Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 10 NĂM THÀNH LẬP TỈNH ĐẮK NÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.95 KB, 24 trang )

ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 10 NĂM THÀNH LẬP TỈNH ĐẮK NÔNG
(01/01/2004 - 01/01/2014)
Thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TU, ngày 15/8/2012 của Tỉnh ủy Đắk Nông về
một số hoạt động tiến tới kỷ niệm 10 năm thành lập tỉnh Đắk
Nông (01/01/2004 - 01/01/2014), Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã biên soạn và phát
hành Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 10 năm thành lập tỉnh Đắk Nông
(01/01/2004 - 01/01/2014) nhằm tuyên truyền rộng rãi đến cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh nhận thức sâu sắc
về những thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc phòng, an
ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị sau 10 năm thành lập tỉnh Đắk
Nông và những định hướng phát triển cơ bản trong những năm tới. Báo Đắk
Nông điện tử xin đăng tải toàn bộ nội dung Đề cương như sau:

PHẦN I
MẢNH ĐẤT, CON NGƯỜI ĐẮK NÔNG
VÀ QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP TỈNH

I. MẢNH ĐẤT, CON NGƯỜI ĐẮK NÔNG

1. Tổ chức hành chính, dân cư

Đắk Nông hiện có 8 đơn vị hành chính cấp huyện (Thị xã Gia Nghĩa và các huyện:
Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Song, Đắk R’Lấp, Krông Nô, Đắk G’Long, Tuy Đức); 71 xã,
phường, thị trấn. Diện tích tự nhiên: 6.514,38km².

Dân số đến cuối năm 2012 là 538.034 người. Mật độ dân số trung bình là
82,61người/km
2
, phân bố không đều, dân cư chủ yếu tập trung ở các trung tâm xã,
thị trấn huyện lỵ, ven các trục đường quốc lộ, tỉnh lộ. Dân số đô thị chiếm 15,03%,


dân số nông thôn 84,97%. Dân số trong độ tuổi lao động chiếm 67,86% tổng dân
số.

Đắk Nông là tỉnh đa dân tộc, với cộng đồng dân cư gồm 40 dân tộc cùng sinh sống.
Trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm khoảng 31,5% dân số toàn tỉnh. Dân tộc
M’nông, Mạ và Ê đê là 3 dân tộc sinh sống lâu đời ở địa phương, chiếm 33% so
với tổng số dân tộc thiểu số và 10,4% so với dân số toàn tỉnh.

2. Đặc điểm tự nhiên

a) Vị trí địa lý

Đắk Nông nằm ở phía Tây Nam vùng Tây Nguyên, đoạn cuối dãy Trường Sơn;
nằm trong khoảng tọa độ địa lý: 11
0
45’ đến 12
0
50’ vĩ độ Bắc, 107
0
13’đến 108
0
10’
kinh độ Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk, phía Đông và Đông Nam
giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp
Vương quốc Campuchia.

Nằm ở cửa ngõ Tây Nguyên, Đắk Nông có Quốc lộ 14 – trục giao thông huyết
mạch nối Tây Nguyên với các tỉnh miền Đông Nam bộ và thành phố Hồ Chí Minh;
Quốc lộ 28 nối Đắk Nông với tỉnh Lâm Đồng và các tỉnh duyên hải miền Trung.
Đắk Nông còn có 130 km đường biên giới với 02 cửa khẩu quốc tế Bu Prăng và

Dak Peur nối với tỉnh Mondulkiri của Vương quốc Campuchia.

Về địa hình, địa bàn tỉnh Đắk Nông nằm trọn trên cao nguyên M’Nông, độ cao
trung bình khoảng 600m đến 700m so với mặt nước biển, nơi cao nhất là 1.982m
(Tà Đùng). Đắk Nông có địa hình đa dạng và phong phú, bị chia cắt mạnh, có sự
xen kẽ giữa các núi cao hùng vĩ, hiểm trở với các cao nguyên rộng lớn, dốc thoải,
lượn sóng, khá bằng phẳng xen kẽ các dải đồng bằng thấp trũng. Địa hình thung
lũng thấp, có độ dốc từ 0-3
0
chủ yếu phân bố dọc sông Krông Nô, Sêrêpôk, thuộc
các huyện Cư Jút, Krông Nô. Địa hình cao nguyên đất đỏ bazan chủ yếu ở các
huyện Đắk Mil, Đắk Song, độ cao trung bình 600 - 800m, độ dốc khoảng 5-10
0
.
Địa hình chia cắt mạnh và có độ dốc lớn > 15
0
phân bố chủ yếu trên địa bàn các
huyện Đắk G’Long, Đắk R'Lấp. Nhìn tổng thể, địa hình Đắk Nông như hai mái của
một ngôi nhà mà đường nóc là dãy núi Nam Nung, có hướng thấp dần từ Đông
sang Tây.

b) Khí hậu thời tiết

Đắk Nông là khu vực chuyển tiếp giữa hai tiểu vùng khí hậu Tây Nguyên và Đông
Nam Bộ, chế độ khí hậu mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận
xích đạo, nhưng do sự nâng lên của địa hình nên có đặc trưng của khí hậu cao
nguyên nhiệt đới ẩm, vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam khô nóng. Mỗi
năm có 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 4 đến hết tháng 11, tập trung trên 90%
lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 12 đến hết tháng 3 năm sau, lượng mưa
không đáng kể.


Nhiệt độ trung bình năm 22
0
C - 23,5
0
C, nhiệt độ cao nhất 35
0
C. Tổng số giờ nắng
trong năm trung bình gần 2200 giờ. Lượng mưa trung bình năm hơn 2.600 mm. Độ
ẩm không khí trung bình 84%. Hướng gió chủ yếu mùa mưa là Tây Nam, mùa khô
là Đông Bắc, tốc độ gió bình quân 2,4 - 5,4 m/s, hầu như không có bão.

c) Thủy văn

Đắk Nông có mạng lưới sông suối, hồ, đập phân bố tương đối đều khắp. Các sông
chính chảy qua địa phận tỉnh gồm:

- Sông Sêrêpôk do hai nhánh sông Krông Nô và Krông Na hợp lưu tại thác Buôn
Dray. Khi chảy qua địa phận huyện Cư Jút, lòng sông trở nên hẹp và dốc nên tạo ra
các thác nước lớn, vừa có cảnh quan thiên nhiên đẹp, vừa có tiềm năng thủy điện
mang lại giá trị kinh tế, như: thác Trinh Nữ, Dray H'Linh, Gia Long, ĐraySap.

- Sông Krông Nô bắt nguồn từ dãy núi cao trên 2.000m phía Đông Nam tỉnh Đắk
Lắk, chảy qua huyện Krông Nô.

- Hệ thống sông suối thượng nguồn sông Đồng Nai. Đáng kể nhất là: Suối Đắk
Rung, suối Đắk Nông, suối Đắk Bukso, suối Đắk R'Lấp, suối Đắk R'Tih.
Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có nhiều hồ, đập lớn vừa có tác dụng giữ nước cho
sản xuất nông, công nghiệp, thủy điện, vừa là tiềm năng để phát triển du lịch như
Hồ Tây, EaSnô, Ea T'Linh, Đắk Rông, Đak Đier, ĐăkR’tih, Đồng Nai 3,4.v.v.


d) Đất đai

Đắk Nông có tổng diện tích đất tự nhiên là 651.561 ha. Cấu tạo thổ nhưỡng khá
phong phú và đa dạng, nhưng chủ yếu gồm 05 nhóm chính: Nhóm đất xám trên
nền đá macma axit và đá cát chiếm khoảng 40% diện tích và được phân bổ đều
toàn tỉnh. Đất đỏ bazan trên nền đá bazan phong hóa chiếm khoảng 35% diện tích,
có tầng dày bình quân 120cm, phân bổ chủ yếu ở Đắk Mil, Đắk Song. Còn lại là
đất đen bồi tụ trên nền đá bazan, đất Gley và đất phù sa bồi tụ dọc các dòng sông,
suối.

