1
ÔN TẬP MÔN HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH THEO CHUYỂN ĐỀ
Vấn đề 1: Trình bày nguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh
Bài làm:
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, điều đó đã được dân
tộc VN và cả nhân loại ngày nay thừa nhận. Với thiên tài trí tuệ của mình, với lòng yêu nước nồng nàn và
thương dân sâu sắc, Bác - từ một con người giản dị bình thường đã trở thành nhà tư tưởng vĩ đại, một nhà
lý luận thiên tài của cách mạng VN. Bất cứ một TT nào cũng phải có nguồn gốc, cơ sở hình thành, đó
chính là tuân theo qui luật hình thành TT từ ít đến nhiều, từ hình thức đến nội dung, bản chất. Vì vậy,
TTHCM cũng ko nằm ngoài qui luật đó.
Tư tưởng HCM là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa, nhân nghĩa và
thực tiễn CM Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại được nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng CN Mác
LêNin. Tư tưởng ấy có giá trị vô cùng to lớn, định hướng cho cách mạng VN trong hơn nữa thế kỷ qua,
góp phần thúc đẩy tiến trình văn minh, tiến bộ của nhân loại. Hiện nay tư tưởng HCM đang tiếp tục soi
đường cho CM nước ta trong sự nghiệp đổi mới, cương lĩnh của Đảng ta năm 1991 đã xác định: “Đảng lấy
CN Mác-Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.
Đại hội Đảng lần IX đã khẳng định “Tư tưởng HCM là một hệ thống qua điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” và “tư tưởng HCM soi đường cho cuộc đấu tranh của
nhân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”. Từ khái niệm cho thấy TT
HCM được hình thành từ những nguồn gốc sau đây:
* Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam.
Dân tộc Việt Nam trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo cho mình một nền
văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền thống tốt đẹp và cao quý.
- Trước hết, đó là tinh thần độc lập tự chủ, anh dũng bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ
nước hiếm thấy một dân tộc nào trên thế giới ở vào hoàn cảnh lịch sử phải đấu tranh trường kỳ, gay go
quyết liệt chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự do bản sắc và phẩm giá như dân tộc Việt Nam. Lòng yêu
nước và chủ nghĩa yêu nước được hình thành từ rất sớm và trở thành một tính chất của mọi người dân Việt
và đây là một yếu tố quan trọng nhất để Nguyễn Tất Thành đi vào con đường cách mạng. Cho đến nay,
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam kể cả thắng lợi công cuộc đổi mới đều có cội nguồn từ lòng yêu
nước, với học thuyết đạo đức, tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam đều phải thông qua lòng yêu
nước và chủ nghĩa yêu nước của người dân Việt.
- Thứ hai, là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái “lá lành đùm lá
rách” trong hoạn nạn, khó khăn. Truyền thống này cũng hình thành cùng một lúc với sự hình thành dân
tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh đã
chú ý kế thừa, phát huy sức mạnh của truềyn thống nhân nghĩa, nhấn mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình,
đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
- Thứ ba, là dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời. Trong “muôn
nguy, ngàn khó”, người lao động vẫn động viên nhau “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo” và tiếng cười
vẫn không ngớt vang lên trong cuộc sống, vẫn tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa, dù trước mắt
còn đầy gian truân, khổ ải.
- Thứ tư, dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất
và chiến đấu, là một dân tộc ham học hỏi và không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của
nhân loại từ Nho, Phật, Lão của phương Đông đến tư tưởng – văn hóa hiện đại của phương Tây.
Tư tưởng yêu nước của người Việt Nam chứa đựng khát vọng về tự do, công bằng, bình đẳng xã
hội. Các vị anh hùng dân tộc đều có đường lối ít nhiều đáp ứng khát vọng ấy. Nhân dân Việt Nam yêu
nước mình nhưng không ít kỷ hẹp hòi dân tộc mà tôn trọng các dân tộc khác khoan dung và quý trọng tình
hoà hiếu. Trên cơ sở giữ vững bản sắc dân tộc nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu cải biến những cái hay,
cái tốt cái đẹp của người thành những giá trị riêng của mình.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh trọn vẹn sinh động của những giá trị truyền thống cao quý đó.
Chủ nghĩa yêu nước là nguồn gốc sâu xa của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ tuổi thanh niên Hồ Chí Minh đã là
một trong những người con yêu nước tiêu biểu nhất của dân tộc. Tất cả ý nghĩa cuộc sống của người lúc đó
là cứu nước giải phóng dân tộc, cứu đồng bào bị đọa đày đau khổ. Người coi đấy là lẽ sống thiêng liêng
2
nhất, Người nói “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là
tất cả những đều tôi hiểu”. Đối với Người tất cả mọi kế sách đều vô nghĩa nếu không nhằm tự do cho đồng
bào, độc lập cho tổ quốc. Cả cuộc đời Hồ Chí Minh “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm
sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành”. Hồ Chí Minh lúc thiếu thời rất khâm phục tinh thần yêu nước, xã thân vì nước của
các sĩ phu, văn thân, các chiến sĩ như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa
Thám nhưng Người không tán thành đường lối cứu nước của các vị tiền bối yêu nước. Tư tưởng yêu nước
của Hồ Chí Minh thời trẻ, ngay cả khi chưa gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, đã thể hiện có tầm vượt trước
những quan niệm cứu nước đương thời. Một tư tưởng yêu nước sáng suốt hướng tới việc tìm con đường
thật sự cách mạng và khoa học dẫn đến mục tiêu triệt để giải phóng dân tộc. Đó là tư tưởng yêu nước mang
đậm tính nhân dân, tính nhân bản. Cứu nước trước hết là cứu hàng triệu “đồng bào bị đoạ đày”, những
“người cùng khổ”. Mục tiêu cứu nước của Hồ Chí Minh (khi chưa là người Mác xít) là nước độc lập phải
đi đôi với quyền tự, ấm no, hạnh phúc, rõ ràng mục tiêu ấy không thể tìm thấy ở con đường cứu nước trên
lập trường phong kiến và cả trên lập trường của giai cấp tư sản. Ở tuổi 13, Hồ Chí Minh đã sớm bị hấp dẫn
bởi khẩu hiệu “tự do bình đẳng bác ái”. Người muốn tìm hiểu đến tận cùng ý nghĩa của những từ đẹp đẽ ấy
không chỉ trên lý thuyết mà ngay trên thực tế. Với một hoài bảo và lòng yêu nước như thế làm hành trang
Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước. Như vậy, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đang đòi hỏi được đổi
mới là tiền đề tư tưởng đưa Hồ Chí Minh đến một cách tự nhiên với chủ nghĩa Mác Lênin, đáp ứng yêu cầu
bức xúc của lịch sử lúc đó là phải xác định một đường lối cứu nước đúng đắn. Tư tưởng yêu nước Hồ Chí
Minh phản ánh yêu cầu giải phóng của dân tộc Việt Nam và các dân tộc thuộc địa nói chung.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tiếp thu và phát triển tinh hoa văn hóa nhân loại.
Hồ Chí Minh đã biết làm giàu vốn văn hóa của mình bằng cách học hỏi, tiếp thu tư tưởng văn hóa
phương Đông và phương Tây.
- Về tư tưởng và văn hóa phương Đông: Hồ Chí Minh đã tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo
về triết lý hành động, nhân nghĩa, ước vọng về một xã hội bình trị, hòa mục, thế giới đại đồng; về một triết
lý nhân sinh, tu thân, tề gia; đề cao văn hóa trung hiếu "dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh".
Người nói: "Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng
song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học". Người dẫn lời của V.I. Lênin: "Chỉ có những người
cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại".
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn; coi trọng tinh
thần bình đẳng, chống phân biệt đẳng cấp, chăm lo điều thiện, v.v
Về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh tìm thấy những điều thích hợp với điều
kiện nước ta, đó là dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc.
- Về tư tưởng và văn hóa phương Tây: Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tiếp thu tư tưởng văn hóa dân
chủ và cách mạng của cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ.
Về tư tưởng dân chủ của cách mạng Pháp, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng của các nhà khai sáng:
Vônte (Voltaire), Rútxô (Rousso), Môngtexkiơ (Moutesquieu). Đặc biệt, Người chịu ảnh hưởng sâu sắc về
tư tưởng tự do, bình đẳng của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của Đại cách mạng Pháp.
Về tư tưởng dân chủ của cách mạng Mỹ, Người đã tiếp thu giá trị về quyền sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập năm 1776, quyền của nhân dân kiểm soát chính phủ.
Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị tư tưởng văn hóa phương Tây cũng như đối với những giá trị
phương Đông vớí tinh thần phê phán Người đã trực tiếp thấy rõ ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp ở
Đông dương, những thống khổ không sao kể siết của đồng bào mình, đã tận mắt trông thấy tội ác dã man
của bọn thực dân ở tất cả các nước thuộc địa mà Người đi qua, trực tiếp chứng kiến những bất công phổ
biến ngay ở những nước “văn minh”. Qua thực tế Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra mặt trái của nền văn
minh phương Tây. Song điều đó không ngăn cản Người tiếp thu kế thừa những giá trị tốt đẹp của văn minh
phương Tây.
* Tư tưởng HCM là sự vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin
Trên cơ sở những nhân tố tư tưởng nói trên đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã đến
với chủ nghĩa Mác Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh của là kết quả sự gặp gở giữa chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam và chủ nghĩa Mác Lênin. Việc Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác Lênin, tìm thấy ở chủ nghĩa
Mác Lênin “cái cần thiết” và “con đường” giải phóng dân tộc, “ngọn hải đăng soi đường cho toàn thể nhân
3
loại bị áp bức đi tới giải phóng” là bước quyết định trong quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bắt gặp chủ nghĩa Mác Lênin tư tưởng yêu nước ở Nguyễn Ái Quốc có bước nhảy vọt về chất-tư tưởng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng yêu nước anh dũng chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc không
phải phẩm chất riêng có ở những người cộng sản mà là vốn có ở hàng triệu người trong Đảng cũng như
ngoài Đảng. Song chỉ có Đảng của giai cấp công nhân được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác Lênin mới có
đường lối đúng đắn để giải phóng dân tộc biến chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước
hiện đại trên cơ sở kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa XH KH, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
quốc tế vô sản. Được tư tưởng khoa học của giai cấp công nhân quốc tế soi sáng phong trào giải phóng dân
tộc Việt Nam đã tìm ra đường lối cứu nước đúng đắn. Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở chủ yếu hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh. Chính lý luận Mác Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan và phương pháp
luận DVBC để tổng kết kiến thức tổng kết lịch sử và kinh nghiệm thực tiễn tìm ra con đường cứu nước
đúng đưa Người vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước đương thời, khắc phục căn bản
khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu và động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác
Lênin. Còn chủ nghĩa Mác Lênin đã nâng chủ nghĩa yêu nước truyền thống ở Hồ Chí Minh lên bước phát
triển về chất phù hợp với thời đại mới. Người nói “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải
chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ 3. Từng bước một trong cuộc đấu tranh
vừa nghiên cứu lý luận Mác Lênin vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có CNXH,
CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ ”
Như vậy tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác Lênin, những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh cùng nằm trong các phạm trù cơ bản của lý luận Mác Lênin. Tuy nhiên tư tưởng Hồ Chí Minh không
phải chỉ là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh và điều kiện Việt Nam mà còn là sự
phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh giành
độc lập tự do.
