Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố hoàn cảnh đên sinh trưởng của thảo quả (Amomum aromaticum Roxb.) tại xã San Sả Hồ huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 129 trang )

1





















Bộ giáo dục và đào tạo Bộ nông nghiệp và ptnt
Trờng Đại học Lâm nghiệp
----







Phan Văn Thắng






Nghiên cứu ảnh hởng của một số yếu tố
hon cảnh đến sinh trởng của thảo quả
(
Amomum aromaticum Roxb
.)
tại x San Sả Hồ huyện Sa Pa tỉnh Lo Cai








Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp




Hớng dẫn khoa học :

PGS.TS. Vơng Văn Quỳnh





-Hà Tây 2002-
GIÔÙI THIEÄU VEÀ TAØI LIEÄU

Tài liệu bạn đang xem được download từ website


WWW.AGRIVIET.COM


WWW.MAUTHOIGIAN.ORG








»Agriviet.com là website chuyên đề về nông nghiệp nơi liên kết mọi thành viên
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng tôi thường xuyên tổng hợp tài liệu về tất cả
các lĩnh vực có liên quan đến nông nghiệp để chia sẽ cùng tất cả mọi người. Nếu tài liệu
bạn cần không tìm thấy trong website xin vui lòng gửi yêu cầu về ban biên tập website để
chúng tôi cố gắng bổ sung trong thời gian sớm nhất.
»Chúng tôi xin chân thành cám ơn các bạn thành viên đã g
ửi tài liệu về cho chúng tôi.
Thay lời cám ơn đến tác giả bằng cách chia sẽ lại những tài liệu mà bạn đang có cùng
mọi người. Bạn có thể trực tiếp gửi tài liệu của bạn lên website hoặc gửi về cho chúng tôi

theo địa chỉ email

Lưu ý:
Mọi tài liệu, hình ảnh bạn download từ website đều thuộc bản quyền của tác giả,
do đó chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất kỳ khía cạnh nào có liên quan đến nội
dung của tập tài liệu này. Xin vui lòng ghi rỏ nguồn gốc “Agriviet.Com” nếu bạn phát
hành lại thông tin từ website để tránh những rắc rối về sau.
Một số tài liệu do thành viên gửi về cho chúng tôi không ghi rỏ nguồn gốc tác giả,
một số tài liệu có thể
có nội dung không chính xác so với bản tài liệu gốc, vì vậy nếu bạn
là tác giả của tập tài liệu này hãy liên hệ ngay với chúng tôi nếu có một trong các yêu cầu
sau :

• Xóa bỏ tất cả tài liệu của bạn tại website Agriviet.com.
• Thêm thông tin về tác giả vào tài liệu
• Cập nhật mới nội dung tài liệu

www.agriviet.com


2

Chơng 1
Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, vai trò của rừng ngày càng đợc nhận thức rõ
hơn bao giờ hết. Rừng cung cấp gỗ và lâm đặc sản quý phục vụ cho nhu cầu
cuộc sống của hàng triệu đồng bào miền núi. Rừng là nơi nuôi dỡng nguồn
nớc, bảo vệ đất chống xói mòn, làm sạch môi trờng và mang giá trị văn hoá,
tinh thần. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, sự bùng nổ của dân số
thế giới, rừng ngày càng bị thu hẹp về diện tích, giảm sút về chất lợng. Nguyên

nhân chủ yếu của mất rừng là sự can thiệp thiếu hiểu biết của con ngời. Với
điều kiện sống nghèo đói ngời ta đã khai thác rừng một cách quá khả năng phục
hồi của nó. Ngoài ra, cũng có những nguyên nhân liên quan tới tính không hợp
lý của các biện pháp kỹ thuật lâm sinh hoặc những biện pháp về kinh tế xã hội
thiếu khoa học đã làm gia tăng những tác động tiêu cực đến rừng.
Nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng một trong những giải pháp tốt
nhất cho bảo vệ và phát triển rừng là kinh doanh lâm sản ngoài gỗ. Nó cho phép
tạo đợc nguồn thu nhập kinh tế ổn định cho ngời dân miền núi trong khi vẫn
bảo vệ và phát triển đợc rừng. Kinh doanh lâm sản ngoài gỗ đang nhận đợc sự
hởng ứng tích cực của ngời dân miền núi.
Thảo quả là loài cây cho lâm sản ngoài gỗ có thân thảo, sống lâu năm dới
tán rừng. Chiều cao trung bình có thể đạt đến 2-3m. Hạt thảo quả đợc dùng làm
dợc liệu và thực phẩm có giá trị. Trong những năm gần đây thảo quả đã đợc
xuất khẩu ra nớc ngoài với sản lợng hàng trăm tấn mỗi năm. Nó đã trở thành
nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình vùng cao ở các tỉnh Lào Cai,
Yên Bái, Hà Giang.
Thảo quả cũng là loài cây chỉ có thể sinh trởng, phát triển và cho năng
suất cao khi sống dới tán rừng. Do đó, để trồng và phát triển thảo quả đòi hỏi
ngời dân phải bảo vệ và phát triển rừng. Vì vậy, thảo quả đã đợc đánh giá nh

một yếu tố quan trọng vừa góp phần phát triển kinh tế xã hội vùng cao, vừa góp
phần bảo vệ và phát triển rừng. Với nhận thức trên, Nhà nớc đã có chủ trơng
khuyến khích các địa phơng gây trồng thảo quả. Nhà nớc không chỉ tuyên
3

truyền về giá trị kinh tế và sinh thái của thảo quả, mà còn quy hoạch vùng sản
xuất thảo quả, xây dựng các mô hình trình diễn, cho vay vốn gây trồng và cho
phép xuất khẩu thảo quả v.v...
Tuy nhiên, do cha hiểu biết đầy đủ về đặc điểm sinh thái của thảo quả
mà việc gây trồng và phát triển loài cây này đang gặp không ít khó khăn. Trong

một số trờng hợp, do gây trồng trên điều kiện lập địa không thích hợp ngời ta
đã làm giảm sinh trởng và năng suất của thảo quả. Trong một số trờng hợp
khác ngời ta lại mở tán rừng một cách quá mức. Điều này vừa làm giảm năng
suất của thảo quả, vừa làm giảm khả năng phòng hộ của rừng.
Để góp phần giải quyết tồn tại trên chúng tôi thực hiện đề tài "Nghiên cứu
ảnh hởng của một số yếu tố hoàn cảnh tới sinh trởng thảo quả (Amomum
aromaticum Roxb.) tại xã San Sả Hồ huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai", hớng vào
tìm hiểu ảnh hởng của một số yếu tố hoàn cảnh đến sinh trởng và trên cơ sở đó
đề xuất những giải pháp lâm sinh nhằm nâng cao năng suất của thảo quả ở xã
San Sả Hồ huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai - một trong những địa phơng nằm trong
vùng quy hoạch phát triển thảo quả hiện nay.












4

Chơng 2
Lợc sử các Kết quả nghiên cứu liên quan đến
lĩnh vực của đề ti
2.1. Nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ
2. 1.1. Thế giới

a) Khái niệm về lâm sản ngoài gỗ
Trớc đây, ngời ta coi gỗ là sản phẩm chính của rừng, còn các lâm sản
khác nh song, mây, dầu, nhựa, sợi, lơng thực, thực phẩm, dợc liệu v.v... do
có khối lợng nhỏ lại ít đợc khai thác, nên thờng coi là sản phẩm phụ của
rừng. Ngời ta gọi chúng là lâm sản phụ (minor forest products) hoặc đặc sản
rừng (special forest products). Trong những thập kỷ gần đây, rừng bị tàn phá
mạnh, gỗ trở nên hiếm và sử dụng ít dần, nhiều nguyên liệu khác nh kim loại và
các chất tổng hợp dần dần thay thế gỗ trong công nghiệp và các ngành khác.
Trong khi đó các "Lâm sản phụ" đợc sử dụng ngày càng nhiều hơn và với
những chức năng đa dạng hơn. Một số nghiên cứu gần đây đã cho thấy nếu đợc
quản lý tốt thì nguồn lợi từ Lâm sản phụ hoàn toàn không nhỏ, đôi khi còn lớn
hơn cả gỗ. Vì vậy, để khẳng định vai trò của các "Lâm sản phụ" ngời ta đã sử
dụng một thuật ngữ mới thay cho nó là " Lâm sản ngoài gỗ" ("Non- timber forest
products" hay "Non-wood forest products").
Các nhà khoa học đã đa ra những khái niệm khác nhau về lâm sản ngoài
gỗ. Theo Jenne.H. de Beer (1992[45]) Lâm sản ngoài gỗ đợc hiểu là toàn bộ
động vật, thực vật và những sản phẩm khác ngoài gỗ của rừng đợc con ngời
khai thác và sử dụng. Năm 1994, trong hội nghị các chuyên gia lâm sản ngoài
gỗ của các nớc vùng Châu á- Thái Bình Dơng họp tại Bangkok, Thái Lan đã
thông qua khái niệm về lâm sản ngoài gỗ nh nh sau: " Lâm sản ngoài gỗ bao
gồm tất cả các sản phẩm cụ thể, có thể tái tạo, ngoài gỗ, củi và than. Lâm sản
ngoài gỗ đợc khai thác từ rừng, đất rừng hoặc từ các cây thân gỗ. Vì vậy, các
sản phẩm nh cát, đá, nớc, du lịch sinh thái không phải là các lâm sản ngoài
gỗ". Để có một khái niệm chung và thống nhất, hội nghị do tổ chức Nông lơng
5

