Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tổng hợp câu hỏi ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.12 KB, 25 trang )

Câu 1. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CNXH: Chủ tịch
HCM khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh
phúc, tự do thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì”. Đ/c hãy phân tích rõ luận
điểm đó và kiên hệ với giai đoạn cách mạng hiện nay.
Bài làm
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mac-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; Tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc vừa là sự kết hợp tinh
hoa dân tộc và trí tuệ thời đại, vừa thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ,
sáng tạo của Người; Đó là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc,và
tiến lên CNXH ở các nước thuộc địa; là tư tưởng giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người, mà hạt nhân trung tâm là độc lập
gắn liền với CNXH. Đất nước được độc lập thống nhất, nhân dân được
tự do hạnh phúc là mục tiêu phấn đấu cả cuộc đời của Người. Vấn đề
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH luôn là một trong những vấn đề
trung tâm và được thể hiện rõ ràng, xuyên suốt trong quá trình hoạt động
cách mạng của Người ở trong nước và trên thế giới. Ở Hồ Chí Minh,
Người không có ham muốn nào hơn là đất nước được độc lập, nhân dân
được ấm no, hạnh phúc; Điều đó càng được khẳng định rõ hơn khi
Người nói: Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự
do thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Để làm rõ luận điểm trên, Chúng ta
cùng phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc phải gắn với con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Mục tiêu độc lập – dân tộc gắn liền với CNXH trong tư tưởng
Hồ Chí Minh được hình thành từ hai cơ sở là: cơ sở lý luận và cơ sở
thực tiễn; Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX; khi đất nước Việt
Nam bị thực dân Pháp xâm lược, dân tộc ta phải chịu khổ cực dưới hai
tầng áp bức của bọn thực dân đế quốc và bọn phong kiến; nhiều phong
trào yêu nước của nhân dân ta nổi lên đấu tranh chống bọn thực dân đế
quốc, bọn phong kiến nhưng tất cả đều bị thất bại; vì vậy, trong nhận


thức về con đường giải phóng dân tôc, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra hạn
chế của các nhà yêu nước đương thời. Do chưa có một đường lối
1
xã hội như vậy, động lực CM XHCN ở nước ta theo TT HCM có cả đông
lực vật chất lẫn động lực tinh thần song con người là quyết định.
HCM nhiều lần chỉ rõ:”muốn xây dựng CNXH, trước hết phải có con người
XHCN”. Đó là những con người có phẩm chất và năng lực , có trình độ chính trị,
văn hoá, KHKT và chuyên môn nghiệp vụ.HCM đòi hỏi mỗi con người cần kết
hợp chặt chẽ hồng với chuyên,đức với tài, trong đó đức là gốc.HCM luôn luôn
chăm lo vun trồng, XD nền VH mới VN. Theo HCM muốn tiến lên CNXH thì
phải phát triển VH để phục vụ sự nghiệp CM XHCN thi VH phải XHCN về nội
dung và dân tộc về hình thức.
HCM cho rằng phải đẩy mạnh XD cơ sở vật chất đồng thời phải phát huy
những yếu tố tinh thần .
Về XD nền KT theo TT HCM bước vào thời kỳ XD cần chú trọng phát triển
KT, nước độc lập tự do phải gắn liền với dân được cơm no áo ấm. Ngay từ năm
1953, HCM đã viết trong chế độ dân chủ mới có 5 thành phần KT: KT quốc
doanh, KT HTX, KT của cá nhân,nông dân và thợ thủ công, tư sản của tư nhân,
tư bản nhà nước.HCM nhấn mạnh phải coi công nghiệp và nông nghiệp gắn bó
chặt chẽ với nhau như 2 chân đi khoẻ và đi đều thiø chóng đi tới đích và về CT
thì liên minh công nông được củng cố vững chắc.
Về yêu tố tinh thần , HCM quan tâm đến việc đẩy mạnh phát triển văn hoá –
giáo dục ; phát động nhiều phong trào thi đua CM nhằm phát huy các yếu tố tinh
thần. Người luôn luôn phát huy nhân tố con người, mở rộng dân chủ và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Đáp ứng nhu cầu thích đáng lợi ích chân chính của
người lao động, chú ý công bằng XH và sự hài hoà của nhân dân. Tập trung đầu
tư và phát triển nguồn lực con người, coi giáo dục , khoa học công nghệ thật sự là
quốc sách hàng đầu. Chăm lo bồi dưỡng và đào tạo con người và đội ngũ CB có
phẩm chất CT vững vàng, trung thành với lý tưởng CM, có trình độ chuyên môn
và năng lực thực tiễn, có ý thức tô chức kỷ luật, gương mẫu trong đạo đức và lối

sống . Tóm lại là những con người”phải có đủ đức và tài, tong đó đức là gốc”.
Về XD lực lượng, HCM cho rằng phải tập chung cũng cố khói đại đoàn kết
toàn dân. Mặt trận dân tộc thống nhất có vai trò hết sức quan trọng, MT lấy CN,
ND trí thức làm nồng cốt. Tạo sức mạnh về mặt tổ chức, ý nghĩa của MT DT
thống nhất HCM nêu “ trong CM DTDC ND cũng như trong CM XHCN, MT
DT thông nhất vẫn là 1 trong những lực lượng to lớn của CM VN. “
Theo Hồ Chí Minh, Đối với các nước thuộc địa như nước Việt Nam
giai đoạn này, độc lập dân tộc trước nhất chỉ có được khi cách
3
2
kháng chiến rõ ràng, bất cập trước lịch sử, dựa trên ý thức hệ phong kiến
hoặc xu hướng dân chủ tư sản nên không tránh khỏi thất bại và bị thực
dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào yêu nước của nhân dân ta. Từ
đó, HCM đã bắt đầu đi tìm con đường cứu nước mới. Trong quá trình bôn
ba ở nước ngoài, HCM đã khảo sát tất cả các điển hình thế giới từ nước
Pháp, các nước ở Châu phi, Mỹ, Anh, Nga nhằm tìm hiểu kẻ thù của dân
tộc, thế giới văn minh và tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới,
khảo sát, tìm hiểu nghiên cứu các kiểu nhà nước và cuộc sống của nhân
dân các dân tộc bị áp bức. Từ đó, Người đã nêu ra hai phương diện và rút
ra kết luận: cách mạng tư sản không triệt để vì không giải phóng được
con người, không mang lại lợi ích cho toàn thể nhân dân lao động vì thế
Người cho rằng làm cách mạng không nên theo cách mạng tư sản. Cách
mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng vô sản, là cuộc cách mạng triệt
để, đem lợi ích đến cho toàn thể nhân dân lao động và chế độ thuộc địa,
nhà nước thuộc địa Người kết luận đo ùlà chế độ dã man nên cần phải
đánh đổ nó đi. Đặc biệt, khi tiếp xúc với luận cương của Lênin về vấn
đề dân tộc và thuộc địa, HCM đã tìm thấy con đường chân chính cho sự
nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc; đây chính là cơ sở lý luận hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự kiện đó đánh dấu bước nhảy vọt về chất
trong tư tưởng HCM, từ CN yêu nước đến CN Lênin, từ giác ngộ dân tộc

đến giác ngộ giai cấp từ người yêu nước thành người cộng sản. Lý luận
về cách mạng không ngừng của Lênin có ảnh hưởng rất sâu sắc đến tư
tưởng của Người, cho thấy sự gắn bó chặt chẽ giữa 2 cuộc cách mạng:
cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN, cách mạng giải
phóng dân tộc là tiền đề cho cách mạng XHCN và cách mạng XHCN là
sự khẳng định của thành quả cách mạng của giải phóng dân tộc.
Theo TT HCM con người vừa là mục tiêu vừa là động lực tong công cuộc
giải phóng dân tộc và xây dựng XH mới XHCN.Vấn đề con người có vị trí cao
nhất và bao trùm, là chiến lược của mọi chiến lược. Là nhân tố tạo ra động lực
để tiến hành đổi mới XH,sự nghiệp giải phóng con người là mục tiêu cao nhất
nhằm định hướng mọi hoạt động thực tiễn.
Quán triệt TT HCM , NQ5 của Bộ Chính Trị khoá 6 viết:” phải quán triệt quan
điểm cơ bản của Đảng là coi trọng con người, coi con người là động lực quan
trọng nhất, là mục tiêu phục vụ và xây dựng của mọi hoạt động kinh tế-
2
mạng giải phóng dân tộc thành công. Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, mục
tiêu cuối cùng của độc lập dân tộc không chỉ là ở giai đoạn hoàn thành
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà phải thực hiện tiếp cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Có thể nhận thấy rằng dưới góc độ giải phóng dân tộc, giành được độc
lập dân tộc mới chỉ là cấp độ đầu tiên. Giải phóng về mặt chính trị, tự
bản thân nó chưa phải là công cuộc giải phóng hoàn toàn, hay nói cách
khác, độc lập là tiền đề đầu tiên để tiến lên chủ nghĩa xã hội, đi tới cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Lôgíc lịch sử tự nhiên của sự vận động
phong trào dân tộc tất yếu dẫn tới chủ nghĩa xã hội do bản chất cách
mạng triệt để của nó.
Nghiên cứu Cương lĩnh dân tộc Lênin: bình đẳng, tự quyết, đoàn kết
gia cấp công nhân các dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng sau khi
cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, phải tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Độc lập dân tộc đòi hỏi trước hết phải đảm bảo cho dân tộc đó quyền
tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đuờng và
mô hình phát triển, độc lập cả về chính trị, kinh tế, văn hoá. Vì Vậy, chỉ
có thể tiến hành thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đất nước
giành được độc lập thì dân tộc ấy mới có thể tự chọn lựa con đường đi,
hướng phát triển của đất nước mình làtheo con đường CNXH. Nói cách
khác, giành được độc lập dân tộc là tiền đề cho việc xây dựng chế độ
mới- chế độ XHCN.
Độc lập dân tộc cũng đòi hỏi phải thực sự bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, con người
được phát triển toàn diện, hạnh phúc, con người được làm chủ. Độc lập tự
do đòi hỏi phải xoá bỏ mọi tình trạng áp bức, bóc lột, nô dịch của dân tộc
này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Sự trao đổi,
hợp tác kinh tế, văn hoá giữa các nước dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ
quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới không có chiến
tranh, không có sự hoành hành của cái ác, của những sự tàn bạo và bất
công,bảo đảm cho con người sống trong an ninh và hạnh phúc. Vì vậy, để
đảm bảo độc lập dân tộc thực sự và giữ
3
vững thành quả ấy, cả nước phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là quy luật
của thời đại, đáp ứng nguyện vọng ngàn đời của nhân dân talàđộc lập, tự
do, ấm no, hạnh phúc. Người nói: chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi
mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Để giữ
vững độc lập, tự chủ, để đảm bảo cho nhân dân một cuộc sống ấm no
hạnh phúc, chúng ta không có con đường nào khác là phải tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Với ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc không chỉ mang lại độc lập thống nhất cho tổ quốc,
mà trong từng bước phải mang lại tự do, hạnh phúc cho toàn dân.
Đối với chúng ta, kinh nghiệm lịch sử hiện đại chứng minh rằng,