Cuối cùng phải nói đến những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí
Minh là nhân tố rất quan trọng để hình thành và phát triển tư tưởng HCM:
Ngoài nguồn gốc tư tưởng, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh còn chịu sự
tác động sâu sắc của thực tiễn dân tộc và thời đại mà Người đã sống và hoạt động. Chính quá trình hoạt
động thực tiễn của Hồ Chí Minh ở trong nước và khi còn bôn ba khắp thế giới để học tập, nghiên cứu và
hoạt động đã làm cho Người có một hiểu biết sâu sắc về dân tộc và thời đại, nhất là thực tiễn phương Đông
để xem xét, đánh giá và bổ sung cơ sở triết lý phương Đông cho học thuyết Mác - Lênin.
Từ hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã khám phá quy luật vận động xã hội, đời sống văn hóa và
cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể của các quốc gia và thời đại mới để khái quát thành
lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn, qua kiểm nghiệm của thực tiễn để hoàn thiện, làm cho lý
luận có giá trị khách quan, tính cách mạng và khoa học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm hoạt động tinh thần của cá nhân, do Người sáng tạo trên cơ sở
những nhân tố khách quan. Do đó, tư tưởng Hồ Chí Minh phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố nhân cách,
phẩm chất và năng lực tư duy của chính người sáng tạo ra nó.
Không chỉ ở nước ta mà có nhiều chính khách, nhiều nhà hoạt động văn hóa-xã hội ở nước ngoài đã
nêu nhiều ý kiến sâu sắc về nhân cách, phẩm chất, về tài năng trí tuệ của Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1923,
lúc Hồ Chí Minh vào trạc tuổi 33, nhà báo Liên Xô Ô. Manđenxtam khi tiếp xúc với Hồ Chí Minh đã sớm
nhận biết: "Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một
nền văn hóa tương lai". Văn hóa Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày càng tỏa sáng theo dòng thời gian
của dân tộc và thời đại.
Nhân cách, phẩm chất, tài năng của Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển
tư tưởng của Người. Đó là một con người sống có hoài bão, có lý tưởng, yêu nước, thương dân, có bản lĩnh
kiên định, có lòng tin vào nhân dân, khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới, thông minh, có
hiểu biết sâu rộng, có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn, v.v Chính nhờ vậy, Người đã khám
phá sáng tạo về lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới, xây dựng được một hệ thống quan điểm
toàn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách mạng Việt Nam, đã vượt qua mọi thử thách, sóng gió trong hoạt
động thực tiễn, kiên trì chân lý, định ra các quyết sách đúng đắn và sáng tạo, biến tư tưởng thành hiện thực
cách mạng.
Tóm lại trong các nguồn gốc nói trên chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu và động lực thúc đẩy
Hồ Chí Minh tự giác đến với chủ nghĩa Mác Lênin. Còn chủ nghĩa Mác Lênin đã nâng chủ nghĩa yêu nước
lên một bước phát triển mới về chất phù hợp với thời đại mới. Chủ nghĩa Mác Lênin là nguồn gốc trực tiếp
và chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tinh hoa văn hóa nhân loại đã giúp Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc chủ
4
nghĩa Mác Lênin, làm phong phú bản sắc tư tưởng của Người do kết hợp được dân tộc với thời đại, văn
hóa phương Đông và phương Tây đã nâng tầm văn hoá, chính trị của Người ngang tầm thời đại…Sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là số cộng giản đơn ba bộ phận đó. Ở đây diễn ra một quá trình
tổng hợp chắc lọc qua tư duy độc lập, qua trí tuệ và nhân cách lớn của Hồ Chí Minh trên cơ sở một bản
lĩnh chính trị kiên định và cốt cách văn hóa độc đáo của Người đó cũng là kết quả tổng hợp của cả quá
trình lăn lộn đấu tranh lâu dài trong thực tiễn gian khổ hiểm nguy ở hầu khắp các châu lục; là một quá trình
tự rèn luyện tự học tập tích lũy kiến thức, kinh nghiệm sống và chiến đấu của Người.
Vấn đề 2: Mục tiêu, động lực, bước đi của CNXH ở nước ta
Văn kiện Đại hội IX của Đảng ta chỉ rõ: “Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc những vấn đề cơ bản của CM VN, là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo CN Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liên với
CNXH, ”. Nếu nói rằng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là nội dung cốt lõi của tư tưởng
HCM, thì tư tưởng về CM XHCN là một trong những bộ phận cốt yếu của nội dung ấy. Đây là
vấn đề được Chủ tịch HCM xác định ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta.
* Cơ sở lý luận và thực tiễn để Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam (Tr.57 ĐC):
- Đây là sự lựa chọn phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử. Quy luật đó đã được các
nhà sáng lập CN Mác-Lênin phát hiện và thực tế lịch sử đã và đang chứng minh sự đúng đắn của
nó. Nghĩa là CNXH, CNCS tất yếu sẽ thay thế CNTB, cũng như CNTB đã từng thay thế các CN
phong kiến - nô lệ. Bởi lẽ hình thái KT-XH và chế độ chính trị ra đời sau bao giờ cũng tiến bộ và
hoàn thiện hơn hình thái KT-XH và chế độ chính trị trước đó, do đó, nó sẽ phủ định đối với các
xã hội trước nó.
- Đây còn là sự lựa chọn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, mà nội dung, tính
chất chủ yếu của nó là sự quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thê giới, mở đầu từ cuộc
CM Tháng 10 Nga (1917). Cho dù vừa qua, CNXH ở Liên xô và các nước Đông Âu bị phá hoại
và sụp đổ, song điều đó không thể làm đảo ngược xu thế và tính chất, nội dung căn bản của thời
đại.
- Chọn lựa con đường lên CNXH không qua chế độ TBCN là sụ lựa chọn có cơ sở hiện
thực đầy sức thuyết phục, bắt đầu từ Liên bang Cộng hòa XHCN Xôviết rồi đến các nước XHCN
khác lần lượt xuất hiện và tồn tại từ năm 1917 trở đi. Đó cũng là sự lựa chọn phù hợp với nguyện
vọng cơ bản và lâu dài của nhân dân ta, một đất nước đã từng chịu hàng ngàn năm dưới chế độ
phong kiến lạc hậu và cả trăm năm dưới các chế độ đế quốc phátxít, thực dân cũ và mới.
Một thực tế khác nữa, đó là kết quả của cuộc khảo sát công phu qua mấy chục năm trời,
đến mấy chục nước khác nhau, nhất là nghiên cứu kỹ các cuộc CM điển hình trên thế giới (CM tư
sản Anh, Mỹ, Pháp, CM Tháng 10 Nga ). Và kết luận quan trọng Người rút ra là chỉ có cuộc
CM tháng 10 Nga do Đảng cộng sản, đứng đầu là Lênin vĩ đại lãnh đạo là thành công đến nơi.
Còn các cuộc CM khác cho dù vĩ đại như CM tư sản Pháp, đều thành công “không đến nơi”.
Từ những căn cứ khách quan và chủ quan, lý luận và thực tiễn, tinh thần và vật chất trên
đây, có thể nói việc lựa chọn con đường CM VN đi từ đấu tranh giành độc lập dân tộc rồi tiến lên
5
CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, là sự lựa chọn nhất quán, kiên định và có cơ sở khoa học vững chắc
của HCM.
* Các mục tiêu (Tr. 101 GT):
- Về chính trị: Xây dựng chế độ chính trị dân chủ và nhà nước của dân, do dân và vì dân;
tiếp tục sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người và tạo điều kiện cho con người phát
triển toàn diện. HCM chỉ rõ: “Nước ta là là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu
quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân…”,
- Về kinh tế: Phấn đấu xây dựng nền kinh tế XHCN có nền nông nghiệp, công nghiệp
hiện đại có khoa học kĩ thuật tiên tiến. Nhằm thoả mãn những nhu cầu đời sống về vật chất và
tinh thần ngày một phong phú của nhân dân lao động. HCM nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bực, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".
- Về văn hóa : CNXH gắn liền với văn hóa và là giai đoạn phát triển cao hơn CNTB về
mặt giải phóng con người, trước hết khỏi mọi áp bức bóc lột. Nền văn hóa mà Đảng ta và Hồ Chí
Minh chủ trương xây dựng là một nền văn hóa “lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ
sở”. Nói cách khác, “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Tóm lại, “để phục vụ sự nghiệp CM
XHCN về nội dung và dân tộc về hình thức”, kết hợp với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
của nhân loại.
- Về xã hội : XH mà chúng ta đang xây dựng là một xã hội công bằng, dân chủ, có quan
hệ tốt đẹp giữa người với người; các chính sách xã hội được quan tâm thực hiện; đạo đức, lối
sống xã hội phát triển lành mạnh. Vì thế, Người nói: “Muốn tiến lên CNXH thì phải cải tạo XH
cũ thành một XH mới, một XH không chế độ người bóc lột người, một XH bình đẳng, nghĩa là ai
cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không
làm không hưởng”.
* Động lực (Tr. 107 GT) (là những nhân tố góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội thông qua
hoạt động của con người) :
Ta đã nhận thấy mục tiêu bao trùm của CNXH là xây dựng một xã hội tốt đẹp vì hạnh
phúc con người và con người cũng chính là động lực để xây dựng thành công CNXH, trong đó
bao gồm cộng đồng người và cá nhân con người. Do đó, nhân tố trung tâm của CM XHCN chính
là vai trò của con người. HCM đã nhiều lần nói: “Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có những
con người XHCN”. Nếu không có con người thiết tha với lý tưởng CNXH thì không có CNXH.