thế giới tổ chức vào tháng 6/1999 đã đa ra khái niệm về lâm sản ngoài gỗ nh
sau: "Lâm sản ngoài gỗ bao gồm những sản phẩm có nguồn gốc sinh vật, khác
gỗ, đợc khai thác từ rừng, đất có rừng và các cây thân gỗ".
Sau nhiều năm nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ Jenne.H. de Beer

(2000[3]) đã bổ sung khái niệm lâm sản ngoài gỗ. Theo ông " Lâm sản ngoài gỗ
bao gồm các nguyên liệu có nguồn gốc sinh vật, không phải là gỗ, đợc khai
thác từ rừng để phục vụ con ngời. Chúng bao gồm thực phẩm, thuốc, gia vị, tinh
dầu, nhựa, nhựa mủ, ta nanh, thuốc nhuộm, cây cảnh, động vật hoang dã (động
vật sống hay các sản phẩm của chúng), củi và các nguyên liệu thô nh tre, nứa,
mây, song, gỗ nhỏ và sợi". Theo khái niệm này của Jenne.H. de Beer là đơn giản,
dễ sử dụng nhng khác với hầu hết các khái niệm trớc đây là ông đã đa củi
vào nhóm lâm sản ngoài gỗ.
b) Nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ
- Về tính đa dạng của lâm sản ngoài gỗ:
Các nghiên cứu chỉ ra rằng rừng nhiệt đới không chỉ phong phú về tài
nguyên gỗ mà còn đa dạng về các loài thực vật cho sản phẩm ngoài gỗ. Khi
nghiên cứu sự đa dạng lâm sản ngoài gỗ trong phạm vi một bản ở Thakek,
Khammouan, Lào ngời ta đã thống kê đợc 306 loài lâm sản ngoài gỗ trong đó
có 223 loài làm thức ăn (Joost Foppes, 1997[63]). Để thuận tiện cho việc nghiên
cứu C. Chandrasekharan (1995[12]) - một chuyên gia lâm sản ngoài gỗ của
FAO, đã chia lâm sản ngoài gỗ thành 4 nhóm chính nh sau:
A. Cây sống và các bộ phận của cây
B. Động vật và các sản phẩm của động vật
C. Các sản phẩm đợc chế biến (các gia vị, dầu nhựa thực vật...)
D. Các dịch vụ từ rừng
Mendelsohn (1989[71]) đã căn cứ vào giá trị sử dụng của lâm sản ngoài
gỗ để phân thành 5 nhóm: các sản phẩm thực vật ăn đợc; keo dán và nhựa;
thuốc nhuộm và ta nanh; cây cho sợi; cây làm thuốc. Ông cũng căn cứ vào thị
trờng tiêu thụ để phân lâm sản ngoài gỗ thành 3 nhóm: nhóm bán trên thị
tr
ờng, nhóm bán ở địa phơng và nhóm đợc sử dụng trực tiếp bởi ngời thu
6

hoạch. Nhóm thứ ba thờng chiếm tỷ trọng rất cao nhng lại cha tính đợc giá

trị. Theo Mendelsohn chính điều này đã làm cho lâm sản ngoài gỗ trớc đây bị
lu mờ và ít đợc chú ý đến.
Các kết quả nghiên cứu đã phác thảo một bức tranh về lâm sản ngoài gỗ
trên thế giới với số lợng khổng lồ các giống loài. Chúng có dạng sống, đặc
điểm sinh thái và giá trị sử dụng vô cùng đa dạng. Tính phong phú của lâm sản
ngoài gỗ có ý nghĩa lớn trong giai đoạn hiện nay. Nó chứng tỏ một tiềm năng
lớn không chỉ cho phát triển kinh tế, mà còn cho việc xây dựng những hệ sinh
thái có tính ổn định và bền vững cao. Đây cũng là cơ sở cho các nhà khoa học
tiến hành những nghiên cứu đầy đủ hơn về lâm sản ngoài gỗ ở mỗi khu vực.
- Về giá trị của lâm sản ngoài gỗ:
Hầu hết mọi ngời đều thừa nhận lâm sản ngoài gỗ nh một yếu tố quan
trọng cho phát triển kinh tế xã hội miền núi. ở Ghana, lâm sản ngoài gỗ có vai
trò cung cấp thực phẩm, thuốc chữa bệnh, vật liệu xây dựng,v.v... đồng thời cũng
chiếm gần 90% nguồn thu nhập của các hộ gia đình (Falconer, 1993[49]). Lâm
sản ngoài gỗ cũng là một bộ phận của rừng, nếu lâm sản ngoài gỗ đợc sử dụng
một cách hợp lý thì nó đóng vai trò to lớn trong quá trình phục hồi và phát triển
rừng ở các nớc đang phát triển. Lâm sản ngoài gỗ đợc các nhà nghiên cứu coi
nh một yếu tố góp phần bảo tồn rừng và phát triển bền vững ở miền núi nhiệt
đới (Clark, 1997; Mendelsohn, 1989[71]). Khi nghiên cứu ở lu vực sông Công
gô ở Cameroon, L.Clark kết luận:" Sự phát triển của lâm sản ngoài gỗ là một yếu
tố đóng góp vào sự bảo tồn của hệ sinh thái rừng". Trong nghiên cứu của mình,
Mendelsohn (1989[71]) đã cho thấy ngời ta có thể gặp một đám sản phẩm có
giá trị rất cao. Peter (1989[71]) đã tìm thấy những khu rừng với 5 loài cây có giá
trị kinh tế cao ở vùng Amazon của Peru. Hàng năm chúng cho thu nhập từ 200 -
6000 USD/ha. Myers (1980[67]) ớc lợng khoảng 60% tổng sản phẩm phi gỗ
đợc tiêu thụ bởi ngời địa phơng và không bao giờ tính ra tiền mặt. Rõ ràng là
ngựời dân địa phơng đã đạt đợc lợi ích cơ bản của họ từ những khu rừng kế
cận. Đối với nền kinh tế của một số nớc vai trò của lâm sản ngoài gỗ đã đợc
khẳng định chẳng hạn ở Thái Lan trong năm 1987 đã xuất khẩu lâm sản ngoài
7


