạn tâm sinh lý của
người LĐ.
- Về chất lượng HH: chất lượng HH SLD thể hiện ở năng suất LĐ, trình độ tay nghề, kinh
nghiệm, tùy thuộc phần lớn vào quá trình giáo dục và đào tạo của người LĐ, vào việc chăm sóc
sức khỏe và cả ý thức thái độ (tích cực sáng tạo) của người LĐ.
- Về thuộc tính giá trị, giá trị HH SLĐ được đo gián tiếp qua giá trị TLTD và mang các
yếu tố tinh thần LS.
- Về thuộc tính giá trị SD: HH SLĐ có một công dụng độc đáo mà không một loại HH nào
khác có được đó là khả năng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của nó khi được SD trong quá
trình sản xuất.
* Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng khủng hoảng thừa trong nền kinh tế hàng hoá ?:
12
Khủng hoảng thừa trong nền kinh tế hàng hoá hay còn là khủng hoảng sản xuất hàng hoá
thừa nghĩa là hàng hoá sản xuất ra không tiêu thụ được, tư bản không thu hồi được chi phí sản
xuất, bị phá sản, đóng cửa xí nghiệp.Việc mất khả năng thanh toán ,phá sản của một nhà tư bản

dẫn đến sự sụp đổ ,phá sản của hàng loạt doanh nghiệp khác trong xã hội. Hàng hoá bị phá huỷ,
sản xuất đình đốn, người lao động thát nghiệp. Đố không phải là sản xuất thừ tuyệt đối, mà là
sản xuất “thừa “so với sức mua, với khả năng thanh toán hạn hẹp của người lao động
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa còn dẫn tới phát hiện ra hai xu hướng vận
động trái ngược nhau: Khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên đi đôi với khối lượng giá
trị của nó ngày càng giải xuống hơạc không đổi. Quan hệ giữa lao động cụ thể và lưu động trừu
tượng biểu hiện mâu thuẫn giữa tính tư nhân và tính xã hội của lao động sản xuất hàng hóa. Mâu
thuẫn này chứa đựng mầm mống của sự sản xuất thừa trong nền kinh tế hàng hóa.
Khả năng khủng hoảng kinh tế đã có mầm mống từ nền sản xuất kinh tế hàng hoá giản
đơn nhưng chưa có khả nang trở thành hiện thực. Trong nền kinh tế TBCN, khủng hoảng kinh
tế mới trở thành hiện thực .Bởi vị CNTB dựa trên cơ sở sản xuất đại công nghiệp cơ khí, phân
công lao động phát triển, năng suất lao động cao, khủng hoảng kinh tế có điều kiện xảy ra.
Nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng kinh tế là mâu thuẫn cơ bản của CNTB, mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất. Mâu thuẫn đó được biểu hiện thành các mâu thuẫn sau :
* Mâu thuẫn giữa tính có tổ chức, có kế hoạch trong từng xí nghiệp và tình trạng sản
xuất vô chính phủ trong toàn xã hội.Vì mục đích chạy theo lợi nhuận nên ,các nhà tư bản một
mặt tìm cách hợp lý hoá tổ chức xí nghiệp để giảm chi phí đầu vào ; mặt khác chỉ dầu tư kinh
daonh vào những ngành có lợi nhuận cao và cạnh tranh quyết liệt với nhau. Kết quả làm phá
hoại sự cân đối giữa các ngành sản xuất, quan hệ cung-cầu bị rối loạn nghiêm trọng, đến một
mức độ nào đó thì xảy ra khủng hoảng kinh tế.
* Mâu thuẫn giữa xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn của CNTB với sức mua có hạn của
quần chúng lao động. Do theo đuổi lợi nhuận siêu ngạch, các nhà tư bản dã ra sức mở rộng sản
xuất, cải tiến kỹ thuật và cạnh tranh rất gay gắt ; của cải sản xuất ra ngày càng nhiều và sức mua
của quần chúng theo không kịp do (bị bần cùng hóa dẫn tới hàng hóa bị ứ thừa trên thị trường).
*Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động: Nhà tư bản là người sở hữu tư liệu sx nhưng không
lao động, còn công nhân lao động làm ra của cải nhưng lại bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất. Sản
phẩm làm ra, hầu hết thuộc về nhà tư bản. Sự tách rời tư liệu san xuất và sức lao động đã dẫn
đến nền kinh tế đến sự phát triển “mù quáng”, chạy theo lợi nhuận, làm cho khủng hoảng trở
nên hiện thực.

Khắc phục
Khủng hoảng kinh tế mang tính chu kỳ theo quy luật khách quan của sự phát triển thế
nên chúng ta không thể làm triệt tiêu chu kỳ của khủng hoảng kinh tế mà chỉ can thiệp ,điều tiết
bằng cách sử dụng một loạt các hệ thống công cụ điều tiết đa dạng, linh hoạt như các chính sách
tài chính, tiền tệ, tín dụng, chính sách xuất, nhập khẩu; chính sách đầu tư, mở rộng tiền tệ trong
thời kỳ khủng hoảng, hạn chế cầu, hạn chế đầu tư thắt chặt tiền tệ khi nền kinh tế hoạt động quá
nóng, lạm phát .
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:
Phân công lao động xã hội: là sự chuyên môn hóa trong lao động sản xuất dẫn tới hình
thành các ngành nghề, các lĩnh vực khác nhau. Trong phân công lao động, mỗi người chỉ sản
xuất ra một vài loại sản phẩm mà mình có ưu thế nhất, song nhu cầu của họ là đa dạng, từ đó tất
yếu dẫn tới trao đổi sản phẩm cho nhau. Không phải bất cứ có sự trao đổi sản phẩm nào cũng
diễn ra dưới hình tức mua bán HH: trong công xã Ấn Độ thời cổ giữa các phân xưởng trong một
xí nghiệp, giữa các thành viên trong hình thức kinh tế hộ gia đình… có phân công LĐ, có trao
đổi SP, song không có sự mua bá HH.
13
Sự tác biệt tương đối vế mặt KT của những người SX: trong QT hình thành & PT của
LS, sự tách biệt về KT do các kiểu quan hệ sở hữu khác nhau về TLSX mà khởi thủy là chế độ
tư hữu về TLSX qui định. Tiếp đến trong nền SX lớn, với sự tách rời giũa quyền SH và quyền
SD thì sự tách rời về KT giữa những người SX, giữa những doanh nghiệp thuộc cùng một chế
độ SH có tính tự chủ kinh doanh qui định. Sự khác nhau về QHSX về lợi ích KT làm cho LĐ
của người SX mang tính chất tư nhân. Trong hoàn cảnh này, muốn tiêu dùng SP của nhau tất
nhiên phải thông qua mua bán SP, tức là trao đổi dưới hình thái HH.Do vậy SXHH tồn tại tất
yếu trong các XH dựa trên SH tư nhân (nô lệ, phong kiến, tư bản). SXHH tồn tại ngay cả khi
CNXH phát triển và tất nhiên cả trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH./.
Có ý kiến nói kinh tế hàng hóa chỉ tồn tại và phát triển trong nền kinh tế có chế độ tư
hữu là chưa đúng và chưa đủ
Kinh tế hàng hóa xuất hiện cùng với sự xuất hiện của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
trong quá trình phát triển kinh tế của xã hội loài người. Song, nó tồn tại, phát triển và ngày càng
hoàn thiện qua một số phương thức sản xuất tiếp theo phát triển phổ biến nhất, phát triển cao

