Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tài liệu ôn thi môn Kinh tế phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.05 KB, 20 trang )

Câu 1: Bằng lý luận thực tiễn về tăng trưởng, phát triển và phát triển bền vững,
anh, chị hãy giải thích tăng trưởng, phát triển và phát triển bền vững là mục tiêu chủ
yếu của Việt Nam hiện nay.
Ngày nay, khả năng, trình độ tăng trưởng, phát triển kinh tế là điều kiện quyết định
sự tồn tại của một quốc gia trong xu hướng phát triển chung của thế giới. Mỗi quốc gia cần
chọn cho mình hướng tăng trưởng, phát triển phù hợp với yêu cầu, điều kiện, phù hợp xu
hướng quốc tế. Vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng đáng lưu tâm cùng với sự phát triển
của nền kinh tế. Thu nhập của người dân được cải thiện, mức sống được nâng dần cả ở
thành thị lẫn nông thôn, đồng thời khoảng cách giàu nghèo trong xã hội cũng tăng lên rõ rệt.
Vì vậy phát triển bền vững là mục tiêu chủ yếu của sự phát triển, từ đó giúp mọi người
trong xã hội đều có quyền bình đẳng và gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường.
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm về quy mô sản lượng hàng hóa và dịch vụ
trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự mở rộng
sản lượng của một nền kinh tế hay một nước. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự tăng trưởng
mức sống của một quốc gia thông qua sự tăng lên theo đầu người của sản lượng hay thu
nhập của một nền kinh tế. Các nước muốn thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu đều đặt cho
mình mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, lâu dài và trên cơ sở đó, các nước tiếp tục thực hiện
các mục tiêu chính trị - xã hội quan trọng khác. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng
kinh tế là vốn, con người, khoa học và công nghệ, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản
lý nhà nước. Trong đó con người và thể chế chính trị là hai nhân tố có vai trò đặc biệt quan
trọng. Các nghiên cứu cho thấy tăng trưởng kinh tế chỉ là điều kiện cần chứ chưa là điều
kiện đủ cho giảm nghèo.
Phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến của nền kinh tế trên các mặt, bao gồm cả sự
tăng thêm về quy mô sản lượng, tiến bộ về cơ cấu kinh tế – xã hội. Đó là sự tiến bộ, thịnh
vượng và cuộc sống tốt đẹp hơn. Sự phát triển của một nền kinh tế được xác định thông qua
các chỉ số cơ bản:
Các chỉ số xã hội của phát triển đó là chăm sóc sức khỏe cộng đồng (tuổi thọ trung
bình của dân cư…); trình độ học vấn của dân cư là chỉ tiêu phản ánh chất lượng trí tuệ của
đội ngũ lao động và dân cư; mức sống về vật chất và tinh thần, trong đó gồm các chỉ số về
tình trạng đói nghèo, mức thất nghiệp, bất bình đẳng về thu nhập.
Các chỉ số về cơ cấu kinh tế bao gồm chỉ số về tỷ trọng ba ngành kinh tế nông


nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; chỉ số về tiết kiệm và đầu tư; và tỷ lệ dân số đô thị và nông
thôn.
Các chỉ số tổng hợp về trình độ phát triển bao gồm chỉ số phát triển con người, chỉ
số chất lượng vật chất cuộc sống, chỉ số nghèo của con người.
Tăng trưởng kinh tế không luôn đồng nghĩa với phát triển kinh tế, nhưng nhất thiết
phải có tăng trưởng kinh tế mới có phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần
đối với phát triển kinh tế, nhưng chưa phải là điều kiện đủ. Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở
vật chất, tài chính để giải quyết những yêu cầu, nội dung của phát triển. Tăng trưởng kinh tế
góp phần khai thác, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, đặc biệt là vốn, lao động
để đưa vào hoạt động. Tăng trưởng kinh tế có tác động dây chuyền: các ngành có mức tăng
trưởng kinh tế thông qua các liên kết kinh tế với các ngành khác sẽ thúc đẩy lẫn nhau tăng
trưởng, và toàn bộ nền kinh tế chuyển động theo hướng có tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế
bản thân nó tạo vô số cơ hội tăng trưởng ổn định và cao, thúc đẩy các mối quan hệ nêu trên
lên một trình độ, quy mô mới. Phát triển kinh tế chi phối mục tiêu, phương thức đạt được sự
tăng trưởng kinh tế, chi phối sự phân chia thành quả của tăng trưởng kinh tế. Nói cách khác,
phát triển kinh tế trả lời cho câu hỏi: Tăng trưởng kinh tế vì ai? Tăng trưởng kinh tế do ai
và bằng cách nào? Ai là người hưởng các thành quả của tăng trưởng và với quy mô, số
lượng, chất lượng như thế nào? Về lâu dài, phát triển kinh tế góp phần tái tạo các nguồn
lực, củng cố các điều kiện để phát triển.
Có thể thấy, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế là mối quan
hệ biện chứng, là biểu hiện của quan hệ giữa số lượng và chất lượng. Đó là mối quan hệ hai
chiều đặt trong quá trình vận động không ngừng của nền kinh tế.
Phát triển bền vững là sự phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ cao, liên tục trong
thời gian dài, dựa trên việc khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên mà vẫn bảo vệ
được môi trường hệ sinh thái nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay nhưng không làm cạn
kiệt tài nguyên, để lại hậu quả xã hội cho thế hệ tương lai.
Kế thừa những thành quả lý luận và kinh nghiệm của các nước, khu vực trên thế giới,
Đảng ta bước đầu đưa ra quan điểm về phát triển bền vững như là một quan điểm chỉ đạo,
chi phối mọi hoạt động của đời sống xã hội, chứ không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Đó là phát triển kinh tế - xã hội bền vững mà trong đó nội dung

bền vững được hiểu là bền vững về các mặt kinh tế - tài chính, môi trường, chính trị - xã
hội, quốc phòng – an ninh, và văn hóa.
Về kinh tế - tài chính, ngoài hiệu quả kinh tế, hiệu quả về tài chính cần được quan
tâm và xem xét thỏa đáng. Thời gian qua có không ít dự án hiệu quả về kinh tế nhưng mức
độ rủi ro cao về tài chính, gây ra những sự đổ vỡ. Bên cạnh đó, đối với những dự án vay vốn
nước ngoài, việc cân đối tài chính của những dự án này cần được quan tâm đúng mức do
liên quan đến khả năng trả nợ nước ngoài của đất nước, tránh để lại gánh nặng nợ nần cho
các thế hệ sau.
Về môi trường, đây là sự tái khẳng định sự thống nhất và quyết tâm theo đuổi việc
gắn tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái, môi trường sống
ở nước ta.
Về chính trị - xã hội, phát triển kinh tế phải gắn liền với ổn định CT – XH. Ổn định
CT-XH là điều kiện tiên quyết, là tiền đề cho tăng trưởng và phát triển. Tăng trưởng và phát
triển tạo cơ sở vật chất và tinh thần cho sự ổn định CT-XH.
Về quốc phòng – an ninh, tăng trưởng và phát triển không thể tách rời nhiệm vụ
đảm bảo QP-AN. Đây là một nội dung căn bản trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
Về văn hóa, “Văn hóa và kinh tế có quan hệ gắn bó hữu cơ, là mục tiêu, động lực
nhau. Xây dựng và phát triển văn hóa lành mạnh nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển mạnh mẽ
và vững chắc…”. “Phấn đấu đảm bảo duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững, thì mới có điều
kiện phát triển văn hóa mới. Cả kinh tế và văn hóa phải hòa quyện vào nhau ”.
Đại hội XI đã đánh giá những thành tựu, yếu kém qua 5 năm thực hiện Nghị quyết
đại hội X, 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010 và 20 năm
thực hiện cương lĩnh năm 1991:
Về thành tựu: Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản
ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước
ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển; giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá
và các lĩnh vực xã hội có tiến bộ; bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời
sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định
Về hạn chế, yếu kém: Bên cạnh những thành tựu nói trên, một số chỉ tiêu, nhiệm vụ