gỗ đạt giá trị 23 triệu USD, ở Indonesia cũng trong năm đó đạt 238 triệu USD và
ở Malaysia trong năm 1986 xuất khẩu hàng hoá sản xuất từ lâm sản ngoài gỗ đạt
xấp xỉ 11 triệu USD (Jenne.H. de Beer,1992[45]).
ở ấn Độ (1982) lâm sản ngoài gỗ chiếm gần 40% giá trị lâm sản và 60%
giá trị lâm sản xuất khẩu. Indonesia (1989) thu 436 triệu USD từ lâm sản ngoài
gỗ (Lê Quý An, 1999[1]). ở Lào cũng đề ra mục tiêu đến năm 2000 có thể thu
hái 50% nguồn lợi của rừng không phải là gỗ (Cứu lấy trái đất, 1993[37]). Trong
một số trờng hợp lợi ích thu đợc từ lâm sản ngoài gỗ lớn hơn nhiều so với thu
nhập từ các sản phẩm khác.
Nghiên cứu về tiềm năng kinh tế của lâm sản ngoài gỗ ở Đông Nam á cho
thấy có ít nhất 30 triệu ngời chủ yếu dựa vào các sản phẩm ngoài gỗ, đóng góp
cho thị trờng thế giới khoảng 3 tỷ USD từ các đồ gia dụng làm từ song mây
(Kroekhoen, 1996; De Beer McDermott, 1996[62]). Nhiều nớc trên thế giới nh
Brazil, Colombia, Equado, Bolivia, Thái Lan, Indonesia, Maylaysia, ấn Độ,
Trung Quốc đã và đang nghiên cứu sử dụng hợp lý các sản phẩm ngoài gỗ nhằm
nâng cao đời sống của ngời dân bản địa và bảo vệ đa dạng sinh học của các hệ
sinh thái rừng địa phơng.
Rừng nh một nhà máy quan trọng đối với xã hội và lâm sản ngoài gỗ là
một trong những sản phẩm quan trọng nhất của nhà máy này
(Mendelsohn,1992). Phân tích vai trò của lâm sản ngoài gỗ ở vùng nhiệt đới tác
giả còn nhận thấy ý nghĩa đặc biệt của nó với việc bảo tồn rừng. Bởi vì việc khai
thác lâm sản ngoài gỗ có thể luôn đợc thực hiện với sự tổn hại ít nhất đến rừng,
đảm bảo cho rừng ở trạng thái nguyên vẹn tự nhiên. Bằng việc phát triển kinh
doanh sản phẩm ngoài gỗ, rừng tự nhiên có thể đợc giữ gìn nguyên vẹn, trong
khi ngời dân địa phơng vẫn có thể thu đợc lợi ích từ các khu rừng này. Tác
giả khẳng định rằng, việc kinh doanh lâm sản ngoài gỗ sẽ ngày càng đợc phát
triển nh một yếu tố triển vọng nhất cho quản lý rừng bền vững, cho giải quyết
vấn đề môi trờng và phát triển ở vùng núi nhiệt đới.
8


Nh vậy, các nghiên cứu đều đa ra nhận định lâm sản ngoài gỗ có một
vai trò to lớn, nó không phải là sản phẩm "Phụ", mà là một trong những sản
phẩm chính của rừng, có ý nghĩa đến quá trình phát triển kinh tế xã hội miền núi
và góp phần vào bảo tồn và phát triển rừng.
Gần đây, những phát hiện mới về tiềm năng của lâm sản ngoài gỗ nh khả
năng phục hồi nhanh, cho thu hoạch sớm với năng suất kinh tế cao và ổn định,
có khả năng kinh doanh liên tục, phù hợp với quy mô hộ gia đình và đặc biệt là
việc khai thác chúng gần nh không tổn hại đến rừng đã thúc đẩy nhiều nhà
khoa học tham gia vào nghiên cứu phát triển lâm sản ngoài gỗ. Phần lớn các
nghiên cứu đều tập trung ở các nớc nhiệt đới, nơi mà tiềm năng về lâm sản
ngoài gỗ phong phú nhất, còn việc khai thác gỗ lại thờng gây tổn hại nhiều nhất
đối với hệ sinh thái rừng.
- Về kiến thức bản địa:
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về kiến thức bản địa liên quan
đến lâm sản ngoài gỗ. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, kiến thức bản địa về gây
trồng, phát triển và sử dụng lâm sản ngoài gỗ của ngời dân là rất quan trọng
trong quá trình quản lý và sử dụng lâm sản ngoài gỗ một cách hợp lý. Bởi vì kiến
thức bản địa là những kết quả nghiên cứu đã đợc đúc kết và thử nghiệm lâu
ngày của ngời dân trên thực địa [69].
Khi nghiên cứu về kiến thức bản địa ở Ghana của Facolner (1997[49]) và
ở Lào của Roost Foppes (1997[63]), tác giả đã khẳng định: kiến thức bản địa là
những kiến thức quí báu, có giá trị trong quá trình gây trồng phát triển và sử
dụng hợp lý tài nguyên lâm sản ngoài gỗ. Tuy nhiên, để nâng cao năng suất và
tính bền vững trong quá trình sử dụng lâm sản ngoài gỗ đòi hỏi cần có sự kết hợp
giữa kết quả nghiên cứu khoa học thực sự với kiến thức bản địa.
Năm 2000 [69], J. Wong cho rằng: cách tiếp cận có hiệu quả nhất để đánh
giá nguồn tài nguyên lâm sản ngoài gỗ đầu tiên là thu nhận kiến thức bản địa.
Tuy nhiên, khi sử dụng kiến thức bản địa có 3 khó khăn để cung cấp thông tin
đạt mức độ tin cậy trong khoa học, đó là: các thông tin thờng chung chung,

không cụ thể; khái niệm loài lâm sản ngoài gỗ ở địa phơng thờng khác với
9

khái niệm trong sinh vật học; kiến thức bản địa ở mỗi địa phơng có khác nhau
và mức độ áp dụng khác nhau. Vì vậy, tác giả kết luận : trong nghiên cứu lâm
sản ngoài gỗ kiến thức bản địa rất quan trọng tuy nhiên, cần kết hợp nghiên cứu
kiến thức bản địa với nghiên cứu thực địa.
Kết quả các công trình nghiên cứu về kiến thức bản địa là đã chỉ ra tầm
quan trọng của nó trong quá trình sử dụng bền vững lâm sản ngoài gỗ. Tuy
nhiên, các kiến thức bản địa này có một số hạn chế, đặc biệt là mức độ tin cậy
trong khoa học. Vì vậy, để phát triển các mô hình lâm sản ngoài gỗ cần kết hợp
áp dụng kiến thức bản địa với kiến thức hiện đại của các lĩnh vực liên quan.
- Về nghiên cứu kỹ thuật trồng, khai thác và chế biến lâm sản ngoài gỗ
Nhận thức đợc tầm quan trọng của lâm sản ngoài gỗ trong chơng trình
phát triển lâm nghiệp, nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế đã đầu t nghiên cứu,
hoàn thiện về hệ thống biện pháp kỹ thuật nhằm phát triển một số loài lâm sản
ngoài gỗ nào đó cho năng suất cao. Có nhiều công trình nghiên cứu về gây trồng
quế, sa nhân, cọ dầu v.v... Các công trình nghiên cứu đều khẳng định, trên thế
giới đã có nhiều loài lâm sản ngoài gỗ đợc nghiên cứu đầy đủ và hệ thống.
- Về thị trờng và các yếu tố xã hội khác liên quan đến phát triển lâm sản
ngoài gỗ
Mirjam Ros -Tonen và Wim Dijkman (1995[74]) đánh giá thị trờng là
một yếu tố cần thiết đảm bảo tính bền vững kinh tế của một sản phẩm lâm sản
ngoài gỗ. Đây là một trong yếu tố đảm bảo hiệu quả, bền vững trong quá trình
kinh doanh lâm sản ngoài gỗ. Nghiên cứu về thị trờng luôn đồng nghĩa với phát
triển lâm sản ngoài gỗ, là một mắt xích trong quá trình kinh doanh lâm sản ngoài
gỗ. Kết quả nghiên cứu về thị trờng làm cơ sở để xác định quy mô, cơ cấu cây
trồng và tính ổn định của mô hình kinh doanh lâm sản ngoài gỗ phù hợp với từng
không gian và thời gian cụ thể.
Nhìn chung, trong thời gian qua những nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ

trên thế giới đã cho thấy đợc tiềm năng lớn lao của lâm sản ngoài gỗ ở các
nớc nhiệt đới, đã khẳng định vai trò quan trọng của lâm sản ngoài gỗ trong đời
sống kinh tế - xã hội nông thôn miền núi, coi đây là một trong những yếu tố triển
10