nhất trở thành hình thức sản xuất hàng hóa điển hình, nổi bật trong lịch sử là trong giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa và nó tiếp tục tồn tại, phát triển ngay dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
khi mà chế độ tư hữu đã không còn thống trị, chế độ công hữu đã được hình thành củng cố và
lớn mạnh.
Tóm lại, chỉ đúng khi kinh tế hàng hóa mới ra đời. Nó không còn đúng trong chủ nghĩa
tư bản, chủ nghĩa xã hội, vì kinh tế hàng hóa không những tồn tại trong chủ nghĩa tư bản tiến lên
chủ nghĩa xã hội, nó vẫn tồn tại và hoàn thiện cao hơn. Vì vậy, câu này không đúng và không
đủ.
Ngày nay ở việt nam ta cũng phải áp dụng nền KT SX hàng hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa XH.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH ở Việt Nam sự tồn tại của SX hàng hóa là một
tất yếu khách quan, với những lợi thế về phát triển hàng hóa đối với nước ta là một nhiệm vụ
KT cấp bách để chuyển nền KT lạc hậu thành nền KT hiện đại, hội nhập với sự phân công lao
động quốc tế, đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng SX, để thực hiện nhiệm vụ công
nghiệp hóa hiện đại hóa.
Thực tiễn những năm đổi mới đã cho chúng ta thấy việc chuyển sang mô hình KT hàng
hóa là đúng đắn, nhờ mô hình này mà chúng ta đã khai thác được tiềm năng trong nước thu hút
được đầu tư nước ngoài, giải phóng được năng lực SX trong XH, phát triển lực lượng SX .
Theo Mác thì SX hàng hóa chỉ tồn tại trong một số phương thức XH gắn với những điều
kiện lịch sử nhất định. Vì vậy đến thời đại cộng sản chủ nghĩa lực lượng SX vô cùng lớn mạnh,
năng lực SX vô cùng dồi dào lúc này sản phẩm làm ra không phải đi trao đổi mua bán, chế độ sở
hữu tư liệu SX của tư nhân không còn, lúc này con người làm việc theo năng lực hưởng theo
nhu cầu thì không còn nền KT SX hàng hóa.
Câu 5 : Khái niệm các loại cấu tạo tư bản, cho ví dụ về sự khác nhau giữa cấu tạo giá trị
với cấu tạo hữu cơ tư bản. Các phương pháp nâng cao bóc lột giá trị thặng dư trong nền
kinh tế TBCN, cho ví dụ minh họa? Hãy bình luận câu: “Tiền nào của đó” trong điều kiện
hiện nay.
Bài làm:
Để thu được m và M, vốn đầu tư của TB phải được phân chia hợp lý để mua các yếu tố
sản xuất và sử dụng hợp lý các yếu tố sản xuất ấy. Sự phân chia này tạo ra các cấu tạo TB sau:

- Cấu tạo giá trị TB: là mối quan hệ tỷ lệ giữa số tiền mua tư liệu sản xuất và số tiền mua
sức lao động. Công thức cấu tạo của giá trị là c/v (c và v ở đây là số lượng tiền)
14
- Cấu tạo kỹ thuật của TB: là mối quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất đã mua so
với số người đã thuê để sử dụng TLSX ấy. Công thức cấu tạo kỹ thuật là c/v (nhưng c là số
lượng tư liệu máy móc, còn v là số lượng lao động).
- Cấu tạo hữu cơ TB: là mối quan hệ biện chứng, hữu cơ giữa cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo
giá trị. Nhà TB phải căn cứ vào yêu cầu kỹ thuật cân đối, hợp lý giữa số lượng TLSX và số
lượng lao động, sử dụng TLSX để không có sự lãng phí mà phân chia TB để mua sắm tạo thành
cấu tạo giá trị. Mác định nghĩa: Cấu tạo hữu cơ TB là cấu tạo giá trị của TB khi nó phản ánh kỹ
thuật và do cấu tạo kỹ thuật TB quy định. Công thức cấu tạo hữu cơ là c/v.
Cấu tạo giá trị TB là tỷ lệ theo đó TB phân thành: TB bất biến (hay giá trị của TLSX) và
TB khả biến (hay giá trị của sức lao động) cần thiết để tiến hành sản xuất.
Cấu tạo hữu cơ của TB tăng lên nhanh chóng ở thời kỳ công nghiệp hóa TBCN, hoặc ở
những thời kỳ nền kinh tế TB thay đổi cơ cấu kinh tế. Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của TB
làm cho khối lượng TLSX tăng lên, trong đó sự tăng lên của máy móc, thiết bị là điều kiện để
tăng năng suất lao động, còn nguyên liệu tăng theo năng suất lao động.
Cùng với sự phát triển của CNTB, do tác động thường xuyên của tiến bộ khoa học và
công nghệ, cấu tạo hữu cơ của TB cũng không ngừng biến đổi theo hướng ngày càng tăng lên.
Sự tăng lên đó biểu hiện ở chổ bộ phận TB bất biến tăng nhanh hơn bộ phận TB khả biến, TB
bất biến tăng tuyệt đối và tăng tương đối, còn TB khả biến thì có thể tăng tuyệt đối nhưng lại
giảm xuống 1 cách tương đối.
Mác nói: TB là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột người lao động làm
thuê, đối với các nhà TB hoạt động kinh tế mà không thu được giá trị thặng dư thì sẽ không còn
là TB nữa
Quá trình sản xuất TB, bất luận ở đâu, nơi nào, thời gian nào cũng vì mục đích giá trị
thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà TB. Vì vậy, Mác coi bóc lột giá trị
thặng dư đó là quy luật tuyệt đối trong nền kinh tế TBCN.
Ví dụ minh họa :
70C + 30 V + 30 m (1)

m 30
p’= x100% = = 30%
C+V 70+30
m’=100%
C 70
= = 7/3
V 30
80C + 20 V + 20 m (2)
m 20
p’= x 100% = = 20%
C+V 80+20
m’=100%
C 80
= = 4/1
V 20
Nếu tỷ suất lợi nhuận (m’) không đổi m’(1) = m’(2) nhưng khi cấu tạo hữu cơ tăng (2) thì
tỷ suất giá trị thặng dư giảm, đây là mối quan hệ nghịch biến.
15
Để khắc phục, nhà TB dùng biện pháp tăng tỷ suất giá trị thặng dư bằng cách giảm giá cả
sức lao động (V) thông qua con đường ngoại thương thuê lao động và mua TLSX ở nước ngoài
và bán sản phẩm ở nước ngoài.
* Các phương pháp nâng cao bóc lột giá trị thặng dư trong nền kinh tế TBCN, cho VD
minh họa :
Muốn thu được nhiều giá trị thặng dư thực tế (m’) và có nhiều khối lượng giá trị thặng dư
trong năm, các nhà TB đã căn cứ vào thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư
của người lao động trong ngày, để thực hiện 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư như sau:
- Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp để tăng thêm giá trị thặng dư nhà TB đã
tìm cách kéo thời gian lao động thặng dư ra bằng cách kéo thời gian lao động trong ngày trong
khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không đổi.
Lấy ví dụ: Giáo trình KTCT Mác Lê Nin trang 165

- Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp làm tăng thêm giá trị thặng dư bằng
cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu nhờ vậy sẽ có thêm giá trị thặng dư trong khi thời gian
lao động trong ngày không đổi.
Lấy ví dụ: Giáo trình KTCT Mác Lê Nin trang 166
Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải tìm cách hạ thấp giá trị sức lao động. Điều
này chỉ có thể thực hiện bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu
tiêu dùng hoặc các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra tư liệu tiêu dùng.
Như vậy, sử dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối phải gắn với ứng dụng
tiến bộ khoa học – công nghệ để tăng năng suất lao động xã hội. Do đó Mác đã coi giá trị thặng
dư siêu ngạch đạt được trong các xí nghiệp TB do ứng dụng tiến bộ KH-CN mới chỉ là hình
thức biến tướng của GTTD tương đối.Hai phương pháp sản xuất ra GTTD trên đây thường được
áp dụng đồng thời trong quá trình sản xuất TB, tùy sự phát triển mà sử dụng phương pháp nào
tập trung hơn.
Ngày nay do sự phát triển mạnh mẽ của KH-CN có ý kiến cho rằng không còn tồn tại
phương pháp sản xuất GTTD tuyệt đối nữa, đó là 1 ý kiến sai lầm bởi dù sử dụng máy móc công
nghệ tiên tiến thì chỉ giảm sự hao phí thể lực, nhưng hao phí về trí lực, thần kinh, trí tuệ của
người công nhân lại tăng lên. Do đó, sức lao động của người lao động vẫn tiếp tục hoa phí để
tăng thêm GTTD cho nhà TB khi kéo dài được thời gian lao động thặng dư.
Trong quá trình sản xuất hàng hóa TBCN, bằng lao động cụ thể của mình công nhân sử
dụng những TLSX và chuyển giá trị của chúng vào hàng hóa và bằng lao động trừu tượng, công
nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó là GTTD.
Để hiểu rõ quá trình sản xuất GTTD ta lấy việc sản xuất sợi của một nhà TB làm ví dụ:
Để chế tạo ra 1kg sợi nhà TB phải ứng ra số tiền 20.000 đơn vị tiền tệ mua 1kg bông,
3.000 đơn vị cho hao phí máy móc và 5.000 đơn vị mua sức lao động của công nhân điều khiển
máy móc.
Trong quá trình sản xuất, bằng lao động cụ thể công nhân sử dụng máy móc để chuyển
1kg bông thành 1kg sợi, theo đó giá trị của bông và hao mòn máy móc cũng được chuyển vào
sợi bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới nhập vào sợi. Giả định ngày làm việc
của công nhân có thể kéo dài từ 5 giờ đến 10g, mà chỉ trong 5g công nhân đã chuyển xong 1kg
bông thành 1kg sợi thì giá trị 1kg sợi được tính là:

- Giá trị 1kg bông chuyển vào: 20.000 đơn vị
- Hao mòn máy móc: 3.000 đơn vị
- Giá trị mới tạo ra (trong 5g lao động, bằng giá trị sức lao động): 5.000 đơn vị.
Tổng cộng 28.000 đơn vị
16
Nếu quá trình lao động ngừng ở đây thì nhà TB chẳng thu được 1 tí GTTD nào. Nhưng
nhà TB đã mua sức lao động trong 1 ngày với 10g chứ không phải 5g. Trong 5g lao động tiếp
theo nhà TB không phải trả công nữa mà chỉ cần chi thêm 20.000 đơn vị để mua 1kg bông và
3.000 đơn vị hao mòn máy móc, nhưng sẽ có thêm 1kg sợi. Tổng số tiền nhà TB chi ra để có
được 2kg sợi là:
- Tiền mua bông: 20.000 x 2 = 40.000 đơn vị
- Hao mòn máy móc (máy chạy 10g): 3.000 x 2 = 6.000 đơn vị
- Tiền lương công nhân sản xuất cả ngày (trong 10g nhưng vẫn tính theo giá trị sức lao
động bằng 5.000 đơn vị)
Tổng cộng bằng 51.000 đơn vị
Trị giá sợi nhà TB thu được 2 x 28.000 = 56.000 đơn vị
Như vậy, nhà TB thu được lượng GTTD:
56.000 – 51.00 = 5.000 đơn vị
Từ ví dụ trên có thể đi đến kết luận, GTTD là giá trị mới do lao động của người công
nhân tạo ra ngoài giá trị sức lao động – là kết quả lao động không công của công nhân cho nhà
TB. Cho nên Mác viết: “Bí quyết của sự tự tăng thêm giá trị của TB quy lại là ở chỗ TB chi phối
được một số lượng lao động không công nhất định của người khác”. Bản chất bóc lột của CNTB
là ở đó. Sở dĩ nhà TB chi phối được số lao động không công ấy vì nhà TB là người chiếm hữu
TLSX. Do điều kiện này mà nền sản xuất trở thành nền SX TBCN.
* Bình luận câu : “tiền nào của đó”
Đối với học thuyết giá trị thặng dư, ngày nay mặc dù vai trò của quản lý, của trí tuệ và
kỹ thuật ngày càng cao trong nền SXTB vẫn không bác bỏ những giá trị của học thuyết giá trị
thặng dư của Mác. Mặc dù cơ cấu lao động SX ra giá trị thặng dư trong XHTB có những biểu
hiện thay đổi khác biệt, nhưng xét đến cùng giá trị thặng dư cũng bắt nguồn từ lao động sống
của tất cả những người lao động chân tay và lao động trí óc.

Câu “tiền nào của đó” không chỉ đơn thuần là quan hệ mua, bán mà chứa đựng bao hàm ý
nghĩa sâu xa trong quan hệ sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất và mối quan hệ giữa người với
người trong SX hàng hóa và trong lưu thông hàng hóa.
Trong quan hệ SX hàng hóa với nhà TB bóc lột giá trị thặng dư vẫn là mục đích cuối cùng,
cao nhất mà phương thức SXTB hiện đại muốn đạt tới, nó vẫn là quy luật kinh tế nói lên bản
chất của CNTB, mặc dù hình thức biểu hiện có những điểm mới, tinh vi hơn và việc không trả
công xứng đáng như câu “tiền nào của đó” là nguồn gốc của việc bóc lột giá trị thặng dư của
CNTB đối với người công nhân bán sức lao động chính vì vậy đã dẫn đến những mâu thuẫn
ngày càng gay gắt, không thể điều hòa được giữa g/c TS và g/c công nhân.
Cụ thể xét trong quy luật cung cầu, nếu trường hợp cung bằng cầu về hàng hóa thì giá
trị thị trường bằng giá trị hàng hoá; nếu trường hợp cung lớn hơn cầu, thì giá trị thị trường
sẽ giảm tương ứng so với giá trị; nếu trường hợp cung nhỏ hơn cầu, như vậy giá trị thị trường
sẽ tăng tương ứng so với giá trị.
Câu 6: Phân biệt tư bản cho vay với tư bản ngân hàng? Cổ phiếu với trái phiếu? Cho các
ví dụ về lợi ích của việc nâng cao tốc độ chu chuyển.
Hãy giải thích mâu thuẫn: Mặc dù tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm sút trong
quá trình tích lũy, nhưng nhà tư bản vẫn không ngừng mở rộng quy mô tích lũy.
Bài làm:
Trong CNTB, tiền tệ có 1 "gtrị sdụng phụ thêm" là dùng làm TB cho vay để đem lại lợi
tức cho chủ sở hữu TB. Nó trở thành hhóa đbiệt, gọi là hhóa TB, có thể đem nhượng lại, tức là
17
cho vay để thu lợi nhuận do chủ sở hữu tư bản cho vay và lợi nhuận của chủ xí nghiệp sử dụng
tư bản cho vay vào sản xuất. Vì vậy, nó trở thành 1 loại hàng hóa đặc biệt gọi là hàng hóa tư bản
có thể đem nhượng lại tức là cho vay.
- Tư bản cho vay: TB cho vay trong CNTB là 1 bộ phận trong TB tiền tệ trong tuần hoàn
của TB công nghiệp tách ra và vđộng độc lập. trong quá trình tuần hoàn của TB xuất hiện hiện
tượng có 1 số tiền tạm thời nhàn rỗi, tiền dự trữ để mua ngyên, nhiên liệu, quỹ để dành trả lương
cho công nhân nhưng chưa dùng tới; gía trị thặng dư dành cho tích lũy chưa đủ mức TB hóa quỹ
khấu hao máy móc thiết bị…có thể đem cho vay để thu lợi tức. Trong khi đó, 1 số nhà TB khác
lại đang cần tiền mua sắm vật tư, nguyên liệu để duy trì SXKD trong khi chưa bán được hàng;

