Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nghiên cứu khả năng sinh trưởng phát triển của một số giống lạc tại huyện yên thế, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.72 KB, 89 trang )



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





LÊ PHƯƠNG THẢO




NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG
PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ GIỐNG LẠC TẠI
HUYỆN YÊN THẾ, TỈNH BẮC GIANG




LUẬN VĂN
THẠC SĨ

KHOA HỌC CÂY TRỒNG














Thái Nguyên - 2014


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





LÊ PHƯƠNG THẢO



NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG
PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ GIỐNG LẠC TẠI
HUYỆN YÊN THẾ, TỈNH BẮC GIANG

Ngành : Khoa học cây trồng
Mã số ngành: 60.62.01.10


LUẬN VĂN

THẠC SĨ

KHOA HỌC CÂY TRỒNG


Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Thị Nguyên










Thái Nguyên - 2014


i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả



























ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành bản luận văn này, lời đầu tiên tôi xin chân thành cảm

ơn các thầy giáo, cô giáo Khoa Sau Đại Học và Khoa Học Cây Trồng của
trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên, những người dạy dỗ, trang bị cho
tôi những kiến thức bổ ích.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới TS. Dương Thị Nguyên,
người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt quá trình hình thành luận
văn tốt nghiệp này.
Nhân dịp này tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới phòng nông
nghiệp, phòng thống kê, phòng tài nguyên và môi trường, chính quyền và
nhân dân xã Đồng Tâm, xã An Thượng và xã Phồn xương huyện Yên Thế
tỉnh Bắc Giang, cùng bạn bè, gia đình, những người thân đã luôn bên tôi cổ
vũ, động viên tiếp thêm cho tôi nghị lực để hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Do còn hạn chế về trình độ, năng lực, kinh nghiệm thực tế và thời gian
có hạn, nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự giúp đỡ,
góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để luận văn của
tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

Tác giả











iii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT v
DANH MỤC CÁC BẢNG vi
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu, yêu cầu của đề tài 2
2.1. Mục tiêu của đề tài 2
2.2. Yêu cầu của đề tài 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 2
3.1. Đối tượng nghiên cứu 2
3.2. Phạm vi nghiên cứu 2
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
4.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài 2
4.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
CHƯƠNG 1.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lạc trên thế giới 3
1.1.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới 3
1.1.2. Một số yếu tố hạn chế chính đến sản xuất lạc trên thế giới . 6
1.1.3. Kết quả nghiên cứu về chọn tạo giống lạc 9
1.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lạc ở Việt Nam 11
1.2.1. Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam 11
1.2.2. Một số yếu tố hạn chế sản xuất lạc ở Việt Nam 13
1.2.3. Tình hình nghiên cứu về chọn tạo giống lạc ở Việt Nam 15
1.3. Tình hình sản xuất lạc tại Bắc Giang 23
1.4. Tình hình sản xuất lạc tại Yên Thế 23

CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 26
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 26
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 26
2.2. Nội dung nghiên cứu 27
2.3. Phương pháp nghiên cứu 27
2.4. Quy trình kỹ thuật 28
2.4.1. Thời vụ 28
2.4.2. Làm đất lên luống 28
2.4.3. Bón phân 28
2.4.4. Làm cỏ, vun gốc, chăm sóc 29
2.4.5. Phòng trừ sâu bệnh 29


iv

2.4.6. Tưới và tiêu nước 29
2.5. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp theo dõi 30
2.5.1. Các chỉ tiêu sinh trưởng phát triển của cây 30
2.5.2. Đánh giá mức độ sâu hại 30
2.5.3. Đánh giá mức độ bệnh hại 31
2.5.4. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất 32
2.6. Phương pháp xử lý số liệu 33
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 34
3.1. Kết quả nghiên cứu khả năng sinh trưởng phát triển của một số giống lạc
ở vụ Thu Đông năm 2013 tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang 34
3.1.1. Khả năng mọc mầm và các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của các giống lạc
34
3.1.2. Khả năng phân cành của các giống lạc ở thời điểm thu hoạch 37
3.1.3. Khả năng hình thành nốt sần của các giống lạc 38