Đại hội X đề ra chưa đạt được. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn
chậm; các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc; chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý.
Những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ,
văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường chậm được khắc phục; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Thể
chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm yếu
cản trở sự phát triển.
Việc đánh giá những thành tựu, tồn tại, yếu kém có thể coi đó là cơ sở thực tiễn để
Đảng, Nhà nước lựa chọn mô hình tăng trưởng, phát triển trong bối cảnh phải thực hiện
nhiệm vụ chiến lược trong thời kỳ phát triển tiếp theo công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế.
Trong điều kiện như vậy, phát triển bền vững là xu hướng phát triển tất yếu của Việt
Nam vì:
- Thứ nhất, như phân tích trên, vấn đề hướng đến phát triển bền vững ở Việt Nam có
đầy đủ cơ sở khoa học và thực tiễn để chứng minh tính khoa học, đúng đắn, hợp lý của nó.
- Thứ hai, Trong bối cảnh VN tiến hành CNH – HĐH cần gắn tăng trưởng kinh tế,
phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sống, với ổn định chính trị và công bằng xã hội.
Đây chính là nội dung của phát triển bền vững và do vậy phát triển bền vững là điều kiện để
thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
- Thứ ba, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, phát triển kinh tế phải đi liền với
ổn định chính trị, đi đôi với phát triển văn hoá, giữ gìn bản sắc dân tộc.
Hơn nữa, quá trình CNH – HĐH, hội nhập quốc tế hiện nay ở VN không thể không
quan tâm đến vấn đề lấy con người làm trung tâm, đảm bảo hài hòa ba yếu tố kinh tế – xã
hội – môi trường; đảm bảo tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ công
bằng xã hội, khoa học – công nghệ là nền tảng cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Trên cơ sở khoa học và thực tiễn của các mô hình tăng trưởng kinh tế, Việt Nam
chúng ta đã chọn mô hình phát triển bền vững làm mô hình tăng trưởng phát triển của mình.
Đại hội XI đã cụ thể hoá sự lựa chọn này bằng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 –
2020. Với quan điểm: Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền

vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược; Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính
trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người
là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển; Phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan
hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Nhận thức tầm quan trọng của phát triển bền vững, lãnh đạo tỉnh Long An đã thực
hiện nhiều giải pháp để tỉnh có thể phát triển nhanh và bền vững. Trước hết, lãnh đạo tỉnh
đã mời đơn vị tư vấn nước ngoài (Nhật) thực hiện quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội và xem
đây là định hướng chính trong phát triển kinh tế-xã hội tỉnh nhà; trong đó, phân địa giới
Tỉnh thành ba khu vực, khu vực trọng điểm phát triển công nghiệp, khu vực trọng điểm phát
triển nông nghiệp và khu vực sinh thái.
Trong định hướng phát triển chung, nội dung trọng tâm là giải quyết tốt ba điểm
nghẽn trong phát triển, thứ nhất là phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá; thứ hai, nhà nước tăng đầu tư, kêu gọi các thành phần kinh tế tham gia
đầu tư cơ sở hạ tầng (trọng tâm là giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc ); thứ ba, tiếp
tục đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính.
Trong nông nghiệp, chủ trương chung là đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá
trong sản xuất, trước hết là cơ khí hoá; đổi mới phương thức sản xuất, đẩy mạnh liên kết,
hợp tác trong nông nghiệp. Thực hiện tốt chương trình tam nông (nông nghiệp, nông thôn
và nông dân); vừa đảm bảo yêu cầu phát triển nông nghiệp nông thôn, đảm bảo an ninh
lương thực. Xây dựng nông thôn mới; thu hút các loại hình doanh nghiệp phù hợp về đầu tư
ở nông thôn; chuyển dịch dần cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các loại hình phi nông
nghiệp. Tăng đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn ít nhất 25%/năm (nghị quyết Đại
hội đảng bộ tỉnh lần IX 2010-2015); xây dựng cánh đồng giá trị tăng thêm trên 25 triệu/héc
ta/năm.
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp tại khu vực tiếp giáp thành phố Hồ Chí Minh và
các khu vực thuận tiện về giao thông. Thu hút các doanh nghiệp ít thâm dụng lao động, đất
đai về đầu tư; ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến, công nghiệp tiêu thụ sản phẩm nông

nghiệp của Tỉnh, công nghiệp cơ khí và công nghiệp hỗ trợ phát triển nông nghiệp.
Tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp để phát triển dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính,
ngân hàng, viễn thông; hệ thống dịch vụ phục vụ phát triển công nghiệp và dân sinh.
Trong từng bước phát triển luôn phải đảm bảo yếu tố môi trường, chủ trương chung
của Tỉnh là “chưa bố trí tái định cư xong chưa khởi công xây dựng dự án; chưa có hệ thông
xử lý chất thải chưa đưa vào sử dụng”. Bảo vệ nghiêm môi trường cặp 2 dòng sông Vàm Cỏ
Đông và Vàm Cỏ Tây. Quy hoạch, đầu tư và thu hút đầu tư các khu xử lý chất thải, đảm bảo
xử lý tốt chất thải từ sản xuất và sinh hoạt.
Với nhiều giải pháp nêu trên, trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của
tỉnh luôn đạt ở mức cao tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 2006-2010 của tỉnh Long An
đạt 11,8%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, từng bước hình thành
cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp công nghệ cao, nhưng chậm so với kế
hoạch.
Tóm lại, sự tồn tại của xã hội không thể thiếu sự phát triển kinh tế. Song, đối với xã
hội văn minh thì sự phát triển kinh tế - xã hội không phải là mục đích duy nhất, không phải
là mục đích tự thân mà phải chính là để phục vụ con người, để phát triển con người. Để đạt
được một sự phát triển như vậy thì đối với mỗi quốc gia, trước hết, phải khắc phục hoặc
giảm tới mức thấp nhất sự chênh lệch giàu nghèo quá mức nhằm tạo cho mọi người có cơ
hội phát triển. Nếu một sự phát triển chỉ lấy GDP làm thước đo duy nhất thì rất có thể đạt
được sự tăng trưởng kinh tế lẫn sự phát triển xã hội nhưng chưa hẳn môi trường sống - cơ sở
tồn tại tự nhiên của con người - đã được bảo vệ, chưa hẳn đã có sự tiến bộ xã hội và càng
chưa hẳn đã có sự phát triển con người. Do đó, cần phải gắn kết sự tăng trưởng kinh tế với
sự phát triển và tiến bộ xã hội, đặc biệt là với sự phát triển con người một cách bền vững,
với những cơ hội được tạo ra để cho con người tự lựa chọn.
Câu 2: Bằng lý luận và thực tiễn, phân tích vì sao phải kết hợp tăng trưởng kinh
tế với thực hiện tiến bộ và công bằng XH trong đổi mới, phát triển kinh tế ở Việt Nam
hiện nay.
Theo quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, sự nghiệp đổi mới và phát triển của
đất nước phải theo hướng phát triển bền vững với nhiều yêu cầu đặt ra phải quan tâm giải
quyết. Một trong những yêu cầu của phát triển bền vững là phải kết hợp tăng trưởng kinh tế

với thực hiện tiến bộ và công bằng XH .
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự tăng thêm về quy mô sản lượng hàng hóa và
dịch vụ trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Tăng trưởng kinh tế theo khái niệm
vừa nêu biểu hiện ở 2 đặc điểm chủ yếu: TTKT thể hiện sự mở rộng sản lượng của một nền
kinh tế hay một nước; TTKT thể hiện sự tăng mức sống của một quốc gia thông qua sự tăng
lên theo đầu người của sản lượng hay thu nhập của một nền kinh tế.
Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta thường dùng mức tăng lên của tổng sản
phẩm trong nước (GDP) hay tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Mức tăng đó thường tính trên
toàn bộ nền kinh tế quốc dân hay tính theo bình quân đầu người của thời kỳ sau so với thời
kỳ trước đó. Hai phương pháp để nhận dạng mức tăng trưởng kinh tế là tăng trưởng tuyệt
đối (mức tăng tuyệt đối sản lượng nền kinh tế) và tăng trưởng tương đối (tốc độ tăng trưởng
kinh tế).
Mô hình TTKT có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước. TTKT
có vai trò nhất định trong việc tham gia giải quyết những vấn đề kinh tế – xã hội của đất
nước. Tăng trưởng kinh tế biểu hiện đặc điểm cơ bản là số lượng hàng hóa tăng thông qua
mở rộng sản xuất kinh đoanh, có vai trò góp phần giải quyết vấn đề việc làm cho người lao
động. Từ đó góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp, làm cho nền kinh tế của người dân và của đất
nước ngày càng trở nên thịnh vượng.
Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở vật chất, tài chính, khai thác và huy động các nguồn
lực về vốn, lao động, KHCN cho sự phát triển kinh tế theo hướng phát triển bền vững.
TTKT chỉ thể hiệ sự biến đổi về lượng của nền KT theo thời gian.
Phát triển kinh tế là khái niệm rộng hơn và bao hàm trong nó yếu tố TTKT. Phát
triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân, nâng cao mức sống và cải thiện giáo dục, sức khoẻ
và bình đẳng về cơ hội là tất cả những thành phần của phát triển kinh tế. TTKT là một cách
cơ bản để có thể có được phát triển, nhưng trong bản thân, nó là một đại diện rất không toàn
vẹn của tiến bộ.
Công bằng xã hội là một phạm trù chính trị – xã hội thể hiện mối quan hệ giữa các
thành viên trong XH dựa trên nguyên tắc ngang bằng giữa cống hiến và hưởng thụ được
phản ánh chủ yếu thông qua phân phối thu nhập, thông qua khoảng cách giữa giàu và
nghèo.