cần tiền để cải tiến kỹ thuạt, áp dụng công nghệ mới hoặc mở rộng SXKD mà vốn tích lũy chưa
đủ cần vay thêm, từ những qhệ cung-cầu về vốn, tiền tệ đó là hình thành và ptriển TB cho vay.
TB cho vay trong CNTB là loại TB đặc biệt. TB cho vay là TB mà quyền sở hũu tách rời
quyền sdụng. cùng 1 TB nhưg đối với người cho vay nó là TB thuộc quyền sở hữu của anh ta
chỉ tạm trao vào tay người đi vay sdụng trong 1 thgian nhất định.
TB cho vay biểu hiện như 1 hàng hóa đặc biệt. TB cho vay là hàng hóa, vì nó cũng có
gtrị và gtrị sdụg, có người mua có người bán, có gía cả và giá cả của nó cũng lên xuống theo qhệ
cung-cầu. nhưng TB cho vay là loại hàng hóa đặc biệt bỡi người mua và người bán ko mất
quyền sở hữu. khi người mua sdụng thì gtrị sdụng và gtrị của nó không mất đi mà còn tăng lên:
gía cả của nó không do gtrị mà do gtrị sdụg, do khả năng tạo ra mà nó quyết định. TB cho vay là
TB sùng bái nhất công thức vđộng của TB cho vay là: T-T’.
Thực ra sự vđộng của TB cho vay không thể tách rời sự vđộng thực tế của TB công
nghiệp, sở dĩ tiền tệ dưới dạng TB cho vay tăng thêm được là do trong thực tế nó vđộng theo
côg thức: T-T”-H__slđ
-TLSX +SX…H-T”-T
Trong đó T-T” và T”-T chỉ là điểm mở đầu và điểm kết thúc, là sự chuẩn bị và kết quả và
sự vđộng tuần hoàn.
TB ngân hàng : là 1 TB xí nghiệp TBCN kinh doanh TB tiền tệ và làm môi giới giữa
người cho vay và người đi vay, mđích của hoạt động ngân hàng là thu lợi huận như các xí
nghiệp, công thươg nghiệp TBCN khác. Ngân hàng TB ra đời từ 2 nguồn gốc: từ những TB
thương nhân kinh doanh tiền tệ thời trung cổ; từ những hội tín dụng do TB công thươg nghiệp
lập nên. TB công thươg nghiệp không thể vay nặng lãi đã hợp tác với nhau lập nên các hội tín
dụng ngân hàng, trở thành môi giới tín dụng giữa người cho vay và người đi vay là người tổng
quản lý TB tiền tệ ngân hàng còn biến các khỏan thu nhập và tiết kiệm của các tầng lớp XH
thành TB tạo ra công cụ tín dụng lưu thông thay cho tiền làm trung gian thanh toán giửa các
doanh nghiệp.
Hoạt động cbản của ngân hàng là đi vay để cho vay, ngoài ra ngân hàng còn tiến hành
các nghiệp vụ khác như: chuyển tiền, thu chi hộ mua bán các chứng khóan, phát hành tiền mặt,
kiểm soát và điều tiết các hoạt động kt.
Lợi nhuận ngân hàng( Pnh) và tỷ suất lợi nhuận(P’nh).

Pnh = Zcv-Zg-chi phí dịch vụ
Zcv: lợi tức cho vay; Zg: lợi tức nhận gtrị.
Trong môi trường cạnh tranh tự do thì: Pnh= P
Pnh: tỷ lệ % lợi nhuận nghàng thu đc
Trong 1 năm với vốn tự có của ngân hàng( K tự có).
18
Trong môi trường cạnh tranh tự do: Pnh= P lđ của nhân viên ngân hàng là lđộng cùng
làm thuê nhưg không sx, không tạo ra gtrị thặng dư. Tuy vậy họ vẫn bị bóc lột trong quá trình
giúp chủ ngân hàng chiếm được 1 phần gtrị thặng dư do lđộng làm thuê trong sx tạo ra.
Cổ phiếu và trái phiếu:
Cổ phiếu: là giấy cn quyền sở hữu của cổ đông, khi thành lập cty cổ phần thì TB thực tế
đã đầu tư vào qúa trình sx, còn tờ cổ phiếu chỉ là bản sau của TB thực tế đã đầu tư đó. cổ phiếu
có nhiều loại như: cổ phiếu thường, cổ phiếu đặc quyền. trị giá cổ phiếu không phụ thuộc vào
gtrị danh nghĩa ghi trên mặt cổ phiếu hay mệnh giá cổ phiếu mà phụ thuộc vào lợi tức cổ phiếu
và lợi tức tiền gửi ngân hàng.
Trị giá cổ phiếu = lợi tức cổ phiếu
Tỷ suất lợi tức ngân hàng
Trị giá cổ phiếu luôn biến động, 1 phần là do sự biến động của tỷ suất lợi tức ngân hàng,
phần vì đánh giá tình hình hoạt động của cty cổ phần về lợi tức cổ phần dự đoán sẽ thu đc.
Trái phiếu: là những phiếu nợ do các cty, các ngân hàng hay nhà nước phát hành để vay
nợ của những người mua traí phiếu, khác với cổ phếu, các trái phiếu phát hành có kỳ hạn và lợi
tức cố định được hòan trả và kèm theo lợi tức khi đến hạn.
Nguời có trái phiếu cty chỉ là chủ nợ cty, chứ không phải là người đồng sở hữu cty, nên
không có quyền tham gia quản lý cty nhưng có cổ phiếu nhiều. Ngoài ra cổ phiếu và trái phiếu
còn có 1 số khác nhau nữa đó là: người mua cổ phiếu không được rút vốn trở lại, còn người mua
trái phiếu được hoàn vốn khi đến hạn; cổ phiếu rủi ro cao, trái phiếu rủi ro thấp.
VD về lợi ích của việc nâng cao tốc độ chu chuyển: tăng tốc độ chu chuyển của TB hay
rút ngắn thgian chu chuyển của TB có ý nghĩa quan trọng trong việc tăg hiệu quả hoạt động của
TB. Trước hết tăg tốc độ chu chuyển của TB cố địh sẽ tiết kiệm đc chi phí bảo quản, tránh đc
hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. đối với TB lưu động, việc tăg tốc độ chu chuyển hay rút