3.1.4. Mức độ nhiễm một số loại sâu, bệnh hại chính của các
giống lạc thí nghiệm 39
3.1.5. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống
lạc thí nghiệm 42
3.2. Kết quả nghiên cứu khả năng sinh trưởng phát triển của một số giống lạc
ở vụ Xuân năm 2014 tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang 56
3.2.1. Khả năng mọc mầm và các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của các giống lạc
46
3.2.2. Khả năng phân cành của các giống lạc ở thời điểm thu hoạch. 48
3.2.3. Khả năng hình thành nốt sần của các giống lạc 49
3.2.4. Mức độ nhiễm một số loại sâu, bệnh hại chính của các giống lạc 50
3.2.5. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống
lạc thí nghiệm 52
3.3. Kết quả xây dựng mô hình trình diễn giống lạc L14 ở vụ Xuân 2014 tại
huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang 56
3.3.1. Kết quả xây dựng mô hình trình diễn giống lạc L14 ở vụ Xuân 2014 56
3.3.2. Đánh giá của người dân đối với giống tham gia xây dựng
mô hình sản xuất trong vụ Xuân 2014 56
CHƯƠNG IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 60
4.1. Kết luận 60
4.2. Đề nghị 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO 61
I. Tài liệu tiếng Việt 61
II. Tài liệu tiếng Anh 63


v

DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT


đ/c
CT
P
NSTT
NSLT
NSCT
BNNPTNT
QCVN
TGST
ICRISAT
KHKT
FAO
NN&PTNT
NSTB
: Đối chứng
: Công thức
: Khối lượng
: Năng suất thực thu
: Năng suất lý thuyết
: Năng suất cá thể
: Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn
: Quy chuẩn Việt Nam
: Thời gian sinh trưởng
: Viện nghiên cứu cây trồng vùng bán khô hạn
: Khoa học kỹ thuật
: Tổ chức nông nghiệp và lương thực thế giới
: Nông nghiệp và phát triển nông thôn
: Năng suất trung bình




vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lạc của một số nước trên thế giới 4
Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng lạc ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2012.13
Bảng 1.3: Diện tích, năng suất và sản lượng lạc của tỉnh giai đoạn 2006 - 2013 20
Bảng 1.4. Diện tích và sản lượng lạc các huyện từ năm 2010 đến 2013 ở
tỉnh Bắc Giang 22
Bảng 1.5: Diện tích, năng suất và sản lượng lạc của huyện Yên Thế qua các năm
(2006 - 2013) 24
Bảng 3.1. Khả năng mọc mầm và các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của các
giống lạc thí nghiệm ở vụ thu đông 35
Bảng 3.2. Khả năng phân cành của các giống lạc thí nghiệm ở thời điểm thu hoạch
vụ thu đông 2013 37
Bảng 3.3. Tổng số nốt sần, nốt sần hữu hiệu của các giống lạc thí nghiệm 38
Bảng 3.4. Mức độ nhiễm một số loại sâu bệnh hại chính của các giống lạc thí nghiệm ở
vụ thu đông năm 2013 tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang 40
Bảng 3.5. Các yếu tố cấu thành năng suất các giống lạc thí nghiệm ở vụ thu đông
2013 tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang 43
Bảng 3.6. Khả năng mọc mầm và các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của các
giống lạc thí nghiệm ở vụ xuân năm 2014 46
Bảng 3.7. Khả năng phân cành của các giống lạc thí nghiệm ở thời điểm thu hoạch
tại vụ xuân 2014 48
Bảng 3.8. Tổng số nốt sần, nốt sần hữu hiệu của các giống lạc thí nghiệm ở vụ
xuân năm 2014 49
Bảng 3.9. Mức độ nhiễm một số loại sâu hại chính của các giống lạc thí nghiệm ở
vụ xuân năm 2014 tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang 51
Bảng 3.10. Các yếu tố cấu thành năng suất các giống lạc thí nghiệm ở vụ xuân

2014 tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang 53
Bảng 3.11. Kết quả xây dựng mô hình trồng giống lạc L14 vụ Xuân 2014 58