thống nhất đất nước chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở độc lập dân tộc
thực sự- độc lập trên nền tảng của CNXH. Bởi vì, từ đó sẽ tạo ra những
tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết cho việc bảo vệ vững chắc của chủ
quyền dân tộc. Vì thế giữa độc lập dân tộc gắn liền CNXH có mối quan
hệ với nhau được biểu hiện đó là:
ĐLDT là mục tiêu trước mắt, là cơ sở, là tiền đề để tiến lên CNXH;
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự gắn bó thống nhất với nhau,
vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong
thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa
mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải
phóng con người. Chỉ có thiết lập được chế độ sở hữu công cộngvề tư
liệu sản xuất mới xoá bỏ được tận gốc trình trạng áp bức bóc lột; chỉ có
thiết lập một nhà nước kiểu mới, một nhà nước thực sự của dân, do dân,
vì dân mới đảm bảo cho quyền làm chủ của người lao động, mới thực
hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân
tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Vì vậy, CNXH là mục tiêu
cuối cùng mà ta phải đạt được, là con đường bảo vệ và phát triển thành
quả của ĐLDT; chỉ có CNXH, CNCS mới bảo đảm cho 1 nền ĐLDT
chân chính, mới giải phóng các dân tộc một cách thực sự, hoàn toàn. Đó
là nguyện vọng chung của nhân dân. Nhân dân ta đi theo Đảng tiến hành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân không chỉ nhằm thoát khỏi ách đô
hộ của ngoại bang, cũng không phải chỉ nhằm thoát khỏi gông cùm của
phong kiến,để rồi lại rơi vào tình trạng bị giai
của CNXH có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có nnền văn hoá
khoa học tiên tiến; về chính trị, nội dung quan trọng nhất để đảm bảo
thắng lợi của công cuộc cách mạng này là giữ vững, tăng cường và phát
huy vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phải củng cố, tăng cường vai
trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước thực sự là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân và nhà nước đó thực hiện 2 chức năng: dân chủ
với dân, chuyên chính với kẻ thù. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến được

biểu hiện trong mọi sinh hoạt đời sống tinh thần của xã hội. Phát triển
giáo dục nâng cao dân trí, phát triển văn hoá nghệ thuật và đào tạo con
người mới. Củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, phát huy
sức mạnh của dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vì xây dựng
CNXH cũng là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân ta; đồng thời phải xây
dựng đội ngũ cán bộ đủ đức vàtài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng XHCN. Về phương diện quốc tế, theo Hồ Chí Minh, sự nghệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta buộc chúng ta phải có ý thức độc lập tự
chủ, tự lực, tự cường, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, hạn chế
những khó khăn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Về bước đi
của thời kỳ quá độ, Người đã chỉ rõ: Ta xây dựng CNXH từ 2 bàn tay
trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và dài, phải làm dần dần, không thể
một sớm một chiều.Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành xây
dựng CNXH ở Việt Nam, Người luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần
độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều rập khuôn kinh nghiệm nước
ngoài, phải suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn
Việt Nam.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đi lên CNXH ở nước ta
giai đoạn hiện nay, trong điều kiện thế giới và trong nước ta có những
thụân lợi và khó khăn nhất định chính vì vậy, Đại hội lần thứ IX của
Đảng đã khẳng định: Trước tình hình hiện nay, mặc dù XHCN vẩn là sự
phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người là sự lựa chọn đi theo con
đường CNXH của chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân là sự lựa chọn duy
nhất đúng đắn.đất nước đang đứng trước những thử thách lớn lao của thời
đại lịch sử Đảng và nhà nước ta phải kiên định con đường mục tiêu của
mình và phải lấy CN Mác- Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Trong sự nghiệp đổi
5 7
4
mới hiện nay, chỉ có kiên định mục tiêu cao cả ấy chúng ta mới giải

phóng nhân dân khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, tình trang mê tín dị
đoan, tập tục lạc hậu và các tệ nạn Xã hội… Giữ vững độc lập, tự chủ đi
đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, thực hiện phương châm đa phương hóa,
đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại. Xây dựng CNXH là nhiệm vụ chủ
yếu trong giai đoạn hiện nay để tạo điều kiện bảo vệ Tổ quốc một cách
vững chắc. Muốn vậy phải chủ động tạo lập con đường để phát huy sức
mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại, phải đi tắt, đón đầu tạo ra những
bước đột phá mạnh mẽ để phát triển đất nước nhanh và bền vững để xây
dựng thành công chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là đi đôi với việc
tiếp tục quán triệt những nội dung cơ bản của TTHCM, phải nêu cao tinh
thần cảnh giác cách mạng, chống lại những khuynh hướng tư tưởng cơ
hội, xét lại và bảo thủ, giáo điều; chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham
nhũng, kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu chống phá về mặt tư tưởng
chính trị do các thế lực thù địch gây ra.
Có kiên định CN M-L, TTHCM và tiến hành cuộc đấu tranh kiên
trì, dũng cảm chống những quan điểm, tư tưởng sai trái thì mới khắc phục
được sự suy thoái hiện nay về nhận thức tư tưởng chính trị, về quan điểm
và hành động của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Tóm lại, cốt lõi của độc lập dân tộc là giải quyết mối quan hệ giữa
dân tộc và giai cấp. Trong cách mạng Việt Nam dân tộc và giai cấp có sự
hài hài hoà và thống nhất với nhau về lợi ích. Chính vì vậy phải chống cả
tả khuynh và hữu khuynh. Thực tiễn cho thấy ngay từ khi được thành
lập, Đảng ta đã quan niệm độc lập dân tộc và CNXH không phải là hai
mục tiêu khác nhau mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, không thể tách
rời nhau, bởi vì độc lập dân tộc mà chúng ta cần có là độc lập dân tộc của
một nước XHCN. Chỉ khi có độc lập dân tộc thì mới đi liền với sự giàu
có, hạnh phúc chung của nhân dân. Độc lập dân tộc là thuộc tính nội tại
của CNXH với tư cách một chế độ xã hội; không có độc lập dân tộc thì
không có xã hội XHCN. Do đó mỗi người chúng ta phải nhận thức được

điều đó để ra sức phấn đấu hết sức mình vì mục tiêu, lý tưởng cao cả ấy
mà Người và Đảng ta đã mang lại cho chúng ta ngày hôm nay./.
cấp tư sản bóc lột, mà còn muốn thoát khỏi mọi kiểu áp bức, bóc lột để
mọi người được sống trong ấm no, tự do và hạnh phúc. Muốn vậy, độc
lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Để thực hiện con đường, mục tiêu
độc lập dân tộc và CNXH như đã phân tích như trên; theo Hồ Chí Minh,
cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi trước nhất phải đi theo con
đường cách mạng vô sản, tư tưởng này thể hiện rõ qua luận điểm:Chỉ có
giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc
giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cuộc
cách mạng thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi còn
phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Bên cạnh đó, Người cũng
chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân,
trên cơ sở liên minh công – nông. Hồ Chí Minh cũng chỉ rằng muốn giải
phóng dân tộc phải thực hiện con đường cách mạng bạo lực, song Hồ
Chí Minh luôn chủ động, tích cực đưa ra giải pháp để tranh thủ khả năng
hoà bình và phát triển của cách mạng.
Theo tư tưởng của Người, làm Cách mạng xã hội chủ nghĩa là để xây
dựng chế độ xã hội XHCN, là một XH tốt đẹp, một XH vì con người, là
chế độ do nhân dân lao động làm chủ, là một xã hội có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại và chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; nhằm không ngừng nâng cao đời sống
vật chất cho nhân dân; là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức,
trong đó, người với người là bạn bè, là đồng chí là anh em, con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống tinh thần phong phú;
là một xã hội công bằng và hợp lý, các dân tộc đều bình đẳng; là công
trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Đó là bản chất của CNXH và cũng là mục tiêu mà Đảng và
nhân dân ta đang ra sức phấn đấu để đạt tới. Theo TTHCM, hệ thống
động lực của chủ nghĩa xã hội rất phong phú, trong đó bao trùm lên tất

cả là động lực con người, trên cả hai bình diện: cộng đồng và cá nhân.
Con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên CNXH, không phải kinh qua giai đoạn phát triển
TBCN. Thời kỳ quá độ là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian
khổ lâu dài. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Người đã chỉ rõ: phải
xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật nghiệp đổi lại rơi vào tình trạng bị
giai
8 6
5
Câu số 2: Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán
bộ … phải xứng đáng là một người lãnh đạo, là người đầy tớ
trung thành của nhân dân”.
Đồng chí hãy phân tích luận điểm ấy của Người và liên hệ
với việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Bài làm
Sau khi lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thành công cuộc
cách mạng tháng Tám năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức
quan tâm đến việc xây dựng Đảng ta với tư cách là một Đảng cầm
quyền. Người coi đó là một nhiệm vụ quyết định thắng lợi của
cách mạng, sự tồn tại và phát triển của chế độ xã hội mới, xã hội
xã hội chủ nghĩa. Trong Tuyên ngôn của đảng Cộng sản, C. Mac
và Ph. Ăngghen nói rằng: Giai cấp vô sản mỗi nước, trước hết phải
giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành dân tộc. Phát triển
sáng tạo tư tưởng này, chủ tịch Hồ Chí Minh là người mác-xít đầu
tiên đã kết hợp việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân với
việc nâng cao tính nhân dân, tính dân tộc trong công tác xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã chỉ ra, để CM thành công phải
có một Đảng chân chính lãnh đạo. Để Đảng vững mạnh thì “ cán
bộ, Đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân

dân”. Trên cơ sở đó, Người đã giáo dục đội ngũ Đảng viên phải
luôn trau dồi đạo đức cách mạng, xây dựng đội ngũ của Đảng
trong sạch, vững mạnh để nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ và mục
tiêu mà Đảng ta đã xác định ngay từ khi được thành lập đến nay.
HCM đã vận dụng một cách sáng tạo quy luật về Đảng cộng sản
- Đảng cầm quyền. Bởi vì tư tưởng HCM về Đảng cộng sản
1
thường xuyên chăm lo bản chất giai cấp công nhân và nêu cao lý
tưởng của Đảng. Người nói: “Người cộng sản chúng ta không được
phút nào quên lý tưởng cao cả của mình là: suốt đời làm cách mạng
phấn đấu cho tổ quốc hoàn toàn độc lập, làm cho CNXH và CNCS
thắng lợi hoàn toàn trên tổ quốc ta và trên thế giới” (Hồ Chí Minh:
toàn tập, Nxb CTQG, HN 1995t12 tr 93). Do đó, theo Người, Đảng
cầm quyền là Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều
kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được quyền lực
NN và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy NN đó để tiếp tục hoàn thành
sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và CNXN. Vai trò chức năng cốt
lõi nhất, quan trọng nhất của Đảng cầm quyền là Đảng lãnh đạo
chính quyền. Đảng cầm quyền để đảm bảo giữ vững và tăng cường
bản chất giai cấp công nhân của chính quyền NN. NN do Đảng lãnh
đạo phải mang tính chất nhân dân, là công bộc, là đầy tớ của dân,
chăm lo cho dân về mọi mặt. Đảng lãnh đạo NN bằng đường lối chủ
trương được thể chế hóa thành hiến pháp, pháp luật, chính sách,
bằng quy hoacïh bố trí sử dụng cán bộ, bằng kiểm tra giám sát việc
thực hiện đường lối của Đảng với chính quyền.
Một chức năng khác rất quan trọng của Đảng cầm quyền là Đảng
lãnh đạo mặt trận và các tổ chức chính trị-XH. HCM chỉ ra rằng yếu
tố làm cho Đảng nắm vững quyền lãnh đạo là “Chính sách đúng
đắn” và “Năng lực lãnh đạo” của Đảng. Đảng vạch ra chủ trương và
đường lối lãnh đạo thuyết phục các tổ chức chính trị XH tham gia