ngắn thgian chu chuyển sẽ cho phép tiết kiệm đc TB ứng trước khi quy mô sx như cũ hay có thể
mở rộng mà ko cần có TB phụ thêm.
Ví dụ: 1 TB có thời gian chu chuyển 9 tuần gồm: 5 tuần sx, 4 tuần lưu thông. quy mô sx
đòi hỏi 1 llượng TB cho 5 tuần sx là: 100x5=500. nhưg sau đó sphẩm phải qua 4 tuần lưu thông,
do vậy 100x4 = 400 => 500+ 400 = 900. nếu rút xuống còn 8 tuần thì => 100x8 = 800. tiết kiệm
đc 100.
Giả sử TB lưu động nếu sử 900 thì 900:8= 112, 5 chứ ko phảI là 100.
Cuối cùng, đối với TB khả biến, việc tăg tốc độ chu chuyển có ảnh hưởng trực tiếp tới
việc làm. ví dụ: có 2 tư bản A và B đều có lượng TB khả biến cho mỗi tuần sx là 100. m’=
100% khác nhau th gian chu chuyển A là 5 tuần, B là 50 tuần để sx liên tục A cần 100x 5= 500;
B cần 100x50 = 5000. cùng m’= 100 sau 5 tuần tư bản A tạo ra gtrị thặng dư: 5x100= 500 =>
50 tuần tạo ra 100x50= 5000. nhưg luôn luôn cần 1 lượg TB khả biến ứng trước là 500. còn tư
bản B sau 50 tuần 100x50 = 5000. cần TB khả biến là 5000. chúg ta gọi tỷ suất thặng dư hàng
năm ( M’) là tỷ lệ tính bằng % khối lượng hàng năm ( M) TB khả biến ứng trước là V.
Ta có M’ = M:Vx100 % = M x W: V x100% = m’. n
Trong đó m’ là gtrị thặng dư tạo ra trong 1 vòng chu chuyển
m/v : tỷ suất gtrị thặng dư; V: số vòng chu chuyển trong năm ở tư bản A, tỷ suất gtrị
thặng dư: M’= 5000/500 x100% = 1000%( 1000x10 vòng)
Tư bản B: M’= 5000/5000x100% = 100% ( 100%x 1 vòng).
Như vậy, mặc dù có tỷ suất gtrị thặng dư (M’) phản ánh trình độ bóc lột ở 2 tư bản A và
B như nhau, nhưg tỷ suất gtrị thặng dư hàng năm (M’) phản ánh hiệu quả hoạt động của 2 TB đó
19
lại khác nhau. bỡi vậy việc lựa chọn ngành có th gian chu chuyển là 1 trong nhữg biện pháp để
nâng cao hiệu quả sdụg vốn của các doanh nghiệp.
Giải thích mâu thuẫn: cấu tạo hữu cơ tăg lên là nguyên nhân làm cho tỷ suất lợi nhuận
giảm. cấu tạo hữu cơ của TB là tỷ số về gtrị giữa TB bất biến với TB khả biến, phản ánh cấu tạo
hữu cơ kỹ thuật của TB, tức tỷ số giữa khối lượng TLSX. Sự thay đổi của cấu tạo hữu cơ của
TB có ảnh hưởng:
- Nếu m’ là đại lượng ko đổi thì P’ vận động ngược chiều
- Nếu c/v là 1000/1000 thì v’ là 1000/2000 = 50%

- Nếu C/V là 4000/1000 thì P’ là 1000/5000 = 20%
Với m’ = 100% nếu cấu tạo hữu cơ TB (C/V) tăg từ 1/1 lên 4/1 thì p’ giảm 20%.
Ví dụ : 6000 C + 4000 V + 4000 m => p’ = 40% và P = 400
17. 600 C + 4. 400 V + 4. 400 m => p= 20% và P = 44
Tóm lại cấu tạo hữu cơ của TB tăg lên, 1 mặt làm cho p’ giảm, mặt khác lại làm cho
khối lượng lợi nhuận tăg lên. Mác gọi đó là hình thức hai mặt của quy luật tỷ suất lợi nhuận có
xu hướng giảm.
Khối lượng tiền tệ mà ngân hàng tập trug được và sdụg làm Tb cho vay là từ nhiều
nguồn.
TB tiền tệ tự có của chủ ngân hàng.
TB của nhà TB côgthươg chu chuyển đến.
TB tiền tệ của các nhà TB thực lợi sống dựa vào lợi tức nhữg khoản tiền tiết kiệm dành
dụm tất cả các nguồn vốn đó của TB ngân hàng.
Tiền mặt, các chứng khoán như kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu.
Câu 7: Xuất khẩu tư bản, những lợi thế của xuất khẩu tư bản so với xuất khẩu hàng hoá ở
giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền? Phân biệt giá trị với giá cả, lợi nhuận bình quân
với lợi nhuận doanh nghiệp. Tại sao tư bản cho vay không tham gia vào phân phối lợi
nhuận bình quân ?
Bài làm:
Sự phát triển của LLSX dưới tác động của KHKT, một mặt làm xuất hiện những ngành
SX mới có trình độ tích tụ cao, đòi hỏi phải có những hình thức kinh tế tổ chức mới, mặt khác
làm tăng năng suất lao động, tăng sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Bên cạnh đó, tự do cạnh
tranh tác động mạnh đến tích tụ và tập trung tư bản. Các xí nghiệp vừa và nhỏ không đủ sức
cạnh tranh hoặc là bị phá sản hoặc buộc phải thỏa hiệp với các nhà tư bản lớn trong cùng ngành
nghề hoặc một số ngành để tồn tại. Ngoài ra, tác động của khủng hoảng kinh tế, tín dụng TBCN
được mở rộng, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tập trrung sản xuất, nhất là hình thành các công ty
cổ phần, là tiền đề cho các tổ chức độc quyền. Đây là đặc trưng kinh tế cơ bản của PTSX TBCN
ở giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.
Tổ chức độc quyền là liên minh giữa các nhà TB lớn để tập trung vào trong tay một phần
lớn (hay toàn bộ) sản phẩm của một ngành, sự liên minh này phát huy ảnh hưởng quyết định đến