Trong xã hội công bằng theo chiều ngang là đối xử như nhau đối với những người có đóng
góp như nhau, được điều tiết bởi cơ chế thị trường. Công bằng theo chiều dọc là đối xử
khác nhau đối với những người có khác biệt bẩm sinh hoặc có các điều kiện, hoàn cảnh kinh
tế xã hội. CBXH được thực hiện bởi cơ chế kinh tế, chế độ xã hội, pháp luật Nhà nước và sự
điều tiết của chính phủ.
TTKT, CBXH là những vấn đề mà bất cứ quốc gia nào trong quá trình phát triển
cũng phải quan tâm đến nội dung, cách thức, giải pháp thực hiện và việc cụ thể hoá các vấn
đề trên trong điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ đều xuất phát từ nhận
thức mối quan hệ giữa TTKT và CBXH. TTKT thuộc phạm trù kinh tế. CBXH thuộc phạm
trù chính trị – xã hội và do vậy, quan hệ kinh tế - xã hội cần giải quyết trong quá trình phát
triển và hơn nữa, các nhà khoa học từ phân tích lý luận và thực tiễn vấn đề TTKT và CBXH
5
ở một số nước đã chỉ ra rằng TTKT và CBXH có mối quan hệ biện chứng hoà quyện với
nhau trong sự mâu thuẫn tương tác thúc đẩy nhau cùng tiến lên. Trong mối quan hệ này,
TTKT tạo ra những điều kiện cho phép giải quyết các vấn đề XH ngày một tốt hơn và đến
lượt nó khi CBXH được mở rộng và tốt hơn sẽ tạo ra được động lực mới thúc đẩy TTKT.
Vòng xoáy của sự tiến bộ đó vận dụng không ngừng, tạo thành sự phát triển kinh tế thống
nhất và liên tục. Sự phát triển càng cao xã hội càng có điều kiện để rút ngắn những khoảng
cách chênh lệch, bất công giữa các vùng, các tầng lớp dân cư và giữa các thành viên trong
xã hội.
Quá trình phát triển theo xu hướng bền vững ở VN hiện nay - tất yếu nảy sinh yêu
cầu phải giải quyết vấn đề TTKT và CBXH. Việc giải quyết vấn đề TTKT và CBXH trong
PTBV dựa trên cơ sở nhận thức của chúng ta về CBXH, về quan hệ giữa TTKT và CBXH.
Trước đổi mới: quan niệm công bằng của nước ta là quá trình cắt và chia chiếc bánh GDP
theo hướng cào bằng, bình quân chủ nghĩa, đã làm triệt tiêu sự hăng say sáng tạo trong SX,
tăng trưởng kinh tế âm. Sau đổi mới, quan điểm của Đảng và NN ta đã thay đổi theo hướng
hiện đại, việc chia chiếc bánh GDP đã chú trọng theo hướng thuận lợi cho những ai chăm
chút năng động, chú trọng yếu tố đầu ra trong SX, tạo cơ hội cho các hoạt động kinh tế, tiếp
cận các nguồn lực, chú trọng cơ chế phân phối thu nhập cho người yếu thế hơn.
Công bằng trong kinh tế được thể hiện ở các nội dung là, đảm bảo sự tương ứng

giữa cống hiến và hưởng thụ, nghĩa vụ và quyền lợi, lao động và trả công lao động. Công
bằng về cơ hội tham gia các hoạt động kinh tế. Công bằng trong cơ hội tiếp cận các nguồn
lực; trong phân phối, thu nhập, cơ sở để phân phối là phân phối theo lao động, kết quả sản
xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế; phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực xã hội;
phân phối theo phúc lợi xã hội.
Chúng ta thấy rằng TTKT và CBXH là hai phạm trù khác nhau có quan hệ
biện chứng, tương tác trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa mâu thuẫn.
TTKT giữ vai trò là điều kiện vật chất để thực hiện CBXH. TTKT nâng khả năng
tích luỹ của nền kinh tế, từ đó tăng khả năng tái sản xuất mở rộng và đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về kinh tế giữa các vùng, miền. TTKT còn tạo
điều kiện tăng dự trữ quốc gia để thực hiện các chính sách xã hội đảm bảo cho CBXH.
Đến lược mình, mức độ CBXH thực hiện sẽ tạo điều kiện kích thích TTKT với nhịp
độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn: CBXH trong phân phối thu nhập hợp lý sẽ tăng
thu nhập cho người nghèo, giảm nghèo từ đó tạo hai tác động tích cực đến TTKT: Thứ nhất
là, mở rộng khả năng tích luỹ đầu tư trong bộ phận dân cư để góp phần TTKT. Thứ hai là,
khơi dậy tính năng động sáng tạo của người lao động, tạo điều kiện phát huy giá trị nguồn
nhân lực thúc đẩy quá trình TTKT. CBXH được thực hiện sẽ đảm bảo mức độ an sinh XH,
tạo sự đồng thuận XH và từ đó tạo động lực XH cho quá trình TTKT.
Giữa TTKT và CBXH không chỉ có quan hệ thống nhất mà giữa chúng còn có
nẩy sinh những quan hệ mâu thuẫn. Đó là quan hệ kiềm chế khả năng thực hiện, phát
triển và thậm chí có trường hợp loại trừ, loại bỏ nhau. Nói cách khác, TTKT và CBXH
không thể tồn tại song cùng nếu quan hệ mâu thuẫn xuất hiện. Song điều cần chú ý là
sự mâu thuẫn giữa TTKT và CBXH phát sinh từ các nguyên nhân:
Thứ nhất là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện để thực hiện CBXH, song do bản chất
của nó TTKT không tự phát đưa đến CBXH, không thể phân phối và đem thành quả TTKT
công bằng đến cho mọi đối tượng theo lý thuyết thẩm thấu.
Thứ hai là, quá trình tăng trưởng kinh tế trong kinh tế thị trường gắn với việc phân
bố tối ưu các nguồn lực sản xuất theo cơ chế thị trường. Vì vậy sẽ xuất hiện tình trạng phân
bổ không công bằng nguồn lực sản xuất trong phát triển các vùng, các miền. Nếu chúng ta
6

đáp ứng đúng, từ đó dẫn đến khả năng tăng trưởng, phát triển ở các vùng, các miền sẽ rất
khác nhau và dẫn đến bất bình đẳng.
Thứ ba là, trong điều kiện có hạn về năng lực tài chính, kinh tế. Nếu các nhà quản lý
tập trung chiếm giữ cho tăng trưởng kinh tế thì nguồn lực thực hiện CBXH sẽ giảm, từ đó
không khắc phục được tình trạng nghèo đói, bất bình đẳng.
Trên đây là những nguyên nhân từ việc nếu tập trung đầu tư thái quá cho TTKT thì
trong kinh tế thị trường tất yếu khả năng thực hiện các nội dung CBXH sẽ suy giảm hoặc
không thực hiện được. Song, ngược lại nếu các nhà quản lý tập trung thái quá vào đảm bảo
CBXH từ hoạt động đảm bảo phúc lợi XH thì khả năng TTKT sẽ suy giảm hoặc các nội
dung TTKT không có cơ hội, điều kiện thực hiện do việc tập trung thái quá vào hoạt động
phúc lợi XH để đảm bảo CBXH sẽ dẫn đến các hệ quả đó là: Triệt tiêu động lực kinh tế
cho quá trình TTKT; giảm khả năng đầu tư cho TTKT, giảm tốc độ TTKT; tạo cơ hội
cho tham nhũng, quan liêu phát triển trong hoạt dộng của bộ máy quản lý và từ đó triệt
tiêu khả năng tăng trưởng nhanh, bền vững.
Quan hệ mâu thuẫn giữa TTKT và CBXH trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam là tất yếu khách quan, nhưng vấn đề cơ bản đặt ra đối với các nhà quản
lý là phải có các giải pháp tác động vào các nguyên nhân hình thành để giảm khả năng xuất
hiện mâu thuẫn và từ đó đảm bảo điều kiện cho quan hệ thống nhất giữa TTKT và CBXH,
hình thành phát triển cơ sở thực tiễn để giải quyết vấn đề TTKT và CBXH ở VN chính là
những thành tựu, những yếu kém, tồn tại trong quá trình TTKT và thực hiện CBXH theo
đánh giá của ĐH XI:
Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô,
duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, các ngành đều có bước phát triển, tiềm lực và quy mô
nền kinh tế tăng lên Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Đại hội, kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá chậm; chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, phân hoá giàu nghèo
tăng lên
Quá trình tổ chức thực hiện TTKT và đảm bảo CBXH ở VN được thực hiện trên cơ

sở nhận thức sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa TTKT và CBXH, để tạo đà cho phát triển
KTXH đến năm 2020 và những năm tiếp theo, Nghị quyết đại hội XI của Đảng chủ trương:
“ phải thật sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững. Nâng cao
chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh
tế vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và
hiệu quả các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản xuất
phải đồng thời xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố và tăng cường các
yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế”.
“ phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình
hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố quốc
phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Nhận thức tầm quan trọng của phát triển bền vững, lãnh đạo tỉnh Long An đã thực
hiện nhiều giải pháp để tỉnh có thể phát triển nhanh, bền vững kết hợp đảm bảo tiến bộ và
công bằng xã hội. Trong định hướng phát triển chung, nội dung trọng tâm là giải quyết tốt
7
ba điểm nghẽn trong phát triển, thứ nhất là phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thứ hai, nhà nước tăng đầu tư, kêu gọi các thành phần kinh
tế tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng (trọng tâm là giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc );
thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính.
Trong nông nghiệp, chủ trương chung là đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá
trong sản xuất; đổi mới phương thức sản xuất, đẩy mạnh liên kết, hợp tác trong nông
nghiệp. Thực hiện tốt chương trình tam nông (nông nghiệp, nông thôn và nông dân); vừa
đảm bảo yêu cầu phát triển nông nghiệp nông thôn, đảm bảo an ninh lương thực. Xây dựng
nông thôn mới; thu hút các loại hình doanh nghiệp phù hợp về đầu tư ở nông thôn; chuyển
dịch dần cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các loại hình phi nông nghiệp. Tăng đầu tư
cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn ít nhất 25%/năm (nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần
IX 2010-2015); xây dựng cánh đồng giá trị tăng thêm trên 25 triệu/héc ta/năm.