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây lạc (Arachis hypogacea L.) là cây công nghiệp ngắn ngày, cây lấy
dầu có giá trị kinh tế cao đồng thời là cây cải tạo đất tốt. Chính vì vậy mà nhu
cầu sản xuất lạc trên thế giới ngày càng tăng.
Hiện nay cây lạc đã trở thành một trong những mặt hàng nông sản xuất
khẩu quan trọng của ngành nông nghiệp. Do vậy, việc phát triển và mở rộng
sản xuất các giống lạc có năng suất cao để tăng hiệu quả kinh tế trên đơn vị
diện tích đất và sử dụng bền vững tài nguyên đất là một trong những chủ
trương, định hướng của cả nước nói chung và của Bắc Giang nói riêng.
Yên Thế là một huyện miền núi, có điều kiện tự nhiên, sinh thái, đất đai,
thổ nhưỡng thuận lợi với sản xuất nông nghiệp. Trong đó, diện tích lạc gieo
trồng hàng năm của huyện ổn định khoảng 1.200ha - 1.300ha, năng suất bình
quân đạt 22,1 tạ/ha. Mặc dù trong những năm qua bằng các phương pháp khác
nhau trên địa bàn huyện cũng đã du nhập một số giống lạc mới về để phục vụ
sản xuất nhưng với diện tích không lớn và không mở rộng thành sản xuất hàng
hóa. Nguyên nhân hạn chế tiềm năng năng suất cũng như mở rộng diện tích sản
xuất cây lạc ở Yên Thế là bộ giống lạc sử dụng cho sản xuất vẫn là các giống
lạc cũ, thoái hóa, do nông dân tự để, chưa tìm được bộ giống cho năng suất cao,
chất lượng tốt và biện pháp thâm canh để nâng cao năng suất là chưa hợp lý.
Để phát triển sản xuất lạc tại Yên Thế theo hướng sản xuất hàng hóa
phục vụ công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện, góp phần
vào việc phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo thì việc xác định được bộ

giống lạc cho năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện của địa
phương để đưa vào sản xuất đại trà là rất cần thiết. Vì vậy tôi tiến hành thực
hiện đề tài nghiên cứu khoa học:
“Nghiên cứu khả năng sinh trưởng phát triển của một số giống lạc
tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang”


2

2. Mục tiêu, yêu cầu của đề tài
2.1. Mục tiêu của đề tài
- Xác định giống có năng suất cao, phù hợp với điều kiện sinh thái của
địa phương để đưa vào sản xuất đại trà.
2.2. Yêu cầu của đề tài
- Xác định khả năng sinh trưởng, phát triển các giống.
- Theo dõi khả năng chống chịu sâu bệnh.
- Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu đánh giá khả năng sinh trưởng phát triển
của 6 giống lạc: L14, L23, MD7, TB25, TK10, Đỏ Bắc Giang (đối chứng)
trên vùng đất huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được tiến hành trong điều kiện vụ Thu Đông 2013 và vụ Xuân
2014 trên vùng đất huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
4.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Xác định các giống lạc có khả năng sinh trưởng phát triển tốt, cho
năng suất cao sẽ khắc phục được tình trạng suy giảm năng suất do diễn biến
thời tiết ngày càng bất lợi cho sản xuất nông nghiệp. Qua đó, các nhà quản lý,

cán bộ kỹ thuật có cơ sở khoa học vững chắc để nghiên cứu định hướng, quy
hoạch phát triển và chỉ đạo sản xuất lạc trên địa bàn tỉnh.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài làm cơ sở khoa học để chọn được giống
phù hợp với điều kiện địa phương cho năng suất cao để đưa vào sản xuất đại trà.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Chọn được giống lạc có khả năng sinh trưởng phát triển tốt cho năng
suất cao đưa vào sản xuất đại trà tại huyện Yên Thế tỉnh Bắc giang.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
tăng vụ nhằm khai thác hiệu quả hơn quĩ đất, tạo sản phẩm phát triển kinh tế
sản xuất hàng hóa của huyện Yên Thế tỉnh Bắc giang. .
- Nâng cao hiệu quả kinh tế và thu nhập cho người trồng lạc tại địa phương.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lạc trên thế giới
1.1.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới
Trong các loài cây làm thực phẩm cho con người, lạc có một vị trí quan
trọng. Ngoài giá trị về dinh dưỡng, kinh tế chúng còn là những cây làm tốt đất,
đóng vai trò quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển nông
nghiệp bền vững, đặc biệt là các vùng sinh thái miền núi. Trên thế giới cây lạc
được trồng ở hơn 100 nước và là cây trồng đứng thứ 2 sau đậu tương và được
sử dụng rất rộng rãi để làm thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp. Nhu
cầu sử dụng và tiêu thụ lạc ngày càng tăng đã và đang khuyến khích nhiều
nước đầu tư phát triển sản xuất lạc với quy mô ngày càng mở rộng.
Mặc dù cây lạc có từ lâu đời nhưng tầm quan trọng của cây lạc mới chỉ
được khẳng định hơn một trăm năm nay, khi những xưởng ép dầu ở Macxay