Về sử dụng: Đất nông nghiệp có diện tích là 306.749 ha, chiếm 47% tổng diện tích
tự nhiên. Trong đó đất trồng cây công nghiệp lâu năm chiếm phần lớn diện tích.
Đất cây hàng năm chủ yếu là đất trồng lúa, ngô và cây công nghiệp ngắn ngày. Đất
lâm nghiệp có rừng diện tích là 279.510ha, tỉ lệ che phủ rừng toàn tỉnh là 42,9%.
Đất phi nông nghiệp có diện tích 42.307 ha. Đất chưa sử dụng còn 21.327 ha, trong
đó đất sông suối và núi đá không có cây rừng là 17.994 ha.

e) Tài nguyên khoáng sản

Đắk Nông đã phát hiện được khoảng 20 loại khoáng sản với trên 178 mỏ và điểm
quặng chủ yếu là bauxit, wolfram, antimoal, bazan bọt; bazan cột, bazan khối, cát
xây dựng, đá bazan, đá granit, sét gạch ngói, than bùn, opal, thiếc sa khoáng,
kaolin, nước khoáng thiên nhiên, saphir Trong đó, bô xít là nguồn khoáng sản có
trữ lượng lớn với trữ lượng dự đoán 5,4 tỉ tấn, trữ lượng thăm dò 2,6 tỉ tấn, hàm
lượng Al2O3 từ 35-40%. Ngoài ra còn có một số khoáng sản quí hiếm, như: vàng,
đá quí ngọc bích, saphir, opal…

3. Đặc trưng văn hóa –tín ngưỡng, tôn giáo.


Đắk Nông là vùng đất có nền văn hoá đa dạng, mang truyền thống và bản sắc riêng
của nhiều dân tộc. Trong đó, thể hiện đậm nét là nền văn hóa của các dân tộc
M’Nông, Mạ, Ê Đê. Cư dân bản địa Đắk Nông là chủ nhân của nhiều hiện vật văn
hóa độc đáo, tiêu biểu là Đàn đá Đắk Kar có niên đại hàng ngàn năm tuổi, là hệ
thống các nghi lễ - lễ hội đặc sắc, là kho tàng truyện cổ - dân ca, dân vũ, là những
đặc trưng văn hóa cồng chiêng đã góp phần làm nên "Không gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên" nổi tiếng khắp trong và ngoài nước. Đặc biệt là kho tàng Ot
N'drông (một dạng sử thi) với tầm vóc và số lượng đồ sộ: hàng ngàn, hàng vạn câu
văn vần.

Đặc trưng văn hóa của vùng đất Đắk Nông ngày nay còn được bồi đắp, mở rộng
thêm bởi những nét văn hóa đặc sắc từ nhiều vùng miền trong nước. Sự kết hợp
nhuần nhuyễn văn hóa truyền thống giữa các dân tộc chính là nét đặc trưng văn
hóa, là tiềm năng và triển vọng vô cùng lớn lao của tỉnh Đắk Nông.

Về Tôn giáo - Tín ngưỡng. Nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Nông từ rất sớm đã có
tín ngưỡng nguyên thủy, đa thần, sùng bái tự nhiên. Trong quá trình hình thành và
phát triển tín ngưỡng truyền thống của cư dân bản địa có thêm sự du nhập của các
tôn giáo mới. Bên cạnh các tôn giáo truyền thống Phương Đông (Khổng giáo, Phật
giáo, v.v…), dần có thêm Công giáo, Tin Lành, v.v…

4. Truyền thống lịch sử

Trong phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân cả nước những năm cuối thế
kỷ XIX– đầu thế kỷ XX, cuộc đấu tranh chống Pháp của đồng bào các dân tộc ở
cao nguyên M’Nông đã diễn ra rất sôi nổi. Dưới sự lãnh đạo của các vị tù trưởng,
tộc trưởng đồng bào các dân tộc đã đứng lên đấu tranh chống xâm lược. Tiêu biểu
là các cuộc khởi nghĩa của Ama Jhao (1889 – 1905), N’Trang Gưh (1900 – 1914),
N’Trang Lơng (1912-1936). Trong đó, cuộc khởi nghĩa của N’Trang Lơng là cuộc
khởi nghĩa có sức lan tỏa rộng lớn, thu hút sự tham gia của các dân tộc ở Tây

Nguyên trên một địa bàn rộng lớn từ cao nguyên M’Nông, đến cao nguyên Đắk
Lắk và cả một phần của Campuchia. Phong trào khởi nghĩa N’Trang Lơng là ngọn
cờ đầu chống Pháp, tiêu biểu cho truyền thống bất khuất, chống xâm lược của đồng
bào các dân tộc Tây Nguyên.

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, xây dựng và phát triển miền đất Đắk Nông được đánh dấu
bằng sự ra đời của Chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập trong nhà Ngục Đắk
Mil, năm 1943. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, đồng bào các dân tộc M’Nông, Mạ… đã sớm giác ngộ và
đi theo cách mạng. Đắk Nông trở thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng, là địa
bàn trọng yếu ghi nhiều dấu ấn trong cả hai cuộc kháng chiến. Trong kháng chiến
chống Pháp, Đắk Nông là hậu cứ quan trọng của lực lượng Việt Minh ở Đắk Lắk.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Đắk Nông là địa bàn trọng yếu của hành
lang chiến lược Bắc – Nam, tuyến chiến lược quan trọng từ Nam Tây Nguyên vào
Đông Nam Bộ. Ngày 9/3/1975, trận đánh Đức Lập – Đắk Mil đã trở thành trận
đánh mở màn cho Chiến dịch Tây Nguyên lịch sử. Ngày 23/3/1975, Gia Nghĩa –
tỉnh lỵ Quảng Đức cũ được giải phóng, đặt dấu mốc quan trọng trong lịch sử hình
thành và phát triển Đắk Nông.

Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân
các dân tộc tỉnh Đắk Nông một mặt nhanh chóng ổn định tổ chức, ổn định đời sống
nhân dân, từng bước phát triển kinh tế-xã hội; mặt khác vừa phải tiến hành truy
quét, phá rã tổ chức Fulro, vừa phải chống trả sự gây hấn, xâm chiếm của lực
lượng Kh’me đỏ, giữ vững chủ quyền, an ninh biên giới.

Ghi nhận những đóng góp của Đảng bộ, Chính quyền, quân và dân các dân tộc Đắk
Nông, Đảng và Nhà nước đã trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho
8 tập thể: Nhân dân và LLVT nhân dân tỉnh Đắk Nông; Nhân dân và LLVT nhân
dân: huyện Đắk Mil, huyện Đắk R’Lấp, xã Nâm Nung – huyện Krông Nô, xã Đạo

Nghĩa – huyện Đắk R’Lấp, xã Quảng Sơn – huyện Đắk G’Long; tiểu đoàn 301 –
BCHQS tỉnh; Đồn Biên phòng Bu Prăng.

Trong công cuộc đổi mới, hội nhập, phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước, phát huy truyền thống Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân
các dân tộc trong tỉnh luôn đoàn kết, vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của
Đảng, nhanh chóng nắm bắt thời cơ, phát huy nội lực, khai thác ngoại lực để chung
sức, đồng lòng xây dựng và phát triển tỉnh Đắk Nông.

II. QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP TỈNH

Tỉnh Đắk Nông ngày nay được hình thành trên cơ sở một vùng đất lâu đời, đã có
con người sinh sống từ thời nguyên thủy và trải qua nhiều sự thay đổi địa giới hành
chính qua các thời kỳ lịch sử.

Cho đến cuối thế kỷ 19, về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên trong đó có Đắk
Nông vẫn thuộc phạm vi bảo hộ của các triều đại phong kiến Việt Nam. Tuy nhiên
về cơ bản vẫn là vùng đất được vận hành theo luật tục của các buôn làng độc lập,
chưa có một hệ thống hành chính hoàn chỉnh.

Năm 1858 cùng với việc xâm lược nước ta, thực dân Pháp thông qua các nhà
truyền giáo, đã thực hiện hàng loạt các cuộc thám hiểm và chinh phục vùng đất
Tây Nguyên, từng bước đưa quân lên Tây Nguyên, thiết lập bộ máy cai trị của
chính quyền thực dân. Từ năm 1893, thực dân Pháp chính thức thiết lập bộ máy cai
trị của mình ở Tây Nguyên. Trong giai đoạn từ 1893 đến 1958, tuy có một số biến
động, nhưng cơ bản vùng đất Đắk Nông ngày nay vẫn thuộc địa phận tỉnh Đắk
Lắk. Hệ thống hành chính ban đầu được thiết lập ở Đắk Mil và Đắk Song, sau mở
rộng đến Kiến Đức, Đức Xuyên.

Năm 1959, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa quyết định cắt một phần phía Tây

của tỉnh Đắk Lắk, một phần quận Kiến Hòa của Thủ Dầu Một để thành lập tỉnh
Quảng Đức. Địa giới hành chính tỉnh Quảng Đức, về cơ bản giống như địa giới
tỉnh Đắk Nông ngày nay, được chia làm 3 quận: Quận Đức Lập, quận Kiến Đức,
quận Khiêm Đức.