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp tại khu vực tiếp giáp thành phố Hồ Chí Minh và
các khu vực thuận tiện về giao thông. Thu hút các doanh nghiệp ít thâm dụng lao động, đất
đai về đầu tư; ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến, công nghiệp tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp của Tỉnh, công nghiệp cơ khí và công nghiệp hỗ trợ phát triển nông nghiệp.
Tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp để phát triển dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính,
ngân hàng, viễn thông; hệ thống dịch vụ phục vụ phát triển công nghiệp và dân sinh.
Trong từng bước phát triển luôn phải đảm bảo yếu tố môi trường, chủ trương chung
của Tỉnh là “chưa bố trí tái định cư xong chưa khởi công xây dựng dự án; chưa có hệ thông
xử lý chất thải chưa đưa vào sử dụng”. Bảo vệ nghiêm môi trường 2 dòng sông Vàm Cỏ
Đông và Vàm Cỏ Tây. Quy hoạch, đầu tư và thu hút đầu tư các khu xử lý chất thải, đảm bảo
xử lý tốt chất thải từ sản xuất và sinh hoạt.
Tóm lại, từ lý luận và thực tiễn vừa trình bày ở phần trên cho thấy, trong đổi mới
phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay, vấn đề TTKT đi liền với tiến bộ và CBXH là chủ
trương đúng đắn của Đảng. Qua phân tích mối quan hệ giữa TTKT và CBXH, từ thực
tiễn lãnh đạo của Đảng trong phát triển kinh tế – xã hội của đất nước theo hương phát
triển bền vững, có thể nói rằng cần phải kết hợp TTKT với tiến bộ và CBXH vì yêu cầu
khách quan của quá trình phát triển là phải giải quyết cùng lúc TTKT với tiến bộ và CBXH,
không thể có việc chú trọng TTKT trước rồi mới giải quyết vấn đề CBXH mà phải giải
quyết ngay từ đầu, kết hợp ngay từ đầu vấn đề TTKT và CBXH.
8
Câu 3: Trình bày vai trò của nguồn lao động và nêu đặc điểm, định hướng và
giải pháp nguồn lao động Việt Nam.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, nguồn lực lao động là một trong
những nguồn lực có vai trò đặc biệt quan trọng mang tính quyết định. Nền kinh tế càng phát
triển, xã hội càng tiên tiến đòi hỏi chất lượng nguồn lực lao động ngày càng cao, người lao
động phải có đủ năng lực, trình độ, sức khoẻ để tham gia vào các hoạt động của xã hội.
Ngày nay, sự phát triển của khoa học công nghệ với những thành tựu của nó chi phối mọi
lĩnh vực KT-XH nhưng cũng không thể thay thế vai trò của nguồn lực Lao động. Hơn nữa,
nguồn lực Lao động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ, thiết bị và sử dụng chúng vào quá
trình phát triển KT.

Nguồn lực lao động là tập hợp những người đang trong độ tuổi lao động, có điều
kiện về thần kinh, cơ bắp đảm bảo điều kiện lao động, đang tham gia lao động hoặc đang
tích cực tìm kiếm việc làm.
Lao động là một bộ phận của các yếu tố đầu vào của quá trình phát triển kinh tế,
đồng thời là nhân tố quyết định việc tái tạo, sử dụng, phát triển các nguồn lực khác. Do đó
để sử dụng hợp lý và hiệu quả các nguồn lực khác cần quan tâm sự phát triển cao của nguồn
Lao động, nhất là về thể chất, trình độ VH, kỹ thuật, trình độ quản lý và lòng nhiệt tình…
nếu thiếu một nguồn lực Lao động chất lượng cao có thể làm lãng phí, cạn kiệt và hủy hoại
các nguồn lực khác.
Nguồn lao động trong phát triển cần được xem xét ở hai mặt số lượng, chất lượng
nguồn lao động. Số lượng nguồn lao động được phân tích qua các chỉ tiêu phản ảnh quy mô
nguồn lao động, cơ cấu nguồn lao động theo độ tuổi, giới tính, lãnh thổ Chất lượng nguồn
lao động là trạng thái của nguồn lao động, thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành
bản chất của nguồn lao động như sức khoẻ, năng khiếu, kiến thức, phong cách, trình độ học
vấn, trình độ chuyên môn.
Số lượng, chất lượng nguồn lao động xã hội trong từng thời kỳ có biến động và sự
biến động nguồn lao động chịu ảnh hưởng của các nhân tố: Quy mô và tốc độ tăng dân số,
Cơ cấu dân số theo độ tuổi (tháp tuổi), Quy định về độ tuổi lao động của từng quốc gia, Tỷ
lệ dân số trong độ tuổi lao động nhưng không tham gia vào hoạt động kinh tế. Ngoài ra, còn
có các nhân tố ảnh hưởng khác đến nguồn lao động như tuổi thọ bình quân, thu nhập, điều
kiện sống, phong tục tập quán, chiến tranh, dịch bệnh
Chất lượng nguồn lực lao động chịu ảnh hưởng tổng hợp bởi nhiều nhân tố: Các
nhân tố ảnh hưởng đến thể chất của nguồn lực lao động (gồm các nhân tố về di truyền,
chăm sóc y tế, các điều kiện về môi trường sống, mức sống vật chất và cơ cấu dinh
dưỡng, ); các nhân tố ảnh hưởng đến trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp của lao động
(giáo dục đào tạo, cơ chế chính sách, cơ chế quản lý kinh tế - xã hội); các nhân tố về cơ chế,
chính sách; các nhân tố tập quán, truyền thống, văn hóa của quốc gia; các nhân tố về nhu
cầu việc làm của xã hội cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng nguồn lực lao động.
Mỗi bước phát triển của kinh tế, xã hội đều đòi hỏi sự tương xứng của chất lượng
nguồn lao động. Ngày nay việc phát triển kinh tế sẽ làm xuất hiện những ngành nghề mới,

công nghệ mới, quản lý mới. Đòi hỏi người lao động phải không ngừng tự hoàn thiện, phát
triển để làm chủ quá trình phát triển kinh tế, xã hội.
Vấn đề chất lượng nguồn lực lao động trong việc phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia là vấn đề cần phải được đặc biệt quan tâm, nó bao gồm sức khỏe, trình độ, kiến
thức kỷ năng kinh nghiệm và thái độ tác phong của người lao động.
Ngày nay khi phát triển các bộ phận cấu thành nguồn lực phát triển KT, hầu hết các
quốc gia đều khẳng định các nguồn lực chủ yếu là lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn và
9
KHCN nhưng cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng nguồn lao động là nhân tố quyết
định việc cải tạo, sử dụng, phát triển các nguồn lực còn lại. Không dựa trên nền tảng phát
triển cao của nguồn lao động về thể chất, trình độ VH, kỹ thuật, trình độ quản lý và lòng
nhiệt tình…thì không thể sử dụng hợp lý các nguồn lực trên. Thậm chí thiếu 1 nguồn lực lao
động chất lượng cao có thể làm lãng phí,cạn kiệt và hủy hoại các nguồn lực khác.
Lao động là một bộ phận của các yếu tố “đầu vào” của quá trình phát triển KT. Chi
phí Lao động, mức tiền công thể hiện sự cấu thành của nguồn lực lao động trong hàng hóa,
dịch vụ. Như vậy, chi phí nguồn lực Lao động trở thành nhân tố cấu thành mức tăng trưởng,
tham gia tạo cung của nền KT.
Hơn nữa, là bộ phận của dân số, nguồn lao động đã tham gia tiêu dùng các sản phẩm
và dịch vụ XH. Như vậy với tư cách là nguồn lực, lao động trực tiếp tham gia tạo cung của
nền KT. Với tư cách là bộ phận dân số thực hiện quá trình tiêu dùng, nguồn lao động trở
thành nhân tố tạo cầu của nền KT.
Bên cạnh việc nhận thức vai trò của nguồn lực lao động với phát triển KT cần thấy rõ
ảnh hưởng của trình độ phát triển KT đối với nguồn lao động. Một quốc gia có năng suất
Lao động cao, của cải nhiều, ngân sách dồi dào sẽ có những điều kiện về vật chất, tài chính
để nâng cao mức dinh dưỡng, phát triển VH, GD, chăm sóc y tế…nhằm nâng cao chất
lượng nguồn lao động. Như vậy, mức phát triển của nền KT càng cao, vừa tạo điều kiện để
nâng cao chất lượng nguồn lao động, vừa bắt buộc nguồn lao động tự hoàn thiện mình. Mỗi
bước phát triển của nền KT sẽ tạo khả năng tốt hơn cho việc phát triển nguồn lao động,
đồng thời cũng đòi hỏi mức độ cao hơn của nguồn lao động trong việc tổ chức sử dụng các
nguồn lực, tổ chức và vận hành nền KT.