bắt đầu nhập lạc từ Tây Phi để ép lấy dầu, mở đầu thời kỳ dùng lạc trên quy
mô lớn. Công nghiệp ép dầu đã được xây dựng với tốc độ nhanh ở các nước
Châu Âu và trên toàn thế giới. Gần đây người ta chú ý nhiều hơn tới nguồn
protein trong lạc, nhân loại hy vọng vào các loại cây bộ đậu sẽ giải quyết nạn
đói protein trước mắt và trong tương lai.
Trong các cây bộ đậu diện tích lạc đứng thứ hai sau đậu tương. Diện tích
trồng lạc trên thế giới đạt 23 - 24 triệu ha và sản lượng đạt tới 30 triệu tấn/năm.


4

Bảng 1.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lạc của một số nước trên thế giới
Diện tích
(triệu/ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
Tên nước
2009

2010 2011 2009 2010 2011 2009 2010 2011
Thế giới 23,93

25,30 21,78 1,52 1,66 1,77 36,45 41,89 38,61
Ấn Độ 5,47 5,94 4,19 1,00 1,39 1,65 5,42 8,26 6,93
Trung Quốc

4,40 4,55 4,67 3,36 3,45 3,45 14,76 15,70 16,11
Nigeria 2,64 2,79 2,34 1,12 1,36 1,26 2,98 3,79 2,96

Senegal 1,05 1,19 0,86 0,97 1,07 0,60 1,03 1,28 0,52
Châu Mỹ 0,98 1,01 0,99 2,95 3,09 3,06 2,90 3,13 3,04
Indonesia 0,62 0,62 0,54 1,25 1,25 1,28 0,77 0,78 0,70
Việt Nam 0,24 0,23 0,22 2,08 2,10 2,08 0,51 0,49 0,46
Nguồn: Faostat,
Qua bảng 1.1 cho thấy: Diện tích trồng lạc của các nước trên trên thế
giới đều có sự biến động. Chỉ riêng Trung Quốc là nước có diện tích trồng lạc
tăng liên tục năm 2011 tăng (0,27 triệu ha) so với năm 2009. Năm 2009 -
2010 Ấn Độ có diện tích trồng lạc tăng lên 0,49 triệu ha, nhưng từ 2010 -
2011 diện tích lại giảm 1,75 triệu tấn (năm 2011 chỉ còn 4,19 triệu tấn).
Nigeria diện tích tăng năm 2009 và 2010 tuy nhiên tốc độ tăng chậm, nhưng
đến năm 2011 lại giảm (0,3triệu ha) so với 2009. Senegal diện tích năm 2011
(0,86 triệu ha) giảm so với 2010 (0,33 triệu ha) và (0,19 triệu ha) so với năm
2009. Với Châu Mỹ có diện tích trồng lạc nhỏ, năm 2009 (0,98 triệu ha) năm
2010 có sự tăng diện tích (0,02 triệu ha) so với năm 2011. Indonesia là nước
có diện tích trồng lạc giảm liên tục qua các năm từ 2009 đến 2011 tính đến
năm 2011 đã giảm (0,08 triệu ha) so với 2009. Điều đó chứng tỏ cây lạc
không được chú trọng đầu tư mở rộng diện tích ở đây. Ở Việt Nam diện tích
cây lạc cũng giảm liên tục, năm 2009 diện tích chiếm 1,0% tổng diện tích