Vì vậy HCM đặt lên hàng đầu mục tiêu xây dựng con người. Đó là những con người có lòng yêu
nước nồng nàn gắn với yêu CNXH sâu sắc; có phẩm chất đạo đức, nhân cách đúng đắn; cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; có trình độ năng lực, dám nghĩ, dám làm; có tinh thần dân tộc
và tinh thần quốc tế trong sáng; có sức khoẻ tốt và có óc thẩm mỹ, biết yêu chuộng và bảo tồn
những cái hay, cái đẹp. Đó là nguồn lực quan trọng nhất để xây dựng thành công CNXH. Con
người trên cả hai bình diện : cá nhân và cộng đồng :
- Phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc – động lực chủ yếu phát triển đất
nước
- Phát huy sức mạnh của con người với tư cách cá nhân người lao động : Tác động vào
nhu cầu và lợi ích của con người, tác động vào các động lực chính trị-tinh thần (phát huy quyền
6
làm chủ và ý thức làm chủ của người lao động, thực hiện công bằng XH, sử dụng vai trò điều
chỉnh của các yếu tố tinh thần khác : chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật)
Bên cạnh đó cần phải nhận thấy được các trở lực :
- Phải đấu tranh chống CN cá nhân – “căn bệnh mẹ” đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm.
Người nhấn mạnh: CN cá nhân là kẻ địch hung ác của CNXH. Người CM phải tiêu diệt nó.
- Phải đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, "bạn đồng minh của thực dân phong
kiến”, vì "Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức
CM của ta là cần, kiệm, liêm, chính”.
- Phải chống chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật, vì những hành động ấy "làm giảm
sút uy tín và ngăn trở sự nghiệp của Đảng, ngăn trở bước tiến của CM”
- Phải chống chủ quan bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập cái mới, Đó
cũng là những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng CNXH.
* Bước đi của CNXH ở nước ta (Tr. 120 GT)
- Trước hết là đấu tranh giành độc lập dân tộc giành cho được chính quyền cho được về
tay nhân dân dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam bằng sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, bằng
bạo lực cách mạng. Sau khi giành được chính quyền thì quá độ trực tiếp đi lên CNXH. Do nước
ta có những đặc điểm riêng là đi lên CNXH không thông qua chế độ TBCN.
- Về bước đi của thời kỳ quá độ HCM chưa đưa ra được nội dung cụ thể từng chặng
đường nhưng người đã nói: “Ta xây dựng CNXH từ hai bán tay trắng đi lên thì khó khăn còn
nhiều và lâu dài”, “phải làm dần dần”, “không thể một sớm một chiều”, ai nói dễ là chủ quan và
sẽ thất bại. Tư tưởng chỉ đạo của HCM là phải qua nhiều bước “Bước ngắn, bước dài tùy theo
hòan cảnh”, “chớ ham làm mau, ham rầm rộ…Đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần”.
- Thực tế nước ta xây dựng XHCN ở miền Bắc từ khi giành được chính quyền (1945) đạt
được những thành tựu bước đầu. Từ 1954-1975 vừa xây dựng XHCN ở miền bắc và đấu tranh
giải phóng miền nam đã thành công đáng kể trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Tập
hợp được sức người, sức của “vừa kháng chiến vừa kiến quốc” từng bước cải tạo nông nghiệp,
phát triển công nghiệp.
Phải nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, sang tạo, chống giáo điều rập khuôn kinh nghiệm,
phải có cách làm phù hợp trong từng giai đọan và với thực tiễn xã hội Việt Nam. Phải xác định
được hai nhiệm vụ chiến lược đó là “xây dựng Miền Bắc, chiếu cố miền nam”. Phải kết hợp cải
tạo xây dựng trên tất cả các lĩnh vực, mà xây dựnglà chủ yếu và lâu dài, đây là quan điểm tòan
diện trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; vì
vậy cách làm là “đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”. Đặt biệt HCM còn nhấn
mạnh đến vai trò quyết định của các biện pháp và tổ chức thực hiện.
* Liên hệ quá trình XDCN xã hội hôm nay (Tr. 123 GT)
+ Nêu khái quát trước đổi mới.
+ Thành tựu 25 năm đổi mới, xem nội dung văn kiện Đại hội XI
- Liên hệ với việc giáo dục, rèn luyện đạo đức trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay
và kết luận (tr 129, 130, 131 GT)
7
- Vận dụng, liên hệ thực tiễn: Trong quá trình vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về quá độ đi
lên CNXH ở nước ta, Đảng ta đã có những sai lầm, khuyết điểm; có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm
trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan; từ đó dẫn đến đất nước lâm vào
khủng hoảng nghiêm trọng. Đảng ta nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới để tiếp tục
đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Ngày nay, cục diện thế giới đang trải qua những biến đổi nhanh chóng và sâu sắc. Cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự
phát triển của nhiều nước.
Đất nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới, những nhắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước và
bảo vệ vững chắc độc lập tổ quốc, đã làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều. Tuy nhiên, bốn
nguy cơ mà Đảng ta từng chỉ rõ: tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và tệ
quan liêu, “DBHB” do các thế lực thù địch gây ra, đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác
động lẫn nhau. Các thế lực thù địch không ngừng chống phá ta bằng những thủ đoạn cực kỳ nham hiểm,
đặc biệt ở các vấn đề nhạy cảm như dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc. Về kinh tế, hiện nay nước ta
vẫn là một trong những nước nghèo, lao động và sức cạnh tranh thấp, trình độ công nghệ còn lạc hậu so
với các nước phát triển. Trong lúc các nước tiên tiến trên thế giới đang bước vào nền kinh tế tri thức, thì
nước ta mới bước vào thời kỳ CNH.
Trước cục diện thế giới và trong nước như vậy, đất nước ta đứng trước những vận hội lớn, đồng
thời cũng phải đương đầu với những khó khăn, thách thức mới rất quyết liệt. Để đảm bảo sự nghiệp đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng phát triển vững chắc, đúng hướng, trên cơ sở nắm vững lập
trường và phương pháp của CN M-L, quán triệt sâu sắc tư tưởng HCM và vận dụng một cách sáng tạo vào
sự nghiệp đổi mới, CNH - HĐH đất nước. Đặc biệt phải giải quyết tốt các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, nắm vững
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc trên nền tảng CN Mác- Lênin và tư tưởng HCM.
Thứ hai, Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do đó cần phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nguồn lực nội sinh, để thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Thứ ba, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Thứ tư, Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng CN xã hội.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CM XHCN, trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), đảng ta đã xác định: Từ nay đến giữa thế kỷ
thứ XXI, toàn đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp hiện
đại theo định hướng XHCN. Để thực hiện mục tiêu trên chúng ta phải thực hiện tốt các phương hướng cơ
bản sau:
Một là, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên môi
trường; Hai là, phát triển kinh tế TT định hướng XHCN; Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Năm là, thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; Sáu là, xây dựng nền dân chủ xhcn, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở
rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân; Tám là, xây dựng đảng trong sạch vững mạnh.
Tóm lại, tư tưởng về con đường đi lên CNXH và quá trình xây dựng XHCN ở Việt Nam là một
trong những bộ phận cốt lõi của hệ thống tư tưởng HCM. Bởi lẽ đây là sự nghiệp vĩ đại nhưng cũng đầy
gian khổ khó khăn, như Người chỉ rõ: “Chúng ta đã đánh thắng chế độ thực dân và phong kiến. Nhiệm vụ
chủ yếu của chúng ta ngày nay là đánh thắng lạc hậu và nghèo nàn, xây dựng CNXH làm cho nhân dân ta
có một đời sống thật sung sướng. Công cuộc ấy rất vĩ đại và cũng rất khó khăn. Nhưng tòan đảng, toàn
dân ta quyết tâm làm thì nhất định làm được”.
8
Vấn đề 3-1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền(Câu 2/6).
(“Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là độc lập dân tộc, là hòa bình và ấm
no”; Đảng ta là tiêu biểu cho trí tuệ dân tộc và thời đại; là lương tâm, đạo đức của
dân tộc; là ý chí của dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nh.dân gắn bó với nhân
dân).
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong
điều kiện cụ thể của nước ta và đã trở thành một tài sản tinh thấn quí báu của Đảng và của dân tộc.
Trong toàn bộ tư tưởng của Người thì tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng CS là một bộ phận quan
trọng, là sự kế thừa, bổ sung và phát triển, sáng tạo tư tưởng của Mác – Ănghen và nhất là những
nguyên tắc về Đảng kiểu mới của Lênin trong điều kiện Việt Nam. Hồ Chí Minh đã khẳng định
cách mạng: “Trước hết phải có Đảng cách mạng, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mạng
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy”. Đảng CSVN ra đời là kết
quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Đảng đã đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu khách quan của
xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đang khủng hoảng đường lối cứu nước. Cách mạng tháng 8 thành
công mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, đưa Đảng ta lên vị trí cầm quyền, đưa nhân dân lao
động lên địa vị làm chủ xã hội. Trên cương vị mới Đảng tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam
hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước tiến lên CNXH. Sau đây,
chúng ta cùng tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch vững
mạnh.
Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động: “Là Đảng cách mạng, là
Đảng lãnh đạo. Ngoài lợi ích của nhân dân và của giai cấp công nhân, Đảng ta không có lợi ích
nào khác”. Là một Đảng cầm quyền, Đảng có chức năng lãnh đạo cùng nhiệm vụ và lãnh đạo các
tổ chức chính trị, xã hội. Sự lãnh đạo đó được thể hiện bằng đường lối chủ trương, bằng quy
hoạch bố trí đội ngũ cán bộ và bằng việc kiểm tra đôn đốc giám sát, sự lãnh đạo của Đảng là nhân
tố đảm bảo cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam theo ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
Muốn thực hiện được vai trò chức năng của một Đảng cầm quyền, hoàn thành được sứ
mệnh mà giai cấp và dân tộc đã ủy thác, Đảng ta phải được trang bị lý luận tiên tiến, cách mạng
và khoa học. Hồ Chí Minh cho rằng: “Đảng muốn vững mạnh phải lấy chủ nghĩa làm cốt, trong
Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như
người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Vào những năm đầu thể kỷ 20, khi Nguyễn
Tất Thành (Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước, trên thế giới có rất nhiều hệ thống lý
luận, nhưng sau bao năm bôn ba hải ngoại, lăn lộn với phong trào công nhân, tìm hiểu chủ nghĩa
Mác – Lênin và cách mạng Tháng 10 Nga, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lênin” và Đảng ở Việt Nam phải là một Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Sự lựa chọn đó là hoàn toàn đúng đắn. Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết cách
mạng và khoa học chỉ ra thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn để giai cấp công nhân và
nhân dân các dân tộc thuộc địa đứng lên làm cách mạng cải tạo thế giới giải phóng cho giai cấp,
cho dân tộc khỏi mọi sự áp bức bóc lột. Sự đúng đắn của đường lối cách mạng do Đảng ta vạch ra
ngay từ buổi đầu mới thành lập bắt nguồn từ việc Hồ Chí Minh đã quán triệt sâu sắc chủ nghĩa
Mác – Lênin. Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta đã vạch ra được lối chủ trương
đúng đắn, sát hợp đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác mà thực tiễn
cách mạng Việt Nam đã chứng minh, để đảm bảo sứ mệnh dẫn lối soi đường, việc xây dựng Đảng
trong sạch vững mạnh là nhiệm vụ xuyên suốt của Đảng ta và là một nội dung quan trọng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh: “Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu”.