Ngày nay, kinh nghiệm phát triển của các quốc gia cho phép khẳng định vai trò quyết
định của nhân tố nguồn lao động, nhân tố con người. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã
khẳng định mục tiêu và động lực phát triển KT-XH là vì con người và do con người. Sau 25
năm tiến hành đổi mới và từng bước hội nhập quốc tế, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
nền kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực Việt Nam đã có sự phát triển nhanh cả về số lượng và
chất lượng. Về chất lượng, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia ở khu vực có tỷ lệ
người lớn biết chữ và trẻ em trong độ tuổi đến trường khá cao; lực lượng lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật ở nước ta từng bước tăng dần lên. So với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới, người lao động Việt Nam nhìn chung có những phẩm chất vượt trội như:
thông minh, cần cù, chịu khó, sáng tạo, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt là
kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi thế cạnh tranh quan
trọng của nguồn nhân lực nước nhà trong quá trình hội nhập và tham gia thị trường lao động
quốc tế.
Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế.
Chất lượng nguồn lao động ở nước ta thấp kém trước hết là về mặt sức khỏe. Vóc dáng con
người Việt nam nhỏ bé là một hạn chế không nhỏ trong lao động.
Về mặt trí lực thì lao động nước ta vẫn không đảm bảo, mặc dù nhiều địa phương đã thực
hiện xong chương trình phổ cập giáo dục cấp tiểu học cơ sở, trung học cơ sở v.v , nhưng
thực tế chất lượng nền giáo dục ở nước ta còn đạt ở mức thấp.
Một bộ phận khá lớn lao động nước ta chưa có việc làm hoặc có việc làm chưa
thường xuyên và có nhiều người không làm đúng nghề mình đã được đào tạo, điều này đã
làm hạn chế việc sử dụng nguồn lao động một cách tốt nhất.
Cơ cấu lao động theo ngành và theo vùng chưa hợp lý, lực lượng lao động làm việc ở
lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn lớn nhưng lại phân bố không đều giữa các vùng. Việc quy
hoạch, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực giữa các ngành, vùng và địa phương trong cả
10
nước còn nhiều chồng chéo, thiếu các mục tiêu cụ thể… Điều đó dẫn đến tình trạng khá phổ
biến hiện nay là vừa “thừa” vừa “thiếu” nhân lực trong các ngành, vùng, địa phương.
Trong những năm gần đây kinh tế đất nước đã phát triển, nhưng thu nhập và đời
sống của đa số người lao động vẫn còn rất thấp. Do vậy lao động phải tìm thêm việc làm

để đảm bảo đời sống, điều này đã làm cho lao động không còn thời gian để học tập nâng
cao trình độ văn hóa cũng như chuyên môn kỹ thuật. Đây cũng là một lý do làm cho chất
lượng lao động không thể được nâng lên. Bởi vì một khi tiền lương không còn là thu nhập
chính, không đủ sống thì không thể yêu cầu người lao động chuyên tâm vào công việc chính
đã được phân công.
Để đảm bảo cho kinh tế đất nước phát triển ổn định và bền vững, cũng như nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong điều kiện đất nước đang hội nhập kinh
tế thế giới; chúng ta cần thực hiện những biện pháp cấp bách và thiết thực để giải quyết
vấn đề chất lượng nguồn lao động. Đó là:
Tăng cường nâng cao trình độ dân trí, phát triển giáo dục và đào tạo là việc làm
không chỉ mang tính cấp thiết mà còn phải thực hiện lâu dài. Đầu tư nâng cao trình độ dân
trí, giáo dục và đào tạo là tạo nền tảng cho tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Xây dựng
nguồn nhân lực Việt Nam ngày càng nâng cao về chất lượng và coi đó là “chìa khóa” quan
trọng để đi đến thành công trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
Khuyến khích phát triển kinh tế, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế để tạo thêm
nhiều việc làm, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập sâu hơn vào
nền kinh tế thế giới; ưu tiên vào một số ngành nghề có khả năng đào tạo và sử dụng lực
lượng lao động chất lượng cao, những ngành nghề có khả năng hợp tác và trao đổi lao động
quốc tế v.v Cần phải tạo việc làm nhiều hơn số lao động tăng thêm hàng năm để giảm số
lao động thất nghiệp; tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế và người lao động tạo thêm
chỗ làm và tự tạo việc làm.
Tạo lập và quản lý thị trường lao động, đòi hỏi cần có cơ chế quản lý sao cho phù
hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển về chất lượng của nguồn lực lao động. Nhà nước cần hoàn
thiện pháp luật lao động, ban hành các chính sách thúc đẩy phát triển thị trường lao động
phù hợp với thông lệ quốc tế. Cải cách chính sách tiền lương, điều chỉnh cơ cấu đào tạo
nguồn nhân lực sao cho đáp ứng tốt nhất yêu cầu phát triển của kinh tế đất nước. Nâng cao
năng lực và hiệu quả quản lý của nhà nước đối với thị trường lao động; có hoạch định chiến
lược phát triển, phân bố và sử dụng nguồn lực lao động trong giai đoạn hội nhập với kinh tế
thế giới.
Đẩy mạnh việc nâng cao thể chất cũng như cải thiện thu nhập của người lao động, là

một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Nhà nước cần phải kiên quyết tăng thu và
tiết kiệm chi ngân sách để tăng nguồn lực tài chính cho đất nước, song song đó cũng cần có
biện pháp quản lý giảm thất thoát tài sản công, nâng cao năng suất hiệu quả nề kinh tế để
tăng nguồn thu ngân sách nhằm nâng cao thu nhập của người lao động thông qua việc cải
cách chế độ tiền lương, tiền công cho người lao động, tạo động lực thúc đẩy cũng như tạo
điều kiện để lao động tự nâng cao trình độ chuyên môn, hiệu quả công việc của mình.
Thực hiện các giải pháp về triển khai đồng bộ các nội dung của chiến lược phát triển
dân số: Ổn định quy mô dân số, điều chỉnh cơ cấu dân số, nâng cao chất lượng dân số, thực
hiện có hiệu quả chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình để ổn định dân số. Xây dựng
hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng về y tế, hình thành mạng lưới y tế đến tận cơ sở để mọi người
đều được tiếp cận với dịch vụ y tế. Bên cạnh đó cần tuyên truyền về dinh dưỡng và sức
khỏe, đặc biệt là sức khỏe sinh sản cho mọi người.
11
Mở rộng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động: Mở rộng thị trường lao động theo
hướng đa dạng loại hình lao động từ giúp việc nhà cho đến lao động có tay nghề, kể cả
chuyên gia hoặc kỹ thuật viên cao cấp. Có như vậy sẽ tạo điều kiện nhanh chóng mở mang
giáo dục, đào tạo để có nguồn lực lao động đủ khả năng đáp ứng yêu cầu đa dạng của thị
trường lao động.
Nhận thức tầm quan trọng của phát triển bền vững, lãnh đạo tỉnh Long An đã thực
hiện nhiều giải pháp để tỉnh có thể phát triển nhanh và bền vững. Trong định hướng phát
triển chung, nội dung trọng tâm là giải quyết tốt ba điểm nghẽn trong phát triển, thứ nhất là
phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thứ hai, nhà
nước tăng đầu tư, kêu gọi các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng (trọng tâm là
giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc ); thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính,
trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá chuyển dịch dần cơ cấu lao động từ nông
nghiệp sang các loại hình phi nông nghiệp. Tăng đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn
ít nhất 25%/năm (nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần IX 2010-2015); xây dựng cánh đồng
giá trị tăng thêm trên 25 triệu/héc ta/năm.
Thu hút các doanh nghiệp ít thâm dụng lao động, đất đai về đầu tư; ưu tiên phát triển

công nghiệp chế biến, công nghiệp tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của Tỉnh, công nghiệp cơ
khí và công nghiệp hỗ trợ phát triển nông nghiệp.
Tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp để phát triển dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính,
ngân hàng, viễn thông; hệ thống dịch vụ phục vụ phát triển công nghiệp và dân sinh.
Trong từng bước phát triển luôn phải đảm bảo yếu tố môi trường, chủ trương chung
của Tỉnh là “chưa bố trí tái định cư xong chưa khởi công xây dựng dự án; chưa có hệ thông
xử lý chất thải chưa đưa vào sử dụng”. Bảo vệ nghiêm môi trường cặp 2 dòng sông Vàm Cỏ
Đông và Vàm Cỏ Tây. Quy hoạch, đầu tư và thu hút đầu tư các khu xử lý chất thải, đảm bảo
xử lý tốt chất thải từ sản xuất và sinh hoạt.
Tóm lại, nguồn lực lao động có vai trò quan trọng và mang tính quyết định đối với
các nguồn lực khác trong phát triển kinh tế, đồng thời mỗi bước phát triển của nền kinh tế
cũng đòi hỏi nguồn lực lao động phải không ngừng tự hoàn thiện để làm chủ quá trình phát
triển kinh tế xã hội. Do vậy, giải quyết tốt vấn đề phát triển và sử dụng hợp lý, hiệu quả
nguồn lực lao động có ý nghĩa rất lớn về chính trị, kinh tế, xã hội; trong nền kinh tế thị
trường, vai trò quyết định của nhân tố nguồn lực lao động, nhân tố con người càng được
quan tâm nhiều hơn, Đảng và nhà nước ta đã đã khẳng định “Mục tiêu và động lực phát
triển kinh tế xã hội là vì con người và do con người”.
12
Câu 4: Trình bày vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nêu định hướng và
giải pháp phát triển Việt Nam trong thời gian tới (liên hệ thực tiễn địa phương).
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành kết cấu của nền kinh tế trong quá
trình tái sản xuất xã hội. Các bộ phận đó gắn bó với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu
hiện các mối quan hệ tỷ lệ về số lượng, tương quan về chất lượng, trong những không gian
và thời gian nhất định, phù hợp với những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định, nhằm đạt
được hiệu quả kinh tế – xã hội cao.
Cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh, bất biến mà luôn ở trạng thái vận
động, biến đổi không ngừng. Một cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thác tối đa các nguồn
lực có hiệu quả, tạo khả năng cho nền kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao và phát triển ổn
định, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân.
Cơ cấu kinh tế vừa mang tính khác quan, vừa mang tính lịch sử xã hội, luôn vận