5

trồng lạc thế giới. Đến năm 2010 diện tích lại giảm (0,01 triệu ha) so với năm
2009. Năm 2011 lúc này diện tích của Việt Nam chiếm 1,01% tổng diện tích
trồng lạc thế giới.
Việc tăng năng suất lạc ở nhiều quốc gia là nhờ ứng dụng rộng rãi các
thành tựu khoa học công nghệ mới trên đồng ruộng nông dân. Kinh nghiệm
của Ấn Độ cho thấy nếu chỉ sử dụng giống mới kết hợp với kỹ thuật canh tác
tiến bộ đã tăng năng suất lạc 50 - 60%. Tại Trung Quốc đã sử dụng 90 - 95%

giống mới cùng nhiều biện pháp kỹ thuật như cày sâu, bón phân cân đối, mật
độ trồng hợp lý, phòng trừ sâu bệnh tổng hợp, đặc biệt là áp dụng biện pháp
che phủ ni lông đã làm tăng năng suất 20 - 50%.
Giai đoạn từ 2009 - 2011, năng suất lạc thế giới tăng chậm. Năm 2011
là 177 tấn/ ha, tăng 0,25 tấn/ ha so với năm 2009. Các nước có năng suất lạc
tăng đó là: Ấn Độ, Indonesia. Trong đó năng suất tăng nhiều nhất là Ấn Độ
năm 2011 tăng (0,65 tấn/ha) so với năm 2009. Các nước có năng suất tăng,
giảm không ổn định là: Nigeria, Senegal, Châu Mỹ. Trong đó Nigeria năm
2011 giảm (0,1 tấn/ha) so với năm 2010. Về Senegal năm 2011 giảm (0,37
tấn/ha) so với năm 2009. Còn Châu Mỹ năng suất lạc năm 2011 cũng giảm
(0,11 tấn/ha) so với năm 2009. Ở các nước này, sản xuất lạc sớm được đầu tư
cho nghiên cứu, ứng dụng và sớm có những thành công vượt trội. Tuy nhiên,
giai đoạn này đang bị chững lại. Ở Việt Nam năng suất giai đoạn này tăng
giảm không đáng kể, năm 2011giảm (0,02 tấn/ha) so với 2010.
Sản lượng lạc thế giới giai đoạn 2011 giảm (3,28 triệu tấn) so với năm
2010 tăng (2,16 triệu tấn) so với năm 2009. Sản lượng giảm không phải do
năng suất lạc giảm mà chủ yếu do diện tích trồng lạc giảm. Trung Quốc là
nước có sản lượng lạc lớn. Tuy những năm gần đây có xu hướng giảm nhưng
vẫn luôn chiếm vị trí đứng đầu thế giới đạt (16,11 triệu tấn) trong năm 2011,
trong khi sản lượng lạc của Việt Nam chỉ đạt (0,46 triệu tấn).


6

Hiện nay, lạc là một trong những mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn.
Trong những thập niên 70, 80 của thế kỷ trước, sản lượng lạc xuất khẩu trên
thế giới bình quân chỉ đạt (1,11 - 1,16 triệu tấn/năm) đến năm 1997 - 1998
tăng lên (1,39 triệu tấn) và đến năm 2001 - 2002 đạt (1,58 triệu tấn). Trong đó
châu Mỹ và châu Á là 2 khu vực xuất khẩu nhiều nhất chiếm 70% sản lượng
lạc xuất khẩu của thế giới. Ở khu vực Đông Nam Á, trong những năm 80 của

thế kỷ 20, xuất khẩu lạc hàng năm ở chỉ đạt (0,32 triệu tấn/năm).
Trong đó, Việt Nam, Indonesia, Thái Lan, Singapore là các nước xuất
khẩu lạc nhiều. Trung Quốc, Mỹ, Achentina, Ấn Độ, Việt Nam là những nước
xuất khẩu lạc nhiều trên thế giới. Ngược lại, Hà Lan, Canada, Đức, Nhật,
Singapore, Pháp là những nước nhập khẩu lạc nhiều trên thế giới.
Từ năm 1991 đến năm 2000, Trung Quốc là nước xuất khẩu lạc nhiều
nhất, hàng năm trung bình xuất khẩu gần (78 nghìn tấn), chiếm trên 26,5%
tổng sản lượng lạc xuất khẩu của thế giới. Đứng thứ 2 là Mỹ, trung bình hang
năm xuất khẩu (67,3 nghìn tấn), chiếm 22,9% tổng lượng xuất khẩu lạc thế
giới. Achentina là nước đứng thứ 3 về xuất khẩu lạc, trung bình hàng năm
xuất khẩu (36,2 nghìn tấn), chiếm 12,3% lượng lạc xuất khẩu thế giới. Hà Lan
là nước nhập khẩu lạc lớn nhất thế giới từ năm 1991 - 2000, trung bình hàng
năm nhập khẩu (39,8 nghìn tấn), chiếm 13,9% tổng lượng lạc nhập khẩu
tấn) lạc mỗi năm.
Trên thế giới các nước xuất khẩu lạc nhiều là Trung Quốc, Mỹ,
Achentina, Ấn Độ. Các nước nhập khẩu hàng năm lớn như Hà lan, Indonexia,
Anh, Singgapo, Đức.
1.1.2. Một số yếu tố hạn chế chính đến sản xuất lạc trên thế giới
Lạc là cây trồng có tiềm năng cho năng suất rất cao, tuy nhiên nhiều
nơi con người chưa khai thác được tiềm năng này. Diện tích trồng lạc của
nhiều nước giảm, năng suất lạc thấp. Để giải quyết vấn đề này, việc xác định