Đảng ta phải thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc về tổ chức và xây dựng Đảng mà trong đó tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, phê bình và tự phê bình là nguyên tắc bất di bất
dịch của Đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức hoạt động cơ bản và quan trọng nhất
trong học thuyết vì Đảng kiểu mới của Lênin, được Hồ Chí Minh rất coi trọng và vận dụng vào
9
hoàn cảnh cụ thể để xây dựng Đảng CSVN. Tập trung nghĩa là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới
phục tùng cấp trên, tất cả Đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Người
nhấn mạnh: “Đảng tuy đông người nhưng khi tiến hành chỉ như một người”. Bên cạnh đó, Người
cũng nhấn mạnh dân chủ (trong Đảng) “Dân chủ là của quí báu nhất của nhân dân”, phải chú ý
thực hành rộng rãi dân chủ của Đảng “Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả các Đảng viên bày
tỏ hết ý kiến của mình, phải gôm góp ý kiến của Đảng viên để giúp đỡ trung ương chuẩn bị đại
hội Đảng cho thật tốt”. Ở Hồ Chí Minh về nguyên tắc này dân chủ cộng sinh hoạt Đảng là sự
thống nhất biện chứng giữa dân chủ và tập trung, tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ dưới
sự chỉ đạo tập trung. Nguyên tắc này là tiêu chí quan trọng để xem xét một Đảng còn là Đảng
mácxít chân chính nữa hay không?
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng ta. Hồ Chí Minh cho
rằng: “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau. Nếu lãnh đạo
không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc”, còn nếu
không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người này ỷ cho người kia, người kia ỷ cho người
nọ, kết quả là không ai thi hành như tục ngữ có câu: “Nhiều sải không ai đóng cửa chùa”.
Phê bình và tự phê bình được coi là “quy luật” phát triển của Đảng “Tự phê bình và phê
bình là thứ vũ khí sắc bén nhất, nó giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng thêm mạnh. Nhờ đó mà
chúng ta sửa chữa khuyết điểm, ưu điểm, tiến bộ không ngừng”.
Hồ Chí Minh cho rằng con người ai cũng có khuyết điểm chỉ khác nhau ở mức độ và trạng
thái biểu hiện mà thôi. “Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm”.
Theo Hồ Chí Minh “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt
để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn, cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”. Mỗi cán bộ
Đảng viên phải kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa hàng ngày giống như mỗi ngày phải rửa mặt,
và vấn đề này Hồ Chí Minh rất gương mẫu thực hiện.
Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, còn phải thường xuyên chỉnh đốn Đảng, xây dựng
đội ngũ cán bộ Đảng viên của Đảng. Chỉnh đốn Đảng để lúc khó khăn không bị bi quan dao động,
để Đảng có đủ năng lực lãnh đạo khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới. Hồ Chí Minh đã nêu
lên nhiệm vụ phải “chấn chỉnh” bộ máy càng “chỉnh đốn”. Các đoàn thể quần chúng và “muốn
làm được những việc trên, trước hết phải chỉnh đốn nội bộ Đảng”. Chỉnh đốn là để tăng cường sự
đoàn kết nhất trí trong Đảng, để tăng cường sức chiến đấu của Đảng. Người đã chỉ ra rằng “Sự
đoàn kết nhất trí trong Đảng càng thêm vững chắc bảo đảm cho Đảng ta càng trong sạch, càng
mạnh mẽ, đảm bảo cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của chúng ta càng giành được thắng lợi to lớn
hơn nữa”.
Về xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng viên, Người rất quan tâm đến giáo dục, rèn luyện, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ Đảng viên về tất cả các mặt trong đó có 03 vấn đề chủ yếu nhất là: Suốt đời
phấn đấu hy sinh cho Đảng, cho tổ quốc; Đặt quyền lợi của Đảng, của tổ chức lên trên hết; có một
đời tư trong sáng”. Theo Hồ Chí Minh “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muốn việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Người đã so sánh “cán bộ là dây chuyền của bộ
máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê
liệt”. Trong sử dụng cán bộ, Người yêu cầu phải “hiểu, đánh giá đúng cán bộ”, phải “khéo dùng
cán bộ”; “dùng người như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà
dùng được”; phải “chiêu hiền đãi sĩ”, “cần người hiền tài” “có gan cất nhắc cán bộ”; phải chống
bệnh tự phong, cục bộ, đầu óc phe phái, họ hàng.
Quan hệ giữa Đảng cầm quyền với nhân dân là một nội dung đặc sắc trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Quan niệm của Người là “Nước lấy dân làm gốc, bao nhiêu lợi ích vì dân, bao nhiêu
quyền hạn đều của dân”. Đảng, cán bộ Đảng viên “vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung
thành của nhân dân”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng phải gắn bó máu thịt với dân. Dân là lực
lượng vô tận của cách mạng, thắng lợi của cách mạng là do Đảng đã tổ chức và giải phóng được
lực lượng đó”. Người đã chỉ rõ giữ chặt chẽ mối quan hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe
ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng ta thắng lợi.
Do vậy cán bộ Đảng viên phải lắng nghe ý kiến của nhân dân, phải: “Học dân chúng”,
phải “nâng cao dân chúng, nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của nhân dân. Cả cuộc đời của Hồ chí
Minh là một tấm gương gần dân, hiểu dân, và vì dân. Người đã lo vun đắp cho cái “gốc” nhân dân
10
bền vững để cây đời cách mạng trổ hoa kết trái thắng lợi, “Gốc có vững cây mới bền, xây lầu
thắng lợi trên nền nhân dân”.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng CSVN nói chung và về xây dựng Đảng cầm
quyền trong sạch vững mạnh là rất phong phú, là bước phát triển học thuyết Mác – Lênin về Đảng
CS vào Việt Nam. Những dung đó vẫn còn nguyên giá trị trong điều kiện hiện nay và mãi mãi là
nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của chúng ta. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh vào công cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng hiện nay có ý nghĩa then chốt. Đại hội XI của
Đảng đã xác định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”. Đảng
ta phải thực hiện tốt những nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, phải xây dựng các tổ chức cơ sở
Đảng trong sạch vững mạnh, đội ngũ cán bộ Đảng viên phải đảm bảo nâng cao chất lượng, số
lượng, trong sạch về đạo đức, lối sống. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh trong công
cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta phải kiên trì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, nâng
cao vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo vệ và phát triển học thuyết và tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu
tranh chống diễn biến hòa bình, chống đa nguyên đa đảng phủ nhận quyền lãnh đạo tuyệt đối của
Đảng CSVN.
Câu 2 : Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững
mạnh (“Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là độc lập dân tộc, là hòa bình và ấm no”; Đảng ta
là tiêu biểu cho trí tuệ dân tộc và thời đại; là lương tâm, đạo đức của dân tộc; là ý chí của
dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nh.dân gắn bó với nhân dân).
Là người sáng lập ĐCS VN, HCM đã xây dựng và rèn luyện ĐCS thành một Đảng cách
mạnh chân chính, lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên CNXH. Trong những di sản tư tưởng mà Người để lại,
những luận điểm của Người về ĐCS, về xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng lãnh đạo
chính quyền, là một phần cực kỳ quan trọng. Theo Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền thì cán bộ
Đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân. Nếu xây dựng Đảng là vấn đề
then chốt thì việc giáo dục tư tưởng cho Đảng viên xứng đáng “vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ của nhân dân” thật sự là vấn đề then chốt của then chốt, đảm bảo thắng lợi cho công
cuộc đổi mới đang được triển khai rộng khắp trên cả nước ta hiện nay.
1. Quy luật sáng tạo của HCM về ĐCS-Đảng cầm quyền
Tư tưởng HCM về ĐCS VN bắt nguồn từ học thuyết của Mác về ĐCS VN và trực tiếp từ
học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, đã được Lênin đưa ra. Nhưng xuất phát từ
những điều kiện lịch sử cụ thể của VN, HCM đã vận dụng sáng tạo học thuyết ấy để đưa đến việc
thành lập ĐCS VN vào năm 1930.
HCM, sau khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin đã nhận ra được những ưu thế vượt trội và
sứ mệnh trọng đại của giai cấp này. “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạnh
nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân”. Giai cấp công nhân là giai cấp còn
sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạnh đến thắng lợi cuối cùng. Tuy nhiên giai cấp công nhân
không thể hoàn thành sứ mệnh của mình nếu như không lôi kéo được bạn đồng minh là giai cấp
nông dân và các giai cấp tầng lớp khác. Do vậy, để phát huy được khả năng và sức mạnh của
nhân dân, cần phải có một tổ chức đủ sức tuyên truyền, vận động tập họp họ thành một khối
thống nhất.
Bên cạnh những nguyên lý chung của việc thành lập Đảng cộng sản trên các nước, Hồ
Chí Minh còn kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước làm cơ sở và điều kiện vững chắc cho Đảng CS Việt Nam ra đời. Đây là một luận điểm
mới, một khái quát rất quan trọng, một vận dụng rất sáng tạo của HCM vào VN. Luận điểm này
11
chẳng những có ý nghĩa đối với quá trình CM VN, mà còn có ý nghĩa quốc tế, đặc biệt là đối với
những nước có hoàn cảnh tương tư như nước ta.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền (Tr. 87 ĐC)
Trải qua các cao trào cách mạng ngày càng sôi nổi, quyết liệt, Đảng CS VN đã lãnh đạo
toàn dân tiến hành thắng lợi cuộc CM tháng 8 năm 1945. Chính quyền của nhân dân được thành
lập, Đảng CS VN trở thành Đảng cầm quyền. Sự tất yếu của việc Đảng cộng sản phải trở thành
Đảng cầm quyền để tiếp tục lãnh đạo nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được Hồ Chí Minh
khẳng định: “Cách mạng thắng lợi rồi quần chúng vẫn còn có Đảng lãnh đạo: Dù nhân dân đã
nắm chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh trong nước và âm mưu của đế quốc xâm lược vẫn còn.
Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hoá XH, cho nên Đảng vẫn phải tổ chức, lãnh đạo,
giáo dục quần chúng, để đưa nhân dân lao động đến thắng lợi hoàn toàn”.
Theo Hồ Chí Minh, “Đảng cầm quyền” là “Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
trong điều kiện đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được chính quyền, lực lượng Nhà
nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy Nhà nước đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập
dân tộc, dân chủ và CNXH”. Vai trò chức năng cốt lõi nhất, quan trọng nhất của Đảng cầm quyền
là Đảng lãnh đạo chính quyền. Đảng cầm quyền để bảo đảm giữ vững và tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của chính quyền Nhà nước. Nhà nước do Đảng lãnh đạo phải mang tính chất nhân
dân, là công bộc, là đầy tớ của dân, chăm lo cho dân mọi mặt. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng
đường lối chủ trương được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách, bằng quy hoạch
bố trí sử dụng cán bộ, bằng kiểm tra giám sát việc thực hiện đường lối của Đảng đối với chính
quyền. Một chức năng khác rất quan trọng của Đảng cầm quyền là Đảng lãnh đạo mặt trận và các
tổ chức chính trị - xã hội. HCM đã chỉ ra rằng yếu tố làm cho Đảng nắm và giữ vững quyền lãnh
đạo là “chính sách đúng đắn” và “năng lực lãnh đạo” của Đảng. Đảng vạch ra đường lối chủ
trương và lãnh đạo, thuyết phục các tổ chức chính trị - xã hội tham gia hoạt động trong các phong
trào CM. Bên cạnh đó, mối quan hệ mật thiết như máu thịt giữa Đảng và nhân dân là nội dung rất
sáng tạo, rất đặc sắc và vô cùng quan trọng trong TTHCM, luôn được Người quan tâm xây dựng,
củng cố. Bác khuyên Đảng viên phải đi sát với dân “phải hòa mình với quần chúng thành một
khối”, phải lắng nghe ý kiến của dân, hiểu được lòng dân và khiêm tốn học hỏi dân. Người căn
dặn:
“Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân, thì dân mới yêu ta, kính ta”.
Như vậy, “Đảng cầm quyền” không những Đảng lãnh đạo chính quyền Nhà nước mà còn
lãnh đạo toàn xã hội. Đảng phải thấm nhuần lý luận tiên tiến, cách mạng và khoa học. Đó là hệ
thống lý luận Mác-Lênin. Ngoài ra, Đảng vạch ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn.
HCM đã từng nhấn mạnh điều này trong Di chúc “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi Đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức CM, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công, vô
tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân”. Khi trở thành Đảng cầm quyền, Đảng tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực
hiện nhiệm vụ mới là đấu tranh bảo vệ và xây dựng chế độ mới.
3. Cán bộ, Đảng viên phải vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân
(tham khảo thêm)
Trong suốt tiến trình đi lên CM VN, Đảng ta hoàn toàn xứng đáng với sự tin cậy của
nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và của lãnh tụ HCM, nhân dân ta đã giành được thắng lợi
12
trọn vẹn của CM dân tộc dân chủ nhân dân và vững bước tiến lên con đường XHCN. Theo HCM,
Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hai mặt lãnh
đạo và đầy tớ không tách rời nhau, không đối lập với nhau, mà thống nhất, biện chứng với nhau
như Người nhấn mạnh: lãnh đạo có nghĩa là làm đầy tớ.
Cần phải thấy rõ rằng cán bộ Đảng viên từ nhân dân mà ra, nhưng lại có trách nhiêm
hướng dẫn nhân dân thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Muốn
hướng dẫn nhân dân thì phải là người có tài, có đức, được nhân dân tin yêu, mến phục. Bác cũng
đã dạy “trước mặt quần chúng, không khải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu
mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân,
mình phải làm mực thước cho người bắt chước”. Như vậy, theo Hồ Chí Minh Đảng viên là người
lãnh đạo phải trước hết là người “nói đi đôi làm”, phải làm gương đi đầu trong việc thực hiện mọi
chủ trương đường lối của Đảng. Nói đến năng lực lãnh đạo quần chúng của Đảng viên, Hồ Chí
Minh chú trọng không chỉ trình độ, năng lực lãnh đạo quần chúng mà còn cả phương pháp khoa
học và thực chi dân chủ, không chỉ trí tuệ mà còn cả kinh nghiệm và bản lĩnh chính trị, đạo đức
cách mạng, lối sống gương mẫu, tận tụy hy sinh, phục vụ dân chúng làm công bộc đầy tớ trung
thành của dân. Người đòi hỏi rất cao thái độ dũng cảm và sự thành thật trong tự phê bình, phê
bình của Đảng, của cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy, Đảng mới được dân tin, dân phục, dân yêu
mến, dân giúp đỡ, ủng hộ và bảo vệ. Chỉ như vậy Đảng mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc
chắn và chân chính.
Đảng viên của Đảng cầm quyền lại càng phải ý thức thật sâu sắc mình là đầy tớ của nhân
dân, chứ không phải người chủ của nhân dân. Cần phải xác định rõ rằng Đảng lãnh đạo nhà nước
là nhằm xây dựng một nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân để nhân dân làm chủ nhà nước,
điều mà trước khi cách mạng thành công không thể có được. Đảng cầm quyền nhưng dân là chủ,
quyền lực cao nhất vẫn thuộc về nhân dân: đó chính là quan điểm rất quan trọng của HCM. Vì
vậy, Đảng viên không được tự cho phép mình đứng trên nhân dân, trên nhà nước, trên pháp luật.
Là đầy tớ trung thành của nhân dân, như HCM đã nói, Đảng không có quyền lợi gì của
riêng mình, ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc. Vì vậy, Đảng phải thường xuyên chăm lo
củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Đảng không ở trên dân, cũng không ở ngoài
dân, mà ở trong dân, trong lòng dân. Không phải chỉ có nước mới lấy dân làm gốc, mà Đảng cũng
phải lấy dân làm gốc. Chính cái gốc này đem lại nguồn sinh lực vô tận cho Đảng.
Là đầy tớ trung thành của nhân dân, Người còn chỉ rõ Đảng ta phải biết nêu cao tinh thần
phục vụ, tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, chăm lo nâng cao đời sống vật chất, văn hóa lẫn
tinh thần cho nhân dân, phải ra sức bồi dưỡng nâng cao trí tuệ, sức mạnh của nhân dân, phát huy
dân chủ một cách sâu rộng, song không được mị dân, mơn trớn, lợi dụng hoặc theo đuôi quần
chúng.
HCM chỉ ra rằng : khi trở thành Đảng cầm quyền, Đảng phải làm thế nào để quyền lực
không làm tha hóa, biến chất Đảng viên. Người đã đề cập đến 3 nguy cơ làm tha hóa bản chất
cộng sản, đó là nguy cơ về sai lầm đường lối, nguy cơ về chủ nghĩa cá nhân phát triển và nguy cơ
xa dân, mất dần quần chúng. Sự sai lầm về đường lối xuất phát từ sự thiếu vững vàng về chính trị,
không đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, thiếu tri thức, lý luận. Trong điều kiện cầm
quyền, chủ nghĩa cá nhân dễ có cơ hội phát triển “đẻ ra nhiều cái xấu”, gây tác hại lớn “làm mất
lòng tin cậy của dân, sẽ hại đến oai tín của chính phủ. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ
đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước. Mọi biểu hiện của
bệnh quan liêu, xa dân đều làm suy yếu Đảng, hơn nữa còn làm cho sự tồn tại của Đảng không
13
còn ý nghĩa. Những vấn đề trên là những vấn đế HCM đặc biệt quan tâm giáo dục cán bộ, Đảng
viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền.
4. Vận dụng tư tưởng HCM vào thực tế (Tr. 92 ĐC)
Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, để làm cho tất cả các
cán bộ Đảng viên xứng đáng là những người vừa là lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân,
kế thừa và vận dụng tư tưởng HCM, tiếp thu NQ TW 6 (lần 2), Hội nghị TW 7 Khóa 8, NQ ĐH
lần IX về công tác xây dựng Đảng và chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới xuất phát từ thực trạng
của nước ta, việc xây dựng chỉnh đốn Đảng càng trở thành nhiệm vụ cấp bách:
- Việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng HCM được thể hiện trên cả 3 mặt: tư
tưởng, chính trị và tổ chức để Đảng vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ mới của thời kỳ CNH-
HĐH : Một là, có sự thống nhất cao trong Đảng về nhận thức và quan điểm trong các vấn đề, đặc
biệt là những vấn đề có tính nguyên tắc như : khẳnh định và kiên trì mục tiêu xây dựng CNXH ở
nước ta theo sự lựa chọn của HCM, bảo vệ học thuyết Mác Lênin và tư tưởng HCM, nền tảng tư
tưởng và phương hướng hành động của Đảng, tiếp tục giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị, củng cố niềm tin, lý tưởng cho Đảng viên và nhân dân, ra sức khắc phục những
biểu hiện dao động, cơ hội, suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phần cán bộ Đảng viên
và nhân dân. Hai là, nâng cao năng lực trí tuệ của Đảng, không ngừng hoàn thiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước sao cho đúng đắn, sát hợp, thiết thực, đáp
ứng yêu cầu mới, chống khuynh hướng “tả” và khuynh hướng “hữu”, cải tiến việc ra NQ của
Đảng, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở.Ba là, củng cố hoàn chỉnh một số vấn đề về tổ chức :
thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, sắp xếp lại bộ máy Đảng theo
hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu quả, xây dựng củng cố tăng cường sức chiến đấu và năng lực
lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng. Ra sức đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ,
nhất là đội ngũ CB lãnh đạo, quản lý các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu, trong sạch, có
trí tuệ, kiến thức và năng lực. Đào tạo cán bộ vừa hồng, vừa chuyên. Phát triển Đảng viên theo
đúng tiêu chuẩn quy định. Đặc biệt lưu ý đào tạo phát triển Đảng viên trong công nhân, tầng lớp
thanh niên, phụ nữ, trí thức, dân tộc thiểu số, kiên quyết xử lý kỷ luật, loại những phần tử không
có đủ phẩm chất ra khỏi Đảng.