vọng nhất cho bảo tồn và phát triển rừng, góp phần giải quyết mục tiêu quản lý
rừng bền vững của các nớc nhiệt đới. Các nghiên cứu cũng chỉ ra những nguyên
nhân cản trở, những rào cản chính đối với việc quản lý hiệu quả tài nguyên lâm
sản ngoài gỗ ở nhiều nớc là tính chất tự do tiếp cận của lâm sản ngoài gỗ, thị
trờng lâm sản ngoài gỗ cha hoàn hảo. Ngoài ra, việc thiếu những thông tin đầy
đủ đã làm cho nhiều ngời cha nhận thức đầy đủ về giá trị của lâm sản ngoài
gỗ, trong đó có cả những ngời lập chính sách.
Cho đến nay phát triển lâm sản ngoài gỗ đợc xem là một trong những nội
dung của chiến lợc quản lý rừng bền vững theo hớng "Bảo tồn có khai thác".
Tuy nhiên, những chính sách cho phát triển lâm sản ngoài gỗ thực sự là cha
đợc chú ý đúng mức. Biểu hiện của nó mới dừng ở mức nhà nớc cho phép khai
thác lâm sản ngoài gỗ ở hầu hết các loại rừng, kể cả rừng phòng hộ, giảm thuế
với các hàng hoá lâm sản ngoài gỗ, tăng cờng nghiên cứu những kiến thức có
liên quan đến lâm sản ngoài gỗ, tăng cờng phổ cập cho nông dân kỹ thuật khai
thác, chế biến và tiêu thụ các lâm sản ngoài gỗ v.v... Ngời ta nhận thấy còn
thiếu những nghiên cứu đầy đủ về kỹ thuật, chính sách cho phát triển lâm sản
ngoài gỗ, trong đó có chính sách sử dụng tài nguyên, chính sách quản lý cộng
đồng, chính sách thị trờng, chính sách ngân hàng tín dụng, chính sách khoa học
công nghệ, chính sách dân tộc, chính sách về giới v.v... có liên quan đến phát
triển lâm sản ngoài gỗ.
Trong những năm gần đây, xu hớng nghiên cứu của thế giới là các
nghiên cứu nhằm phát triển bất kỳ một sản phẩm nào luôn luôn phải đợc nhìn
nhận toàn diện. Một sản phẩm đợc phát triển không chỉ đợc nghiên cứu đầy đủ
về yếu tố kỹ thuật mà cả yếu tố xã hội. Về kỹ thuật phát triển lâm sản ngoài gỗ,
do tính đa dạng của lâm sản ngoài gỗ, các nghiên cứu kỹ thuật về lâm sản ngoài

gỗ chủ yếu tập trung vào một số loài có giá trị kinh tế cao. Số loài lâm sản ngoài
gỗ khác, kết quả nghiên cứu kỹ thuật chủ yếu dựa trên các kiến thức bản địa. Vì
vậy, để phát triển lâm sản ngoài gỗ một nhu cầu cấp thiết đó là cần phải có
nghiên cứu đầy đủ về kỹ thuật đối với một số loài có giá trị cao nhằm phát triển
mở rộng và tăng năng suất.
11

2.1.2. Việt Nam
a) Nhận thức về lâm sản ngoài gỗ
Nhận thức đợc vai trò quan trọng của lâm sản ngoài gỗ từ năm 1978, nhà
nớc đã thành lập phòng nghiên cứu Lâm đặc sản, về sau phát triển thành Phân
viện Đặc sản rừng và nay là Trung tâm Nghiên cứu Lâm đặc sản thuộc Viện
khoa học lâm nghiệp Việt Nam . Theo quyết định số 639/TCLĐ ngày 27/9/1995
của Bộ Lâm nghiệp thì Trung tâm Nghiên cứu Lâm đặc sản có nhiệm vụ chính là
nghiên cứu sản xuất, gây trồng, cải tiến và áp dụng các kỹ thuật khai thác, chế
biến và bảo quản lâm sản ngoài gỗ. Đây là cơ quan đầu ngành về lâm sản ngoài
gỗ ở Việt Nam. Trong nhiều năm Trung tâm đã nghiên cứu, phát hiện những lâm
sản ngoài gỗ có giá trị. Ngoài ra những nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ còn đợc
thực hiện ở một số cơ sở nghiên cứu và đào tạo của ngành lâm nghiệp, nông
nghiệp và ngành khác nh Trờng Đại học Lâm nghiệp, Viện Điều tra Quy
hoạch rừng, Trờng Đại học Quốc gia Hà Nội, Trờng Đại học Dợc, Viện Dợc
liệu, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, v.v....
Trớc đây, xuất phát từ tình hình thực tiễn, sản phẩm có giá trị cao đợc
khai thác từ rừng đợc gọi là " Đặc sản rừng". Từ năm 1986 cho đến nay, với chủ
trơng chuyển nền kinh tế từ bao cấp sang cơ chế thị trờng, đổi mới quản lý
rừng, những nhận thức về vai trò của lâm sản ngoài gỗ trong quá trình xoá đói,
giảm nghèo và bảo tồn rừng đã có nhiều thay đổi. "Lâm sản phụ" và " Đặc sản
rừng" đợc gọi chung là "Lâm sản ngoài gỗ". Trong cuốn "Tổng quan lâm sản
ngoài gỗ ở Việt Nam" các tác giả Vũ Văn Dũng, Hoàng Hữu Nguyên và Trịnh
Vỹ (2001[12]) đa ra khái niệm lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam nh sau: " Lâm

sản ngoài gỗ là các sản phẩm có nguồn gốc sinh vật lấy từ rừng hoặc đất rừng,
nó không bao gồm gỗ, củi, than gỗ và các sản phẩm không có nguồn gốc sinh
vật. Lâm sản ngoài gỗ bao gồm các nhóm tre nứa, mây song, cây thuốc, cây làm
thực phẩm, gia vị, tinh dầu, dầu béo, nhựa, nhựa mủ, ta nanh, thuốc nhuộm, cây
cảnh, động vật hoang dã (động vật sống hay các sản phẩm của chúng).v.v..".
Khác với định nghĩa của J.H. de Beer, ở Việt Nam các tác giả đã không xếp củi
và than gỗ vào lâm sản ngoài gỗ trong khi đó khi nghiên cứu ở khu bảo tồn thiên
12

nhiên Kẻ Gỗ, Hà Tĩnh, một số chuyên gia đã xếp củi và than gỗ trong nhóm lâm
sản ngoài gỗ [28].
b) Nghiên cứu phát triển lâm sản ngoài gỗ
- Về đa dạng lâm sản ngoài gỗ và cách phân loại:
Với vai trò quan trọng của lâm sản ngoài gỗ trong thời đại hiện nay, việc
làm trớc tiên để phát triển chúng là cần nghiên cứu xác định và phân loại đợc
toàn bộ lâm sản ngoài gỗ, sau đó tập trung nghiên cứu một số loại lâm sản ngoài
gỗ có thế mạnh ở nớc ta. Các kết quả nghiên cứu cho thấy lâm sản ngoài gỗ ở
Việt Nam rất phong phú đa dạng.
Từ năm 1996 -2000, khi nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ, một số nhà khoa
học tại Trung tâm nghiên cứu Lâm đặc sản đã xác định đợc danh lục các loài
lâm sản ngoài gỗ, trong đó có khoảng 40 loài tre nứa, 40 loài song mây, 60 loài
cây có chứa ta nanh, 260 loài cho dầu và nhựa, 160 loài chứa tinh dầu, 70 loài
chứa chất thơm và hàng trăm loài làm thức ăn (Trung tâm nghiên cứu Lâm đặc
sản, 2000[36]).
Đến năm 2000, theo tài liệu của Viện Dợc liệu, Việt Nam đã phát hiện
đợc 3830 loài cây làm thuốc thuộc 1033 chi, 236 họ và 101 bộ, 17 lớp, 11
ngành thực vật. Con số này đang ngày càng đợc bổ sung nhiều hơn (Trần Công
Khánh, 2000[18]). Đây là những công trình có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở để
phát hiện và đánh giá tiềm năng các loài lâm sản ngoài gỗ ở nớc ta, từ đó đề
xuất phơng hớng phát triển lâm sản ngoài gỗ cho từng khu vực một cách khoa

học hợp lý.
Năm 2000[3], Hà Chu Chử, Trần Quốc Tuý và Jenne H. de Beer đã đánh
giá về lâm sản ngoài gỗ trong cuốn: " Phân tích phân ngành lâm sản ngoài gỗ ở
Việt Nam ". Nội dung công trình đã đa ra đợc khái niệm, cách phân loại, một
số vấn đề và những hạn chế lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam. Các tác giả đã thống
kê đợc ở Việt Nam có 76 loài cho nhựa thơm, 600 loài cho ta nanh, 93 loài cho
chất màu, 160 loài chỉ cho dầu, 260 loài cho tinh dầu và 1498 loài cho các dợc
phẩm. Tác giả cho rằng trong điều kiện hiện nay, cần tập trung nghiên cứu và
phát triển về lâm sản ngoài gỗ đặc biệt là một số loài đặc hữu, giá trị cao, có thế
13