động và phát triển không ngừng gắn với sự phân công lao động, hợp tác kinh tế trong nước
và quốc tế.
Phân công lao động xã hội và phát triển của lực lượng sản xuất là yếu tố cơ bản quyết
định sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mọi sự áp đạt chủ quan, nóng vội nhằm
tạo ra một cơ cấu kinh tế theo ý muốn đều dẫn tới sai lầm.
Sự biến đổi của cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với quá trình phát triển của lực lượng
sản xuất, nhu cầu tiêu dùng và đặc điểm chính trị – xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất
định.
Việt Nam với thời gian tương đối dài, nền kinh tế tồn tại theo cơ chế tập trung, quan
liêu bao cấp, áp dụng cơ chế phân phối hiện vật, mang tính tự cấp, tự túc, do vậy cơ cấu
kinh tế cũng được xác lập trên cơ sở mô hình kinh tế đó. Thực hiện công cuộc đổi mới, nền
kinh tế nước ta đat được những thành tựu có ý nghĩa to lớn. Sau đổi mới, Đảng ta chủ
trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là
nội dung quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH), phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình chuyển dịch các yếu tố nguồn lực từ nông
nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người
trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội.
Trong lịch sử, việc chuyển dịch từ một cơ cấu kinh tế này sang một cơ cấu kinh tế
khác trong quá trình phát triển là một xu hướng tất yếu của các nền kinh tế, nhằm xác lập
được một cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế có hiệu quả hơn.
Cơ cấu kinh tế hợp lý phải đáp ứng được những yêu cầu sau: Phải sử dụng thật tốt các lợi
thế so sánh của ngành, vùng và quốc gia; khai thác tối đa các tiềm năng; tạo được sự ổn
định trong phát triển kinh tế – xã hội; đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế trong nước
cũng như quá trình hội nhập kinh tế thế giới; tạo được nhiều việc làm cho người lao động và
phân phối công bằng, hợp lý.
Cơ cấu kinh tế chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau, về cơ bản được chia
thành hai nhóm nhân tố chủ yếu là nhân tố trong nước và nhân tố bên ngoài:
Nhóm nhân tố trong nước mang ý nghĩa quyết định đến quá trình hình thành và phát

triển của cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, nó bao gồm nhân tố nhu cầu xã hội,
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự tác động của nhà nước, điều kiện tự nhiên.
Nhu cầu xã hội là yếu tố mang tính chủ quan, nhưng khi phản ánh qua thị trường nó
trở thành yếu tố tác động mang tính khách quan đối với quá trình sản xuất. Khi nhu cầu xã
13
hội thay đổi đã tác động đến sản xuất thay đổi và sự chuyển dịch kinh tế trong các ngành,
các lĩnh vực trong nền kinh tế.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất một mặt đã làm nảy sinh nhiều lĩnh vực, ngành
mới trong nền kinh tế, mặt khác chính quá trình đó đã tác động mạnh mẽ đến sự phân công
lao động xã hội.
Sự tác động của nhà nước thường thể hiện thông qua quan điểm, chiến lược mục tiêu,
cơ chế, hệ thống chính sách phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn
nhất định.
Thiên nhiên vừa là điều kiện chung của quá trình sản xuất xã hội, vừa là tư liệu tiêu
dùng. Ảnh hưởng của nhân tố tự nhiên đối với hình thành cơ cấu kinh tế mang tính trực tiếp.
Mác cho rằng: Bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người chiếm hữu lấy những
đối tượng của tự nhiên trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định. Quá trình chiếm hữu
đó luôn chịu ảnh hưởng của bản thân những điều kiện tự nhiên.
Nhóm nhân tố bên ngoài tuy không đóng vai trò quyết định đến quá trình hình thành
và chuyển dịch của cơ cấu kinh tế, nhưng trong xu thế quốc tế hóa hiện nay, nhân tố bên
ngoài có vị trí hết sức quan trọng không thể xem nhẹ. Đó là các nhân tố xu thế chính trị –
xã hội của khu vực và thế giới, xu thế quốc tế hóa lực lượng sản xuất, sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học và công nghệ.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta cho đến nay đã trải qua nhiều giai
đoạn phát triển, cơ cấu kinh tế có nhiều thay đổi theo xu hướng tích cực, hiệu quả, được thể
hiện ở một số nội dung cơ cấu kinh tế chủ yếu sau:
Cơ cấu ngành và lĩnh vực kinh tế là bộ phận cơ bản nhất của cơ cấu kinh tế, là cốt
lõi của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội. Cơ cấu ngành kinh tế cho biết số
lượng, tỷ trọng và vị trí của các ngành chuyên môn hóa trong nền kinh tế và mối quan hệ
giữa chúng. Trong mỗi ngành, mỗi khu vực lại là một cơ cấu riêng bao gồm các bộ phận

khác nhau trong nội bộ ngành hoặc khu vực kinh tế đó.
Trong thời kỳ đổi mới, cơ cấu kinh tế ở nước ta đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ, trong
đó tỷ trọng nông nghiệp (khu vực I) trong GDP ngày càng giảm, còn tỷ trọng của công
nghiệp (khu vực II) và dịch vụ (khu vực III) có xu hướng ngày càng tăng lên.
Cơ cấu các thành phần kinh tế: Nền kinh tế chỉ phát triển khi mọi lực lượng sản
xuất được giải phóng, các nguồn lực được huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả; giải
quyết tốt mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, đảm bảo sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất, tạo ra quá trình tái sản xuất mở rộng.
Giải quyết tốt vấn đề các thành phần kinh tế sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, ngược lại lực lượng sản xuất phát triển sẽ tạo ra năng suất lao động cao, sản xuất có
nhiều tích lũy, tạo điều kiện giải quyết công bằng và tiến bộ xã hội, từng bước hoàn thiện
quan hệ sản xuất mới.
Chính sách cơ cấu nhiều thành phần kinh tế của Đảng ta có ý nghĩa chiến lược lâu
dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất hiện đại xã hội chủ nghĩa và thể hiện
tinh thần dân chủ về kinh tế, bảo đảm cho mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN sẽ được tiếp tục mở
rộng mạnh mẽ trong thời gian tới và tồn tại lâu dài, dựa trên ba loại hình sở hữu cơ bản (sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân) sẽ hình thành nhiều thành phần kinh tế với
những hình thức kinh doanh đa dạng đan xen, hỗn hợp. Theo quan điểm của Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI, trong nền kinh tế có các thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
14
Cơ cấu vùng kinh tế là là sự phân chia nền kinh tế theo yếu tố địa lý, lãnh thổ, sự
khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế, lịch sử, xã hội, truyền thống, kinh nghiệm sản
xuất của mỗi vùng là hiện tượng phổ biến trong tất cả các quốc gia trên thế giới. Vì vậy cơ
cấu vùng lãnh thổ cũng mang tính phổ biến ở mọi quốc gia.
Cơ cấu vùng lãnh thổ phản ánh khả năng kết hợp, khai thác tài nguyên, tiềm lực kinh
tế – xã hội của mỗi vùng và sự liên kết, hỗ trợ, tác động giữa chúng tạo ra sự phát triển của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định quan điểm phát triển kinh tế – xã hội:

Phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng,
năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều
sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn
hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống
của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường,
chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu
phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết. Phát triển bền vững là cơ sở để phát
triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh
và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát
triển kinh tế - xã hội.
Chúng ta biết rằng theo quan điểm đổi mới của Đảng thì CNH-HĐH và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong đó, cần thấy rằng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH là quá trình chuyển dịch toàn bộ, bao
gồm cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu các thành phần kinh tế, đồng thời phải biết huy
động đồng bộ mọi điều kiện, mọi biện pháp, mọi yếu tố để phát triển kinh tế. Mặt khác cần
chú trọng cải tạo, nâng cao trình độ hiện đại của trang thiết bị, công nghệ. Đồng thời, đổi
mới quy trình công nghệ trong sản xuất và quản lý ở mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế – xã hội.
Để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH ở nước ta
trong thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất là, tiếp tục hoàn thiện công tác điều tra quy hoạch, phân vùng để nắm vững
và định hướng phát triển có hiệu quả các nguồn lực của cả nước, từng vùng, từng địa
phương là vấn đề cấp bách nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-
HĐH trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai là, kết hợp tốt giữa tăng trưởng kinh tế với việc mở rộng thị trường. Hoạt
động trong nền kinh tế thị trường thì việc đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường và không
ngừng mở rộng thị trường là những nội dung hết sức quan trọng nhằm thực hiện tốt việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, hiệu quả mà kết quả của quá trình chuyển
dịch đó là hướng nền kinh tế tăng trưởng cao và phát triển ổn định.