hoạt động công tác phong trào CM.
Như vậy” Đảng cầm quyền” không những Đảng lãnh đạo chính
quyền NN mà còn lãnh đạo toàn XH. HCM đã từng nhấn mạnh điều
này trong di chúc của Người: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi
Đảng viên và cán bộ phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
3
6
bắt nguồn từ học thuyết của Mác và ĐCS mà trực tiếp từ học thuyết
về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, đã được Lênin đưa ra.
Nhưng xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết ấy để đưa đến việc
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam vào năm 1930. Ngay từ khi mới
ra đời, Đảng ta đã có tính giai cấp và tính nhân dân.
Bên cạnh những nguyên lý chung của việc thành lập Đảng cộng
sản trên các nước, HCM còn kết hợp giữa CN Mac Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước là cơ sở và điều kiện vững
chắc cho Đảng Công sản Việt Nam ra đời. Vì vậy, Đảng Công sản
Việt Nam chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mac-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Trong tư tưởng và hành động của người, luôn thấy cần có sự
lãnh đạo của Đảng CM chân chính của giai cấp công nhân, và
Người đã ra sức làm cho Đảng đảm đương được vai trò đó. Nhờ
vậy, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đưa CMGPDT đến thắng lợi, và
vai trò lãnh đạo của Đảng có tiếp tục giữ vững thì cuộc CM XHCN
mới đi đến thành công.
Tư tưởng HCM về Đảng cầm quyền được thể hiện, trải qua các
cao trào cách mạng ngày càng sôi nổi, quyết liệt, Đảng CSVN đã
lãnh đạo toàn dân tiến hành thắng lợi cuộc CN tháng 8 năm 1945,

chính quyền của nhân dân được thành lập, Đảng CSVN trở thành
Đảng cầm quyền để tiếp tục lãnh đạo nhân dân, xây dựng CHXH đã
được HCM khẳng định: Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn
cần có Đảng lãnh đạo vì: Dù nhân dân đã nắm chính quyền, nhưng
giai cấp đấu tranh trong nước và âm mưu của đế quốc xâm lược vẫn
còn. Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, XH, cho nên
Đảng vẫn phải tổ chức lãnh đạo giáo dục quần chúng, để nhân dân
lao động đến thắng lợi hoàn toàn. Trong quá trình xây dựng và củng
cố Đảng, chủ tịch HCM
2
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. ( Hồ Chí Minh,
toàn tập, Nxb CTQG, HN 1996, t12 tr 510).
Để tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo toàn XH, Đảng cần giữ
vững và tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân.
Người căn dặn: chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta,
kính ta. Người còn căn dặn: cán bộ đảng viên phải vừa là người
lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân;
Từ khi Đảng ta ra đời, do có đường lối đúng đắn và có sự gắn bó
máu thịt với nhân dân, Đảng ta đã được nhân dân thừa nhận là Đảng
duy nhất có vai trò lãnh đạo cách mạng VN. Trong suốt tiến trình đi
lên cách mạng Việt Nam, Đảng ta hoàn toàn xứng đáng với sự tin
cậy ấy. Dưới dự lãnh đạo của Đảng và của lãnh tụ HCM, nhân dân
đã giành đuợc thắng lợi trọn vẹn của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và vững bước tiến lên con đường XHCN. Cũng trong suốt
tiến trình cách mạng VN theo HCM, Đảng phải vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hai mặt
lãnh đạo và đầy tớ không tách rời nhau, không đối lập nhau, mà
thống nhất biện chứng với nhau. Đây là một luận điểm lớn đã được
HCM nhắc đi nhắc lại nhiều lần, đây cũng là một quan điểm nhất
quán khi người xác định vai trò lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm

của mỗi cán bộ, Đảng viên.
Cần phải thấy rõ rằng cán bộ Đảng viên từ nhân dân mà ra, nhưng
lại có trách nhiệm hướng dẫn nhân dân thực hiện đường lối chủ
trương chính sách của Đảng và NN, tức là thực hiện vai trò của
người lãnh đạo. Muốn hướng dẫn nhân dân thi hành, muốn nói cho
dân tin, dân nghe và làm theo mình thì cán bộ đảng viên phải là
người có tài có đức, được nhân dân tin yêu, mến phục. Bác cũng đã
dạy “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán cộng sản
là ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư
cách đạo đức. Muốn hướng dẫn dân mình phải làm mực thứớc cho
họ bắt chướt”. Như vậy: theo HCM Đảng và người lãnh đạo phải
trước hết là người “Nói đi đôi làm” ; là người
7
phải làm gương đi đầu trong việc thực hiện mọi chủ trương
đường lối của Đảng. Nói đến năng lực lãnh đạo quần chúng của
Đảng viên, HCM chú trọng không chỉ trình độ, năng lực lãnh đạo
quần chúng mà còn cả phương pháp khoa học và thực thi dân chủ;
không chỉ trí tuệ mà còn cả kinh nghiệm và bản lĩnh chính trị, đạo
đức cách mạng, lối sống gương mẫu, tận tuỵ hy sinh phục vụ dân
chúng làm công bộc đầy tớ trung thành của dân. Người đòi hỏi rất
cao thái độ dũng cảm và sự thành thật trong tự phê bình, phê bình
của Đảng, của cán bộ, Đảng viên. Người nói “ Phê bình cũng như
uống thuốc. Sợ phê bình, cũng như có bệnh mà giấu bệnh . không
giám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không chết
cũng la lết quả dưa” (Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, CTQG, HN,
1995, t5, tr 260.) và Người còn nói: “ Một đảng mà giấu giếm
khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa
nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ nhửng cái đó, vì đâu mà có
khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sữa chữa khuyết điểm đó.
Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”

(Hồ Chí Minh: Sđd tr 261). Có như vậy, Đảng mới được dân tin
cậy, dân phục, dân yêu mến, dân giúp đỡ, ủng hộ và bảo vệ, chỉ như
vậy Đảng mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạng, chắc chắn và chân
chính.
Song song với việc thực hiện tốt vai trò lãnh đạo thì đảng viên của
Đảng cầm quyền lại càng phải ý thức thật sâu sắc mình là đầy tớ
nhân dân chứ không phải người chủ của nhân dân. cần phải xác
định rõ ràng Đảng lãnh đạo nhà nước là nhằm xây dựng một nước
thật sự của dân, do dân và vì dân để nhân dân làm chủ nhà nước,
điều mà trước khi cách mạng thành công không thể có được. Đảng
cầm quyền nhân dân làm chủ quyền lực cao nhất vẫn thuộc về nhân
dân: đó chính là quan điểm rất quan trọng của HCM. Vì vậy Đảng
viên không được tự cho phép mình đứng trên nhân dân, trên nhà
nước, trên pháp luật là đầy tớ trung thành của nhân dân như HCM
đã nói : “ ngoài quyền lợi của giai cấp, của nhân dân
Đảng phải làm thế nào để quyền lực không làm tha hóa, biến
chất Đảng viên. Người đã đề cập đến 3 nguy cơ làm tha hoá biến
chất cộng sản: Đó là nguy cơ làm sai lầm đường lối, nguy cơ về
chủ nghĩa cá nhân phát triển và nguy cơ xa dân, mất dân, quần
chúng. Sự sai lầm về đường lối xuất phát trừ sự thiếu vững vàng về
chính trị, không đứng vững trên lập trừơng giai cấp công nhân,
thiếu tri thức, lý luận. Trong điều kiện cầm quyền, chủ nghĩa cá
nhân dễ có cơ hội phát triển “đẻ ra nhiều cái xấu” gây tác hại lớn
“Làm mất lòng tin cậy của dân sẽ làm hại đến uy tín của Chính phủ.
Tham nhũng, quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến
những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước.
Mỗi biểu hiện của tệ tham nhũng, bệnh quan liêu. Xa dân đều làm
suy yếu Đảng, hơn nữa còn làm cho sự tồn tại của Đảng không còn
ý nghĩa. Những vấn đề trên còn là những vấn để HCM đặc biệt
quan tâm giáo dục cán bộ, Đảng viên, nhất là khi Đảng đả trở thành

Đảng cầm quyền.
Do đó, vấn đề quan trọng là sau khi nghiên cứu tư tưởng HCM
về Đảng cầm quyền thì mỗi chúng ta vận dụng vào thực tế như thế
nào để góp phần giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao
năng lực lãng đạo và sức chiến đấu của Đảng trong mỗi giai đoạn
cánh mạng nhất là giai đoạn hiện nay.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân
dân ta trong thời gian qua, bên cạnh những thành tụ mà Đảng và
nhân dân ta đạt được, bên cạnh đó còn bộc lộ một số yếu kém như
ĐH Đảng lần thứ X đã xác định là: Tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân
và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ,
công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức
chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp
nảy sinh. Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề
quan trọng trong công cuộc đổi mới. Công tác tổ
5
7
chức và cán bộ còn nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu quả
kiểm tra, giám sát chưa cao.
Kế thừa, vận dụng TTHCM về đảng CS, tiếp thu nghị quyết TW
6 lần 2 (khóa 8), Hội nghị TW 7 (khóa 8) và Nghị quyết Đại Hội
lần thứ IX của ĐCSVN về công tác xây dựng Đảng, việc xây dựng
và chỉnh đốn Đảng ngày càng trở nên là nhiệm vụ cấp bách. Đặc
biệt chủ đề học tập và làm theo tấm gương tư tưởng Đạo dức Hồ
Chí Minh năm 2010 về: Xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững
mạnh “là đạo đức, là văn minh”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, sự cầm quyền của Đảng ta là do
nhân dân ta giao phó cho trách nhiệm cầm quyền đó. Cho nên,
Đảng phải luôn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Trong