Bên cạnh đó, chúng ta phải đấu tranh chỉnh đốn Đảng về mặt đạo đức, lối sống với
những nội dung sau: Một là, khắc phục tình trạng thoái hóa, biến chất, suy đồi đạo đức, lối sống
tham nhũng, lãng phí, xa hoa; chống CN cá nhân, ra sức giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức
CM, xây dựng lối sống lành mạnh cho cán bộ Đảng viên. Hai là, khắc phục các bệnh quan liêu, xa
rời quần chúng, bệnh chủ quan, hình thức, địa phương, cục bộ, bè phái, ham danh ; phát huy dân
chủ và vận động nhân dân góp ý, phê bình cán bộ Đảng viên. Ba là, phải thật sự làm cho toàn
Đảng và từng tổ chức cơ sở Đảng cũng như mỗi cán bộ, Đảng viên trong sạch vững mạnh đó là
yếu tố quyết định của Đảng có đủ bản lĩnh, trí tuệ và khả năng vượt qua mọi thử thách trong giai
đoạn mới. Bốn là, thực hiện việc quản lý, kiểm tra chặt chẽ đối với cán bộ, Đảng viên, kê khai tài
sản và thu nhập của cán bộ, Đảng viên; chấp hành nghiêm túc những điều quy định mà Đảng viên
không được làm.
- Ngoài ra, Đảng viên luôn phải có ý thức chống các âm mưu phá hoại Đảng như kiên
quyết chống và bác bỏ tư tưởng và ý đồ đa nguyên chính trị, đa Đảng đối lập, đòi chia quyền lãnh
đạo đối với Đảng CS VN của các thế lực thù địch; đả phá những âm mưu xuyên tạc, chia rẽ, bôi
nhọ công kích Đảng ta của kẻ thù trong và ngoài nước; chống mưu đồ diễn biến hòa bình của
14
CNĐQ, khắc phục tư tưởng hòa bình chủ nghĩa, luôn tỉnh táo có ý thức cảnh giác trước mọi tình
huống bế tắc.
Tóm lại, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhằm thực hiện câu nói của Chủ tịch HCM: “Đảng
ta là đạo đức, là văn minh”. Đảng phải là Đảng của trí tuệ tiên phong, ngang tầm thời đại thì mới
đưa dân tộc vững bước tiến vào thế kỷ XXI. Đảng phải là Đảng đạo đức mới xứng đáng vừa là
người lãnh đạo, vừa là đầy tờ trung thành của nhân dân. Đối với nước ta, những quan điểm, tư
tưởng đó đã có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình rèn luyện, xây dựng Đảng ta trưởng
thành như ngày nay và vẫn giữ nguyên giá trị trong điều kiện đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới
đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH dân chủ, công bằng, văn minh./.
Vấn đề 2 : Chủ tịch HCM khẳng định “Nếu nước độc lập mà dân được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc
lập chẳng có ý nghĩa gì”. Đồng chí hãy phân tích rõ luận điểm ấy và liên hệ với giai đoạn CM hiện nay ?
BÀI LÀM
Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là một lãnh tụ thiên tài, vừa là một danh nhân văn hóa thế giới và một nhà
lý luận, tư tưởng lớn của cách mạng Việt Nam. Trong toàn bộ di sản về tư tưởng mà Người đã để lại cho
toàn Đảng, toàn dân, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là một trong những vấn đề
trung tâm và được thể hiện rõ ràng, xuyên suốt qua quá trình hoạt động thực tiễn của cách mạng trong
nước và trên thế giới. Chủ tịch HCM khẳng định “Nếu nước độc lập mà dân được hưởng hạnh phúc, tự do
thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì”
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc phải gắn với con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy làm rõ luận điểm trên.
1. Cơ sở lựa chọn mục tiêu độc lập – dân tộc :
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, trong nhận thức về con đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí
Minh đã sớm nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước đương thời. Do chưa có một đường lối kháng chiến rõ
ràng, bất cập trước lịch sử, dựa trên ý thức hệ phong kiến hoặc xu hướng dân chủ tư sản nên không tránh
khỏi thất bại và bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào yêu nước của nhân dân ta. Từ đó, Hồ
Chí Minh đã đi bắt đầu con đường đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình bôn ba ở nước ngoài, HCM đã :
tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới, tìm hiểu nghiên cứu các kiểu nhà nước và khảo sát cuộc
sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Tiếp xúc với Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và
thuộc địa, HCM đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc. Sự kiện đó
đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng HCM, từ CN yêu nước đến CN Lênin, từ giác ngộ dân
tộc đến giác ngộ giai cấp từ người yêu nước thành người cộng sản. Lý luận về cách mạng không ngừng của
Lênin có ảnh hưởng rất sâu sắc đến tư tưởng của Người, cho thấy sự gắn bó chặt chẽ giữa 2 cuộc cách
mạng : cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN, cách mạng giải phóng dân tộc là tiền đề cho
cách mạng XHCN và cách mạng XHCN là sự khẳng định của thành quả cách mạng của giải phóng dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, Đối với các nước thuộc địa như nước Việt Nam giai đoạn này, độc lập dân tộc
trước nhất chỉ có thể có được khi cách mạng giải phóng dân tộc thành công . Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh,
mục tiêu cuối cùng của độc lập dân tộc không chỉ dừng lại ở giai đoạn hoàn thành cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc mà phải thực hiện tiếp cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Có thể nhận thấy rằng dưới góc độ giải phóng, giành được độc lập dân tộc mới chỉ là cấp độ đầu tiên.
Giải phóng về mặt chính trị, tự bản thân nó chưa phải là công cuộc giải phóng hoàn toàn, hay nói cách
khác, độc lập dân tộc là tiền đề đầu tiên để tiến lên chủ nghĩa xã hội, đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc. Lôgíc lịch sử tự nhiên của sự vận động phong trào giải phóng dân tộc tất yếu dẫn tới chủ nghĩa xã
hội do bản chất cách mạng triệt để của nó.
Nghiên cứu Cương lĩnh dân tộc của Lênin : bình đẳng, tự quyết, đoàn kết giai cấp công nhân các dân
tộc, Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng sau khi cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, phải tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
15
- Độc lập dân tộc đòi hỏi trước hết phải đảm bảo cho dân tộc đó quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa
chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát triển, độc lập cả về chính trị, kinh tế, văn hóa.
Vì vậy, chỉ có thể tiến hành thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đất nước giành được độc lập
thì dân tộc ấy mới có thể chọn lựa con đường phát triển đất nước đi theo chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác,
giành được độc lập dân tộc là tiền đề cho việc xây dựng chế độ XHCN
- Độc lập dân tộc cũng đòi hỏi phải thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, con người được phát triển toàn diện, hạnh phúc; con người được phát triển
toàn diện, có năng lực làm chủ. Độc lập tự do đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột, nô dịch của
dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa
giữa các nước dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới
không có chiến tranh, không có sự hoành hành của cái ác, của những sự tàn bạo và bất công, bảo đảm cho
con người sống trong an ninh và hạnh phúc. Vì vậy, để đảm bảo độc lập dân tộc thực sự và giữ vững thành
quả ấy, cả nước phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật của thời đại, đáp ứng nguyện vọng ngàn đời
của nhân dân ta là độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Người nói “chúng ta tranh được tự do độc lập rồi mà
dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập thì tự do, độc lập cũng không làm gì”. Để giữ vững độc lập, tự
chủ, để đảm bảo cho nhân dân một cuộc sống ấm no hạnh phúc, chúng ta không có con đường nào khác là
phải tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Với ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc không chỉ mang
lại độc lập thống nhất cho tổ quốc, mà trong từng bước phải mang lại tự do, hạnh phúc cho toàn dân.
2. Con đường để thực hiện mục tiêu độc lập dân tôc và CNXH :
a. Cách mạng giải phóng dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi trước nhất phải đi theo con
đường cách mạng vô sản, tư tưởng này thể hiện rõ qua luận điểm “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì
mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng chỉ có thể sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cuộc
cách mạng thế giới”. Người đã sớm chỉ ra cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường của cách
mạng vô sản và cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Lập trường dứt
khoát này của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là phù hợp với trào lưu tiến hóa của lịch sử, vừa nói đến tính triệt
để trong tư tưởng Hồ Chí Minh khi đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản.
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi còn phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo. Quan điểm này đã được Hồ Chí Minh khẳng định: muốn cách mạng giải phóng dân tộc thành công
trước hết phải có Đảng Cách mệnh … Đảng có vững thì cách mạng mới thành công … Đảng muốn vững
thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt … bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ .nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Bên cạnh đó, Người cũng chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn
dân, trên cơ sở liên minh công – nông. Người nhận định rằng cách mạng giải phóng dân tộc là việc
chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, sĩ, nông,
công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó không được quên cái
cốt của nó là công - nông : “công - nông là người chủ cách mệnh … công nông là gốc cách mệnh”. .
Hồ Chí Minh cũng chỉ rằng muốn giải phóng dân tộc phải thực hiện con đường cách mạng bạo
lực. Người khẳng định: "Dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn giải phóng thì phải
đánh phát xít Nhật và thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có lực lượng quân
sự. Muốn có lực lượng quân sự thì phải có tổ chức. Muốn tổ chức thành công thì phải có kế hoạch, có
quyết tâm". Khẳng định giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng bạo lực, song Hồ Chí Minh luôn
chủ động, tích cực đưa ra giải pháp để tranh thủ khả năng hòa bình và phát triển của cách mạng.
b. Cách mạng xã hội chủ nghĩa. :
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội được nói đến một cách thiết thực, cụ thể,
dễ hiểu :”CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn, bần cùng, làm cho mọi người có
công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”. “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc
tự do thì độc lập tự do cũng không có ý nghĩa gì”. “CNXH là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày
càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những
16
phong tục tập quán không tốt được dần dần được xóa bỏ”; “CNXH là nhằm nâng cao đời sống vật chất và
văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”. Nói tóm lại “CNXH là làm sao cho dân giàu nước
mạnh“, từ những lời phát biểu ngắn gọn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có thể khái quát những nét
đặc trưng bản chất sau đây của CNXH :
Một là CNXH là là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước phải phát huy quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là CNXH là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lưc lượng sản xuất ngày càng
hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất cho
nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Ba là CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó, người với ngừơi là bạn bè,
là đồng chí là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống tinh thần phong phú,
được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẳn có của mình
Bốn là CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không
làm thì không hưởng, các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đở để tiến kịp miền xuôi
Năm là CNXH là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo
của Đảng .