Năm 1950, tỉnh Đắk Lắk đã cử Đội công tác 124 về tiến hành xây dựng cơ sở ở
xung quanh núi Nâm Nung. Đến năm 1959, khu vực Nâm Nung trở thành khu căn
cứ của lực lượng cách mạng.

Tháng 12 năm 1960, Trung ương quyết định thành lập tỉnh Quảng Đức, dựa trên sự
phân chia địa giới của địch (lấy mật danh là B4). Khi mới thành lập, tỉnh Quảng
Đức thuộc Liên tỉnh IV, do Liên khu V chỉ đạo.

Đến giữa năm 1961, khu VI được thành lập, tỉnh Quảng Đức thuộc sự chỉ đạo của
Khu VI. Xuất phát từ nhiệm vụ, yêu cầu của cách mạng, đầu năm 1962, ta giải thể
tỉnh Quảng Đức; cắt huyện Khiêm Đức về tỉnh Lâm Đồng; huyện Đức Lập và Đức
Xuyên nhập về Đắk Lắk; huyện Kiến Đức nhập về Phước Long. Tháng 10/1962,
cắt huyện Khiêm Đức và xã Đăng Gia của huyện Đức Trọng thành lập huyện mới,
mang mật danh E25.

Năm 1963, ta tái lập tỉnh Quảng Đức, thuộc sự chỉ đạo của khu X. Huyện E25 giải
thể và trở lại mang tên Khiêm Đức như trước. Tháng 10/1963, ta quyết định giải
thể khu X, đồng thời giải thể luôn tỉnh Quảng Đức. Huyện Đức Lập, Đức Xuyên
về lại tỉnh Đăk Lắk; Khiêm Đức về Lâm Đồng; Kiến Đức lúc này là một huyện
nhỏ vẫn tiếp tục đặt dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Phước Long.

Năm 1966, khu X được thành lập lại và quyết định tạm thời chia tỉnh Quảng Đức
thành Tiền phương A (gồm 02 huyện Đức Lập, Đức Xuyên) và Tiền phương B
(gồm 02 huyện Khiêm Đức và Kiến Đức).


Tháng 1 năm 1967, hai cơ quan Tiền phương A và B hợp nhất thành tỉnh Quảng
Đức như cũ.
Tháng 5 năm 1971, ta giải thể tỉnh Quảng Đức và Khu X; giao Khiêm Đức, Kiến
Đức về Lâm Đồng dưới sự chỉ đạo của khu VI; Đức Xuyên, Đức Lập về Đắk Lắk
thuộc khu V chỉ đạo. Đến tháng 8 năm 1974, cắt Kiến Đức về với Phước Long;
còn Khiêm Đức, Gia Nghĩa vẫn thuộc Lâm Đồng.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, tháng 5 - 1975,
tỉnh Quảng Đức được thành lập lại. Đến tháng 11 năm 1975, tỉnh Quảng Đức sát
nhập vào tỉnh Đắk Lắk.
Tháng 11 năm 2003, tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XI đã thông qua Nghị quyết
số 22/2003/QH11, ngày 26 tháng 11 năm 2003 về việc chia và điều chỉnh địa giới
một số tỉnh. Điểm 2, Điều 1 của Nghị quyết quy định “Chia tỉnh Đắk Lắk thành
tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông”; “b) Tỉnh Đắk Nông có diện tích tự nhiên là
651.438 ha và dân số hiện tại là 363.118 người; bao gồm diện tích và số dân của
huyện Đắk R'Lấp; huyện Đắk Nông; huyện Đắk Song; huyện Đắk Mil; huyện
Krông Nô (trừ các xã Ea R'Bin và Nam Ka); huyện Cư Jut (trừ các xã Hòa Khánh,
Hòa Xuân và Hòa Phú). Tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Gia Nghĩa thuộc huyện Đắk Nông.”

Ngày 01/01/2004, tại thị trấn Gia Nghĩa, huyện Đắk Nông, tỉnh Đắk Nông được
chính thức thành lập và đi vào hoạt động.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, từ năm 2004 các đơn vị hành chính trong tỉnh Đắk
Nông đã có sự chia tách thêm một số đơn vị mới. Tháng 6 năm 2005 tách huyện
Đắk Nông thành thị xã Gia Nghĩa và huyện Đắk G’Long; tháng 01 năm 2007 tách
huyện Đắk R’lấp thành huyện Đắk R’Lấp và huyện Tuy Đức.
PHẦN II

THÀNH TỰU 10 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN



I. NHỮNG THÀNH TỰU CƠ BẢN
Sau 10 năm thành lập tỉnh (2004 - 2014), với tinh thần tự lực, tự cường, năng động,
sáng tạo, cùng với sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, Đảng bộ và nhân dân Đắk
Nông đã nỗ lực khắc phục khó khăn, phát huy thuận lợi, giành được nhiều thành
tựu quan trọng.

1. Một là, nền kinh tế phát triển nhanh trên các lĩnh vực theo hướng tích cực
phát huy tiềm năng lợi thế của tỉnh, đã tạo ra bước đột phá quan trọng.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh tăng khá cao. Nếu như giai đoạn 2000 - 2003,
tốc độ tăng trưởng kinh tế trên địa bàn chỉ đạt mức 7,3%/năm, thì trong 10 năm
qua (2004-2013) tốc độ tăng trưởng kinh tế đã vượt lên 13,8%/năm[1]. Trong đó,
giai đoạn 2006 - 2010 đạt 15,19%/năm; 3 năm gần đây (2011-2013), mặc dù chịu
nhiều tác động không thuận từ suy thoái kinh tế trong nước và quốc tế nhưng tốc
độ tăng trưởng kinh tế vẫn đạt trung bình 12,45% /năm. Tổng giá trị sản phẩm
(GDP) theo giá hiện hành năm 2012 đạt hơn 32 ngàn tỷ đồng, gấp 21,6 lần so với
năm 2003. Thu nhập bình quân đầu người/năm tăng liên tục qua các năm: Năm
2003 là 3,83 triệu đồng/người; đến năm 2013 đạt khoảng 29,87 triệu đồng, tăng 7,8
lần.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng nông thủy sản, tăng
tỷ trọng khu vực dịch vụ, công nghiệp - xây dựng. Nếu như năm 2003 tỷ trọng các
ngành nông nghiệp chiếm 71,8%; công nghiệp, xây dựng chiếm 9,2%; dịch vụ
chiếm 19%, thì đến năm 2013 tỷ lệ tương ứng là 55,32% - 22,04% – 22,64%

Tổng thu ngân sách nhà nước tại địa bàn tăng nhanh. Năm 2013 ước đạt 1500 tỷ
đồng tăng gấp 5,3 lần so với 2003.

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản liên tục tăng trưởng và giữ vai trò nền tảng

đối với sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã có
bước chuyển biến tích cực theo hướng chú trọng sản xuất hàng hóa và có giá trị
kinh tế cao. Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2012 đạt hơn 18,2 ngàn tỷ đổng gấp
hơn 9,3 lần so với năm 2003. Sản lượng lương thực năm 2012 đạt 366,43 ngàn
tấn, tăng gấp 2,8 lần so với năm 2003. Cây công nghiệp dài ngày tăng mạnh cả về
sản lượng và diện tích. Đến cuối năm 2012 diện tích và sản lượng cây cà phê tăng
từ gần 66 ngàn ha – 114 493 tấn năm 2003 lên đến 115.270 ha – 204.857 tấn; diện
tích cây hồ tiêu đạt 8.924 ha, sản lượng đạt 14.563 tấn, tăng khoảng 1,5 lần về
diện tích và sản lượng so với năm 2003. Giá trị sản phẩm thu được trên 1 ha đất
trồng trọt tăng từ 15,93 triệu đồng năm 2005 lên đến 55,72 triệu đồng năm 2012.

Quy mô sản xuất, cơ cấu kinh tế hộ nông thôn[2] có bước chuyển dịch, thu nhập
của hộ nông thôn tăng lên. Cơ cấu ngành nghề của hộ NT có sự chuyển dịch nhanh
theo hướng giảm số lượng và tỷ trọng nhóm hộ nông, lâm thủy sản, tăng số lượng
và tỷ trọng nhóm hộ công nghiệp – xây dựng và dịch vụ.