điều kiện Đảng cầm quyền, việc thường xuyên tự đổi mới, tự chính
đốn càng phải đưọơc chú ý, trở thành quy luật tồn tại và phát triển
của Đảng. Vận dụng tư tưởng của Người việc tự đổi mới, tự chỉnh
đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay chúng ta phải quan tâm thực
hiện tốt những nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, phải tăng cường công tác xây dựng Đảng cả về chính trị,
tư tưởng, tổ chức; tiến hành đúng đắn phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể CT-XH cũng như
đối với toàn xã hội; chú trọng rèn luỵên đạo đức, lối sống cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên,… làm cho Đảng luôn xứng đáng là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc
Việt Nam.
Hai là, từng tổ chức Đảng và đảng viên phải luôn chú ý đề phòng và
khắc phục những biểu hiện tiêu cực, thoái hoá, biến chất, luôn giữ
gìn Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy mỗi cán bộ
đảng viên phải góp phần khắc phục tình trạng thoái hóa biến chất,
suy đồi đạo đức, lối sống tham nhũng, lãng phí xa hoa, chống chủ
nghĩa cá nhân…khắc phục các bệnh quan liêu xa rời quần chúng,
bệnh chủ quan hình thức địa phương, cục bộ bè phái ham danh
vị…. Phải thật sự làm cho toàn Đảng và tổ chức cơ
8
8
của dân tộc. Đảng ta không có lợi ích gì khác” ( Hồ Chí Minh:
Sđd, t 10, tr 4).Vì vậy, Đảng phải thường xuyên chăm lo cũng cố
mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Đảng không ở trên
nhân dân, cũng không ở ngoài dân, mà ở trong dân; trong lòng dân.
Không phải chỉ có nhà nước mới lấy dân làm gốc mà Đảng cũng
phải lấy dân làm gốc. Chính cái gốc này tiếp tục đem lại nguồn sinh
lực vô tận cho Đảng để tiếp tục giúp Đảng thực hịên công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc .Là đầy tớ trung thành của nhân dân, theo

Người, Đảng ta còn phải biết nêu cao tinh thần phục vụ, tinh thần
trách nhiệm trước nhân dân, chăm lo nâng cao đời sống vật chất,
văn hóa lẫn tinh thần cho nhân dân việc gì có lợi cho dân ta phải hết
sức làm. Việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh… cùng với
những điều kiện trên Đảng còn phải ra sức bồi dưỡng nâng cao trí
tuệ, sức mạnh của nhân dân, phát huy dân chủ một cách sâu rộng,
song không đựơc mị dân, mơn trớn, lợi dụng hoặc theo đuôi quần
chúng.
Do vậy để thực hiện được vai trò vừa là người lãnh đạo vừa là
đài tớ trung thành của nhân dân mọi cán bộ đảng viên và Đảng
phải đề phòng nguy cơ tha hoá quyền lực, không ngừng nâng cao
đạo đức cách mạng.
Từ chưa cầm quyền sang cầm quyền, đó là một sự thay đổi cơ bản
trong tồn tại và phát triển của một đảng cộng sản. Hàng loạt thử
thách, gay go mới được đặt ra trước Đảng cộng sản. Một Đảng anh
hùng trong đấu tranh giành chính quyền vẫn có thể tiêu vong khi
cầm quyền. Quan liêu, tham nhũng, hủ hoá luôn là những nguy cơ
đe doạ làm mất phẩm chất của những người cộng sản cầm quyền.
Nhà nước là công cụ để cách mạng có thể chuyển từ nhiệm vụ phá
hoại trật tự cũ sang xây dựng trật tự xã hội mới thì cũng đồng thời
như một “cái bẫy” đối với những đảng viên cộng sản thiếu bản lĩnh.
Đã có những người cộng sản chưa thấy hết chính quyền là vấn đề
cơ bản của cách mạng. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, HCM chỉ ra
rằng: Khi trở thành Đảng cầm quyền,
6
sở Đảng cũng như mỗi cán bộ, Đảng viên trong sạch vững mạnh,
phải suốt đời phần đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng, phải thật sự
đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc của nhân dân lên trên hết và
lên trước hết. Đồng thời cán bộ, đảng viên phải giữ cho mình cố
một đời tư trong sáng, phải là một tấm gương sáng trong cuộc sống.

- Ba là, Đảng phải thường xuyên quan tâm thực hiện tốt công tác
giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên để đội ngũ cán bộ,
đảng viên của Đảng luôn luôn tòn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc,
phục vụ cach mạng, phục vụ nhân dân. Muốn vậy mỗi cán bộ, đảng
viên phải phấn đấu rèn luyện, học tập để thật sự là những người đủ
đức, đủ tài đểm đảm đương được mọi nhiệm vụ được giao. Đồng
thời phải luôn luôn giác ngộ cách mạng, trung thành với lý tưởng
của Đảng, đi tiên phong trong phong trào cách mạng ở địa phương,
đơn vị nơi sinh sống cũng như học tập, công tác.
- Thứ tư là, Đảng phải không ngừng vươn lên đáp ứng kịp yêu
cầu của tình hình và nhiệm vụ mới do sự biến đổi của tình hình
trong nước và thế giới hiện nay. Muốn vậy, Đảng phải chú trọng
nâng cao tầm trí tuệ, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Củng cố hoàn thiện một số vấn đề về tổ chức: Thực hiện nghiêm
túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, sắp xếp lại bộ máy
Đảng theo khuynh hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu quả. Nâng
cao năng lực trí tuệ của Đảng, không ngừng hoàn thiện về đường lối
chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước. Thực
hiện việc quản lý, kiểm tra chặt chẻ đối với cán bộ, Đảng viên. Bên
cạnh đó Đảng viên viên luôn phải có ý thức cảnh giác, chống các
âm mưu phá hoại Đảng của kẻ thù trong và ngoài nước.
Tóm lại, Với kinh nghiệm, tri thức cổ kim đông tây phong phú,
uyên bác trong lĩnh vực dùng người, đào tạo và sử dụng can bộ cách
mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cho chúng ta những
9
9
10
nguyên tắc căn bản trong phương thức lãnh đạo của Đảng và cho
mỗi cán bộ, đảng viên. Có thể nói, đây là kho tàng tri thức quý giá
đối với sự tu dưỡng, rèn luyện năng lực lãnh đạo và phẩm đạo đức

của mỗi cán bộ, đảng viên. Đồng thời đây cũng là cơ sở lý luận cho
việc đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng ta trong
sự nghiệp đổi mới hiện nay. Bước vào thời kỳ CNH, HĐH hiện nay,
luận điểm: Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành
của nhân dân của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên gía trị. Do đó, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng phải tiếp thu và vận dụng đúng
đắn tư tưởng của Người về Đảng cầm quyền trong giai đoạn hiện
nay, cần phải có sự thống nhất cao trong Đảng để nhận thức và
quan điểm trong các vấn đề đặc biệt là những vấn đề có tính nguyên
tắc đi đôi với phát huy dân chủ rộng rãi thông qua các hình thức dân
chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Tuy nhiên, mở rộng dân chủ phải
gắn với tăng cường kỷ cương, chống tình trạng vô chính phủ, tuỳ
tiện, nhất là các biểu hiện lợi dụng dân chủ để chống Đảng, chống
nhân dân, chống chế độ. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động học tập
và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh và triển
khai thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng./.
10
Câu số 3: Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là công việc của dân

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân.”
Đồng chí hãy phân tích luận điểm ấy của Người và liên hệ
với việc xây dựng Nhà nước ta hiện nay.
Bài làm
Vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách
mạng. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã phải

tìm tòi, giải quyết hàng loạt vấn đề về đường lối chiến lược của
cách mạng, về giành chính quyền và giữ chính quyền. Vấn đề dặt
ra là sau khi lật đổ được ách thống trị của thực dân và phong kiến
tay sai, lập nên chính quyền của dân, chính quyền đó cần được
xây dựng như thế nào để thực sự là chính quyền của dân, do dân
và vì dân ? Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân là một trong những nội dung tư tưởng cơ
bản, hình thành khó sớm trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh,
ngay cả trước khi người tiếp thu được chủ nghĩa Mác-Lênin và trở
thành người cộng sản. Chính vì vậy ngay sau khi nước ta giành
độc lập, Hồ Chí Minh đã chĩ rõ :
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
1
ấm no, tự do, hạnh phúc, dân chủ, công bằng cho mọi người
thì phải đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga.
Như vậy trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà
nước – pháp luật của dân, do dân, vì dân có những nội dung cơ
bản như thế nào?
Qua khảo sát, rút kinh nghiệm các kiểu Nhà nước tiêu biểu
trên thế giới và căn cứ vào thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh đã điều
chỉnh và hoàn thiện tư duy về sự lựa chọn một hình thức Nhà nước
phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Từ mô hình phác họa lúc theo kiểu
Nhà nước Xô viết công-nông-binh (trong tác phẩm Đường cách
mệnh, Chính cương vắn tắt, … ), Hồ Chí Minh chính thức xác lập
Nhà nước dân chủ nhân dân sau thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám 1945. Thực chất, đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Nhà nước của dân được thể hiện :Cơ quan quyền lực Nhà
nước từ Trung ương cho đến địa phương đều do nhân dân trực tiếp

hay gián tiếp bầu ra. Mọi quyền lực, quyền hành đều thuộc về nhân
dân. Đội ngũ công chức trong bộ máy Nhà nước là con em của nhân
dân, do nhân dân lựa chọn cử ra và toàn bộ hệ thống Nhà nước cũng
như mọi hoạt động của công chức đều phải chịu sự kiểm tra và giám
sát của nhân dân. Đồng thời « Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu
quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra
không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân ».
Cho nên muốn làm được như vậy, từ cơ quan Nhà nước cho đến
từng công chức, viên chức phải hết sức lắng nghe ý kiến, nguyện
vọng của nhân dân; đi sâu, đi sát quần chúng nhân dân và chịu sự
kiểm tra, giám sát của nhân dân, thật sự là những công
3
11
Công việc đổi mới, xây dựng là công việc của dân …
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.”
Để làm rõ luận điểm trên của Hồ Chí Minh, chúng ta lần
lượt phân tích những nội dung sau đây :
Xuất phát từ thực trạng bộ máy Nhà nước của chế độ thực
dân phong kiến, đồng thời qua cuộc khảo sát, nghiên cứu rất công
phu của Nguyễn Ái Quốc đến gần 30 nước trên thế giới, trong đó có
vấn đề nghiên cứu các kiểu Nhà nước của các cuộc cách mạng điển
hình (Mỹ, Pháp, Nga …) đã giúp Người có thêm thực tế để so sánh
và lựa chọn một kiểu Nhà nước – pháp luật hoàn thiện và tiến bộ
nhất trong lịch sử. Hồ Chí Minh đã phê phán các cuộc cách mạng tư
sản Mỹ, Pháp, … tuy có đạt được những thành tựu nhất định và tiến
bộ hơn các kiểu nhà nước thời nô lệ, phong kiến, nhưng đó vẫn là
những cuộc cách mạng “không đến nơi” vì chính quyền Nhà nước
thật sự không phải của số đông nhân dân, của người lao động, mà
chỉ là một bộ máy của thiểu số giai cấp thống trị, bóc lột.
Trong các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới xảy ra từ

thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh chỉ thấy duy nhất có
cuộc cách mạng Tháng Mười Nga (1917) là thành công đến nơi.
Cuộc cách mạng đó chẳng những xóa bỏ hoàn toàn chế độ phong
kiến và giai cấp tư sản phản động, “biến người nô lệ thành người tự
do”, mà còn thiết lập được chế độ dân chủ vô sản và đưa đất nước
phát triển theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản.
Vì vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cách mạng Việt Nam muốn thắng
lợi hoàn toàn, nhân dân được giải phóng thật sự và đem lại
2
bộc, “đầy tớ trung thành” của nhân dân, kiên quyết chống lại
thói quan liêu, cửa quyền “đứng trên nhân dân, đè đầu cưỡi cổ dân”.
Mọi quyết định, mọi việc làm của cơ quan Nhà nước và của
đội ngũ cán bộ công chức trái với lợi ích cơ bản và nguyện vọng
chính đáng của đông đảo quần chúng nhân dân đều trái với bản chất
và tính chất Nhà nước của dân.
Nhà nước do dân tức là, Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra
những đại biểu của mình và được nhân dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng
thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động. Đồng thời được nhân dân phê
bình, xây dựng. Do đó tất các cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân
dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự
kiểm sót của nhân dân. Chính vì vậy mọi quyết định của Nhà nước
có liên quan đến sự sinh tồn và lợi ích của nhân dân phải được đông
đảo quần chúng nhân dân tham gia bàn bạc, thảo luận và quyết
định.
Như vậy, nhân dân không chỉ là người trực tiếp xây dựng bộ
máy Nhà nước, góp ý kiến quyết định các chủ trương, chính sách,
pháp luật của Nhà nước mà còn là người trực tiếp hoặc gián tiếp
tham gia quản lý xã hội, quản lý Nhà nước. Nhà nước phải biết
“Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân … Chính phủ chỉ

giúp kế hoạch cổ động”, chứ không phải bao cấp, làm thay dân để
dân ỷ lại, chờ đợi. Để làm được điều đó, đương nhiên cần phải có
một cơ chế, một hệ thống thể chế – luật hóa – quá trình Nhà nước
thể hiện là cơ quan quyền lực của dân và nhân dân tham gia xây
dựng Nhà nước của mình.
12
Nhà nước vì dân tức là, bản chất Nhà nước của giai cấp
công nhân mang tính chất nhân dân sâu sắc còn được biểu hiện cụ
thể bằng mọi hoạt động, mọi việc làm của Nhà nước đều phải vì lợi
ích của nhân dân. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chúng ta tranh được tự
do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng
không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà
dân được ăn no, mặc đủ”. Và Người nhấn mạnh: “Chúng ta phải
thực hiện ngay:
Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành”.
Để làm được những việc to lớn, nặng nề và đầy khó khăn ấy,
Hồ Chí Minh đòi hỏi Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân cho
đến các công chức, những nhà lãnh đạo của dân không chỉ lo toan
những vấn đề quốc gia đại sự, lo đối nội và đối ngoại vì mục tiêu
ích quốc, lợi dân mà còn phải chăm lo cho dân từ cái kim sợi chỉ
đến chuyện tương, cà, mắm, muối hàng ngày của nhân dân. Vì vậy,
Hồ Chí Minh đòi hỏi: “… chính sách của Đảng và Chính phủ là
phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói,
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có
lỗi”. Từ đó Hồ Chí Minh yêu cầu:
“… Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan
tâm đến đời sống của nhân dân. Phải lãnh đạo tổ chức

phải luôn luôn nêu cao và thực hành cần – kiệm – liêm –
chính, chí công vô tư.
Công chức cách mạng khác với các loại công chức xưa kia là
họ có vốn lý luận chính trị của chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối,
chính sách của Đảng Cộng sản làm nền tảng. Họ không chỉ cần
vững vàng về chính trị, tư tưởng mà còn phải giỏi về chuyên môn,
nghiệp vụ, dùng được ngoại ngữ (thành thạo một vài thứ tiếng như
Trung Quốc, Pháp, Anh, Nga …), và có sức khỏe tốt.
Đó cũng là những chuẩn mực cơ bản của việc xây dựng đội
ngũ công chức được Hồ Chí Minh xác định khá sớm qua các sắc
lệnh do Người ký được công bố từ những năm 1948-1950. Những
chuẩn mực đó còn là cơ sở để xây dựng các ngạch bậc công chức
gắn liền với chế độ lương và phụ cấp trách nhiệm cho từng loại
ngành nghề sau này.
Làm được như vậy, bộ máy Nhà nước của dân, do dân, vì
dân sẽ có một đội ngũ công chức, cán bộ vừa hồng vừa chuyên như
Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ ra.
Để thể hiện nhà nước vì dân, Hồ Chí Minh còn chú ý mối
quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân dân với cán bộ nhà nước
là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân thừa ủy quyền.
Là người phục vụ, nhưng cán bộ nhà nước đồng thời là người lãnh
đạo, hướng dẫn nhân dân. "Nếu không có nhân dân thì chính phủ
không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì nhân dân không ai
dẫn đường". Cán bộ là đày tớ của nhân dân là phải trung thành, tận
tụy, cần kiệm liêm chính , là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn
người, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với dân, trọng dụng
hiền tài Cán bộ phải vừa hồng vừa chuyên.
5 7
13
Như vậy làm thế nào để không ngừng hoàn thiện Nhà nước

của dân, do dân và vì dân. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh với những vấn đề mang tính cấp
bách và đột phá như sau :
Một là, không ngừng phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thật sự tôn trọng quyền làm
chủ của nhân dân.
Qua thực tế hơn 25 đổi mới, Đảng ta đã chỉ ra rằng nơi nào
thực hiện được dân chủ, phát huy được trí tuệ của đông đảo cán bộ
và nhân dân thì nhất định thành công. Ngược lại, nơi nào để mất
dân chủ, gây ra sự bất mãn trong quần chúng thì nơi đó không tránh
khỏi khó khăn và dẫn tới những hậu quả đáng tiếc. Do đó để thoát
khỏi tình trạng kém phát triển của nền kinh tế trong điều kiện cạnh
tranh quốc tế quyết liệt hiện nay, chúng ta phải « phát huy cao độ
nội lực của dân tộc », mà một trong những nhân tố cơ bản làm nên
nội lực là phát huy dân chủ thật sự.
Muốn vậy, phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân
dân. Phải tạo điều kiện vật chât và văn hoá để người dân nâng cao
năng lực làm chủ. Phát huy dân chủ phải kết hợp chặt chẽ với tăng
cường pháp chế, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp
luật.
Hoàn thiện thể chế hoá bằng pháp luật các quyền dân chủ của người
dân trên các lĩnh vực nhất là hoạt động kinh tế. Đồng thời đẩy mạnh
cuộc đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, đảm bảo thực thi
pháp luật nghiêm minh đem lại niềm tin cho
giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Dân đủ ăn
đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ dễ
dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù
hay mấy cũng không thực hiện được”.
Quan điểm của Nhà nước vì dân của Hồ Chí Minh đặt ra một
trọng trách cực kỳ to lớn và nặng nề đối với hệ thống Nhà nước và

đội ngũ công chức, viên chức của ta. Không hoàn thành được trọng
trách đó, chẳng những Nhà nước ta không giữ được các danh hiệu
vẻ vang của dân, do dân, vì dân, mà còn sẽ không được sự đồng
tình, ủng hộ của chính những người chủ đã bầu ra nó là nhân dân.
Mọi hoạt động của cơ quan Nhà nước cũng như của đội ngũ công
chức đều phải vì lợi ích của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân,
Nhà nước ta không có lợi ích nào khác. Vì vậy, “việc gì có lợi cho
dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Xây dựng đội ngũ công chức thật sự là những “đầy tờ”
trung thành của nhân dân để có đội ngũ công chức thật sự là những
“công bộc” của dân chứ không phải là những “quan cách mạng”,
những “cường hào mới” áp bức, đè đầu dân, Hồ Chí Minh có những
đòi hỏi rất nghiêm khắc.
Những cán bộ, công chức Nhà nước cách mạng trước hết phải một
lòng, một dạ, toàn tâm, toàn ý, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ quốc, ra sức hoàn thành tốt nhất những nhiệm vụ được
giao. Muốn vậy, đội ngũ công chức và mỗi cán bộ
8 6
Trong thực tế hiện nay, tuy ở các cấp trên, nhiều nơi còn
bộc lộ không ít mặt yếu kém, bất cập, nhưng nhìn chung cấp cơ
sở xã, phường đang bộc lộ nhiều yếu kém nhất. Không quan
tâm củng cố, tăng cường thích đáng sức mạnh của chính quyền
cơ sở sẽ làm cho cái “nền” của Nhà nước ta thiếu vững chắc.
Tình trạng một bộ phận công chức, viên chức yếu kém,
bất cập, thậm chí thoái hóa, biến chất, tiêu cực, mắc vào các tệ
nạn tham nhũng, tham ô, buôn lậu, quan liêu, hách dòch, mất
dân chủ, ăn chơi trác táng, sống sa đọa … cần phải được kiên
quyết đấu tranh, ngăn chặn và xóa bỏ.
Tóm lại, kể từ sau khi cách mạng Tháng Tám thành cơng,
chính quyền về tay nhân dân đến nay, đảng ta đã có kinh nghiệm