mạnh ở nớc ta nh thảo quả ở Lào Cai, trúc sào ở Cao Bằng, quế ở Yên Bái.v.v..
Đây là những công trình nghiên cứu và phân tích tổng hợp các thế mạnh về
ngành lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam. Công trình đã đa ra một cách nhìn mới về
tình hình phát triển lâm sản ngoài gỗ ở nớc ta hiện nay và từ đó xác định hớng
đi cho ngành lâm sản ngoài gỗ trong tơng lai.
ở Việt Nam, khung phân loại lâm sản ngoài gỗ đầu tiên đợc chính thức
thừa nhận bằng văn bản là Danh mục các loài đặc sản rừng đợc quản lý thống
nhất theo ngành. Đây là văn bản kèm theo Nghị định 160-HĐBT ngày
10/12/1984 của Hội đồng Bộ trởng về việc thống nhất quản lý các đặc sản rừng.
Theo danh mục này đặc sản đợc chia làm 2 nhóm lớn: hệ cây rừng và hệ động
vật rừng. Mỗi nhóm lớn lại đợc chia làm nhiều nhóm phụ nh sau:
- Nhóm cây rừng cho nhựa, ta nanh, dầu và tinh dầu.
- Nhóm cây rừng cho dợc liệu .
- Nhóm cây rừng cho nguyên liệu làm các loại hàng tiểu thủ công và mỹ nghệ .
- Các sản phẩm công nghiệp đợc chế biến từ nguyên liệu là các loại cây rừng .
- Các nhóm động vật rừng cho da, lông, xơng, ngà, thịt, xạ, mật, dợc liệu và
các nhóm động vật rừng có đặc dụng khác.
Khung phân loại lâm sản ngoài gỗ trên của chúng ta là một mốc quan
trọng, đánh giá sự tiến bộ về nhận thức, sự hiểu biết về lâm sản ngoài gỗ của

Việt Nam. Mặc dù còn một vài điểm cha thật hợp lý nh: coi shellac (loại nhựa
cánh kiến đỏ đã đợc chế biến) là sản phẩm có nguồn gốc thực vật.
Căn cứ vào danh mục phân loại lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam đã đợc ban
hành, Trung tâm nghiên cứu Lâm đặc sản đã dựa vào tính chất của sản phẩm để
đa ra hệ thống phân loại nh sau: lâm sản ngoài gỗ gồm 2 hệ là hệ cây rừng và
hệ động vật rừng. Hệ cây rừng có 4 nhóm: nhóm cây rừng cho nhựa, tinh dầu, ta
nanh; nhóm cây rừng cho dợc liệu; nhóm cây rừng cho nguyên liệu làm các loại
hàng tiểu thủ công và mỹ nghệ; các sản phẩm công nghiệp đợc chế biến từ
nguyên liệu là các loại cây rừng. Hệ động vật rừng gồm 2 nhóm: nhóm động vật
rừng cho da, lông, xơng, ngà, thịt, xạ, mật; nhóm các sản phẩm đợc chế biến
từ nguyên liệu do các loại động vật rừng cung cấp và shellac đợc xếp vào một
14

nhóm riêng [36]. Theo cách phân loại này, thảo quả đợc xếp vào nhóm cây
dợc liệu. Trong khi đó, nhóm cây dợc liệu có rất nhiều loài, có những loài có
giá trị cao, có loài có tiềm năng lớn. Vì vậy, cách phân loại này cha nêu lên giá
trị đầy đủ của từng loại lâm sản ngoài gỗ.
Năm 2001[12] , Vũ Văn Dũng, Hoàng Hữu Nguyên và Trịnh Vỹ đã đề
xuất cách phân loại mới. Theo các tác giả, lâm sản ngoài gỗ đợc chia ra làm 6
nhóm chính bao gồm:
- Nhóm 1: sản phẩm có sợi.
- Nhóm 2: sản phẩm dùng làm thực phẩm.
- Nhóm 3: các sản phẩm thuốc và mỹ phẩm.
- Nhóm 4: các sản phẩm chiết xuất.
- Nhóm 5: động vật và các sản phẩm động vật không làm thực phẩm và làm
thuốc.
- Nhóm 6: các sản phẩm khác gồm cây cảnh, lá để gói thức ăn và hàng hoá.
Nhìn chung, mỗi cách phân loại đều có những tồn tại nhất định, nhng
chúng đều có ý nghĩa trong nghiên cứu về sự đa dạng, phong phú của lâm sản
ngoài gỗ, về tiềm năng phát triển ngành lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam.

- Về vai trò và giá trị lâm sản ngoài gỗ:
ở nớc ta, lâm sản ngoài gỗ có vai trò và giá trị
to lớn trong đời sống
ngời dân vùng núi của nớc ta. Để khẳng định vai trò và giá trị của lâm sản
ngoài gỗ, một số công trình nghiên cứu đã đợc thực hiện ở nớc ta.
Khi nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ ở nớc ta, các công trình nghiên cứu
đều khẳng định: lâm sản ngoài gỗ chính là một yếu tố cho phát triển kinh tế xã
hội miền núi. Lâm sản ngoài gỗ đã là nguồn cung cấp các thực phẩm, thuốc chữa
bệnh phục vụ cho cuộc sống của ngời dân ở nông thôn miền núi. Trong quá
trình sử dụng, giá trị của lâm sản ngoài gỗ đợc phát hiện ngày càng nhiều, vai
trò của lâm sản ngoài gỗ đối với phát triển kinh tế xã hội miền núi ngày càng
lớn.
Nghiên cứu của Christian Rake và cộng sự (1993) đã đề cập đến tiềm năng
lâm sản ngoài gỗ tại ba tỉnh Hoà Bình, Sơn La và Lai Châu. Các tác giả đã thống
15

kê diện tích rừng tre nứa của ba tỉnh này là 26000 ha (Hoà Bình 1500 ha, Sơn La
16500 ha, và Lai Châu 8000 ha), bình quân một năm lợng tre nứa đợc khai
thác từ các tỉnh này là 13 tỷ cây, trong đó khoảng 90% là do hộ nông dân khai
thác để cung cấp cho nhà máy giấy Bãi Bằng - Phú Thọ, đồng bằng sông Hồng
và xuất khẩu sang Đài Loan, thu 300 triệu USD từ 1986 đến 1992. Nghiên cứu
cũng cho thấy, thị trờng song mây bắt đầu phát triển mạnh từ 1970 để xuất sang
châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Lân (1999) ở khu bảo tồn thiên nhiên Pù
Mát (Nghệ An) cho thấy 100% số hộ dân tham gia khai thác gỗ và lâm sản
ngoài gỗ . Tác giả cũng cho thấy 22.5% số hộ thờng xuyên khai thác mét, nứa,
song, mây; 11.75% số hộ thờng xuyên khai thác măng, mộc nhĩ, thu nhập của
họ bình quân khoảng 20000đ/ngày và 8.3% số hộ chuyên khai thác củi bán lấy
tiền mua lơng thực và trong những ngày giáp hạt có tới trên 90% số hộ ở bản
Châu Sơn phải vào rừng đào củ mài, củ chuối, củ nâu, hái lá rừng để ăn.

Năm 1999, khi nghiên cứu ở Vờn quốc gia Ba Vì, D.A Glimour và
Nguyễn Văn Sản (1999[15]) kết luận: lâm sản ngoài gỗ là nguồn thu nhập quan
trọng đối với cuộc sống của ngời dân nông thôn. Tác giả cho rằng một trong
những nguyên nhân mất rừng, làm suy thoái đa dạng sinh học có nguồn gốc từ
đời sống khó khăn của ngời dân, lâm sản ngoài gỗ bị sử dụng không hợp lý, cạn
kiệt. Một trong những giải pháp có hiệu quả để giải quyết vấn đề đời sống khó
khăn của ngời dân mà vẫn bảo tồn và phát triển rừng bền vững ở nớc ta là phát
triển tài nguyên lâm sản ngoài gỗ.
Năm 2001, trong quá trình thực hiện dự án "Sử dụng bền vững lâm sản
ngoài gỗ " tại vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ và vùng đệm Vờn
Quốc gia Ba Bể các nhà nghiên cứu kết luận rằng: phát triển lâm sản ngoài gỗ là
một trong những hớng đi đem lại hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng mục tiêu nâng
cao chất lợng sống cho ngời dân, từ đó xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh
tế xã hội trong khu vực (Lê Thạc Cán và các cộng tác viên, 2001[7]).
Ngoài những đóng góp vào thu nhập nhằm cải thiện cuộc sống của ngời
dân miền núi, lâm sản ngoài gỗ còn đợc đánh giá là một yếu tố góp phần bảo
16