quá trình sản xuất và lưu thông của ngành đó. Trong CNTB độc quyền, các đồng minh độc
quyền chiếm ưu thế trong nền kinh tế; chúng có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau để giữ
giá cao cho hàng hóa đêr thu được lợi nhuận độc quyền cao. Một trong những đặc trưng của
CNTB độc quyền khác với CNTB tự do cạnh tranh là xuất khẩu TB.
Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu QHSX TBCN ra nước ngoài (đầu tư TB ra nước ngoài)
nhằm mục đích bóc lột giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác của các nước nhập khẩu TB. Xuất
20
khẩu TB trở thành tất yếu vì trong những nước TBCN phát triển đã tích lũy được một khối
lượng lớn TB và nảy sinh tình trạng " thừa TB". Tình trạng này không phải là tuyệt đối mà chỉ
mang tính tương đối, có nghĩa là nhà tư bản không tìm được nơi đầu tư có lợi nhuận cao trong
nước.
Mục đích của xuất khẩu TB là nâng cao tỷ suất và khối lượng lợi nhuận. Nguyên nhân
của xuất khẩu TB là do ở các nước TBCN phát triển, những thành tựu KHKT đã dẫn đến tăng
cấu tạo hữu cơ của TB và hạ thấp tỷ suất lợi nhuận. Còn ở những nước kém phát triển về kinh
tế, nhất là ở các nước thuộc địa, tài nguyên thiên nhiên dồi dào, giá nhân công rẻ nhưng lại thiếu
vốn và kỹ thuật.
Xét về hình thức đầu tư, có thể phân chia xuất khẩu TB thành xuất khẩu TB trực tiếp và
gián tiếp. Xuất khẩu TB trực tiếp: là đưa TB ra nước ngoài để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận
cao bằng cách đầu tư xây dựng các nhà máy, xí nghiệp mới hoặc mua lại các nhà máy xí nghiệp
đang hoạt động ở các nước nhập khẩu TB. Xuất khẩu TB gián tiếp là cho vay để thu lợi tức.
Ngày nay, hình thức này còn được thực hiện bằng việc mua chứng khoảng, cổ phiếu của các
công ty ở các nước nhập khẩu TB.
Xét về chủ thể có thể chia thành XKTB nhà nước, do nhà nước TB lấy TB từ ngân quỹ
để đầu tư vào các nước nhập khẩu TB hoặc bằng các hình thức viện trợ nhằm thực hiện mục
đích kinh tế, chính trị, quân sự; và XKTB tư nhân do TB tư nhân thực hiện. Ngày nay, hình thức
này do các công ty xuyên quốc gia tiến hành thông qua các hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Xét về hình thức hoạt động: lập các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia; thông qua
hoạt động tài chính tín dụng của các ngân hàng hay các trung tâm tín dụng; việc chuyển giao
công nghệ, đây là biện pháp chủ yếu mà các nước XKTB thường sử dụng để khống chế nền kinh
tế của các nước nhập khẩu TB.

Việc XKTB là việc mở rộng QHSX TBCN ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành
trướng sự thống trị của TB tài chính trên phạm vi toàn thế giới. Các nước nhập khẩu TB trở
thành đối tượng bị bóc lột về kinh tế và nô dịch về chính trị dưới những hình thức và mức độ
khác nhau. Tuy nhiên, về khách quan, XKTB có ý nghĩa tích cực trong việc thúc đẩy nền kinh tế
phát triển ở các nước nhập khẩu TB: chuyển kinh tế tự cung, tự cấp thành kinh tế hàng hóa,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ thuần nông sang nong - công nghiệp mặc dù còn lệ thuộc vào nền
kinh tế của chính quốc.
Lợi thế của XKTB:
- Thu được lợi nhuận cao hơn đầu tư trong nước, nhất là khi tiến hành đầu tư ở những
nước có nền kinh tế chậm phát triển (sức lao động giá rẻ, nguồn tài nguyên thiên dồi dào).
- Làm cho QHSX TBCN mở rộng và phát triển trên phạm vi toàn thế giới.
- Thúc đẩy nhanh quá trình phân công lao động và quốc tế hóa đời sống kinh tế của
nhiều nước.
- Thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa các nước.
* Phân biệt giá trị và giá cả.
Để hiểu rõ phạm trù giá trị và giá cả, cần tìm hiểu thế nào là hàng hóa và thuộc tính của
nó.
Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người
thông qua việc trao đổi mua - bán. Hàng hóa là một phạm trù lịch sử. Sản phẩm lao động trở
thành HH khi nó là đối tượng của mua - bán trên thị trường. HH có hai thuộc tính:
- Giá trị sử dụng của HH là công dụng của một vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người.
21
Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quy định là nội dung vật chất
của của cải. Giá trị sử dụng của hàng hóa không phải cho người trực tiếp SX mà là cho người
khác, cho XH. Giá trị sử dụng đến tay người khác ( người tiêu dùng) thông qua mua bán. Trong
KT hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
- Giá trị của HH là lao động XH của người SX hàng hóa kết tinh trong HH.
Chất của giá trị là số lượng lao động, lượng của giá trị là số lượng lao động của người
SX kết tinh trong hành hóa. Giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi, còn GTTĐ là hình thức biểu hiện

bên ngoài của giá trị.
Do đó, có thể phân biệt giá trị và giá cả như sau:
Giá trị là lao động XH của người sản xuất HH kết tinh trong HH; là toàn bộ chi phí hao
tổn để tạo ra HH đó; là biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người SXHH. Và là nội dung,
là cơ sở của giá cả.
Giá cả: trong nền SXHH, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi (gọi lf giá cả); giá
cả biểu hiện mối quan hệ về số lượng, một tỷ lệ tức trao đổi giữa những HH có giá trị sử dụng
khác nhau. Giá cả của HH là giá trị của HH đó trên thị trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá
trị của HH. Giá cả là hình thức biểu hiện của giá trị ra bên ngoài.
* Phân biệt lợi nhuận bình quân và lợi nhuận doanh nghiệp:
Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận mà một nhà tư bản đầu tư thu được tính theo tỷ suất lợi
nhuận bình quân mà không kể cấu tạo hữu cơ của nó là như thế nào. Lợi nhuận bình quân che
dấu nguồn gốc, bản chất của nó, dù các nhà tư bản cá biệt sản xuất ra giá trị thặng dư khác nhau
song lại thu về lợi nhuận bình quân như nhau. Thực tế lợi nhuận bình quân chỉ là sự bình quân
giá trị thặng dư của các ngành. Xét chung toàn xã hội thì tổng lợi nhuận bình quân = tổng giá trị
thặng dư.
Lợi nhuận doanh nghiệp là một phần lợi nhuận trung bình sau khi đã trừ đi phần lợi tức,
tức là một phần lợi nhuận trung bình mà các nhà tư bản công, thương nghiệp thu được khi sử
dụng tư bản cho vay vào hoạt động sản xuất - kinh doanh thu lợi nhuận, trả cho nhà tư bản cho
vay. Sự phân chia lợi nhuận trung bình thành hai bộ phận chỉ là sự phân chia về lượng giữa hai
người có cùng quyền đối với cùng một tư bản và cùng một lợi nhuận. Điều này tạo cảm giác: lợi
tức là kết quả tự nhiên của quyền sở hữu TB, còn lợi nhuận doanh nghiệp được hiểu là công lao
hoạt động của nhà TB biểu hiện là tiền công của lao động quản lý.
Tại sao tư bản cho vay không tham gia vào phân phối lợi nhuận bình quân:
Trong XH tư bản, tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà người chủ của nó
cho nhà tư bản khác sử dụng trong thời gian nhất định để nhận được tiền lời nào đó gọi là lợi
tức. Tư bản cho vay có đặc điểm là quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng và tư bản cho vay là
một hàng hoá đặc biệt mà người cho vay không mất quyền sở hữu và người đi vay chỉ được mua
quyền sử dụng trong thời gian nhất định. Tư bản cho vay vận động theo công thức: T – T’. Nó
cho thấy sự phát triển của hàng hoá tiền tệ đến một trình độ nhất định.

Lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân mà tư bản đi vay trả cho tư bản cho vay về quyền
sở hữu tư bản để quyền được sử dụng tư bản trong một thời gian nhất định, kí hiệu là Z.
Người cho vay và người đi vay sẽ thoả thuận với nhau về tỷ suất lợi tức Z’. Đó là tỷ lệ
phần trăm giữa tổng số lợi tức Z và số tư bản tiền tệ cho vay Kcv trong một thời gian nhất định.
Ta có: Z’ = Z/K . 100%.
Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận bình quân và quan hệ cung - cầu về tư
bản cho vay. Tỷ suất lợi nhuận bình quân luôn lớn hơn 0 và nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình
quân.
22
Tóm lại, thực chất thì lợi tức cũng có nguồn gốc là giá trị thặng dư. Đó chính là phần giá
trị thặng dư nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay để có quyền sử dụng tư bản trong
một thời gian nhất định.
Câu 8: Phân biệt: tiền với tư bản, tư bản với vốn; bóc lột trong phương thức sản
xuất TBCN với các hình thức bóc lột trong các phương thức sản xuất khác trong lịch sử.
Bài làm:
Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hóa, là sản phẩm của quá trình phát triển sản
xuất và trao đổi hàng hóa, là phương tiện được thừa nhận chung cho việc trao đổi, mua bán hàng
hóa, dịch vụ. Hàng hóa là sự thống nhất giữa hai mặt giá trị sử dụng và giá trị. Trong lịch sử
phát triển của trao đổi hàng hóa, hình thái giá trị cũng phát triển từ thấp đến cao, từ hình thái
giản đơn ngẫu nhiên, tới hình thái mở rộng, hình thái chung, hình thái tiền tệ. Hình thái giản đơn
hay ngẫu nhiên: hàng đổi lấy hàng. Có nghĩa là giá trị hàng hóa này trở thành hình thức biểu
hiện giá trị của hàng hóa kia. Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên là mầm mống phôi thai hình
thành hình thái tiền tệ; và hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá là hình thái phôi thai của tiền tệ.
Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển, năng suất lao động tăng lên, sản
phẩm thặng dư nhiều, do đó, trao đổi trở nên đều đặn và thường xuyên hơn. Giá trị hình thái đầy
đủ hay mở rộng. Trong quá trình trao đổi đã xuất hiện hàng diện được mọi người thừa nhận là
đại biểu cho giá trị, có thể dùng để đổi lấy mọi hàng hóa khác. Đây là hình thái chung của giá
trị Các hàng hóa đều biểu hiện giá trị của mình ở giá trị sử dụng của một thứ hàng hóa đặc biệt
đóng vai trò vật ngang giá chung.
Khi LLSX và phân công lao động XH phát triển cao hơn, SXHH và thị trường ngày

càng mở rộng, xuất hiện tình trạng có nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi gặp khó khăn,
do đó, cần có một hình thái vật ngang giá chung thống nhất, đó là tiền tệ. Bản chất của tiền tệ là
hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa, nó thể hiện lao
động XH và biểu hiện quan hệ giữa những SXHH.
Tiền không ra đời cùng với sự ra đời của kinh tế HH. Nó chỉ xuất hiện khi SXHH đạt tới
một trình độ phát triển nhất định, khi đó, một HH được xem là vật ngang giá chung cho tất cả
các HH khác, gọi là tiền. Tiền là hình thái cao nhất của giá trị. Khi tiền là HH có các chức năng:
thước đo giá của HH; môi giới trong trao đổi lưu thông HH; phương tiện cất trữ; phương tiện
thanh toán; và phương tiện thanh toán quốc tế.
Ngày nay, thị trường ngày càng mở rộng, khối lượng HH ngày càng lớn, tiền được rút
vào chức năng cất trữ, thanh toán… Tiền là sản phẩm của lưu thông HH, đồng thời, cũng là hình
thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Trên thị trường tư bản được biểu hiện trước hết bằng một
lượng tiền nhất định, tuy nhiên không phải lúc nào tiền cũng là tư bản.
Tiền trong lưu thông HH giản đơn vận động theo công thức H - T - H.
Tiền với tính cách là tư bản vận động theo công thức T-H-T'.
So sánh hai công thức lưu thông để phân biệt tiền và tư bản:
* Giống nhau: đều cấu thành bởi hai nhân tố hàng và tiền, đều chứa đựng hai hành vi đối
lập nhau là mua và bán, đều biểu hiện quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán.
* Khác nhau:
- Lịch sử ra đời:
Tiền xuất hiện từ lâu cùng với hàng hóa (tiền bản chất cũng là hàng hóa) trong khi TB
xuất hiện từ tK XV-XVI
Tiền là hình thái đầu tiên để hình thành TB
Do sự phát triển của hình thái ngang giá (đơn nhất đến hình thái cao nhất là tiền)
23
- Quá trình lưu thông:
- Lưu thông HH giản đơn bắt đầu bằng hành vi bán (H-T) và kết thúc bằng hành vi mua
(T-H). Điểm xuất phát và kết thúc của quá trình đều là HH, tiền chỉ đóng vai trò trung gian.
Ngược lại, lưu thông của tiền với tư cách là tư bản bắt đầu bằng hành vi mua (T-H) và
kết thúc bằng hành vi bán (H-T'), tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết thúc của quá trình,

còn HH đóng vai trò trung gian.
- Mục đích lưu thông HH giản đơn là giá trị sử dụng nên HH trao đổi với nhau có giá trị
khác nhau. Còn mục đích của lưu thông tư bản là giá trị và giá trị lớn hơn nên số tiền thu về phải
lớn hơn số tiền ứng ra. Với tư cách là tư bản, tiền vận động theo công thức: T - H - T', trong đó,
T' = T + t (t là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, gọi là giá trị thặng dư).
- T - H - T' (T' = T +m) là công thức vận động chung của tư bản, vì tư bản dù ở hình thái
cụ thể nào cũng đều tạo ra giá trị thặng dư.
- Về bản chất xã hội: tiền đóng vai trò là vật ngang giá, trao đổi giữa người và người trên
cơ sở thuận mua vừa bán
Còn tư bản thể hiện mối quan hệ bóc lột giữa người chủ và lao động làm thuê, do chế độ
quy định quyền tư hữu về TLSX
- Chức năng: tiền có 05 chức năng là thước đo giá trị, môi giới trong lưu thông hàng
hóa, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán và chức năng tiền tệ quốc tế.
Còn TB có 01 chức năng duy nhất là vận động để tạo ra giá trị thặng dư cho nhà TB
- Về cơ cấu:
Tư bản chia ra là TBCĐ- TBLĐ, TBBB-TBKB trong khi tiền thì không có
Tóm lại, tiền chỉ trở thành tư bản khi tiền được chuyển thành HH để thu được giá trị
thặng dư. Vì vậy, trong quá trình tạo ra giá trị, và làm tăng giá trị thì "tư bản là tiền, tư bản là
HH".
Theo quan niệm của kinh tế cổ điển: tiền là vốn, đồng thời tiền cũng là tư bản. Khi lực
lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thừa ngày càng nhiều, những
người tổ chức sản xuất bán hàng hóa và thu được một số tiền, số tiền nhàn rỗi này trở thành vốn,
tư bản khi người sở hữu nó ứng ra trước để mua tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động hay
gọi là tổ chức sản xuất. Tuy nhiên, theo quan niệm của kinh tế chính trị Mác - Lênin, để phân
biệt vốn và tư bản dựa trên mục đích và bản chất của việc sử dụng tiền nhàn rỗi: tiền là tư bản
khi nó mang yếu tố bóc lột giá trị thặng dư; tiền là vốn khi tiền được mang đi đầu tư kinh doanh
nói chung. Ngoài ra, vốn còn được hiểu là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra được tích
lũy lại và những của cải của tự nhiên như đất đai, khoáng sản…
Giá trị thặng dư do công nhân kao động làm thuê tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt nên tư
bản là mối quan hệ giữa nhà tư bản với người lao động làm thuê. Chính quy luật sản xuất giá trị