14
nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật và hiệu quả,
hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước ta.
Hai là, tăng cường cơng tác cải cách và kiện tồn bộ máy
hành chính nhà nước, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp
luật một cách có nề nếp.
Hiện nay, Nhà nước ta đã xây dựng, công bố và cho thi
hành hàng chục đạo luật và các văn bản dưới luật. Nhưng do
trình độ, kinh nghiệm làm luật ở nước ta còn hạn chế, hơn nữa
thực tiễn cuộc sống lại phát triển, biến đổi rất mạnh cho nên
nhiều đạo luật tuy mới ban hành cũng đã sớm bộc lộ những
khiếm khuyết, bất cập ở điều này, điều nọ. Do đó, việc sửa đổi,
bổ sung đối với những đạo luật đã trở thành công việc thường
xuyên. Đó không chỉ là công việc của riêng Quốc hội mà của
toàn dân, của các ngành, các cấp, trước hết là các cơ quan chức
năng.
Trong khi đó, đất nước ta cũng còn thiếu những đạo luật
và thể chế nhằm bảo đảm cho quá trình quản lý, phát triển, thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và yêu cầu mở cửa hội nhập
quốc tế. Vì thế, tiếp tục xây dựng, công bố các đạo luật mới để
ngày càng hoàn thiện hệ thống luật pháp là đòi hỏi khẩn trương
không thể chậm trễ.
Nhưng điều có ý nghóa quyết đònh nhất là khi đã có luật pháp thì
việc tổ chức, hướng dẫn thi hành, vận động, giáo dục
9 11
hơn nửa thế kỷ xây dựng và lãnh đạo nhà nuớc. Tuy nhiên sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đang đứng trước
những cơ hội và thách thức chưa từng có. Trước tình hình đó nếu
khơng có một nhà nuớc thực sự trong sạch vững mạnh, hoạt động

có hiệu quả, hiêu lực, tranh thủ nắm lấy vận hội, đưa dất nước
vựot qua nguy cơ, thách thức thì chủ nghĩa xã hội sẽ khơng có mà
độc lập dân tộc dân tộc cũng khó giữ vững được. Những chỉ dẫn
trên đây của Hồ Chí Minh, trong bối cảnh và tình hình hiện nay
càng trở nên có ý nghóa nóng hổi hơn bao giờ hết. Vì chỉ khi
nào đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững vàng (cả về
phẩm chất, năng lực và tác phong làm việc) thì mới tạo nên
được bộ máy Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực sự vững
mạnh. /.
15
phổ cập trong nhân dân để mọi người có ý thức chấp hành
pháp luật đang là một vấn đề còn yếu kém, khuyết điểm hiện
nay.
Đi đôi với việc tuyên truyền, giáo dục các tầng lớp nhân
dân tự giác sống, làm việc, học tập, hoạt động theo hiến pháp và
pháp luật, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý,
trừng phạt những nơi, những người cố tình không chấp hành pháp
luật, kỷ cương.
Ba là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước; gắn liền xây dụng, chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy
hành chính, đấu tranh làm trong sạch, vững mạnh bộ máy Nhà
nước.
Tiếp tục củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức, bộ máy và
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức Nhà nước theo yêu cầu
chuẩn hóa. Việc xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy gọn nhẹ, có
hiệu lực, hiệu quả cao trong hoạt động thực tiễn đang là một đòi
hỏi khách quan và bức thiết ma nghò quyết Hội nghò Trung ương
3 khóa VIII đã chỉ ra.
Trong quá trình kiện toàn, củng cố tổ chức bộ máy Nhà
nước, theo Hồ Chí Minh, cần đặc biệt chú ý nâng cao chất lượng

của chính quyền cấp cơ sở (xã, phường). Người nói: “Cấp xã là
gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm
được việc thì mọi công việc đều xong xuôi”.
10
16
Câu số 4: Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công.”
Phân tích và chứng minh luận điểm ấy của người. Vận
dụng vào giai đoạn hiện nay và nêu rõ những quan điểm của Đảng
trong xây dựng củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bài làm
Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng nhưng cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng, không phải là công việc của một số
người, của riêng Đảng Cộng Sản. Đảng lãng đạo để nhân dân đứng
lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng xã hội mới do mình làm
chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh của cả
dân tộc, bằng đại đoàn kết dân tộc. Theo quan điểm của Hồ Chí
Minh, đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quan trọng
nhất bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người nhấn
mạnh:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công.”
Tư tưởng HCM về ĐĐK là một hệ thống những luận
điểm, những nguyên tắc, những phương pháp giáo dục và tập
hợp tổ chức lực lượng cách mạng, nhằm phát huy đến mức cao
nhất sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại vào sự
nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và CNXH.
Đoàn kết là truyền thống quí báu, là sức mạnh vô địch của dân

tộc ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Vì vậy, tư
1
ĐĐK. Thành công, thành công, đại thành công”, ở đây
muốn nói lên phạm vi và đối tượng ĐĐK rất rộng, nhiều tầng,
nhiều lớp.
Đối với Đảng, thì việc đoàn kết trong Đảng là nhân tố hạt
nhân của mọi sự đoàn kết, vì Đảng là người lãnh đạo toàn diện,
chỉ có đoàn kết nhất trí cao trong Đảng thì mới có thể tập hợp
đoàn kết các tầng lớp khác. Đây là một quan điểm luôn được
HCM quan tâm và đã khắc ghi trong di chúc thiêng liêng của
Người “Đoàn kết là cực kỳ quí báu của Đảng ta. Các đồng chí từ
TW đến cơ sở phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ
gìn con ngươi của mắt mình”.
Đoàn kết trong nước (toàn dân) là nhân tố quyết định thắng
lợi của cách mạng, đoàn kết toàn dân là đoàn kết tất cả những
người Việt Nam yêu nước, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, đảng
phái, lứa tuổi… thể hiện trong đường lối tập hợp lực lượng, xác
định lực lượng cách mạng rất rộng rãi, bao gồm không chỉ nhân
dân, công nhân, nông dân mà còn cả tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, phú nông, trung địa chủ, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc được
biểu hiện thông qua lời kêu gọi toàn dân (đặc biệt là lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến).
Tư tưởng đoàn kết quốc tế được HCM rất coi trọng, mặc dù yếu tố
nội lực là chính, nhưng cũng phải đoàn kết với phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và đoàn
kết với phong trào hòa bình, dân chủ thế giới. Bởi vì trong thời
đại mới, kẻ thù mang tính quốc tế, cách mạng mỗi nước là một bộ
phận hữu cơ của cách mạng thế giới, cho nên
3
17

tưởng ĐĐK là nội dung xuyên suốt và nhất quán trong
toàn bộ hệ thống tư tưởng HCM nói chung và là cơ sở cho chiến
lược của Đảng ta, nhờ đó mà đã dẫn tới những thành công của
cách mạng Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ và
XHCN.
Tư tưởng HCM về ĐĐK được hình thành trên cơ sở truyền
thống đoàn kết, nhân ái, tình cảm trong lối sống tự nhiên và triết
lý nhân sinh của người Việt Nam. Đoàn kết dựa vào dân là tư duy
chính trị và là kế sách giữ nước của ông cha ta (biểu hiện trong
thơ ca văn học), và HCM đã kế thừa có chọn lọc những tư tưởng
văn hóa của phương đông có giá trị hợp lý như: tư tưởng nhân ái,
tư tưởng đại đồng, tinh thần từ bi bác ái và những trào lưu dân
chủ tư sản phương tây về tư tưởng tự do bình đẳng, bác ái. Mặt
khác HCM tiếp thu và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin về đoàn kết và tập hợp lực lượng.
Người đã thấm nhuần quan điểm cách mạng của Mác: cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch
sử, cho nên cách mạng muốn mạnh phải đoàn kết các dân tộc, các
giai cấp và các tầng lớp khác thành lực lượng hùng mạnh để
chống thực dân đế quốc và áp bức bất công. Những quan điểm
này được đúc kết thành các khẩu hiệu trong phong trào cộng sản
như “GCVS và các dân tộc bị áp bức trên thế giới đoàn kết lại”.
Tư tưởng HCM về ĐĐK định hướng cho việc xây dựng
củng cố, mở rộng, tăng cường lực lượng cách mạng trong sự
nghiệp đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng XH, giải
phóng con người. Đoàn kết là truyền thống quí báu của dân tộc
ta, đã được HCM nâng lên tầm cao mới “Đoàn kết, đoàn kết,
2
lực lượng cách mạng không thể là một lực lượng của một
dân tộc mà là phải có lực lượng to lớn của quốc tế đồng tình ủng

hộ.
Tư tưởng HCM về ĐĐK được xây dựng trên cơ sở nguyên
tắc bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc và những quyền lợi cơ bản
của nhân dân lao động. Trong XH, dân tộc và quốc tế có rất nhiều
mối quan hệ lợi ích chồng chéo: giữa cá nhân và tập thể, giữa gia
đình và XH, giữa bộ phận và toàn thể, giữa giai cấp và dân tộc,
giữa quốc gia và quốc tế. Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối
quan hệ lợi ích này sẽ dẫn đến có đoàn kết hay không đoàn kết.
Giải quyết đúng mối quan hệ dân tộc, giai cấp HCM phát huy
những điểm tương đồng để tập hợp lực lượng cách mạng và khắc
phục những hạn chế, những điểm khác biệt và mâu thuẫn giữa
các quốc gia và các bộ phận. Tư tưởng ĐĐK HCM dựa vào dân,
tin tưởng vào dân, vai trò và khả năng cách mạng của nhân dân,
trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân, cho nên Đảng và Nhà nước ta phải dựa vào dân, phải lấy dân
làm gốc và coi nhân dân là mục tiêu của đường lối chủ trương
chính sách của Đảng. Tư tưởng HCM về ĐĐK toàn dân được xây
dựng trên nguyên tắc lấy liên minh công, nông, trí thức làm nền
tảng dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì nó đảm bảo tính giai cấp của
khối ĐĐK, bảo đảm lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt. Liên minh
công nông còn là xương sống của khối ĐĐK, nhằm đảm bảo
vững chắc của khối ĐĐK dân tộc.
Khối ĐĐK của chúng ta là một tập hợp các lực lượng XH có định
hướng chính trị rõ rệt và có tổ chức chặt chẽ, tổ
18
chức cao nhất là mặt trận dân tộc thống nhất có sự lãnh
đạo của Đảng CS Việt Nam, nó vừa là vấn đề lâu dài và chiến
lược, nhưng cũng không được tuyệt đối hóa vai trò liên minh và
mặt trận.

Tư tưởng HCM về ĐĐK được xây dựng trên các ph.pháp
cụ thể sau:
Một là, Phương pháp tuyên truyền giáo dục và vận động
quần chúng: yêu cầu phương pháp này là nội dung, cách thức
tuyên truyền, giáo dục và vận động quần chúng phải thật sự khoa
học nhằm mục đích làm cho mọi người tự nhận thức được sự cần
thiết phải tập hợp lại, đoàn kết lại để tự giác tham gia gánh vác
công việc của cách mạng. Vì muốn cho dân làm cách mạng phải
cho dân hiểu, dân tin và vận động quần chúng thì phải nói đi, nói
lại nhiều lần. Nội dung tuyên truyền phải cụ thể hóa đường lối
chính sách của Đảng và của Nhà nước thành những mục tiêu
chính trị cụ thể để đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, nội dung
phải sát hợp đối tượng nhằm đánh vào tâm lý thói quen, công
việc tuyên truyền phải thích hợp, cách nói và cách viết phải cụ
thể làm cho nhân dân dễ hiểu.
Hai là, Phương pháp XD và kiện toàn hệ thống chính trị tức là
xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất từ thấp đến cao phù hợp
với trình độ của quần chúng nhân dân. Mặt trận là tổ chức rộng
rãi liên quan đến việc tập hợp, đoàn kết dân tộc. Do vậy mặt trận
dân tộc càng rộng rãi, chặt chẽ, thống nhất bao nhiêu thì khối
ĐĐK mạnh mẽ và bền chặt bấy nhiêu, mặt trận và các đoàn thể
phải có cương lĩnh, có ch.trình hành động rõ ràng đáp ứng yêu
cầu và nguyện vọng của nh.dân, cán bộ đoàn
HCM về ĐĐK thì khi đó, nơi đó cách mạng gặp nhiều khó
khăn, tổn thất. Đại hội X của Đảng ta nhận định:
“Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được
phát huy, gắn với thực hiện tự do, dân chủ theo pháp luật đã động
viên các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài chung sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp, tôn giáo và các