Thứ ba là, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn. Vốn là yếu tố hết sức
quan trọng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Mức vốn
đầu tư và hiệu quả đầu tư của vốn sẽ quyết định đến tốc độ và hiệu quả của quá trình chuyển
dịch của cơ cấu kinh tế.
Kết hợp giữa huy động nguồn vốn trong nước và ngoài nước, trong đó xác định vốn trong
nước là quyết định, vốn bên ngoài đóng vai trò quan trọng.
Cần ưu tiên đầu tư cho cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật và kinh tế xã hội, cho nghiên cứu, ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất, đầu tư cho công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, vững về quan điểm, lập trường
15
Thứ tư là, hoàn thiện và nâng cao tính hiệu quả của cơ chế chính sách. Mặc dù cơ
cấu kinh tế mang tính khách quan khoa học, nhưng cơ cấu kinh tế cũng chịu sự tác động, chi
phối của yếu tố chủ quan là Nhà nước. Nhà nước tuy không trực tiếp sắp đặt các ngành
nghề, quy định các tỷ lệ của cơ cấu kinh tế, nhưng vẫn có sự tác động gián tiếp, bằng các
định hướng phát triển để thực hiện cho được những mục tiêu đã đề ra. Trong thời gian tới để
cơ cấu kinh tế nước ta chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa, cần có những
cơ chế, chính sách phù hợp, ổn định.
Nhận thức tầm quan trọng của phát triển bền vững, lãnh đạo tỉnh Long An đã thực
hiện nhiều giải pháp để tỉnh có thể phát triển nhanh và bền vững. Trong định hướng phát
triển chung, nội dung trọng tâm là giải quyết tốt ba điểm nghẽn trong phát triển, thứ nhất là
phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thứ hai, nhà
nước tăng đầu tư, kêu gọi các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng (trọng tâm là
giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc ); thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính,
trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính.
Trong nông nghiệp, chủ trương chung là đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá
trong sản xuất, trước hết là cơ khí hoá; đổi mới phương thức sản xuất, đẩy mạnh liên kết,
hợp tác trong nông nghiệp. Thực hiện tốt chương trình tam nông (nông nghiệp, nông thôn
và nông dân); vừa đảm bảo yêu cầu phát triển nông nghiệp nông thôn, đảm bảo an ninh
lương thực. Xây dựng nông thôn mới; thu hút các loại hình doanh nghiệp phù hợp về đầu tư
ở nông thôn; chuyển dịch dần cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các loại hình phi nông

nghiệp. Tăng đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn ít nhất 25%/năm (nghị quyết Đại
hội đảng bộ tỉnh lần IX 2010-2015); xây dựng cánh đồng giá trị tăng thêm trên 25 triệu/héc
ta/năm.
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp tại khu vực tiếp giáp thành phố Hồ Chí Minh và
các khu vực thuận tiện về giao thông. Thu hút các doanh nghiệp ít thâm dụng lao động, đất
đai về đầu tư; ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến, công nghiệp tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp của Tỉnh, công nghiệp cơ khí và công nghiệp hỗ trợ phát triển nông nghiệp.
Tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp để phát triển dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính,
ngân hàng, viễn thông; hệ thống dịch vụ phục vụ phát triển công nghiệp và dân sinh.
Trong từng bước phát triển luôn phải đảm bảo yếu tố môi trường, chủ trương chung
của Tỉnh là “chưa bố trí tái định cư xong chưa khởi công xây dựng dự án; chưa có hệ thông
xử lý chất thải chưa đưa vào sử dụng”. Bảo vệ nghiêm môi trường cặp 2 dòng sông Vàm Cỏ
Đông và Vàm Cỏ Tây. Quy hoạch, đầu tư và thu hút đầu tư các khu xử lý chất thải, đảm bảo
xử lý tốt chất thải từ sản xuất và sinh hoạt.
Với nhiều giải pháp nêu trên, trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của
tỉnh luôn đạt ở mức cao tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 2006-2010 của tỉnh Long An
đạt 11,8%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, từng bước hình thành
cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp công nghệ cao, nhưng chậm so với kế
hoạch.
Tóm lại, đổi mới mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang
phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao
chất lượng, hiệu quả, tính bền vững là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Chuyển
dịch cơ kinh tế nhằm xác lập một cơ cấu kinh tế mới, hợp lý hơn, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế có hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của con người trong
quá trình phát triển kinh tế – xã hội.
16
Câu 5: Trình bày vai trò của nông nghiệp, định hướng và giải pháp phát triển
nông nghiệp Việt Nam trong thời gian tới – liên hệ thực tiễn.
Nông nghiệp là tập hợp các hoạt động lao động của con người trong môi trường khí
hậu, đất và sinh học cụ thể, trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhằm tạo ra những sản

phẩm động thực vật để làm thỏa mãn nhu cầu lương thực, thực phẩm, nguyên liệu…cho tiêu
dùng, sản xuất của xã hội. Bên cạnh đó, nông nghiệp còn là một ngành sản xuất vật chất của
nền kinh tế quốc dân (KTQD). Đó là hệ thống các cơ quan quản lý, các đơn vị, tổ chức thực
hiện chức năng sản xuất và tổ chức, quản lý quá trình sản xuất NN. Ngoài ra theo nghĩa
rộng, nông nghiệp bao gồm cả ba ngành nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia
cầm, lâm nghiệp, và nuôi trồng thủy sản).
Với tư cách là một ngành kinh tế truyền thống và do vậy mọi chỉ tiêu đánh giá trình
độ phát triển nông nghiệp cũng như ảnh hưởng của nó đến tăng trưởng, phát triển kinh tế
đều thấp hơn các ngành thuộc khu vực kinh tế hiện đại. Song, NN có những lợi thế riêng và
nếu nhìn nhận, phát huy, sử dụng đúng những lợi thế này, NN sẽ có vai trò và đóng góp
không nhỏ cho quá trình tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế quốc dân.
TLSX cơ bản trong sản xuất NN là đất đai (bao gồm đất trồng trọt, chăn nuôi, đất
trồng rừng và diện tích mặt nước được sử dụng để nuôi trồng thủy sản). Đây là TLSX
không thể thay thế, có hạn và gắn với nó là những điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, hệ sinh
thái trên từng vùng lãnh thổ. Những điều kiện này đã quy định lợi thế đặc trưng sản xuất
NN từng vùng và tính phân tán, trải rộng khắp vùng lãnh thổ của sản xuất nông nghiệp.
Đối tượng sản xuất NN là cây trồng, vật nuôi, những cơ thể sống có chu kỳ sinh
trưởng, phát triển phụ thuộc vào khí hậu, đất đai, phương thức trồng trọt và chăn nuôi. Quá
trình phát triển của vật nuôi, cây trồng tuân theo quy luật sinh học, song để quá trình này đạt
được mục tiêu, hiệu quả, cần phải kết hợp với quá trình kinh tế của con người trong sản xuất
NN. Sự kết hợp này không liên tục, và từ đó xuất hiện tính thời vụ- một đặc trưng điển hình
của sx NN.
Các ngành NN hầu hết đều sử dụng nhiều lao động NN (thâm dụng lao động). Do đó,
NN gắn bó với xã hội nông thôn, với vấn đề nông dân và ruộng canh tác NN, từ đó hình
thành một chuỗi các vấn đề cần giải quyết trong phát triển sản xuất NN đó là nông nghiệp,
nông dân, nông thôn xã hội.
Trình độ công nghiệp trong sản xuất NN thường thấp, lạc hậu và quá trình cải tiến để
nâng cao trình độ công nghệ thường chậm, khó khăn, dẫn đến năng suất, thu nhập sản xuất
NN không cao, khả năng tích lũy kém, và từ đó, việc mở rộng quy mô đầu tư để phát triển
NN là một điều không dễ.

Tình trạng dư thừa lao động NN của xã hội nông thôn là phổ biến và có xu hướng
phát triển. Tình trạng này là tất yếu và có nguyên nhân từ sự giới hạn của nguồn lực đất đai,
mức tăng dân số, lao động quá nhanh của khu vực nông thôn và từ tập quán canh tác cổ
truyền đơn điệu, khép kín trong sản xuất NN.
Phát triển NN là tổng hợp những nội dung tổ chức, quản lý của con người nhằm đưa
nông nghiệp vào trạng thái phát triển, thể hiện ở hai mặt như sau:
Về định tính: Nền NN phát triển là nền NN hàng hóa ở trình độ cao, có LLSX phát
triển về quy mô, trình độ, QHSX tiến bộ. NN phát triển gắn với sự phát triển của xã hội
nông thôn và cơ cấu kinh tế vùng nông thôn.
Về định lượng: Trạng thái phát triển của NN được thể hiện qua quy mô, tốc độ, cơ
cấu sản lượng NN theo các ngành, các thành phần kinh tế; tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
nông sản; năng suất lao động NN và tổng giá trị sản lượng trên một diện tích nhất định.
17
Vai trò của NN đối với các hoạt động kinh tế - xã hội thể hiện trước hết ở việc thỏa
mãn những nhu cầu thiết yếu, hàng ngày của con người: lương thực, thực phẩm. Hơn nữa,
NN lại là ngành duy nhất có thể sản xuất, cung cấp những sản phẩm này cho mọi địa
phương, mọi quốc gia nên sự biến động về quy mô sản xuất, về sản lượng lương thực của
sản xuất NN cũng đều tạo ra những tác động ảnh hưởng đến khả năng ổn định kinh tế - xã
hội của địa phương, quốc gia và quốc tế.
NN còn là nguồn cung cấp nguyên liệu cho các ngành CN chế biến, sản xuất hàng
tiêu dùng, hàng gia dụng. Đây là những ngành thâm dụng lao động, áp dụng tiến bộ công
nghệ trong sản xuất, chế biến, nâng cao giá trị hàng nông sản. Do vậy, nó gắn bó chặt chẽ
với quá trình phân bổ, phân công lao động, và phát triển sản xuất hàng hóa trong NN.
Trong kinh tế thị trường, các quan hệ thương mại trong trao đổi hàng hóa được thực
hiện thông qua thị trường, như vậy hoạt động sản xuất NN hàng hóa trở thành một bộ phận
cấu thành quan trọng thị trường hàng tiêu dùng nông sản, thị trường cung ứng nguyên liệu
cho công nghiệp.
Quá trình phân bổ, sử dụng, điều tiết lao động nông nghiệp diễn ra tương ứng với quá
trình biến đổi, nâng cao trình độ tổ chức, trình độ công nghệ trong sản xuất NN. Ở trình độ
công nghệ thấp, NN là ngành thâm dụng lao động và do vậy, là ngành lao động chủ yếu giải