Đó là những bản chất của CNXH và cũng là những mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đang ra sức
phấn đấu để đạt tới.
Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, trong đó bao
trùm lên tất cả là động lực con người, trên cả hai bình diện : cộng đồng và cá nhân. Đó là phát huy sức
mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc - động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Đó là phát huy sức
mạnh của con người được giải phóng để làm chủ. Để phát huy sức mạnh này phải tác động vào nhu cầu, lợi
ích của con người, phát huy động lực chính trị, tinh thần đạo đức, truyền thống, quyền làm chủ của người
lao động, thực hiện công bằng xã hội … Đó là khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa
xã hội, bao gồm đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, chống
chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập cái mới … Đó cũng là những trở lực đối với
sự nghiệp xây dựng CNXH.
Về con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra những đặc điểm và mâu
thuẫn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam nhưng bao trùm, “to nhất” là đặc điểm từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH, không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN”
Về độ dài của thời kỳ quá độ, Người nói “xây dựng CNXH là một cuộc đấu tranh cách mạng phức
tạp, gian khổ lâu dài”
Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, về phương diện kinh tế - văn hóa, Hồ Chí Minh chỉ rõ :
“… phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH …có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có
văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và
xây dựng nền kinh tế mới mà xây dựng nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”. Về chính trị, nội dung quan trọng
nhất để đảm bảo thắng lợi của công cuộc cách mạng này là giữ vững, tăng cường và phát huy vai trò lãnh
đạo của Đảng. Đảng phải được chỉnh đốn, nâng cao sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp
ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Mặt khác phải củng cố, tăng cường vai trò của Nhà nước, xây dựng những
thể chế dân chủ, dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân,
thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất; xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân và trí thức, do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; củng cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của
nó trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh, đồng thời phải
xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng XHCN. Về phương
diện quốc tế, theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta buộc chúng ta phải có ý
thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, hạn chế những khó khăn để
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
17
Về bước đi của thời kỳ quá độ, Người đã chỉ rõ : “Ta xây dựng CNXH từ 2 bàn tay trắng đi lên thì
khó khăn còn nhiều và lâu dài”, “phải làm dần dần”, “không thể một sớm một chiều”, “ai nói dễ là chủ
quan và sẽ thất bại”. Tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam phải
qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tuỳ theo hoàn cảnh”, nhưng chớ ham làm mau, ham rầm rộ … đi
bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần ”
Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng CNXH ở Việt Nam, Người luôn nhắc
nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài,
phải suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đi lên CNXH ở nước ta giai đoạn hiện nay,
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
Trước tình hình hiện nay, mặc dù CNXH đang ở vào giai đoạn thoái trào tuy nhiên CNXH vẫn là
sự phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người và sự lựa chọn đi theo con đườg XHCN của Hồ Chí Minh
và nhân dân là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn. Đất nước đang đứng trước những thử thách lớn lao của thời
đại, hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải kiên định con đường mục tiêu của mình và phải
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động .
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Ngày
nay, để giữ vững độc lập dân tộc trong xây dựng CNXH giai đoạn hiện nay là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, giữ
vững định hướng XHCN, tự chủ về kinh tế và giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Nhân tố quyết
định và đảm bảo cho sự phát triển đất nước đúng định hướng đó là tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý hiệu quả của Nhà nước, sự đoàn kết thống nhất của các tổ chức chính trị và đội ngũ cán bộ đảng
viên. Với sự soi đường của tư tưởng HCM, Đảng đã xác định cụ thể những bước đi như sau :
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội
trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ…".
"Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công
nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát
huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt
sở hữu, quản lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc."
"Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát
triển. “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực của đất nước”.
Tóm lại, tư tưởng HCM về CNXH về con đường quá độ lên CNXH ở VN thực sự là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta hiện nay. Vấn đề là phải tiếp tục làm quá triệt
những tư tưởng ấy trong cơ chế, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước. Trong tổ chức và hành
động của mỗi cán bộ, Đảng viên, chỉ có bằng hiệu quả thực tế trong đổi mới KT và chính trị, đem lại sự cải
18
thiện vật chất và tinh thần cho nhân dân, chúng ta mới củng cố được trong quần chúng niềm tin mà HCM
đã khẳng định :” con đường tiến tới của CNXH của các dân tộc là con đường chung của thời đại, của lịch
sử, không ai ngăn cản nổi”
Câu 8: Tổng kết quá trình cách mạng XHCN ở nước ta. ĐH 6 của Đảng chỉ rõ :
“Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan”. Từ phương pháp cách mạng HCM và thực tiễn cách mạng trong thời kỳ đổi mới,
đồng chí phân tích và chứng minh tính đúng đắn của kết luận trên.
Trong di sản vô cùng quí báu của HCM để lại cho toàn đảng, toàn dân, toàn quân, bên
cạnh quan điểm về đường lối chiến lược còn có cả một hệ thống các quan điểm mang tính chất
phương pháp luận khoa học về tiến hành cách mạng. Hệ thống quan điểm đó vừa là sự vận dụng,
phát triển phép biện chứng duy vật của CN Mác – Lênin, vừa thể hiện nét riêng độc đáo, sáng tạo
của Người trong quá trình cách mạng. Qua nghiên cứu phương pháp CM HCM giúp ta hiểu được
một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn về tư tưởng HCM, về những quy luật vận động của CM VN
cùng phương pháp CM của Đảng ta mà còn để vận dụng phương pháp CM của Người vào viêc
giải quyết những nhiệm vụ CM và những vấn đề cuộc sống đặt ra trong giai đoạn hiện nay
1. Khái niệm phương pháp cách mạng
Phương pháp cách mạng HCM là ở cấp độ bao trùm, phổ quát nhất của phương pháp
HCM “Phương pháp CM HCM hiểu theo nghĩa rộng là sự vận động tư tưởng HCM trong thực
tiễn. Nói cách khác, đó là những quy luật hoạt động mà theo đó mà tư tưởng của Người được hiện
thực hóa theo nghĩa hẹp, phương pháp CM HCM là hệ thống các cách thức, biện pháp, quy trình
hợp thành nguyên tắc điều chỉnh và hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng, trong
đấu tranh giành độc lập dân tộc, đi lên xây dựng CNXH ở VN.
Phương pháp cách mạng HCM không chỉ là sự vận dụng phép biện chứng duy vật của
CN Mác Lênin. Mặc dù cốt lõi của phương pháp CM HCM là phép biện chứng duy vật, song nó
còn thể hiện nét riêng hết sức độc đáo của HCM. Người đã tạo ra cho mình trên cơ sở kế thừa
những truyền thống, tinh hoa văn hóa dân tộc VN là tinh hoa trí tuệ nhân loại, cả cách cảm, cách
nghĩ của dân tộc là triết lý biện chứng của Phương Đông và Phương Tây. Ngay cả phép biện
chứng duy vật của CN Mác Lênin cũng được Người tiếp thu một cách nhuần nhuyễn và nhào
luyện lại trong thực tiễn, biến thành cái riêng của mình, thành phương pháp CM HCM.
2. Những nội dung cơ bản của phương pháp CM HCM : bao gồm 4 phương pháp lớn
- Phương pháp xác định bạn – thù, tập họp và huy động lực lượng toàn dân tộc tiến hành
CM: để tiến hành cách mạng cần phải định rõ ai là bạn ? ai là thù ? và “đâu là anh em thật sự và
đâu là kẻ thù”. Điều này đã được Người trả lời một cách rõ ràng. Tiêu chí để xác định bạn thù là
xuất phát từ lợi ích dân tộc và quyền lợi của nhân dân.
Về phương pháp tập hợp và huy động lực lượng toàn dân tộc tiến hành CM : Hồ Chí
Minh đã xác định CM là việc chung của dân chứ không phải là việc của 1,2 người” Vì vậy CM
trước tiên cần phải tuyên truyền vận động đoàn kết tất cả các tầng lớp yêu nước trong dân tộc, tập
hợp tổ chức họ thành một đội quân cách mạng to lớn dưới sự lãnh đạo của ĐCS, phải xây dựng
khối liên minh công nông vững chắc, phải có cách thức tập hợp, tổ chức khác nhau và phù hợp
với trình độ, khả năng của nhân dân để lôi kéo quần chúng, khơi dậy lòng yêu nước cũng như
nhiệt tình CM và tính năng động sáng tạo ở mỗi tầng lớp, ở mỗi con người.
19
- Phương pháp kết hợp tốt lực, thế, thời trong cách mạng : Cách mạng nổ ra muốn giành
thắng lợi phải kết hợp tốt giữa lực - thế - thời để tạo ưu thế tuyệt đối cách mạng. Lực là lực lượng
cách mạng bao gồm lực lượng vật chất lẫn tinh thần, bao hàm cả tiềm lực kinh tế quân sự và các
yếu tố chính trị, tinh thần. Sức mạnh của lực tăng lên gấp bội nếu như ở vào thế tốt . Thế là tư thế,
vị thế. Cách mạng nổ ra và kết thúc thắng lợi cần phải có thời cơ, thời điểm hội tụ tất cả những
điều kiện thuận lợi nhất, đó là thiên thời - địa lợi - nhân hòa.
- Phương pháp dĩ bất biến, ứng vạn biến : Đây là một phương châm được quán xuyến
trong toàn bộ hoạt động HCM, là nét độc đáo trong phương pháp cách mạng của Người.Để giúp
người cách mạng vượt qua những khó khăn thử thách, người cách mạng phải biết sử dụng cái bất
biến là chân lý cách mạng để đối phó với cái vạn biến đầy khó khăn thử thách trong quá trình hoạt
động cách mạng Người cách mạng phải sáng suốt, tỉnh táo, nhạy bén, trước khi biến đổi khôn
lường. Cách mạng muốn thắng lợi phải có những sách lược khôn khéo, mềm dẻo đồng thời phải
cứng rắn về nguyên tắc.