Quy mô sản xuất công nghiệp tăng hầu hết ở các lĩnh vực, thành phần kinh tế. Tốc
độ tăng trưởng cao, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2012 đạt 3.922 triệu đồng,
tăng hơn 10 lần so với năm 2003. Đến nay trên địa bàn tỉnh đã xây dựng được 02
khu công nghiệp và 5 cụm công nghiệp, thu hút 80 dự án đăng ký đầu tư, trong đó
25 dự án đang hoạt động, 11 dự án đang triển khai xây dựng cơ bản và 44 dự án
đang làm thủ tục đầu tư với tổng vốn đầu tư 2.662 tỷ đồng. Riêng Khu công
nghiệp Tâm Thắng có 30 dự án đầu tư (25 dự án đã hoạt động; 05 dự án đang xây
dựng cơ bản), tổng vốn đăng ký đầu tư 2.232,9 tỷ đồng, lấp đầy được 70,3% diện
tích.

Tiềm năng thủy điện được khai thác đúng định hướng. Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
hiện có 16 nhà máy thủy điện đã đi vào hoạt động với tổng công suất 1403
MW/năm[3].


Công nghiệp khai khoáng bước đầu có sự khởi động tích cực. Nhà máy Alumina
Nhân Cơ đã được khởi công xây dựng, dự kiến đi vào hoạt động cuối năm 2014;
đồng thời chuẩn bị khởi công xây dựng nhà máy điện phân nhôm tại Nhân
Cơ; triển khai dự án khai thác Antimon và khai thác Wolfram tại xã Đăk Drông,
huyện Cư Jut.

Thương mại - dịch vụ có bước phát triển, tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2006 – 2013
luôn ở mức trên 15%/năm. Kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh, nếu như năm 2003
kim ngạch xuất khẩu ở Đắk Nông chỉ ở mức chưa đầy 3 triệu USD thì năm 2013
con số này đã vượt lên khoảng 540 triệu USD.

Hiện nay toàn tỉnh có 1.875 doanh nghiệp và 488 đơn vị trực thuộc; tổng vốn đăng
ký gần 13 ngàn tỷ đồng[4]; Thu hút được 07 dự án/doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký là 23,15 triệu USD, đã giải ngân để đầu tư
được 17,1 triệu USD. Các doanh nghiệp nhà nước hầu hết đã được chuyển đổi
thành công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, bước đầu đã
có một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu qủa. Kinh tế tập thể phát triển nhanh về số
lượng, đến nay có 550 tổ hợp tác sản xuất, 131 hợp tác xã hoạt động trên nhiều
lĩnh vực, xuất hiện một số mô hình hợp tác xã hoạt động mang lại hiệu qủa kinh tế
- xã hội cao. Kinh tế dân doanh tuy còn nhỏ bé, nhưng phát triển đa dạng, phong
phú, có đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần giải
quyết việc làm cho lao động địa phương.

2. Hai là, đầu tư phát triển mạnh y tế, giáo dục, văn hóa – xã hội

Giáo dục - đào tạo có bước phát triển nhanh cả về chất lượng và quy mô. Năm học
2012-2013, toàn tỉnh Đăk Nông từ bậc mầm non đến trung học phổ thông và trung
tâm giáo dục thường xuyên có 349 trường (trong đó có 06 Trung tâm giáo dục
thường xuyên), tăng gấp 2 lần so với năm học 2003-2004. Có 64 trường đạt chuẩn
quốc gia. Tổng số học sinh từ mầm non đến phổ thông và trung tâm giáo dục

thường xuyên: 146.332 em (trong đó học sinh dân tộc là: 44.269 chiếm tỷ lệ: 31
%), tăng so với cùng kỳ năm học 2003 - 2004 là 41.275 học sinh. Các điểm trường
lẻ của hệ thống trường tiểu học đã được mở rộng đến các điểm dân cư. Hệ thống
các trường dạy nghề được hình thành và phát triển; hiện có 19 trường và trung tâm
dạy nghề (12 đơn vị công lập, 07 đơn vị ngoài công lập). Đến nay, hầu hết giáo
viên các cấp học đều đạt chuẩn và trên chuẩn. Công tác đổi mới phương pháp dạy
học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình giáo dục phổ thông ngày càng
được chú trọng.

Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân đạt được những kết
quả quan trọng. Công tác phòng chống dịch bệnh được chú trọng. Các chương
trình, mục tiêu, dự án y tế quốc gia đều được triển khai đồng bộ và có hiệu quả.
Hằng năm tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ 7 loại vắc xin, đạt trên
96,7%; tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi đến nay còn 24,8%; tỷ suất sinh
hàng năm giảm 1
0
/00,
tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,44%.

Công tác khám, chữa bệnh ngày càng được chú trọng, đáp ứng nhu cầu cơ bản
trong việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, từng bước triển khai và mở rộng các
dịch vụ y tế kỹ thuật cao. Hệ thống y tế từ tỉnh đến huyện và xã được củng cố và
nâng cao năng lực khám chữa bệnh. Đến nay, 100% xã, phường, thị trấn có trạm y
tế và hơn 85% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế; Bệnh viện Đa
khoa tỉnh đã hoàn thành, đi vào hoạt động và phát huy hiệu quả. Cuối năm 2003 cả
tỉnh chỉ có 53 cơ sở y tế, với 642 giường bệnh; đến cuối năm 2012 đã tăng lên 82
cơ sở y tế, 1.144 giường bệnh; đạt 5,7 bác sỹ/vạn dân.

Lĩnh vực văn hoá có bước phát triển đáng kể, cả chiều rộng, lẫn chiều sâu, đa
dạng về hình thức, phong phú về nội dung. Di sản văn hoá phi vật thể của các dân

tộc, nhất là dân tộc bản địa được quan tâm tiến hành điều tra, sưu tầm, lưu giữ;
nhiều giá trị văn hóa truyền thống được khôi phục, phát huy. Đắk Nông đã tiến
hành điều tra, lập hồ sơ quy hoạch, tiến hành đầu tư tôn tạo và đề nghị công nhận
di tích lịch sử cấp quốc gia cho 06 di tích lịch sử. Các danh thắng tự nhiên như: Hồ
Ea Snô, thác Dray Sap, thác Gia Long được quan tâm đầu tư, phục vụ phát triển
ngành du lịch của tỉnh.

Việc đầu tư xây dựng các thiết chế vǎn hóa ở cơ sở nhằm hoàn thiện thể chế văn
hóa trên địa bàn tỉnh được các ngành, các cấp quan tâm triển khai, thu hút một
phần vốn xã hội hóa, cơ bản đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển văn hóa ở cơ
sở. Các thiết chế vǎn hóa ở cơ sở được xây dựng tăng lên qua các năm. Một số
thiết chế văn hóa trọng điểm như: Trung tâm Văn hóa, Trung tâm Hội nghị, Nhà
thi đấu và tập luyện thể thao, Sân vận động, Tượng đài N’Trang Lơng và các dân
tộc Tây Nguyên, v.v… được đầu tư xây dựng.

Môi trường văn hóa có sự đổi thay tích cực, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế -
xã hội, ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa” đã trở thành cuộc vận động văn hóa lớn, phát huy
được sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong việc chăm lo xây dựng
đời sống văn hóa cho mỗi người dân, cho mỗi cộng đồng để văn hóa thấm sâu vào
toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội. Tỷ lệ gia đình văn hóa; thôn, bon, buôn văn
hóa; cơ quan văn hóa tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng. Năm 2012 có
66,95% gia đình; gần 7,04% xã/phường, thị trấn; 53% thôn, bon, tổ dân phố;
76,4% cơ quan, đơn vị đạt danh hiệu văn hoá. Nếp sống văn minh trong việc cưới,
việc tang và lễ hội từng bước được định hình trong xã hội. Nhiều bản quy ước,
hương ước phù hợp với pháp luật, kế thừa được những nét văn hóa trong phong tục
tập quán tốt đẹp của nhân dân các dân tộc đã được nhân dân đồng thuận xây dựng
và thực hiện. Hoạt động văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp có nhiều khởi sắc, góp
phần quan trọng trong việc bảo tồn, phát huy và giới thiệu, quảng bá những nét đặc
trưng văn hóa Đắk Nông đến bạn bè trong nước và quốc tế.


Phong trào thể dục, thể thao có bước phát triển nhanh; công tác xã hội hoá thể dục
- thể thao bước đầu có kết quả, nhiều câu lạc bộ thể thao được hình thành và hoạt
động tốt. Thể thao thành tích cao được chú trọng. Đắk Nông đã đăng cai tổ chức
thành công nhiều giải thi đấu thể thao cấp khu vực và quốc gia.