quyết vấn đề việc làm, thu nhập cho lao động nông thôn. Khi trình độ công nghệ, năng suất
lao động NN tăng, một bộ phận lao động NN (đặc biệt là lao động trẻ) trải qua một quá trình
chuyển hóa về nghề nghiệp để trở thành nguồn dự trữ, cung ứng lao động cho sự phát triển
các ngành phi NN địa bàn và trong nền kinh tế. Như vậy, sự phát triển NN sẽ góp phần hình
thành thị trường sức lao động các ngành phi NN và hơn nữa, quá trình phát triển nền NN
hàng hóa sẽ tạo điều kiện hình thành, phát triển hệ thống thị trường tiêu thụ, sử dụng sản
phẩm của các ngành công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn kinh tế nông thôn.
Đối với một nước NN, thế mạnh của nền kinh tế trong giai đoạn đầu phát triển chính
là kinh tế NN, nên sự phát triển các hoạt động NN, đặc biệt là hoạt động đầu tư xuất khẩu
nông sản sẽ tạo nên nguồn tích lũy ban đầu để mở rộng các hoạt động đầu tư phát triển cho
các giai đoạn tiếp theo. Quy mô tích lũy, đầu tư tạo ra từ NN sẽ thấp hơn nhu cầu tích lũy,
đầu tư cho nền kinh tế, song ý nghĩa và tác động lâu dài của nó không nhỏ. Trước hết, quy
mô tích lũy, đầu tư từ NN sẽ góp phần tạo thế tự chủ trong phát triển nền kinh tế bằng năng
lực nội sinh và tiếp đó, sự phát triển nền NN hàng hóa hướng về xuất khẩu sẽ tạo tiền đề,
điều kiện cho quá trình tái cấu trúc cơ cấu kinh tế theo yêu cầu tăng trưởng, phát triển.
Những đóng góp trên đây đã xác định vai trò của NN trong phát triển kinh tế, tạo thế
ổn định về kinh tế - xã hội của nền kinh tế trong suốt thời kỳ phát triển, tạo điều kiện, nền
tảng cho sự phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, và của chính mình trong quá trình
xây dựng nền KTTT hiện đại, phát triển.
Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đánh giá:
Mặt được: Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất
hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương
thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế
nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ
chức sản xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt
nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các
vùng nông thôn ngày càng được cải thiện.
Hạn chế: Những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa
đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có

18
xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản
xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm,
phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng
thấp. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn
nhiều hạn chế
Mục tiêu phát triển nông nghiệp đã được Đảng ta xác định trong văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ XI: Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững,
nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ
cấu lao động; tỉ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30 - 35% lao động xã hội.
Muốn vậy chúng ta cần phải tập trung làm tốt các giải pháp phát triển nông nghiệp:
- Tổ chức quy hoạch phát triển sản xuất NN nhằm sử dụng, phát huy tiềm năng
nguồn lực, lợi thế so sánh sản xuất NN của địa phương, của nền kinh tế: bao gồm phát triển
quy hoạch theo các vùng, tiểu vùng; quy hoạch đất nông nghiệp, duy trì diện tích đất lúa
đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài; quy hoạch kết cấu hạ
tầng nông nghiệp, mạng lưới giao thông, thủy lợi, điện; điều tra phân tích những điều kiện
KT-XH và lợi thế so sánh của từng vùng, tiểu vùng trên địa bàn nông thôn; dự đoán, dự báo
dài hạn, ngắn hạn về xu hướng phát triển của thị trường nông sản trong và ngoài nước để có
định hướng phát triển cho phù hợp.
- Tổ chức hệ thống cung ứng các yếu tố đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho sản
xuất NN: Hoạt động của hệ thống cung ứng đầu vào và đầu ra cho sản phẩm NN hướng vào
các nội dung: tổ chức tiêu thụ nông sản và các hàng hóa trong khu vực kinh tế nông thôn;
khuyến khích hình thành các khu công nghiệp, thương mại, dịch vụ ở nông thôn, đẩy mạnh
tìm kiếm thị trường xuất khẩu nhằm tăng sức tiêu thụ nông sản và hàng hóa NN; giải quyết
tốt vấn đề đầu tư và tín dụng cho phát triển NN thông qua nguồn vốn ngân sách, vốn trong
dân và đa dạng hóa các hình thức tín dụng nông thôn; tăng cường công tác khuyến nông,
đưa nhanh tiến bộ khoa học công nghệ vào NN để nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả
năng cạnh tranh của ngành NN; tăng đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ phục vụ

sản xuất nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục tổng kết, đổi mới và xây dựng các mô hình
kinh tế, hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn. Có chính sách khuyến khích
phát triển các mối liên kết giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa
học, hiệp hội ngành hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ kinh tế hộ phát triển theo
hướng gia trại, trang trại có quy mô phù hợp, sản xuất hàng hoá lớn.
- Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn và công nghiệp chế biến nông sản thông qua
việc kết hợp giữa đầu tư của Nhà nước với việc huy động các nguồn lực trong dân cư và
trong mọi thành phần kinh tế để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng công nghiệp chế biến. Cần
xác định các chương trình ưu tiên cho các khâu, các vùng, các ngành một cách hợp lý. Thực
hiện quy hoạch và các biện pháp cụ thể để tạo ra sự liên kết giữa công nghiệp chế biến với
nông nghiệp nguyên liệu cho từng vùng và loại nông sản cụ thể.
- Đổi mới chính sách xã hội nông thôn, việc thực hiện cơ chế kinh tế mới trong nông
nghiệp, gắn với yêu cầu xây dựng nông thôn mới đang đặt ra nhiều vấn đề xã hội cần được
giải quyết như: nâng cấp kết cấu hạ tầng văn hóa xã hội ở nông thôn; giáo dục, y tế, xóa đói
giảm nghèo… Ngoài sự đầu tư của Nhà nước về tài chính thì việc ban hành và thực hiện cơ
chế, tổ chức, chính sách đúng đắn và phù hợp đóng vai trò hết sức quan trọng. Phải huy
động sức dân để thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” và “xã hội hóa”
các hoạt động trong việc thực hiện chính sách xã hội ở nông thôn.
19
Nhận thức tầm quan trọng của phát triển bền vững, lãnh đạo tỉnh Long An đã thực
hiện nhiều giải pháp để tỉnh có thể phát triển nhanh và bền vững. Trước hết, lãnh đạo tỉnh
đã mời đơn vị tư vấn nước ngoài (Nhật) thực hiện quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội và xem
đây là định hướng chính trong phát triển kinh tế-xã hội tỉnh nhà; trong đó, phân địa giới
Tỉnh thành ba khu vực, khu vực trọng điểm phát triển công nghiệp, khu vực trọng điểm phát
triển nông nghiệp và khu vực sinh thái.
Trong nông nghiệp, chủ trương chung là đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá
trong sản xuất, trước hết là cơ khí hoá; đổi mới phương thức sản xuất, đẩy mạnh liên kết,
hợp tác trong nông nghiệp. Thực hiện tốt chương trình tam nông (nông nghiệp, nông thôn
và nông dân); vừa đảm bảo yêu cầu phát triển nông nghiệp nông thôn, đảm bảo an ninh
lương thực. Xây dựng nông thôn mới; thu hút các loại hình doanh nghiệp phù hợp về đầu tư

ở nông thôn; chuyển dịch dần cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các loại hình phi nông
nghiệp. Tăng đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn ít nhất 25%/năm (nghị quyết Đại
hội đảng bộ tỉnh lần IX 2010-2015); xây dựng cánh đồng giá trị tăng thêm trên 25 triệu/héc
ta/năm.
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp tại khu vực tiếp giáp thành phố Hồ Chí Minh và
các khu vực thuận tiện về giao thông. Thu hút các doanh nghiệp ít thâm dụng lao động, đất
đai về đầu tư; ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến, công nghiệp tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp của Tỉnh, công nghiệp cơ khí và công nghiệp hỗ trợ phát triển nông nghiệp.
Với nhiều giải pháp được áp dụng, trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế
của tỉnh luôn đạt ở mức cao tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 2006-2010 của tỉnh Long
An đạt 11,8%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, từng bước hình
thành cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp công nghệ cao, nhưng chậm so với
kế hoạch.
Tóm lại, các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ,
gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân
và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với
xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản;
phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.
20

×