thặng dư đã làm rõ bản chất bóc lột của CNTB.
Để hiểu rõ bóc lột trong PTSX TBCN với các hình thức bóc lột trong PTSX khác trong
lịch sử, ta cần tìm hiểu điều kiện ra đời, phát triển và đánh giá vai trò của PTSX TBCN
Hình thức sản xuất của một nền kinh tế là cách thức tổ chức của nền kinh tế đó, trong
lịch sử phát triển của XH loài người, có các hình thức sản xuất: SX tự cung, tự cấp, SX mang
tính hành chính và SXHH. SXHH là sản xuất mà trong đó mọi hàng vi SX và trao đổi HH để
thỏa mãn những vấn đề cơ bản của con người, của XH. Nó tồn tại trong PTSX chiếm hữu nô lệ,
phong kiến và TBCN. Như vậy sự ra đời của SXHH gắn liền với sự phân công lao động XH và
sự tách biệt tương đối về kinh tế giữa những người SXHH. Trong các PTSX nói trên đều dựa
trên chế độ tư hữu tư nhân về TLSX nhưng với tính chất và trình độ khác nhau.
24
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến, tổ chức SX chỉ dưới hình thức giản đơn,
nhỏ lẻ người trực tiếp SX ra HH là những nô lệ hoặc những người nông dân không có TTSX, bị
các chủ nô, địa chủ cưỡng bức sức LĐ bóc lột bằng cách chiếm đoạt sản phẩm của họ làm ra
(CHNL) và bằng hình thức địa tô (Phong kiến).
LLSX phát triển, năng suất LĐ tăng cao, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, nhu cầu về
trao đổi HH càng lớn, trong quá trình trao đổi của quy luật giá trị, sự biến động của giá cả, cạnh
tranh đã làm phân hóa những người sản xuất thành người giàu, trở thành ông chủ, những người
nghèo trở thành người làm thuê. Bên cạnh đó, quá trình tích lũy ban đầu của TB bằng bạo lực đã
tạo cho người giàu đủ điều kiện xây dựng nhà máy, mua nguyên vật liệu và thuê công nhân SX
với quy mô lớn hơn nhằm thu lợi nhuận, PTSX TBCN được hình thành.
PTSX TBCN ra đời từ sự chuyển kinh tế HH giản đơn thành KT HH TBCN, chúng phải
có hai điều kiện: có sự tập trung một số tiền lớn tay một số ít người đủ để lập các xí nghiệp, nhà
máy; và có một số người tự do, không có TLSX buộc phải bán sức LĐ cho nhà TB.
Mục đích của PTSX TBCN là tạo ra giá trị thặng dư thông qua việc bóc lột sức LĐ của
người công nhân làm thuê. Khác với các hình thức bóc lột khác, bóc lột trong PTSX TBCN: bên
bóc lột là nhà TB, bên bị bóc lột là SLĐ của người công nhân làm thuê. Nhà TB mua được HH
đặc biệt là HH SLĐ, khai thác, sử dụng triệt để tạo ra giá trị lớn hơn nó, mà người LĐ làm thuê
không được hưởng để tái tạo SLĐ mà do TB chiếm đoạt toàn bộ. Các hình thức bóc lột giá trị
thặng dư:

- Tăng thời gian lao động tất yếu (tăng giờ làm, không tăng lương).
- Tăng thời gian lao động thặng dư (tăng cường độ lao động).
- Rút ngắn thời gian lao động, hạ thấp tiền lương.
Tóm lại, PTSX TBCN có sự thống nhất giữa quá trình sản xuất với quá trình lưu thông
TB dựa trên cơ sở nền sản xuất đại công nghiệp và chế độ tư hữu TBCN về TLSX. Điểm khác
nhau cơ bản của PTSX TBCN với các PTSX khác là ở tính chất, quy mô và trình độ tổ chức sản
xuất cũng như trình độ bóc lột giá trị thặng dư đối với sức lao động của người công nhân làm
thuê ở mức cao hơn, tinh vi hơn.
Bản chất của PTSX TBCN là bóc lột giá trị thặng dư, nhưng nó cũng có ý nghĩa to lớn:
giải phóng sức lao động, lần đầu tiên trong lịch sử loài người SLĐ trở thành HH, người lao động
được sở hữu SLĐ của mình; tích lũy và tạo ra một khối lượng của cải vật chất khổng lồ cho xã
hội; kiểu tổ chức SX dựa trên nền SX đại công nghiệp, từ đó phát triển đội ngũ công nhân có
trình độ cao, tính kỷ luật; làm chủ được nền KHKT hiện đại, nắm xu thế về vốn; tạo lập được thị
trường thế giới thống nhất, hình thành các tổ chức kinh tế, mạng lưới kinh doanh có hiệu quả.
Là điều kiện tiền đề cho sự ra đời của PTSX mới - PTSX cộng sản chủ nghĩa.
Chứng minh: TB vừa sản xuất trong lưu thông vừa ngoài lưu thông, vừa ngoài SX, vừa
trong quá trình SX. Theo công thức lưu thông T - H - T': hiểu theo nghĩa đơn giản: nhà TB ứng
trước một lượng TB nhất định để tổ chức SX rồi thu về một lượng TB lớn hơn trước. Xét cho
cùng TB vừa sinh ra trong lưu thông và ngoài lưu thông, vừa trong quá trình SX vừa ngoài SX,
cả 4 quá trình đều tạo ra giá trị thặng dư.
- Lưu thông: là quá trình trao đổi giữa mua và bán. Trong quá trình trao đổi nếu ngang
giá thì giá trị HH trước và sau khi mua - bán không đổi; trong trường hợp trao đổi không ngang
giá, giá trị cao hơn giá trị sử dụng thì người bán có lãi, ngược lại thì người mua hưởng được lợi,
như vậy tổng giá trị XH không thay đổi. Do đó, lưu thông trong TB là hình thức bóc lột, đầu cơ
hoặc lợi dụng thị trường khan hiếm để nâng cao giá trị thặng dư.
- Trong quá trình SX: bằng mọi hình thức, TB đều mang lại giá trị thặng dư theo công
thức: T' = T + t. T' có được chủ yếu nhờ vào sức Lđ của công nhân làm thuê tại ra bị nhà TB
chiếm đoạt.
25
Như vậy, trong SX giá trị thặng dư của nhà TB vừa tạo ra trong SX, vừa tạo ra trong lưu

thông. Nếu như tiền không đầu tư cho SX thì không mang lại giá trị cao hơn, HH không tham
gia quá trình lưu thông thì không tạo ra được giá trị thặng dư.

×