Công tác báo chí, phát thanh, truyền hình có nhiều cố gắng; đã kịp thời chuyển tải
những thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước đến tận người dân, đáp ứng các nhu cầu đời sống tinh thần cho nhân
dân; chương trình phát sóng cho đồng bào dân tộc thiểu số được mở rộng để phục
vụ cho cả đồng bào ở vùng sâu, vùng xa. Báo chí, xuất bản, phát thanh - truyền
hình, mạng lưới bưu chính viễn thông phát triển rộng khắp, đáp ứng nhu cầu
thông tin, truyền thông của nhân dân trong tỉnh.

Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ có những đóng góp quan
trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng năng suất, nâng cao chất
lượng sản phẩm và tăng hiệu quả chung của nền kinh tế. Từng bước tạo môi trường
cạnh tranh và phát huy được tiềm năng sáng tạo trong hoạt động khoa học và công
nghệ; tham gia thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh, góp phần
nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển ứng dụng kết quả nghiên cứu vào kinh tế, đời
sống xã hội, văn hoá, giáo dục của tỉnh.

3. Ba là, thực hiện có hiệu quả chính sách đền ơn đáp nghĩa, an sinh xã hội,
chăm lo người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số.

Cùng với việc thực hiện các chương trình mục tiêu giảm nghèo, tỉnh đã dành một
phần đáng kể các nguồn lực để đầu tư phát triển sản xuất, phát triển cơ sở hạ tầng
kinh tế xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Các chương
trình xoá nhà tạm, nhà dột nát, tặng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết được nhân dân
hưởng ứng, đồng tình cao. Từ năm 2004 đến nay đã đào tạo nghề cho 35.825 lao

động nông thôn, giải quyết việc làm cho 127.946 người; tỷ lệ hộ nghèo giảm
nhanh, bình quân mỗi năm giảm trên 3%. Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn
17,55% và tỷ lệ hộ cận nghèo còn 5,7%.

Phong trào đền ơn đáp nghĩa tiếp tục phát triển sâu rộng, việc chăm lo đời sống
cho các đối tượng chính sách, các hộ nghèo và những người có hoàn cảnh neo đơn,
bất hạnh, tật nguyền… ngày càng được cộng đồng xã hội quan tâm, đưa lại hiệu
quả thiết thực, thể hiện trong chủ trương, chính sách của Đảng bộ và chính quyền
các cấp, cũng như trong ý thức của nhân dân.

Tạo điều kiện ưu tiên phát triển kinh tế và xã hội của vùng đồng bào dân tộc thiểu
số. Ngoài các chính sách chung của Trung ương, tỉnh còn có các chủ trương và giải
pháp đặc biệt để hỗ trợ phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, như: chương
trình phát triển bền vững 12 bon, buôn; chương trình kết nghĩa giữa các cơ quan,
đơn vị với bon, buôn; chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên dân tộc
thiểu số, v.v…

Sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân được đảm bảo. Thống kê đến cuối
năm 2012, trên địa bàn tỉnh có gần 202 ngàn tín đồ (chiếm khoảng 39% dân số);
hơn 100 cơ sở thờ tự. Hoạt động tôn giáo chủ yếu ở 3 tổ chức tôn giáo chính là:
Công giáo (khoảng 114.324 tín đồ, với 63 cơ sở thờ tự, 27 linh mục, 92 tu sỹ thuộc
13 dòng tu); Phật giáo (khoảng 35.953 tín đồ, với 24 cơ sở thờ tự, 11 điểm sinh
hoạt, 52 chức sắc); Tin lành (khoảng 51.023 tín đồ, với 151 điểm nhóm đã đăng ký
sinh hoạt, 06 mục sư thực thụ, 23 mục sư nhiệm chức).

4. Bốn là, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng, mở
rộng các hoạt động đối ngoại

Quốc phòng – an ninh được củng cố, tăng cường, xây dựng lực lượng chính quy
tinh nhuệ, từng bước hiện đại; làm tốt vai trò tham mưu, góp phần chủ động phòng

ngừa, đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các loại tội phạm, giữ vững ổn
định chính trị, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội.

Nắm bắt, tập trung giải quyết các vụ việc phức tạp; kiềm chế tai nạn giao thông, tệ
nạn xã hội, an ninh chính trị - kinh tế - văn hóa – tư tưởng được đảm bảo. Phát huy
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các lực lượng vũ trang đấu tranh
làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, lợi dụng các vấn
đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, các vấn đề mâu thuẫn nảy sinh trong xã
hội, để thực hiện âm mưu chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn, lật đổ, không
để xảy ra biểu tình, bạo loạn, vượt biên, xâm nhập trái phép.

Chất lượng huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên và công tác bồi dưỡng kiến
thức quốc phòng cho cán bộ chủ chốt được nâng cao. Trực sẵn sàng chiến đấu
được thực hiện thường xuyên, nghiêm túc. Khu vực phòng thủ tỉnh và các huyện,
thành phố được chăm lo xây dựng toàn diện, vững chắc. Hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ tuyển quân hằng năm. Tham gia tích cực, có hiệu quả các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội, phòng chống thiên tai.

Hoạt động đối ngoại được mở rộng trên nhiều lĩnh vực. Mối quan hệ đặc biệt giữa
tỉnh Đắk Nông và tỉnh Mondulkiril – Vương quốc Campuchia được củng cố. Hoạt
động hợp tác kinh tế, văn hoá - xã hội với các doanh nghiệp nước ngoài, các tổ
chức phi chính phủ và chính phủ của các nước từng bước phát triển; nhiều dự án
đầu tư phi chính phủ có tác dụng xã hội thiết thực.

5. Năm là hệ thống chính trị được củng cố, kiện toàn; nâng cao năng lực lãnh
đạo, quản lý

Vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng không ngừng được tăng
cường; chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng đối với
toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị được nâng lên; mối quan hệ giữa Đảng và

nhân dân ngày càng được củng cố và tăng cường.

Công tác chính trị, tư tưởng luôn được quan tâm và coi trọng, góp phần nâng cao
nhận thức, tính tích cực của cán bộ, đảng viên và nhân dân, củng cố lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, tạo sự đoàn kết nhất trí trong Đảng bộ và sự đồng thuận
trong xã hội.

Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được triển khai sâu
rộng, gắn chặt với việc thực hiện nghiêm túc, đồng bộ các nhóm nhiệm vụ, giải
pháp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay” tạo được sự chuyển biến tích cực từ nhận thức đến
hành động trong cán bộ, đảng viên và quần chúng.
Công tác tổ chức, cán bộ và đảng viên được triển khai đồng bộ, số lượng và chất
lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên từng bước được nâng lên. Từ chưa đầy 7.000
đảng viên, 322 tổ chức cơ sở đảng ngày đầu thành lập tỉnh, đến nay Đảng bộ tỉnh
Đắk Nông đã có hơn 18.000 đảng viên, 383 tổ chức cơ sở đảng; 100% thôn, buôn,
bon, tổ dân phố đã có chi bộ. Tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh,
chiếm tỷ lệ từ 65 - 70%/năm, với 78% - 80% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt
nhiệm vụ; công tác xây dựng chi bộ ở thôn, bon, tổ dân phố thường xuyên được coi
trọng.

Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng được chỉ đạo có trọng
tâm, trọng điểm, khá toàn diện. Việc thi hành kỷ luật trong Đảng của Đảng bộ
được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo đúng phương hướng, phương châm, nguyên
tắc và thủ tục quy định; góp phần giữ vững kỷ cương, kỷ luật, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng.

Công tác dân vận của Đảng được quan tâm. Các tổ chức trong hệ thống chính trị đã
tăng cường phối hợp làm công tác dân vận, nhất là nắm bắt tâm tư nguyện vọng,
lắng nghe và xử lý kịp thời những phát sinh ở các địa bàn trọng điểm, tích cực

tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, khuyến
khích, động viên nhân dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, ổn định và từng bước nâng cao đời sống, góp phần ngăn chặn suy
giảm kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh trật
tự trên địa bàn.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội thực sự trở thành cầu nối giữa
nhân dân với Đảng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố,
kiện toàn về tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên; từng bước đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, đa dạng các hình thức tập hợp quần chúng, chú trọng
hướng về cơ sở. Đã phối hợp khá tốt với các ngành, các địa phương tổ chức được
nhiều phong trào thi đua yêu nước…; phát huy tinh thần tự quản của nhân dân,
động viên các tầng lớp nhân dân phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, tham gia xây dựng Đảng và
chính quyền; nắm tình hình và tham gia giải quyết những vấn đề phát sinh từ nội
bộ nhân dân.