tồn rừng và phát triển bền vững ở miền núi nhiệt đới. Nhiều loài lâm sản ngoài
gỗ có nguồn gốc từ các dây leo, cây bụi, cây thảo, cây ký sinh hay phụ sinh sống
dới tán rừng, nên việc khai thác chúng một cách hợp lý sẽ không làm phá vỡ
cấu trúc của rừng. Do đó rừng kinh doanh lâm sản ngoài gỗ vẫn duy trì đợc vai
trò bảo vệ môi trờng và đa dạng sinh học của rừng .
Việc phát triển gây nuôi các loài động, thực vật thuộc nhóm lâm sản ngoài
gỗ đang có nguy cơ bị tiêu diệt cũng đợc coi là một hình thức bảo tồn ngoại vi
(exsitu) đáng khích lệ. Các kết quả trồng hàng vạn cây sâm ngọc linh ở huyện
Trà Mi (Quảng Nam), trồng cây hoàng liên ở Sa Pa (Lào Cai), nuôi hơu sao ở
Hà Tĩnh, nuôi nai ở Châu Sơn (Buôn Ma Thuật), nuôi trăn và cá sấu ở đồng bằng
sông Cửu Long đã thể hiện sự kết hợp giữa bảo tồn và phát triển bền vững. Một
trong những khó khăn nhất của công tác bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam hiện

nay là sức ép của dân c và nhu cầu thu hái lâm sản của ngời dân sống trong và
quanh Vờn Quốc gia và các Khu Bảo tồn thiên nhiên quá lớn. Tình trạng dân số
quanh khu bảo tồn và vùng đệm ngày một tăng, đất canh tác ngày một thu hẹp,
ngời dân có đời sống quá thấp và thờng chỉ sử dụng 3 tháng trong năm cho sản
xuất nông nghiệp, thời gian còn lại phải đi vào rừng để thu hái lâm sản và săn
bắn để kiếm sống. Hiện tợng này là phổ biến ở hầu hết các khu bảo tồn thiên
nhiên của Việt Nam. Nếu không giải quyết đợc sức ép của ngời dân lên rừng
thì không thể bảo vệ tốt các Vờn Quốc gia và Khu Bảo tồn thiên nhiên đợc.
Chỉ có lâm sản ngoài gỗ với đặc điểm dễ nuôi trồng, mau thu hoạch, có giá trị
cao mới có thể sớm tăng thu nhập và cải thiện đời sống của ngời dân miền núi
để giảm sức ép của họ lên các khu Bảo tồn. Các điển hình về công tác bảo vệ
rừng tốt ở các vùng trồng quế, thảo quả, hồi đã nói lên vai trò của lâm sản ngoài
gỗ với việc bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ rừng. Nếu không có cây thảo quả trồng
dới tán, thì chắc chắn hàng nghìn ha rừng tốt của Lào Cai và Hà Giang đã trở
thành đất nơng rẫy (Vũ Văn Dũng, Hoàng Hữu Nguyên và Trịnh Vỹ,
2001[12]).
Trong công trình nghiên cứu " giá trị và sử dụng lâm sản ngoài gỗ ở 2 tỉnh
Cao Bằng, Bắc Kạn" (2001[30]) của Phan Văn Thắng và các cộng sự cho thấy
17

giá trị sử dụng của lâm sản ngoài gỗ đối với ngời dân rất lớn. 90% số hộ dân
sống dựa vào rừng. Sản phẩm khai thác chủ yếu hiện nay là gỗ và lâm sản ngoài
gỗ nh măng, tre, trúc, hồi, giẻ,..và cây dợc liệu. Thu nhập từ lâm sản ngoài gỗ
trong mỗi hộ gia đình đứng thứ 2 trong cơ cấu thu nhập của hộ gia đình và chiếm
trung bình khoảng 22% tổng thu nhập kinh tế.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đều khẳng định vai trò to lớn của
lâm sản ngoài gỗ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội miền núi cũng nh góp
phần vào công tác bảo tồn rừng. Nó đã làm thay đổi nhận thức về tầm quan
trọng của lâm sản ngoài gỗ trong thời kỳ hiện nay, nó là cơ sở để đề xuất hớng
đi mới trong quá trình phát triển kinh tế xã hội miền núi và bảo tồn.

- Về kiến thức bản địa:
Kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả đã cho thấy ở Việt Nam tồn tại một
hệ thống kiến thức bản địa phong phú về lâm sản ngoài gỗ, trong đó có cả những
kiến thức về gây trồng, khai thác, chế biến, sử dụng và thị trờng. Tuy nhiên, do
đa số kiến thức bản địa đợc lu truyền bằng lời nói nên chúng thờng tản mạn,
mất dần cùng với sự suy thoái của tài nguyên lâm sản ngoài gỗ. Đến nay những
nghiên cứu về kiến thức bản địa liên quan đến lâm sản ngoài gỗ còn rất hạn chế.
- Về kỹ thuật gây trồng, thu hái và chế biến lâm sản ngoài gỗ:
Để hoàn thiện các biện pháp kỹ thuật liên quan đến xây dựng mô hình
kinh doanh lâm sản ngoài gỗ có hiệu quả, năng suất cao và ổn định, không chỉ sử
dụng kiến thức bản địa mà cần dựa trên một số nghiên cứu một cách có cơ sở
khoa học với các biện pháp tiên tiến, hiện đại.
ở nớc ta, vào những năm 1950-1960, các nhà khoa học đã cố gắng
nghiên cứu nhằm tạo đợc mô hình phát triển lâm sản ngoài gỗ có hiệu quả kinh
tế cao và ổn định. Các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung một số loài cây
dợc liệu, cây đặc sản có giá trị cao nh thông, quế, trúc, thanh kao, sa nhân
[36]. Đây là các công trình nghiên cứu về hệ thống các biện pháp kỹ thuật làm
cơ sở cho việc gây trồng và phát triển lâm sản ngoài gỗ. Tuy nhiên các công
trình chủ yếu tập trung nghiên cứu về một số loài cây có giá trị cao lúc đó. Vẫn
18

còn nhiều loài lâm sản ngoài gỗ giá trị cao nhng cha đợc nghiên cứu đầy đủ,
trong đó có giẻ, trầm hơng, thảo quả v.v...
Nhìn chung cho đến nay còn rất ít các nghiên cứu hớng vào tìm hiểu kỹ
thuật gây trồng lâm sản ngoài gỗ ở dới tán rừng - cơ sở quan trọng cho bảo tồn
rừng bằng phát triển lâm sản ngoài gỗ.
- Về thị trờng lâm sản ngoài gỗ:
Thị trờng là một trong những thành tố quan trọng có ý nghĩa quyết định
đến việc kinh doanh và phát triển lâm sản ngoài gỗ. Năm 2001[28], khi thực hiện
dự án " Sử dụng bền vững lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam", nhà nghiên cứu thị

trờng của FAO là John Raintree đã xác định cơ cấu cây lâm sản ngoài gỗ để
phát triển trong các mô hình phát triển lâm sản ngoài gỗ dựa trên cơ sở phân tích
thị trờng. Nội dung nghiên cứu bao gồm 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Đánh giá thực trạng hiện nay.
+ Giai đoạn 2: Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng tiến hành lựa chọn
sản phẩm nhiều hứa hẹn nhất và đa ra phơng pháp tiếp thị.
+ Giai đoạn 3: Xây dựng chiến lợc doanh nghiệp và một kế hoạch kinh
doanh bền vững.
Tác giả đã sử dụng phơng pháp phân tích thị trờng để đánh giá tính hiệu
quả và bền vững của một mô hình kinh doanh lâm sản ngoài gỗ. Nó đã chứng
minh về tính bền vững của một mô hình kinh doanh khi tính đến yếu tố thị
trờng, đồng thời mở ra một cách nhìn mới trong quá trình đề xuất phơng thức
kinh doanh lâm sản ngoài gỗ.
Năm 2001, khi nghiên cứu về thị trờng lâm sản ngoài gỗ tại Vũ Quang -
Hà Tĩnh, tác giả Lê Thị Phi kết luận: yếu tố thị trờng là căn cứ quan trọng để đề
xuất chiến lợc phát triển lâm sản ngoài gỗ.
Vì những lý do khác nhau mà cho đến nay, vẫn cha có một công trình
khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống và đồng bộ về lâm sản ngoài gỗ ở
Việt Nam. Phần lớn các công trình nghiên cứu này mới đợc thực hiện theo
hớng chuyên ngành nh tập trung phát hiện loài cho lâm sản ngoài gỗ, mô tả
19