tổ chức xã hội khác với nhiều hình thức đa dạng, phong phú đã góp
phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội.
Toàn xã hội đã phát huy tinh thần tương thân tương ái, ý
thức cộng đồng, nhường cơm sẻ áo, tích cực tham gia khắc phục
thiên tai, giúp đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn, nạn nhân chất độc da cam và chăm lo cải thiện đời sống
của đồng bào dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới, hải đảo” (VKĐH X, NXB.CTQG, H.2006, tr.159, 160).
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta tiếp tục thể hiện sâu sắc tư tưởng
HCM về ĐĐK. Đại hội X của Đảng ta xác định:
“Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh
đạo của Đảng là đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng
Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý
nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
5 7
19
Đại đoàn kết toàn dân tộc cần lấy mục tiêu giữ vững độc
lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào
các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và
đồng bào ta định cư ở nước ngoài; xoá bỏ mọi mặc cảm, định kiến,
phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; tôn trọng những
ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc; đề cao truyền
thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy
lẫn nhau, giữ gìn sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội vì
tương lai tươi sáng của dân tộc.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống

chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện
bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu. Các chính sách và pháp luật của Nhà nước phải nhằm
phát huy mạnh mẽ hơn nữa dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực
tiếp và chế độ tự quản của cộng đồng dân cư) đồng thời giữ vững
kỷ cương xã hội và đạo lý dân tộc.
Cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các chính sách cụ thể đối
với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo; chú trọng
chính sách đối với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ
trí thức, các doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người
cao tuổi, đồng bào định cư ở nước ngoài.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan
trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp
nhân dân; đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện
thể phải gương mẫu, phải yêu dân, tin dân, học hỏi nhân
dân và kính trọng nhân dân.
Ba là, Phương pháp kế hoạch đồng bộ các giải pháp ứng
xử nhằm mở rộng tối đa lực lượng cách mạng và thu hẹp tối đa
lực lượng đối địch. Theo HCM, chia lực lượng thành ba tuyến
(tuyến cách mạng, tuyến trung gian và tuyến phản cách mạng).
Đối với lực lượng cách mạng phải phát huy điểm tương đồng để
tập hợp lực lượng; đối với lực lượng trung gian phải khơi gợi
lòng yêu nước, xóa bỏ mặc cảm, hợp tác và trọng dụng họ một
cách trung thành; đối với lực lượng phản cách mạng phải chia rẽ,
phải phân tán họ để thu hút những bộ phận nào có thể thu hút
được.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam 80 năm qua thể hiện sức
sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng HCM về ĐĐK. Từ

chỗ là tư tưởng của lãnh tụ kính yêu trở thành chiến lược ĐĐK
của Đảng và trở thành tình cảm, sức mạnh của cả dân tộc. Sức
mạnh đó là nguồn gốc sâu xa của thắng lợi trong cách mạng
Tháng 8 năm 1945, kháng chiến chống Pháp (1945-1954), chống
Mỹ cứu nước (1954-1975)
Bước vào c.cuộc đổi mới, ĐCS Việt Nam ngày càng nhận
thức đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn của tư tưởng
HCM về ĐĐK.
Đặc biệt là hơn 20 năm đổi mới vừa qua càng cho phép Đảng và
nhân dân ta nhận thức rõ ràng, lúc nào, nơi nào tư tưởng HCM về
ĐĐK được thực hiện đúng, thì khi đó, nơi đó cách mạng phát triển
mạnh mẽ thuận lợi; lúc nào, nơi nào xa rời tư tưởng
8 6
20
vọng chính đáng của nhân dân; đưa các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hoá, xã
hội, an ninh, quốc phòng thành hoạt động thực tiễn sinh động trong
cuộc sống của nhân dân”. (VKĐH X, NXB.CTQG, H.2006, tr.40,
41, 42, 43).
Tóm lại, hiện nay, chúng ta đang đứng trước những vận hội
mới đồng thời cũng có những thách thức mới. Những vận hội và
thách thức đó tác động hàng ngày hàng giờ đến khối ĐĐK dân tộc.
Để tiến lên chúng ta chỉ có con đường là phải kiên trì, vững vàng,
quán triệt và thực hiện tư tưởng HCM về ĐĐK, đồng thời chúng ta
cũng phải đổi mới, phát triển những nội dung, phương pháp ĐĐK
cho phù hợp với sự vận động, biến đổi của đời sống KT XH trong
nước và thế giới. Kế thừa, phát triển tư tưởng HCM về ĐĐK trong
sự nghiệp đổi mới đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc toàn diện
tất cả các vấn đề chính trị, KT, XH và quốc tế. Trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước cần luôn luôn quán

triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng HCM về ĐĐK.
9
21
Câu số 5: Phân tích quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Cái gốc của văn hóa mới là dân tộc”. Liên hệ, vận dụng vào việc
xây dựng nền văn hóa mới trong giai đoạn hiện nay.
Bài làm
Chủ tịch HCM, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộ Việt Nam
Người vừa là nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, nhà quân sự
thiên tài, vùa là nhà văn hoá lớn. Trong tư tưởng của Người,
tư tưởng về văn hoá chiếm một vị trí quan trọng. Để đánh giá
và ghi nhận công lao to lớn củ Người đối với dân tộc Vịât
Nam và nhân loại, năm 1987, Tổ chức Giáo dục, khoa học và
nhân văn của Liên hợp quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết tất
cả các quốc gia kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người. Nghị
quyết công nhận: “ Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị anh hùng
giải phóng của dân tộc Việt Nam và là một nhà văn hoá
lớn” và khẳng định: “sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt
của Chủ tịch HCM trong các lĩnh vực VH, giáo dục và nghệ
thuật là kết tinh của truyền thống VH hàng ngàn năm của
nhân dân VN và những tư tưởng của Người là hiện thân của
những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản
sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu
biết lẫn nhau”.
Vậy tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá có những nội
dung như thế nào? Chúng ta sẽ lần lượt trình bày và làm rõ
các vấn đề như sau:
Nói đến VH trong tư tưởng HCM, đó là sự hài hòa của tinh hoa
VH dân tộc và VH nhân loại. HCM là biểu hiện cao nhất của
1

để giải phóng chính trị, giải phóng XH, từ đó giải phóng VH,
mở đường cho VH phát triển. Xây dựng KT để tạo điều kiện cho việc
xây dựng và phát triển VH. HCM đã chỉ rõ: KT thuộc về cơ sở hạ
tầng, còn VH thuộc về kiến trúc thượng tầng. Từ đó Người nêu ra
luận điểm phải xây dựng KT, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện
xây dựng và phát triển VH. Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực
được đạo, vì thế phải phát triển KT trước mới có điều kiện và cơ sở
để phát triển nền VH. VH không thể đứng ngòai, mà phải ở trong
KT và CT. Điều này có nghĩa là VH phải phục vụ nhiệm vụ CT, thúc
đẩy xây dựng và phát triển KT, tác động tích cực trở lại đối với KT
và CT, như một động lực hết sức quan trọng. Chủ tịch HCM đã
khẳng định: "VH, nghệ thuật cũng như mọi họat động khác, không
thể đứng ngòai, mà phải ở trong KT và CT". Quan điểm này của
HCM đã định hướng cho mọi họat động VH, động viên giới VH văn
nghệ trong suốt hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta, cũng
như trong sự nghiệp xây dựng CNXH hiện nay ở nước ta.
Theo HCM, VH còn là động lực, mục tiêu của sự nghiệp cách
mạng. Độc lập dân tộc mang lại giá trị đích thực cho VH, xây dựng
CNXH là phải có nền VH tiên tiến, “VH soi đường cho quốc dân
đi”, phải đem VH lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường,
tự chủ.
Trong lĩnh vực VH, Người là người chiến sĩ tiên phong, đặt nền tảng
cho nền văn học - nghệ thuật, báo chí cách mạng, đấu tranh cho độc
lập dân tộc và lẽ phải trên trái đất, sự đóng góp của Người về VH rất
phong phú và đa dạng, thấm đượm trong toàn bộ cuộc đời và sự
nghiệp của Người, được tỏa sáng trong từng việc
3
22
chủ nghĩa yêu nước VN, là thể hiện tập trung cốt cách tâm
hồn VN, thể hiện cái khí thế xông lên của dân tộc ta, cái hồn thiêng

sông núi VN. Tư tưởng về VH của HCM là cách cảm, cách nghĩ,
cách nói của Người luôn thể hiện cách cảm, cách nghĩ, cách nói của
dân tộc VN.
HCM định nghĩa về văn hoá: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc,
ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hoá. VH là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lòai người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của
sự sinh tồn".
HCM khẳng định: VH là một mặt trong toàn bộ đời sống XH, vì
vậy trong công cuộc kiến thiết nước nhà, bốn vấn đề CT, KT, XH,
VH phải được chú trọng ngang nhau. Đồng thời trong mối quan hệ
của bốn thành tố trên, HCM chỉ rõ vai trò quyết định của chính trị
và kinh tế đối với sự phát triển của VH. Chính trị, XH có được giải
phóng thì VH mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường
cho VH phát triển. Khi dân tộc, đất nước còn bị nô lệ thì VH cũng
cùng chung số phận nô lệ đó, tuyệt đại bộ phận nhân dân bị đầy đọa
trong vòng tối tăm, dốt nát. Người viết: "XH thế nào, VH thế ấy.
Văn nghệ của dân tộc ta vốn rất phong phú, nhưng dưới chế độ thực
dân và phong kiến nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ,
bị tồi tàn, không thể phát triển được". Vì vậy, theo HCM, phải tiến
hành CM chính trị trước
2
làm, từng cử chỉ, từng mối quan hệ với đồng chí, đồng bào
và bạn bè quốc tế. Người còn là nhà nhà giáo dục vĩ đại, Người đã
sáng lập và rèn luyện đảng cộng sản VN trở thành một đảng cách
mạng chân chính, là người thầy, người cha thân yêu của lực lượng