Hệ thống chính quyền được củng cố, tăng cường từ tỉnh đến cơ sở. Đội ngũ cán bộ,
công chức ngày càng trưởng thành, từng bước nâng cao về trình độ, năng lực
chuyên môn. Tổ chức bộ máy các cơ quan, đơn vị của tỉnh được xây dựng hợp lý;
chức năng, nhiệm vụ được phân định rõ ràng giữa cơ quan hành chính và đơn vị sự
nghiệp công; công tác quản lý, sử dụng biên chế thực hiện theo đúng quy định
hiện hành của Nhà nước. Cải cách hành chính được triển khai tương đối đồng bộ
trên cả 4 nội dung: Cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng
và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ - công chức, cải cách tài chính công. Việc
áp dụng quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn đã bước đầu nâng cao năng lực của nền
hành chính; thủ tục hành chính được rà soát, sửa đổi thực hiện cơ chế một cửa liên
thông ở các cơ quan hành chính. Việc triển khai các nhóm giải pháp nâng cao chỉ
số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) được Đảng bộ, Chính quyền chỉ đạo quyết
liệt, nhờ đó chỉ số (PCI) của tỉnh qua các năm liên tục được cải thiện, vươn lên

nhóm khá. Nếu như năm 2007, Đắk Nông giữ vị trí chót bảng xếp hạng PCI so với
cả nước, thì đến năm 2012 đã vượt lên vị trí thứ 48/63 tỉnh, thành phố.

Cùng với những thành tựu rất đáng tự hào, trong thời gian qua, tỉnh vẫn còn
tồn tại một số hạn chế, yếu kém cần phải khắc phục.

Một là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chưa vững chắc; công nghiệp phát triển
chậm, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội có sự phát triển, song thiếu đồng bộ, chưa đáp
ứng kịp yêu cầu thực tiễn; khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, chưa tận
dụng hết cơ hội để khai thác đúng mức tiềm năng và lợi thế của địa phương. Một
số công trình thời gian thi công kéo dài, chậm phát huy hiệu quả; thu hút đầu tư
nước ngoài chưa mạnh; du lịch phát triển chậm, công tác quản lý, quy hoạch còn
nhiều yếu kém; công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ, bảo vệ tài nguyên môi
trường thiếu sự quan tâm đúng mức. Đầu tư cho phát triển văn hóa chưa tương
xứng với đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

Hai là, giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, tuy được quan tâm chỉ đạo tích cực,
kiên quyết nhưng vẫn có nhiều điều đáng quan tâm: thu nhập và đời sống đại bộ
phận nhân dân từng bước được cải thiện, nâng lên, nhưng nhìn chung vẫn còn
nhiều khó khăn, chất lượng cuộc sống của nhân dân vùng sâu, vùng có đông đồng
bào dân tộc thiểu số vẫn còn thấp; số lao động chưa được đào tạo nghề còn chiếm
tỷ lệ cao. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tuy được giữ vững, song vẫn còn
tiềm ẩn yếu tố mất ổn định. Ở một số địa bàn, tệ nạn xã hội, trật tự trị an vẫn còn
diễn biến phức tạp.

Ba là, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở Đảng chưa đáp
ứng và theo kịp sự phát triển của thời kỳ mới; trong chỉ đạo, điều hành giải quyết
các vấn đề mới nảy sinh chưa kịp thời, chưa kiên quyết làm giảm sút lòng tin trong
nhân dân. Công tác kiểm tra, giám sát và các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế cán bộ,
đảng viên vi phạm kỷ luật chưa mang lại hiệu quả cao. Công tác vận động quần

chúng chưa chuyển biến kịp theo yêu cầu, tình hình, nhiệm vụ mới. Chất lượng
hoạt động của mặt trận, đoàn thể chưa đều.
Bốn là, việc quản lý, điều hành của chính quyền các cấp còn nhiều hạn chế, thể
hiện ở tầm nhìn, năng lực tổ chức thực hiện. Việc triển khai tổ chức thực hiện cơ
chế, chính sách, các giải pháp được đề ra chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ, chất lượng
đội ngũ cán bộ nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay.

II. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIÊM QUA 10 NĂM XÂY DỰNG VÀ
TRƯỞNG THÀNH

Trải qua 10 năm xây dựng và trưởng thành, với 02 kỳ Đại hội, từ Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ IX (2005) đến Đại hội lần thứ X (năm 2010), mỗi kỳ Đại hội đánh dấu
bước trưởng thành và sự lớn mạnh của Đảng bộ. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng
bộ và Chính quyền tỉnh Đắk Nông luôn nêu cao ý thức trách nhiệm, tinh thần cách
mạng tiến công. Trong mỗi giai đoạn phát triển đã kịp thời đề ra những quyết sách
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, hợp với lòng dân, tạo
sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với dân. Qua 10 năm xây dựng và phát triển, Đảng
bộ và Chính quyền tỉnh rút ra một số bài học như sau:

Một là, bài học về đoàn kết: Cấp uỷ luôn luôn quan tâm lãnh đạo giữ vững và tăng
cường sự đoàn kết thống nhất từ trong Đảng để làm hạt nhân trong cả hệ thống
chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đó là nhân tố quyết định đối với một
tỉnh mới thành lập, đội ngũ cán bộ còn thiếu, yếu, kẻ thù âm mưu chia rẽ, lợi dụng
những vấn đề dân tộc, tôn giáo…Những thành công đó đã tạo ra sức mạnh tổng
hợp, vượt khó, sáng tạo, đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị. Đoàn kết
còn tạo được niềm tin, năng lực, ý chí và phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng
viên, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để hoàn thành nhiệm vụ chung.

Hai là, bài học về phát triển hài hoà và bền vững: Trong quá trình lãnh đạo phát
triển kinh tế - xã hội phải đảm bảo yêu cầu về quốc phòng – an ninh và môi trường

sinh thái, hài hoà lợi ích của nhà đầu tư với nhân dân địa phương cả trước mắt và
lâu dài. Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà xác định mục tiêu và chính sách ưu tiên,
nhưng trong thực hiện cần gắn kết hoà quyện giữa các mặt, các khâu, các mục tiêu
để phát triển bền vững.

Ba là, bài học về bám dân: Ngay từ những ngày đầu thành lập, tỉnh đã có chủ trương
kết nghĩa với các bon, buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, nên đã tăng cường mối
quan hệ mật thiết gắn bó giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị và cán bộ, đảng
viên với nhân dân; hiểu và nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng, tình cảm để áp dụng
chính sách phù hợp, chăm lo lợi ích vật chất và tinh thần cho nhân dân. Đặc biệt là
quan tâm đến hoàn cảnh khó khăn của đồng bào vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc
thiểu số, gia đình chính sách, có công, đồng bào nghèo; phát huy tinh thần tự quản,
xây dựng thôn, buôn, bon vững mạnh.

Bốn là, bài học về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phải xây dựng quy
chế, lấy quy chế làm nguyên tắc điều chỉnh các mối quan hệ, quy định các vấn đề
cơ bản trong mối quan hệ giữa các cấp uỷ Đảng với các cấp chính quyền và các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị. Thực hành và phát huy dân chủ; thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng để tạo ra sức mạnh tổng
hợp, trên cơ sở làm rõ và phát huy vị trí, chức năng nhiệm vụ của từng tổ chức
thành viên trong hệ thống chính trị; thực hiện tốt vai trò hạt nhân nòng cốt chính trị
của tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên.

PHẦN III

ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐẮK NÔNG ĐẾN NĂM 2020

1. Định hướng chung

Trên cơ sở những thành tựu và những bài học rút ra sau 10 năm xây dựng quê

hương, để tiếp tục có những bước đi đúng đắn đưa tỉnh nhà phát triển nhanh và bền
vững, sớm thoát nghèo, Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ X, xác
định phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu tổng quát giai đoạn 2010 – 2015
là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, hiệu lực, hiệu quả
quản lý của chính quyền các cấp, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị;
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc; giữ vững ổn định chính trị xã hội.
Tập trung phát triển nguồn nhân lực, xây dựng hạ tầng thiết yếu về kinh tế - xã hội
và đô thị hạt nhân, thu hút đầu tư; tạo bước phát triển đột phá về kinh tế trong
công nghiệp khai khoáng và năng lượng, công nghiệp chế biến và nông nghiệp kỹ
thuật cao, dịch vụ và du lịch; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá phong phú, đa
dạng của các dân tộc. Phấn đấu đến năm 2015 thoát ra khỏi tỉnh nghèo và năm
2020 đưa kinh tế Đăk Nông đạt mức bình quân chung của cả nước; tạo tiền đề cơ
bản để phát triển toàn diện và bền vững theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại
hoá”.

Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Đắk Nông quán triệt sâu sắc 02 quan điểm chính.

Một là: Xem yếu tố nội lực là quyết định, yếu tố ngoại lực là quan trọng, phát triển
bền vững là mục tiêu phấn đấu để xây dựng lộ trình, bước đi thích hợp, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Hai là: Xử lý hài hoà giữa yêu cầu các lợi ích kinh tế với yêu cầu của quốc phòng -
an ninh, văn hoá - xã hội, bảo vệ môi trường cho cả trước mắt và lâu dài. Không vì
lợi ích kinh tế trước mắt mà xem nhẹ các lợi ích cơ bản lâu dài; kết hợp lồng ghép
hài hoà các chương trình, mục tiêu; chú trọng phát triển bền vững.

Từ đó xác định hai lĩnh vực tập trung phát triển và ba khâu đột phá.

- Hai tập trung. Một là tập trung phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển

và ứng dụng khoa học, công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm yêu cầu nhân lực phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Hai
làtập trung xây dựng hạ tầng thiết yếu và đô thị hạt nhân, thu hút đầu tư, đặc biệt là
giao thông và hạ tầng đô thị lớn.

- Ba khâu đột phá. Đột phá về kinh tế trong công nghiệp khai khoáng và năng
lượng. Đột phá trong công nghiệp chế biến và nông nghiệp công nghệ cao. Đột phá
trong dịch vụ và du lịch.

2. Một số mục tiêu cơ bản

1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm giai đoạn 2011- 2015 ở mức
15,5%; giai đoạn 2016 - 2020 phấn đấu đạt từ 16-17%. Cơ cấu kinh tế đến năm
2015: Công nghiệp, Xây dựng: 39,57%; Dịch vụ: 26,7%; Nông lâm nghiệp:
33,73%; đến năm 2020 cơ cấu tương ứng đạt: 45,7% - 37,6% - 16,5%.

2. GDP bình quân đầu người năm 2015 đạt trên 27 triệu đồng; năm 2020 phấn đấu
đạt 66 triệu đồng; bằng 76% so với mức bình quân chung của cả nước.

3. Về tài chính: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2011 - 2015 đạt 69,5 ngàn
tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm trên 28%; thu ngân sách Nhà nước hằng năm
tăng trên 20,7%;

4. Kim ngạch xuất khẩu năm 2015 đạt 550 triệu USD, tốc độ tăng bình quân giai
đoạn 2011-2015 đạt 16,17%/năm; đến năm 2020 đạt khoảng 1.500 triệu USD, tốc
độ tăng bình quân giai đoạn 2016-2020 khoảng 22,2%/năm.

5. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật đến năm 2015:

- Thủy lợi: Đảm bảo nguồn nước cho 80% diện tích cây trồng có nhu cầu tưới.


- Giao thông: Nhựa hóa 100% đường tỉnh, 80% đường huyện, 100% số bon, buôn
có 1 - 2km đường nhựa.

- Điện: 100% bon, buôn, thôn có điện lưới quốc gia; 95% số hộ được dùng điện.

- Tỷ lệ đô thị hóa năm 2015 ở mức 20%; năm 2020 đạt 30% .

6. Về dân số: dân số của tỉnh vào năm 2015 là 670 nghìn người; đến năm 2020 đạt
khoảng 830 ngàn người. Giữ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giai đoạn 2011-2015 đạt
mức 1,3%/năm; giai đoạn 2016-2020 1,1%/năm.

7. Về lao động việc làm: Giai đoạn 2011- 2015 đào tạo nghề cho 24.000 người;
giải quyết việc làm cho 88.500 lượt lao động.

8. Tỷ lệ hộ nghèo: phấn đấu giảm số hộ nghèo hằng năm trên 3% so với tổng số hộ
nghèo toàn tỉnh.

9. Về y tế: Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng là 22,4%; 90% dân số được sử
dụng nước hợp vệ sinh; có 6,2 bác sỹ và trên 20 giường bệnh/vạn dân, đến năm
2020 đạt tỷ lệ 8,5 bác sỹ/vạn dân.

10. Về giáo dục: Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi mỗi năm có trên
7 trường ở các cấp học được công nhận đạt chuẩn quốc gia. duy trì và nâng cao
chất lượng phổ cập giáo dục phổ thông; mở rộng quy mô giáo dục trung học phổ
thông, phấn đấu 70% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ trung học phổ thông và
tương đương. Chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, đến năm 2020 có 80% giáo viên mầm
non, 100% giáo viên tiểu học đạt trình độ cao đẳng trở lên, 100% giáo viên THCS,
THPT đạt trình độ đại học trở lên.


11. Về văn hóa: có 75% số hộ đạt gia đình văn hóa, 60% thôn, bon, buôn, tổ dân
phố; 85% cơ quan, đơn vị và 11% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn văn hóa.

12. Quốc phòng - an ninh: Tiếp tục xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân, biên phòng toàn dân gắn với thế trận lòng dân vững chắc, phát huy sức
mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các
thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị; đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

13. Công tác xây dựng đảng: có trên 80% tổ chức sơ sở đảng phát triển đảng viên;
100% chi bộ trực thuộc đảng bộ xã, phường, thị trấn có kết nạp đảng viên, 100%
thôn, bon, buôn có chi bộ là đảng viên tại chỗ. Hằng năm có trên 75% số tổ chức
cơ sở đảng đạt trong sạch - vững mạnh.

3. Định hướng phát triển một số ngành và lĩnh vực

a) Về kinh tế

- Phát triển nền nông nghiệp toàn diện theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả
và bền vững, đồng thời tạo mũi đột phá về nông nghiệp công nghệ kỹ thuật cao; sử
dụng hiệu quả quỹ đất nông nghiệp, lâm nghiệp; sản xuất hàng hoá quy mô ngày
càng lớn về trồng trọt, chăn nuôi đại gia súc và phát triển vốn rừng, bảo vệ môi
trường sinh thái và ứng dụng KHCN vào sản xuất. Đẩy mạnh xây dựng nông thôn
mới, phấn đấu tỷ lệ xã đạt tiêu chí nông thôn mới đến năm 2015 đạt 20%, đến năm
2020 đạt 50%.

- Tiếp tục xác định phát triển công nghiệp là khâu đột phá cho phát triển kinh tế -
xã hội. Trong đó, tập trung vào các ngành chế biến nông, lâm sản, khai thác chế
biến bô xít, thủy điện và vật liệu xây dựng. Làm thay đổi cơ cấu kinh tế của tỉnh
theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp để đến năm 2020 đạt cơ cấu: công nghiệp -

dịch vụ - nông lâm nghiệp. Ưu tiên phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành công
nghiệp khai thác bô xít và công nghiệp công nghệ cao.

- Tiếp tục phát triển thương mại, nâng cao chất lượng các dịch vụ vận tải, đảm bảo
cho lưu thông hàng hóa. Thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ xúc tiến
thương mại, xây dựng thương hiệu các sản phẩm, xuất xứ hàng hóa, mở rộng thị
trường xuất khẩu. Đầu tư khai thác các tiềm năng du lịch. Chú trọng xây dựng và
phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông.

- Phát triển kết cấu hạ tầng. Xây dựng cải tạo nâng cấp QL 14 đoạn qua tỉnh Đắk
Nông đạt quy mô 4 - 6 làn xe; xây dựng hoàn thành QL 14C giai đoạn 2; mở rộng
QL 28; hoàn thành dự án nối QL14 tại thị trấn Kiến Đức đến cửa khẩu Bu Prăng và
nối vào QL 76 của Campuchia. Cải tạo, nâng cấp hệ thống tỉnh lộ; xây dựng mới
02 tuyến đường Đắk Song – Đắk Nang, dài 60km và Đạo Nghĩa – Quảng Khê, dài
48km. Phấn đấu sau năm 2015 nhựa hóa 100% các tuyến đường tỉnh; xây dựng
hoàn chỉnh các tuyến đường huyện theo đúng cấp kỹ thuật và tỷ lệ nhựa hóa là
80%; nhựa hóa 45% đường nông thôn, phấn đấu 100% các buôn, bon có 1-2 km
đường nhựa.