7

các yếu tố hạn chế đến sản xuất lạc là cần thiết. Trong nhiều năm qua các nhà
khoa học trên thế giới đã xác định được ba nhóm yếu tố hạn chế chính là:
Kinh tế xã hội, phi sinh học và sinh học. Về các yếu tố kinh tế - xã hội,
Willam M.J., Dillon J.L. (1987) [51] đã chỉ ra rằng các yếu tố quan trọng nhất
hạn chế sản xuất đậu đỗ là thiếu sự quan tâm chú ý ưu tiên phát triển cây đậu

đỗ kể cả phía nhà nước và nông dân. Nhiều nơi, con người chủ yếu chú trọng
phát triển cây lương thực, coi cây đậu đỗ là cây trồng phụ. Nhiều nước nông
dân nghèo không có cơ hội tiếp cận với tiến bộ kỹ thuật trồng lạc mới, để hạn
chế yếu tố này chính phủ và các nhà khoa học nhiều nước đã tìm cách chia sẻ
với nông dân trồng lạc. Tuy nhiên, việc này chưa được phổ biến. Thị trường
tiêu thụ lạc không ổn định cũng là yếu tố hạn chế đến sản xuất lạc. Về các yếu
tố phi sinh học như khô hạn, đất chua, nghèo dinh dưỡng là yếu tố hạn chế lớn
đến sản xuất lạc. Theo Carangal và các cộng sự (1987) [32], cho rằng các yếu
tố khí hậu, điều kiện đất, chế độ mưa là những yếu tố hạn chế năng suất đậu
đỗ ở hầu hết khu vực châu Á. Sarma (1984) [47], Nageswara Rao (1985) [42],
[43], các tác giả chỉ ra rằng nhiều khu vực trên thế giới, trở ngại lớn nhất đến
phát triển diện tích và tăng năng suất lạc là yếu tố nước. Bhagsari (1976) [26],
Black (1985) [27], Chapman (1989) [34], Wright (1992) [52], Ben Hur (1995)
[28] cho rằng, những vùng trồng lạc nhờ nước trời, thiên nhiên không cung
cấp đủ nước cho cây lạc do vậy, khô hạn luôn là yếu tố hạn chế đối với cây
lạc, năng suất thường thấp và không ổn định. Patel (1983) [45] cho rằng, đất
thiếu nước cây thấp, sinh trưởng kém, năng suất thấp. Đất chua, mặn, nghèo
dinh dưỡng là yếu tố hạn chế sản xuất lạc. Shalhevet (1968) cho biết lạc được
trồng trên đất có độ mặn 4.900 micromhos/cm thì sản lượng giảm 50 %, nếu
độ mặn là 6.500 micromhos/cm thì không có sản lượng. Reid và Cox (1973)
[46], khẳng định lạc trồng trên đất có pH dưới 5 thường cho năng suất thấp.
Đất thiếu Zn cây lạc có số hoa, tia quả giảm, sinh trưởng của rễ và thân cây


8

chậm, thiếu Bo quả không có hạt. Caswell (1987) [33], Bruce (1987) [30],
Murata (2002) [40] chỉ ra rằng sự mất cân đối, thiếu hụt các chất dinh dưỡng
ở trong đất là nguyên nhân dẫn đến năng suất lạc thấp. Beck (1987) [29],
Brady (1994) [31], Maccio (2002) [39] đã cho biết đất chua, hàm lượng P, Ca,