- Phương pháp xác định mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng là phương pháp quan trọng trong
phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh. Mặc dù không có những chuyên luận, lý luận về phương
pháp cách mạng, không đề cập riêng lẽ cách thức lựa chọn mục tiêu, con đường CM phải như thế
nào, song từ việc lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, cùng đường lối tiến hành 2 giai
đoạn CM nối tiếp nhau : cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên CM XHCN ở nước ta,
HCM đã lãnh đạo Đảng và nhân dân xác định mục tiêu, nhiệm vụ CM ở mỗi thời kỳ CM VN đã
thể hiện những nguyên tắc, phương pháp luận có giá trị to lớn. Vận dụng phép biện chứng duy vật
của CN Mác Lênin (về vật chất – ý thức, về lý luận và thực tiễn) vào hoàn cảnh nước ta trong xác
định mục tiêu nhiệm vụ cách mạng, luận điểm “phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan,
tôn trọng và hành động theo quy luật” đã được thể hiện xuyên suốt trong phương pháp xác định
mục tiêu, nhiệm vụ CM của HCM .
Trước nhất đó là phương pháp “phải lấy thực tế làm điểm xuất phát để xác định phương
hướng, mục tiêu nhiệm vụ của CM, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn để xác định chủ
trương, chính sách”
Đối với HCM, làm CM trước hết là để giải phóng cho đồng bào, dân tộc mình, nên thực
tế VN chính là điểm xuất phát cho mọi suy nghĩ và hành động của Người. Đồng thời Người cũng
yêu cầu phải từ điều kiện thực tế đất nước, con người, dân tộc VN với truyền thống mấy ngàn
năm lịch sử cùng với những điều kiện KT – VH – chính trị - XH của VN và mối quan hệ của VN
với thế giới để xác định mục tiêu, nhiệm vụ CM ở mỗi thời kỳ. Chính xuất phát từ thực tiễn trong
việc đề xuất đường lối chiến lược, chiến thuật mà Chủ tịch HCM cùng với Đảng đã lãnh đạo
thành công cuộc khởi nghĩa tháng 8 – 1945 và 2 cuộc kháng chiến thần thánh
Trong cách mạng XHCN, HCM luôn luôn lưu ý đến những đặc điểm của VN, người chỉ
rõ “đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước NN lạc hậu tiến thẳng lên CNXH,
không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN”. Đồng thời Người cũng nhắc nhở “ đứng về
mặt xây dựng CNXH, tuy chúng ta đã có những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng
chúng ta cũng không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có
những đặc điểm riêng của ta”. Xuất phát từ thực tế và quy luật LLSX-QHSX, HCM cũng đã chỉ
rõ trong giai đoạn quá độ đi lên CNXH có sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình
20
thức sở hữu khác nhau là tất yếu, do đó cần phải duy trì nhiều hình thức quản lý, phân phối khác
nhau.
HCM đánh giá rất cao vai trò của lý luận, song lý luận phải gắn liền với thực tiễn, người
viết : “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong cuộc đấu tranh, xem xét, so
sánh thật kỷ lưỡng, rõ ràng làm thành kết luận rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý
luận chân chính. Người đã đề cao kinh nghiệm và thường xuyên tổng kết kinh nghiệm một cách
có lý luận để phát triển lý luận mới, hoàn chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách. Người chỉ rõ :
“thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành”. Chính vì vậy
người cho rằng tổng kết thực tiễn là hoạt động lý luận quan trọng nhất của Đảng.
- Quan điểm toàn diện, trọng tâm, trọng điểm, thiết thực : HCM luôn chú trọng cách tiếp
cận hệ thống, xem xét toàn diện các nhân tố, các sự kiện, các mối liên hệ. Trong xác định mục
tiêu nhiệm vụ cách mạng, Người yêu cầu phải nhìn nhận tất cả mặt, các mối liên hệ, chỉ rõ tất cả
các nhiệm vụ cần giải quyết, song phải xác định rõ cái gì là chủ yếu, chỉ có thể giải quyết tốt
nhiệm vụ chủ yếu của mỗi thời kỳ mới có thể tạo ra bước đột phá đưa cách mạng tới thành công.
Do vậy, xác định rõ mâu thuẫn chủ yếu, nhiệm vụ chủ yếu là điều có tầm quan trọng đặc biệt
trong cách mạng
Đặt lên hàng đầu tính hiệu quả của công việc , HCM luôn coi trọng tính thiết thực. Người
chỉ rõ : Kế hoạch phải thiết thực, phải làm được. Chớ làm kế hoạch đẹp mắt, to tát, kể hàng triệu
nhưng không thực hiện được” và “chớ nên tham mau, tham nhiều trong cùng một lúc”
- Quan điểm giành thắng lợi từng bước : Vận dụng phép biện chứng duy vật của CN Mác
Lênin vào hoàn cảnh nước ta trong xác định mục tiêu nhiệm vụ cách mạng, HCM chỉ rõ phải thực
hiện quy luật giành thắng lợi từng bước. Theo Người, cách mạng là những thắng lợi nối tiếp nhau,
bước trước chuẩn bị cho bước sau, bước sau cao hơn bước trước, những bước tuần tự chuẩn bị
cho những bước nhảy vọt, qua nhiều bước nhảy vọt nhỏ dẫn tới bước nhảy vọt lớn, đưa cách
mạng đến thắng lợi hoàn toàn. Biết giành thắng lợi từng bước đã thực sự trở thành phương pháp
CM VN
Đề phòng tư tưởng nôn nóng muốn đốt cháy giai đoạn trong CM XHCN, Người nhắc đi
nhắc lại “ dần dần”. Khi nói về quá trình tiến hành CM XHCN ở nước ta, Người nhắc nhở phải
tiến từng bước vững chắc, không được bất chấp quy luật. Theo Người, chỉ có tiến hành từng bước
vững chắc thì mới có thề tiến nhanh tiến mạnh. Trong xác định mục tiêu, nhiệm vụ cần quán triệt
tinh thần tận dụng triệt để những thành tựu của CM KH và công nghệ hiện đại, đi tắt đón đầu.
Song không được nôn nóng phải tiến từn g bước vững chắc.
3. Vận dụng vào thực tiễn
Sau khi thực hiện thành công cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cả
nước đã bước vào giai đoạn quá độ đi lên. Trong thời kỳ trước đổi mới, do bỏ qua không vận
dụng phương pháp xác định mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng của HCM là phải căn cứ, xuất phát từ
“thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật”. Đảng ta đã mắc nhiều sai lầm trong
đề ra đường lối, chu trương, chính sách cho giai đoạn cách mạng này, vi phạm các quy luật khách
quan, biểu hiện qua một số lĩnh vực cụ thể như : “chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần ở nước ta tồn tại trong một thời gian tương đối dài” nên “đã có những biểu hiện nóng
21
vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa”, “chưa nắm vững và vận dụng
đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ SX với tính chất và trình độ SX nên “có lúc đẩy mạnh
quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ” hoặc “đẩy
mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết”, “có nhiều chủ trương sai trong
việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ “cùng với việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là SX và đầu
tư thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện khả năng thực tế
”, bỏ qua không thừa nhận và vận dụng những quy luật khách quan của phương thức sản xuất, của
nền kinh tế hàng hóa … dẫn đến việc SX chậm phát triển, khủng hoảng kinh tế trên mâu thuẩn
giữa cung và cấu ngày càng gay gắt do việc áp dụng những chính sách, chủ trương trên đã vi
phạm những quy luật khách quan của nền kinh tế SX hàng hóa (quy luật cung cầu quy luật giá trị,
quy luật cạnh tranh, phá sản …).
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm trên, Đảng đã xác định rõ tiến hành công cuộc đổi mới
toàn diện, phải lấy CN Mác-Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hoạt
động, đặc biệt là khi đề ra mục tiêu chính sách “phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng. Năng lực nhận thức theo quy luật
là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng” Trên cơ sở hiểu rõ mối quan hệ biện chứng
giữa kinh tế và tình hình chính trị và ổn định xã hội, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi
mới về tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục
khủng hoảng KT-XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị,
xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống
XH. Bên cạnh đó, với quan điểm tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, trong các chủ
trương, chính sách kinh tế từ sau Đại hội Đảng lần VI đến nay đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Cụ thể như : Đại hội VI xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một công
việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian ngắn, không thể nóng vội làm trái quy luật.
Văn kiện Đại hội xác định: "Nay phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với
những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất". Đại hội
cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý luận, hoàn toàn mới mẻ: "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ:
lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi
quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều thành phần là một
đặc trưng của thời kỳ quá độ".Trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, tôn trọng nguyên tắc quan
hệ SX phải phù hợp với lực lượng SX, Đại hội VI đã xác định phải điều chỉnh lại các cơ cấu này
theo hướng "không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế",
tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương thực-
thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những chương trình chẳng
những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sản xuất và
lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa
Đất nước đang đứng trước những thử thách lớn lao của thời đại, hoàn cảnh lịch sử đòi
hỏi Đảng và Nhà nước ta phải không ngừng đổi mới, sửa đổi lối làm việc. Thực trạng của tình
22
hình chính trị - kinh tế - xã hội trong những năm qua và những biến đổi tích cực đã khẳng định
tính đúng đắn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc gắn lý luận và thực tiễn. ĐH
Đảng lần VII đã chỉ ra “chỉ có tăng cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận vào công cuộc đổi
mới trở thành hoạt động tự giác, chủ động, sáng tạo, bớt được những sai lầm và những bước đi
quanh co phức tạp”. ĐH Đảng lần IX lại tiếp tục nhấn mạnh “đẩy mạnh việc tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, thảo luận, dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới bức xúc nảy
sinh từ thực tiễn, từng bước cụ thể hóa bổ sung phát triển đường lối chính sách của Đảng”.
Hội nghị Trung ương lần V Khóa IX có nêu ra một Nghị quyết riêng về đẩy mạnh công tác tư
tưởng lý luận trong tình hình mới “cụ thể công tác tư tưởng lý luận trong tình hình hiện nay là
phải góp phần khơi dậy mạnh mẽ các nguồn lực trong XH, tận dụng được thời cơ, đẩy lùi nguy
cơ, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc
VN XHCN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp cách mạng là rất phong phú, toàn diện và sâu
sắc. Hơn bao giờ hết trong thời kỳ đổi mới hiện nay, chúng ta cần học tập vận dụng phát triển tư
tưởng đó vào công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về phương pháp cách mạng nói riêng và toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh (là nền
tảng tư tưởng là kim chỉ nam cho hành của Đảng ta và cách mạng Việt Nam) có mãi sáng soi cho
con đường cách mạng Việt Nam./.