vũ trang. Người đã đào tạo nhiều thế hệ cán bộ cách mạng, xả thân
vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, đào tạo ra nhiều
nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, nhiều nhà quân sự tài ba. HCM là
người đặt nền tảng cho nền giáo dục mới VN, đưa nó đi theo
phương châm dân tộc, khoa học và đại chúng, kết hợp khoa học với
thực tiễn.
Một trong những nội dung cơ bản của tư tưởng HCM về VH là xây
dựng nền VH mới VN. Bởi vì, Người xác định, VH có vị trí quan
trọng trong cuộc sống của con người. Đó là toàn bộ những giá trị về
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực
tiễn lịch sử của mình. Theo tư tưởng HCM, yêu nước là nấc thang
giá trị cao nhất của dân tộc VN và của nền VH VN. Kế tục phẩm
chất bền vững đó của VH dân tộc trong quá khứ, nền VH mới phải
tiếp tục phát triển với những đặc trưng mới. Đó chính là sự gắn bó
mật thiết và trở thành một bộ phận của sự nghiệp CM, là sự hài hòa
giữa lý tưởng độc lập dân tộc với lý tưởng XHCN trong nền VH đó,
trở thành nội dung cốt lõi của nó trong thời đại mới. Như vậy, chứa
đựng trong nền VH mới của VN ta, theo tư tưởng HCM là những
giá trị bền vững, cao quý và những tinh hoa của VH và truyền thống
dân tộc cùng với những giá trị mới được xây đắp và phát triển trong
thời kỳ hiện đại của dân tộc ta. Có nghĩa là xây dựng một nền VH
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Về phẩm chất dân tộc, đậm đà
bản sắc dân tộc
23
của nền VH mới VN, trước là nền VH đó có gốc rễ từ dân
tộc VN, mang tâm hồn, diện mạo, đặc tính và cốt cách dân tộc VN.
HCM cho rằng VH là linh hồn là bản sắc của dân tộc, hệ thống giá
trị tinh thần của mỗi dân tộc hình thành nên bản sắc của mỗi dân
tộc. VH thực chất là cái để phân biệt dân tộc này đối với dân tộc
khác. HCM đã dạy rằng: phải giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc,

lấy VH xưa để bồi đắp cho VH nay, cho nên phải phục hồi vốn cũ
của dân tộc. Người giáo dục: “dân tộc ta phải biết sử ta, cho tường
gốc tích nước nhà VN”. CT HCM thường ân cần nhắc nhở chúng ta
phải giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản sắc VH tốt đẹp
ấy của dân tộc. Người khẳng định, VH phải “lột cho hết tinh thần
dân tộc”, “phát huy cốt cách dân tộc”… không chỉ ở chiều sâu của
nội dung VH mà còn thể hiện đậm đà trong các hình thức, phương
thức biểu hiện nội dung đó.
Trong tư tưởng HCM về VH, nói giữ gìn và phát huy bản sắc dân
tộc không đồng nghĩa với dân tộc hẹp hòi, đóng cửa khép kín và
cùng hòan toàn xa lạ với kiểu bắt chước, học đòi, lai căng để đánh
mất đi cái độc đáo, cái đặc trưng của dân tộc mình; đừng biến
chúng ta thành kẻ bắt chước và kẻ “vay mà không trả”. Mà phải biết
kế thừa phát huy có chọn lọc cái hay, cái tốt của VH thế giới trên cơ
sở phát huy cái gốc của VH dân tộc, kiên quyết phê phán và loại bỏ
những tập tục lạc hậu, cổ hủ, đủ bản lĩnh để mở rộng giao lưu với
thế giới, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cai tốt đẹp, tiến bộ của
VH nhân loại, tỉnh táo chống lại sự xâm nhập của mọi thứ VH độc
hại… “Tây phương, hay Đông phương có cái gì tồt, ta học lấy để
tạo ra một nền VH VN. Nghĩa là lấy kinh
dạng trong cộng đồng dân tộc VN, cho nên cần phát huy và
bảo tồn từng bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc. Phải thấm nhuần
quan điểm xây dựng văn hoá là sự nghiệp của toàn dân trong đó đội
ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo có vai trò quan trọng. Văn hoá là một
mặt trận, xây dựng văn hoá là sự nghiệp cách mạng lâu dài cần phải
có ý chí cách mạng đồng thời phải kiên định và thận trọng, kết hợp
giữa xây với chống và lấy xây làm chính
Trên cơ sở thực trạng VH nước ta mà Hội nghị TW5 (khóa VIII) đã
đánh giá, Hội nghị TW10 (khóa IX) tiếp tục khẳng định giá: VH đã
gắn kết chặt chẽ hơn với các lĩnh vực của đời sống XH, đã góp phần

quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị và tạo nên những
thành tựu về KT, XH, an ninh, quốc phòng, đối ngoại… của đất
nước. Đã có sự tham gia tích cực, tự giác của nhân dân vào các hoạt
động VH, đặc biệt là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống VH” đã tạo được chuyển biến bước đầu và tiền đề rất quan
trọng để VH nước nhà tiế tục phát triển đúng hướng và vững chắc.
Các giá trị VH ngày càng thể hiện rõ hơn vai trò tích cực và khả
năng tác động mạnh vào các lĩnh vực của đời sống. Những nét mới
trong chuẩn mực VH và trong nhân cách con người VN thời kỳ
CNH, HĐH từng bước được hình thành. Tuy nhiên, những thành
tựu và tiến bộ đạt được trong lĩnh vực VH còn chưa tương xứng và
chưa vững chắc, chưa đủ để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh
vực của đời sống XH, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối
sống. Nhiệm vụ xây dựng con người VN trong thời kỳ CNH, HĐH
chưa tạo được chuyển biến rõ rệt. Môi trường VH còn bị ô nhiễm
bởi các tệ nạn XH, còn sự lan tràn các sản phẩm và dịch vụ mê tín
dị đoan, độc hại, thấp
5 7
24
kém, lai căng… Sản phẩm VH và các dịch vụ VH ngày càng
phong phú nhưng vẫn rất thiếu những tác phẩm văn học, nghệ thuật
có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có ảnh hưởng tích cực và
sâu sắc trong đời sống XH. Trong một bộ phận đội ngũ trí thức, văn
nghệ sĩ, những người hoạt động trên lĩnh vực VH, thông tin, báo chí
và xuất bản có những biểu hiện xa rời đời sống, lúng túng trong
định hướng sáng tạo và hoạt động nghiệp vụ, chay theo chủ nghĩa
thực dụng, chiều theo thị hiếu thấp kém đã tạo ra một số sản phẩm
VH chất lượng thấp, thậm chí sai trái, phản động. Đời sống VH –
tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào các dân tộc thiểu số còn nghèo nàn, thiếu thốn, lạc

hậu.
Hiện nay, sự phát triển toàn diện của đất nước đòi hỏi phải
tiếp tục phát triển nền VH tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tương
ứng và đồng bộ với sự phát triển KT-XH; đáp ứng ngày càng tốt
hơn yêu cầu phát triển của XH và con người trong điểu kiện mới.
Do đó Đại hội X của Đảng xác định:
“Đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hoá đã
được xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2001 - 2010 là "làm cho văn hoá thấm sâu vào từng khu dân cư,
từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người
Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu
tinh hoa văn hoá của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hoá
đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hoá trong mọi hoạt động kinh
tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”.
Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong
nghiệm tốt của VH xưa và VH nay, trau dồi cho VH VN thật
có tinh thần thuần túy VN”.
Trong xây dựng nền VH mới, phải đi đôi với xây dựng con
người mới – con người XHCN. Người dạy “Muốn xây dựng CNXH
trước hết cần có những con người XHCN”. Con người mới là con
người kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, con người có
VH, có đạo đức, trí tuệ, sức khỏe, có năng lực làm chủ bản thân và
làm chủ xã hội. Để có được những phẩm chất ấy, con người mới
cần được học tập, đào tạo để có trình độ nhất định về chuyên môn,
khoa học, đạo đức, pháp luật, Hồ Chủ tịch đã từng dạy chúng ta
“Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Ngoài ra Người còn chỉ rõ “VH phải gắn liền với lao động sản xuất,
VH xà đời sống, xa lao động là VH suông” và “phải làm thế nào
cho VH vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là VH phải sửa

đổi được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa xỉ”. Tức, VH
phải gắn liền đời sống XH, phải có tác dụng cải tạo những thói hư
tật xấu của XH; đồng thời VH tạo được sức mạnh vật chất, tinh thần
thắng ngoại xâm theo tinh thần “văn minh thắng bạo tàn”.
Trong công cuộc đổi mới Đảng ta chủ trương “xây dựng nền
VH VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (NQ TW5, khóa VIII,
năm 1998). Nền VH đó được xây dựng trên cơ sở kiên định CN
Mác-Lênin và tư tưởng HCM với tinh thần chủ đạo là CN yêu nước
VN. Nhấn mạnh vai trò, chức năng quan trọng của VH đối với sự
tồn tại và phát triển XH ngày nay; VH vừa là nền tảng tinh thần,
vừa là mục tiêu và động lực của sự phát triển KTXH. Phải nhận
thức rõ nền văn hoá VN là nền văn hoá thống nhất và đa
8 6
25
đoàn thể tham gia hoạt động văn hoá, nghệ thuật, quản lý và
bảo vệ di tích, di sản văn hoá.
Mở rộng giao lưu văn hoá, thông tin với thế giới. Đổi mới
và tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hoá - thông tin.
Sắp xếp lại hệ thống báo chí”.
(VKĐH X, NXB.CTQG, H.2006, tr.212, 213, 214)
Tóm lại, Tư tưởng của Người về văn hoá là một hệ thống
quan điểm lý luận manh tính khoa học và cách mạng về văn hoá và
xây dựng nền văn hoá nới của Việt Nam được Người chắc lọc, tổng
hợp và kết tinh những giá trị của văn hoá Việt Nam, của phương
Đông và phương Tây, vừa mang tính truyền thống vừa mang tính
hiện đại mà cốt lõi là sự kết hợp Chủ nghĩa Mác-Lê nin với tinh
hoa, bản sắc văn hoá dân tộc. Đó là một trong những di sản quí báu
mà Người để lại cho dân tộc chúng ta và cho nhân loại. Do đó trách
nhiệm của mỗi chúng ta cần phải nghiên cứu, khai thác, vận dụng
những di sản tư tưởng của Người về văn hoá vào nhiệm vụ cụ thể

trên từng lĩnh vực góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, tiến tới xây dựng
thành công CNXH và bảo vệ vững chắt nền độc lập của Tổ quốc,
hạnh phúc của nhân dân./.
điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn
hoá - nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng đời sống văn hoá
tiên tiến, thúc đẩy sáng tạo văn hoá và xây dựng thiết chế văn hoá.
Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hoá lãnh đạo và quản lý, văn hoá
trong kinh doanh và văn hoá trong nhân cách của thanh niên, thiếu
niên; chống những hiện tượng phản văn hoá, phi văn hoá.
Đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn hoá đại chúng, xây
dựng môi trường văn hoá lành mạnh, đi đôi với bồi dưỡng các tài
năng văn hoá, khuyến khích sáng tạo nhiều công trình văn hoá,
nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, tương
xứng với sự nghiệp giữ nước và dựng nước, đổi mới và phát triển
của dân tộc. Nâng cao chất lượng và mở rộng diện phổ biến các
sản phẩm văn hoá đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá ngày càng
cao, đa dạng của các tầng lớp nhân dân.
Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động
thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản và phát hành
sách trên tất cả các vùng, chú ý nhiều hơn đến vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Xúc tiến xã hội hoá các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thông tin
với bước đi thích hợp cho từng loại hình, từng vùng. Huy động các
nguồn lực và sức sáng tạo trong xã hội để đầu tư xây dựng các
công trình và thiết chế văn hoá, tổ chức các hoạt động văn hoá,
khuyến khích các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình
9

10

×