Mg, Mo thấp, Al và Mn cao ức chế sự hình thành và hoạt động của nốt sần,
hạn chế quá trình cố định đạm sinh học ở cây lạc, từ đó dẫn đến năng suất
thấp. Như vậy, đảm bảo chế độ dinh dưỡng đủ và cân đối là rất cần thiết để
cây lạc phát huy hết tiềm năng cho năng suất cao.
Lạc là cây mẫn cảm với nhiệt độ và cường độ ánh sáng ngày ngắn.
Cường độ ánh sáng thấp vào thời kỳ ra hoa làm cho lạc sinh trưởng chậm,
cành sinh sản bị ức chế, hoa rụng; vào thời kỳ đâm tia, hình thành quả làm số
lượng tia và quả giảm (Hudgens và Mc Cloud, 1974) [36]. Nhiệt độ đất dưới
20
0
C hoặc lớn hơn 35
0
C đều là yếu tố hạn chế, làm quả lạc chậm hay ngừng
phát triển dẫn đến năng suất lạc thấp (Ono Y., Nakayama K., Kubota M.
1974) [44]. Nhiệt độ đất thấp, kết hợp thiếu nước làm cây lạc thấp, lá vàng
khô, mã quả xấu, năng suất thấp; còn nhiệt độ cao kết hợp hạn làm cây thấp,
thân nhỏ yếu lá nhỏ, quả bé năng suất thấp (Leong S. K., Ong C. K., 1983)
[38] và Moreshet và các cộng sự, 1996) [41]. Nhiệt độ đất thấp dưới 12
0
C hạt
lạc không nảy mầm được, lạc nẩy mầm và sinh trưởng tốt nhất trong điều kiện
nhiệt độ 28-35
0
C. Qua đó cho thấy, để khắc phục yếu tố hạn chế về ánh sáng
và nhiệt độ, cần bố trí thời vụ trồng lạc sao cho các thời kỳ mẫn cảm tránh
được thời gian nhiệt độ thấp và ánh sáng ngày ngắn.
Các yếu tố sinh học như sâu bệnh hại, giống có khả năng chống chịu
kém là yếu tố hạn chế lớn đến sản xuất lạc trên thế giới. Ấn Độ thiệt hại do sâu,
bệnh cho lạc năm 1987 lên tới 150 triệu đôla, tại Nigiêria năm 1975 thiệt hại ở
lạc do virut đã lên tới 250 triệu đôla. Theo Wightman và Ranga Rao (1994)

[49] cho biết sâu hại lạc làm giảm năng suất lạc 15 -20 %. Duan Shufen (1998)


9

[35], cho biết ở Trung Quốc, những năm ở thập kỷ 60, 70 do thiếu những giống
lạc kháng bệnh, chịu hạn nên năng suất lạc rất thấp 11,0 -12,0 tạ/ha. Từ năm
1990 đến nay, nhờ có công tác chọn tạo giống và kết hợp áp dụng biện pháp kỹ
thuật tiên tiến nên năng suất lạc đạt rất cao 30,1 tạ/ha (2005).
1.1.3. Kết quả nghiên cứu về chọn tạo giống lạc
Nghiên cứu về vấn đề chọn tạo giống lạc, ngay từ rất sớm các nhà khoa
học trên thế giới đã quan tâm đến việc thu thập và bảo tồn nguồn gen cây lạc.
Viện Nghiên cứu Cây trồng vùng nhiệt đới bán khô hạn (ICRISAT) là cơ sở
nghiên cứu lớn nhất về cây lạc. Tại ICRISAT nguồn gen cây lạc từ con số 8498
(năm 1980) ngày càng được bổ sung phong phú hơn. Tính đến năm 1993,
ICRISAT đã thu thập được 13.915 lượt mẫu giống lạc từ 89 nước trên thế giới.
Đặc biệt, ICRISAT đã thu thập được 301 lượt mẫu giống thuộc 35 loài dại của
chi Arachis, đây là nguồn gen quý có giá trị cao trong công tác cải tiến giống
theo hướng chống bệnh và chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất thuận.
Cùng với việc thu thập, đánh giá, bảo quản, ICRISAT đã cung cấp 107.710
lượt mẫu giống cho nhiều nước để làm nguyên liệu chọn tạo giống [37].
Trong số các mẫu giống đã thu thập được thông qua các đặc tính hình
thái - nông học, sinh lý - sinh hóa và khả năng chống chịu sâu bệnh, ICRISAT
đã phân lập theo các nhóm tính trạng khác nhau phục vụ cho nghiên cứu chọn
tạo giống như: nhóm kháng bệnh, nhóm chống chịu hạn, nhóm hàm lượng dầu
cao, nhóm chín trung bình, nhóm chín muộn, nhóm chín sớm… Trong đó các
giống chín sớm điển hình là Chico, 91176, 91776, ICGS (E), ICGV 86105
(Nigam S.N et al, 1995), ICGS (E), ICGV 86062, giống lạc có năng suất cao như
ICGV - SM 83005, ICGV88438, ICGV89214, ICGV91098, và các giống lạc có
khả năng kháng sâu bệnh như giống ICVG 86388, giống ICGV 86699, giống