đặc điểm hình thái, công dụng, giá trị kinh tế, một số đặc điểm sinh thái, mà
thiếu hẳn những nghiên cứu về giải pháp kỹ thuật và kinh tế - xã hội tạo động lực
cho phát triển lâm sản ngoài gỗ trở thành nguồn hàng hoá. Một số công trình
trong khi nghiên cứu tơng đối đầy đủ về lĩnh vực kỹ thuật thì lại thiếu hẳn về
nghiên cứu thị trờng. Vì vậy, hầu hết các mô hình kinh doanh lâm sản ngoài gỗ
đã xây dựng đều mang tính chất của những mô hình kém bền vững.
Chính vì vậy, cho đến nay mặc dù đã nhận thức đợc vai trò quan trọng
của lâm sản ngoài gỗ, nhng vẫn cha có những các chính sách thúc đẩy phát

triển sản phẩm ngoài gỗ. Những chính sách khuyến khích khai thác sản phẩm
ngoài gỗ của rừng đợc thể hiện chủ yếu trong các Luật bảo vệ và phát triển
rừng và những các văn bản có liên quan đến Chính sách giao đất, khoán rừng.
Nội dung chủ yếu nhất của các chính sách đó là cho phép ngời dân đợc khai
thác lâm sản ngoài gỗ của các khu rừng, kể cả rừng do họ gây trồng hay nhận
khoán bảo vệ. Văn bản mới nhất là Quyết định của Thủ tớng chính phủ về đổi
mới tổ chức và cơ chế quản lý lâm trờng quốc doanh, ban hành ngày 16 tháng 9
năm 1999. Trong đó có quy định bên nhận khoán đất lâm nghiệp và rừng của
lâm trờng quốc doanh đợc hởng sản phẩm phụ (lâm sản ngoài gỗ) thu hái từ
rừng, đợc quyền đầu t trồng cây nông lâm kết hợp, xen ghép với cây rừng để
tăng thu nhập cải thiện đời sống. Việc cho phép tự do khai thác các lâm sản
ngoài gỗ một cách không khoa học, không có những quy định cụ thể của chính
sách nhà nớc, của quy định cộng đồng về quyền lợi và nghĩa vụ trong quá trình
khai thác lâm sản ngoài gỗ là một trong những nguyên nhân làm cạn kiệt nhanh
chóng tài nguyên lâm sản ngoài gỗ. Phần lớn những chính sách có liên quan đến
lâm sản ngoài gỗ cha tác động tích cực đến bảo tồn và phát triển nguồn tài
nguyên này.
20

2.2. Thảo quả và những nghiên cứu phát triển
2.2.1. Những nghiên cứu về thảo quả - một loài cây lâm sản ngoài gỗ giá trị
cao
a) Trên thế giới:
Thảo quả là loài cây lâm sản ngoài gỗ có giá trị dợc liệu và giá trị kinh tế
cao đã đợc con ngời biết đến từ lâu. ở Trung quốc, thảo quả đợc gây trồng và
sử dụng cách đây hàng trăm năm. Nhng những nghiên cứu về thảo quả còn rất
hạn chế. Kết quả nghiên cứu thảo quả ban đầu đợc trình bày trong cuốn sách
về công dụng và giá trị của một số loại cây dợc liệu do các nhà y học của Trung
Quốc biên soạn và xuất bản vào đầu thế kỷ 19 (Thân Văn Cảnh, 2001[8]).
Năm 1968[8], một số nhà nghiên cứu cây thuốc tại Vân Nam, Trung Quốc

đã xuất bản cuốn sách " Kỹ thuật gây trồng cây thuốc ở Trung Quốc". Cuốn sách
đã đề cập đến cây thảo quả với một số nội dung chủ yếu sau:
- Phân loại thảo quả: gồm có tên khoa học (Amomum tsao-ko Crevost et
Lemaire), tên họ (Zingiberaceae).
- Hình thái: dạng sống, thân, gốc, rễ, lá, hoa, quả.
- Vùng phân bố ở Trung Quốc.
- Đặc điểm sinh thái: khí hậu và đất đai
- Kỹ thuật trồng: nhân giống, làm đất, trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu
bệnh hại.
- Thu hoạch và chế biến: phẩm chất quy cách, bao gói, bảo quản.
- Công dụng: dùng làm thuốc trị các bệnh đờng ruột, bệnh hàn.
Đây là cuốn sách tơng đối hoàn chỉnh đã giới thiệu một cách tổng quát
và có hệ thống về đặc điểm sinh vật học, sinh thái học, kỹ thuật gây trồng, thu
hái chế biến và bảo quản. Tuy nhiên, đây là cuốn sách viết cho cho nhiều loài
cây dợc liệu nên cây thảo quả đợc giới thiệu ngắn gọn dới dạng tóm tắt của
bản hớng dẫn kỹ thuật cho một số vùng ở Trung Quốc. Vì vậy, khi áp dụng ở
Việt Nam, một số đặc điểm cũng nh biện pháp kỹ thuật có nhiều thay đổi để
21

phù hợp với điều kiện ở nớc ta. Đây vẫn là cuốn sách ghi lại một cách hệ thống
những kiến thức về cây thảo quả.
Trong những năm gần đây, khi con ngời nhận thức đợc tầm quan trọng
của lâm sản ngoài gỗ nói chung và thảo quả nói riêng, một số nhà khoa học tiếp
tục nghiên cứu về thảo quả. Năm 1992[45], J.H. de Beer - một chuyên gia lâm
sản ngoài gỗ của tổ chức Nông lơng thế giới - khi nghiên cứu về vai trò và thị
trờng của lâm sản ngoài gỗ đã nhận thấy giá trị to lớn của thảo quả đối với việc
tăng thu nhập cho ngời dân sống trong khu vực vùng núi nơi có phân bố thảo
quả nhằm xoá đói giảm nghèo, đồng thời là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh
kinh tế xã hội vùng núi và bảo tồn phát triển tài nguyên rừng. Về nhu cầu thị
trờng của thảo quả là rất lớn, chỉ tính riêng ở Lào, hàng năm xuất khẩu khoảng

400 tấn sang Trung Quốc và Thái Lan. Đây là công trình nghiên cứu tổng kết về
vai trò thảo quả đối với con ngời, xã hội cũng nh tình hình sản xuất buôn bán
và dự báo thị trờng, tiềm năng phát triển của thảo quả.
Năm 1996[75], Tiền Tín Trung, một nhà nghiên cứu về cây thuốc dân tộc
tại viện Vệ sinh dịch tễ công cộng Trung Quốc biên soạn cuốn sách " Bản thảo
bức tranh màu Trung Quốc". Cuốn sách đã mô tả tới hơn 1000 loài cây thuốc ở
Trung Quốc, một trong số đó là thảo quả. Nội dung đề cập là:
- Tên khoa học.
- Một số đặc điểm sinh vật học và sinh thái học cơ bản.
- Công dụng và thành phần hoá học của thảo quả.
Nhìn chung, nội dung có liên quan đến thảo quả trong cuốn sách đề cập
tơng đối ngắn gọn, nó cho biết một số đặc điểm cơ bản về tỷ lệ thành phần các
chất chứa trong thảo quả nhng đề cập rất ít đến đặc điểm sinh thái cũng nh
biện pháp kỹ thuật gây trồng và phát triển thảo quả.
Năm 1999, trong cuốn " Tài nguyên thực vật của Đông Nam á" [68] L.S.
de Padua, N. Bunyapraphatsara và R.H.M.J Lemmens đã tổng kết các nghiên
cứu về các cây thuộc chi Amomum trong đó có thảo quả. ở đây tác giả đã đề cập
đến đặc điểm phân loại của thảo quả, công dụng, phân bố, một số đặc điểm sinh
vật học và sinh thái học của thảo quả. Tác giả cũng trình bày kỹ thuật nhân
Downloadằ
22

giống, trồng, chăm sóc bảo vệ, thu hái, chế biến, tình hình sản xuất và buôn bán
thảo quả trên thế giới.
b) Việt Nam
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, ẩm và là một trong những
nơi phân bố tự nhiên của thảo quả. Từ lâu đời, nhân dân ta đã biết tìm kiếm và
khai thác thảo quả để làm thức ăn, thuốc chữa bệnh và coi thảo quả là cây
"truyền thống". Theo tài liệu của Pháp, thì công trình đầu tiên đề cập đến thảo
quả là công trình nghiên cứu về hệ thực vật Đông dơng của Lecomte et al [64]