Đề nghị Chính phủ sớm triển khai xây dựng tuyến đường sắt nối Gia Nghĩa –
Quảng Khê – Lâm Đồng với cảng Kê Gà (tỉnh Bình Thuận) và đưa sân bay Nhân
Cơ vào danh mục quy hoạch xây dựng sân bay Quốc gia trước năm 2015, sau năm
2015 triển khai xây dựng hạ tầng.

- Phát triển 03 tiểu vùng kinh tế. Vùng kinh tế phía Bắc: gồm có thị xã Đức Lập,
huyện Đắk Mil, Cư Jút, Krông Nô và Đức Xuyên (dự kiến thành lập vào đầu năm
2015). Tập trung phát triển theo hướng: phát triển nông nghiệp toàn diện, phát triển
công nghiệp đa dạng, phát triển du lịch sinh thái bền vững.

Vùng kinh tế Trung tâm: gồm thị xã Gia Nghĩa, huyện Đắk Glong và Đắk Song.

Tập trung thu hút các dự án phát triển công nghiệp; dự án thủy điện; khai thác bô
xít, khoáng sản quý hiếm; phát huy tiềm năng đất đai trồng cây công nghiệp dài
ngày, chăn nuôi đại gia súc và trồng rừng nguyên liệu.

Vùng kinh tế phía Tây Nam: gồm thị xã Kiến Đức và các huyện Đắk R’lấp và Tuy
Đức. Tập trung thu hút phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản,
chế biến thực phẩm, tinh bột sắn, ngô, sản xuất thức ăn gia súc, xây dựng cơ sở
giết mổ gia súc, gia cầm và đông lạnh rau quả, thực phẩm; cơ khí sửa chữa máy
móc, khai thác chế biến đá.

b) Về lĩnh vực văn hóa - xã hội

- Tăng cường đầu tư nguồn lực cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao chất
lượng giáo dục phổ thông, đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp - dạy nghề, nhất là
dạy nghề ở nông thôn, trong đồng bào dân tộc thiểu số; gắn đào tạo xây dựng
nguồn nhân lực với các chương trình - mục tiêu phát triển, khai thác tiềm năng lợi
thế của tỉnh. Nâng cao chất lượng đào tạo các trường dạy nghề trên địa bàn tỉnh,
đủ sức thực hiện mục tiêu dạy nghề. Đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động
Trường Cao đẳng cộng đồng Đăk Nông, Trường Trung học phổ thông chuyên,
Trung tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh. Liên kết với một số trường đại học
trong nước, mở 1 - 2 phân hiệu đại học tại tỉnh.

- Phát triển khoa học và công nghệ trở thành một trong những động lực chính để
phát triển kinh tế - xã hội. Làm chủ một số công nghệ tiên tiến trong lãnh vực công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học xã hội và
nhân văn, trong đó đặt trọng tâm vào các vấn đề lý luận về xây dựng và phát triển
hệ thống chính trị, quản lý nhà nước, quản lý đô thị, phát triển các thành phần kinh
tế trong điều kiện thực tế của tỉnh Đắk Nông.

- Chăm lo phát triển văn hoá, bảo vệ nền tảng đạo đức xã hội. Tăng cường công tác

bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá tinh
thần cho nhân dân. Đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá ở cơ sở. Xây dựng nếp sống văn hoá, văn minh đô thị. Từng bước xây dựng
một xã hội văn hoá có lối sống văn minh, tôn trọng lợi ích cộng đồng.

Đẩy mạnh và tạo chuyển biến mạnh mẽ các hoạt động văn hóa - thể thao quần
chúng ở cơ sở.

Nâng cấp hệ thống phát thanh - truyền thanh, truyền hình, báo chí và các hình thức
thông tin khác; thực hiện phủ sóng truyền hình số vệ tinh; phủ sóng phát thanh trên
địa bàn toàn tỉnh.

- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Tập
trung phát triển các cơ sở y tế chuyên sâu, ưu tiên phát triển các loại hình dịch vụ y
tế chất lượng cao. Đầu tư phát triển mạng lưới y tế dự phòng. Khuyến khích và tạo
mọi điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, xây dựng các cơ sở y tế nhằm
tăng cường xã hội hoá của hoạt động y tế.

Tiếp tục thực hiện các giải pháp kiềm chế tốc độ tăng dân số. Thực hiện tốt công
tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em; tạo môi trường sinh hoạt lành mạnh, phù hợp với trẻ
em.

- Tạo thêm việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thực hiện có hiệu quả
các chính sách an sinh xã hội. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho người lao
động, trước hết là cho nông dân, thanh niên.

Cải thiện việc cung ứng các dịch vụ an sinh xã hội cơ bản cho nhân dân. Huy động
thêm các nguồn lực để nâng cao điều kiện sống cho người có công, người nghèo,
đồng bào dân tộc thiểu số và nhân dân ở vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục thực hiện
Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, đảm bảo đồng

bào dân tộc thiểu số được hưởng lợi từ thành quả của quá trình phát triển, từng
bước thu hẹp khoảng cách về đời sống vật chất và tinh thần giữa các dân tộc, các
vùng trong tỉnh.

- Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng cho nhân dân. Tạo
điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động tôn giáo tín ngưỡng theo đúng đường
hướng hành đạo và pháp luật của Nhà nước

c) Về Quốc phòng – An ninh

Chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và thế
trận biên phòng toàn dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn
biến hoà bình”, gây rối, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc
an ninh biên giới và chủ quyền lãnh thổ quốc gia; kiên quyết đấu tranh với các loại
tội phạm; giữ vững trật tự, an toàn xã hội trong toàn tỉnh.

d) Về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, nhất là ở cơ sở.
Đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành sinh hoạt
thường xuyên, nền nếp ở chi bộ, đảng bộ, gắn với thực hiện đồng bộ các nhóm giải
pháp của Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay"; trong đó, trọng tâm là triển khai thực hiện kế hoạch kiểm tra
khắc phục khuyết điểm, hạn chế sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình.
Đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của MTTQ và của đoàn thể, thực hiện tốt
quy chế dân chủ cơ sở, củng cố khối đại đoàn kêt toàn dân tộc. Đẩy mạnh cải cách
hành chính và cải cách tư pháp. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
chính quyền các cấp. Xây dựng hệ thống chính quyền các cấp thực sự là chính
quyền của dân, do dân, vì dân.


*
* *

Tự hào với thành quả có ý nghĩa quan trọng đã đạt được trong 10 năm qua, Đảng
bộ, Chính quyền, quân và dân tỉnh Đắk Nông tiếp tục ra sức thi đua, vượt qua thử
thách, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nghập quốc tế,
vững bước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
[1] Số liệu so sánh trong tài liệu này được tính toán trên cơ sở dữ liệu của Niên
giám Thống kê tỉnh Đắk Nông từ năm 2004 đến năm 2012 và Báo cáo đánh giá kết
quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội giữa nhiệm kỳ của Tỉnh ủy; giá trị tính
toán lấy theo giá hiện hành.
[2] Theo số liệu Tổng điều tra nông nghiệp nông thôn năm 2011, tổng số hộ nông
thôn ở Đắk Nông đến ngày 1/7/2011 có 10.0250 hộ.
[3] - Bao gồm các thủy điện: Buôn Tua Srah (86MW), Buôn Kuôp (280MW),
Đrây H’linh (28 MW), Sêrêpôk 3 (220MW); Sêrêpôk 4 (80MW); Đồng Nai 3
(180MW), Đồng Nai 4 (340MW), Đăk R’Tih (144MW); Đăk Nông, Đăk Nông 1,
Đăk Rung, Đăk Rung 1, Đăk Ru, Quảng Tín, Đăk N’teng, Nhân Cơ.
[4] Trong đó: lĩnh vực công nghiệp - xây dựng: 58 dự án, vốn đăng ký: 2.951,7 tỷ
đồng, chiếm 37,7%; thương mại - dịch vụ: 30 dự án, vốn đăng ký 2.481,5 tỷ đồng,
chiếm 31,7%; nông lâm nghiệp: 14 dự án, vốn đăng ký 978,3 tỷ đồng, chiếm 12,5
%; xã hội hoá: 9 dự án, vốn đăng ký 1.420 tỷ đồng, chiếm 18,1%.

×