gồm 7 tập với tên cuốn sách " Thực vật chí đại cơng Đông dơng". Tác giả đã
thống kê đợc toàn Đông dơng có hơn 7000 loài thực vật, trong đó 1350 loài
cây thuốc nằm trong 160 họ thực vật mà thảo quả là một trong những loài cây có
giá trị cao.
Năm 1957[19], khi nghiên cứu về các vị thuốc Việt Nam, tác giả Đỗ Tất
Lợi đã cho rằng: thảo quả là loài cây thuốc đợc trồng ở nớc ta vào khoảng năm
1890. Trong thảo quả có khoảng 1-1.5% tinh dầu màu vàng nhạt, mùi thơm,
ngọt, vị nóng cay dễ chịu có tác dụng chữa các bệnh đờng ruột.
Đây là một công trình nghiên cứu khẳng định công dụng của thảo quả ở
nớc ta. Tuy nội dung nghiên cứu về thảo quả của công trình còn ít, nhng nó đã
phần nào mở ra một triển vọng cho việc sản xuất và sử dụng thảo quả trong y
học ở nớc ta.
Vào những năm 1960 đến những năm 1980, một số nhà khoa học khi
nghiên cứu về cây thuốc ở nớc ta có đề cập đến thảo quả. Do thảo quả là cây
"truyền thống", có đặc thù riêng khác với một số loài lâm sản ngoài gỗ là có
phạm vi phân bố hẹp, chúng đợc trồng chủ yếu dới tán rừng ở các tỉnh phía
Bắc nh Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang nên các nhà khoa học ít quan tâm . Các
công trình nghiên cứu liên quan còn tản mạn.
Năm 1982[24], Giáo s Đoàn Thị Nhu công bố kết quả nghiên cứu của
mình về " Bảo vệ, khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc thiên nhiên và phát triển
trồng cây thuốc trên đất rừng ở Việt Nam". Trong đó tác giả kết luận : thảo quả
là cây dợc liệu quí và thích nghi tốt ở điều kiện dới tán rừng, tuy nhiên cho
Downloadằ
23

đến nay vẫn cha có nghiên cứu nào về kỹ thuật gây trồng thảo quả dới tán
rừng.
Năm 1994, nhận thức đợc tiềm năng nâng cao đời sống kinh tế xã hội
của ngời dân vùng núi từ nghề rừng tỉnh Lào Cai đã xác định thảo quả là loài
cây giá trị cao cần đợc phát triển. Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh

Lào Cai đã phối hợp với các nhà khoa học tại Trung tâm nghiên cứu lâm đặc sản
tiến hành tổng kết các kinh nghiệm gây trồng, thu hái và chế biến bảo quản thảo
quả trong nhân dân. Sau gần 2 năm điều tra thu thập, tổng hợp kết hợp với một
số kết quả nghiên cứu trong và ngoài nớc, bản hớng dẫn kỹ thuật tạm thời gây
trồng thảo quả ra đời. Nội dung bản hớng dẫn là: xác định tên khoa học loài
thảo quả phân bố trong địa phơng, mô tả một số đặc điểm sinh vật học, sinh
thái học cơ bản, kỹ thuật nhân giống, trồng, chăm sóc và thu hái. Đây là bản
hớng dẫn kỹ thuật về gây trồng và thu hái thảo quả ở nớc ta. Do chủ yếu là
tổng kết kinh nghiệm trong nhân dân và kế thừa một số kết quả nghiên cứu trong
nớc và trên thế giới cho nên các biện pháp kỹ thuật nh chọn vùng trồng, điều
kiện lập địa trồng, nhân giống, chọn giống, trồng v.v... còn không cụ thể, vẫn
mang tính chất định tính. Các căn cứ để xác định điều kiện lập địa trồng thích
hợp, thời vụ trồng, mật độ trồng v.v. ..để nâng cao năng suất và tính ổn định của
mô hình trồng thảo quả còn nhiều thiếu sót nên hiệu quả của mô hình thử
nghiệm còn thấp và cha đảm bảo tính bền vững. Vì vậy, thực chất bản hớng
dẫn kỹ thuật này chỉ là tạm thời cần nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện.
Trong công trình "Vấn đề nghiên cứu và bảo vệ tài nguyên thực vật và
sinh thái núi cao Sa Pa", các tác giả Lã Đình Mỡi, Nguyễn Thị Thuỷ và Phạm
Văn Thính (1995) đã phân loại lâm sản ngoài gỗ theo hệ thống sinh thái và
thống kê đợc tập đoàn đông đảo thực vật có giá trị làm thuốc ở địa phơng. Các
tác giả đa ra một số loài cây làm thuốc có thế mạnh của khu vực không chỉ có
giá trị sử dụng mà còn có giá trị xuất khẩu, tăng thu nhập nh hoàng liên, thảo
quả, cỏ xớc,v.v...Trong đó cần đặc biệt chú trọng phát triển cây thảo quả.
Cũng trong giai đoạn này xuất hiện một số công trình nghiên cứu về cây
thuốc, trong đó có trình bày một số thông tin về thảo quả nh
công trình " Bảo
Downloadằ
24

vệ nguồn cây thuốc thiên nhiên" (1990[33]) của Nguyễn Tập, " Những cây

thuốc và vị thuốc Việt Nam "(1999[19]) của Đỗ Tất Lợi, " Từ điển cây thuốc
Việt Nam" (1999[11]) của Võ Văn Chi và " Cây thuốc Việt Nam" (1997[14])
của Lê Trần Đức. Nội dung chủ yếu của các công trình là tóm tắt về lịch sử trồng
thảo quả ở nớc ta, một số đặc điểm về phân bố, hình thái, sinh thái và công
dụng của thảo quả. Bên cạnh một số nghiên cứu về hình thái và sinh thái, để phát
hiện tiềm năng công dụng của thảo quả trong lĩnh vực y dợc, một số công trình
nghiên cứu về thành phần hoá học nh: công trình về thành phần hoá học của
thảo quả của tác giả Nguyễn Xuân Dũng (1989[19]).
Theo báo cáo chuyên đề " Đặc sản rừng toàn quốc", năm 2000[13] của tác
giả Nguyễn Quốc Dựng. Công trình đã đa ra một cách khái quát về vai trò của
thảo quả đối với ngời dân cũng nh địa phơng, tình hình gây trồng, sản xuất,
tiềm năng thị trờng và hiệu quả của thảo quả tại một số địa phơng ở nớc ta.
Công trình này đã vẽ nên một bức tranh khái quát về hiện trạng và xu hớng phát
triển của thảo quả ở nớc ta. Đồng thời cho thấy tiềm năng về thảo quả ở nớc ta
rất lớn nhng trong quá trình phát triển và mở rộng gây trồng thảo quả cho năng
suất cao còn gặp một số khó khăn. Khó khăn lớn nhất là về lĩnh vực kỹ thuật nh
khi phát triển mở rộng cần trả lời một số câu hỏi: thảo quả đợc trồng ở đâu và
nh thế nào cho năng suất chất lợng cao nhất và không ảnh hởng đến bảo tồn
rừng.
Năm 2000, để đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật gây trồng cây đặc sản dới tán
rừng của ngời dân, Cục Khuyến Nông và Khuyến Lâm biên soạn tài liệu
"Trồng cây nông nghiệp, dợc liệu và đặc sản dới tán rừng". Nội dung tài liệu
đã nêu giá trị kinh tế, đặc điểm hình thái, sinh thái, phân bố và kỹ thuật trồng,
chăm sóc, thu hoạch và chế biến thảo quả dới tán rừng.
Trong những năm gần đây cũng xuất hiện một số tài liệu có trình bày
những thông tin về thảo quả nh
" Một số đặc điểm cơ bản của hệ thực vật Việt
Nam" (1999[9]) của tác giả Lê Trần Chấn; " Tổng quan về lâm sản ngoài gỗ ở
Việt Nam" (2001[12]) của tác giả Vũ Văn Dũng, Hoàng Hữu Nguyên và Trịnh
Vỹ "; Đa dạng thực vật có mạch vùng núi cao Sa Pa- Phan Si Pan" (1998[34])

Downloadằ

×