ICGV - SM 86715, ICGV 87165.
Nhận thức được tầm quan trọng to lớn của giống lạc trong việc thúc


10

đẩy phát triển sản xuất, nhiều quốc gia trên thế giới đã sớm quan tâm nghiên
cứu về lĩnh vực này và thu được nhiều kết quả hết sức khả quan.
Ấn Độ cũng là nước có nhiều thành tựu to lớn về công tác chọn tạo
giống. Theo lời dẫn của Ngô Thế Dân và CS (2000) [6], trong chương trình
hợp tác với ICRISAT, bằng con đường thử nghiệm các giống lạc của
ICRISAT, Ấn Độ đã phân lập và phát triển được giống lạc chín sớm phục vụ
rộng rãi trong sản xuất, đó là BSR. Bên cạnh đó, các nhà khoa học của Ấn Độ
cũng đã lai tạo và chọn được nhiều giống lạc thương mại mang tính đặc trưng
cho từng vùng. Mỗi bang của Ấn Độ trồng các giống khác nhau. Tại Bang
Andhra Pradessh, trồng giống Kadiri-2, Giống Karidi-3, chiều cao cây 23-28
cm, thời gian sinh trưởng 115-120 ngày, hạt chứa 43,7% dầu, tỷ lệ nhân 76%.
Bang Gujarat, trồng giống GAUG-1, dạng cây đứng, thời gian sinh trưởng 95-
100 ngày, thích ứng trong điều kiện canh tác nước trời
Ở Trung Quốc, công tác nghiên cứu về chọn tạo giống lạc được tiến
hành từ rất sớm. Bằng các phương pháp chọn tạo giống khác nhau như: đột
biến sau khi lai, đột biến trực tiếp, lai đơn, lai kết hợp hơn 200 giống lạc có
năng suất cao đã được tạo ra và phổ biến vào sản xuất từ cuối những năm 50
của thế kỷ 20. Kết quả ghi nhận là các giống lạc được trồng ở tất cả các vùng
đạt tới 5,46 triệu ha. Những năm gần đây, Trung Quốc đã công nhận 17 giống
lạc mới, trong đó điển hình là các giống Yueyou 13, Yueyou 29, Yueyou 40,
01-2101, Yuznza 9614, 99-1507, R1549 có năng suất trung bình là 46-70 tạ/ha.
Ngoài ra, một số nước khác trồng lạc trên thế giới cũng đã chọn tạo
được nhiều giống lạc có tiềm năng năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu
được với một số loại sâu bệnh như Inđônêxia đã chọn tạo được giống Mahesa,

Badak, Brawar và Komdo có năng suất cao, phẩm chất tốt, chín sớm và kháng
sâu bệnh. Ở Hàn Quốc đã chọn tạo được giống ICGS năng suất đạt tới 56
tạ/ha.


11

1.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lạc ở Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam
Lịch sử trồng lạc ở Việt Nam chưa dài so với các cây trồng khác như:
lúa, đậu tương, đậu xanh trong cuốn ‘Vân đài loại ngữ” một cuốn bách khoa
toàn thư đầu tiên của nước ta do Lê Quý Đôn viết năm 1773 chưa hề nhắc tới
cây lạc (Nguyễn Danh Đông, 1984 ) [12]. Tuy nhiên hiện nay lạc vẫn giữ vị
trí hàng đầu trong các cây công nghiệp ngắn ngày ở nước ta. Lạc được trồng ở
hầu hết các tỉnh trong cả nước. Diện tích trồng lạc chiếm 40% diện tích trồng
cây công nghiệp ngắn ngày.
Hiện nay, lạc được phân bố chủ yếu ở 4 vùng lớn là: Miền núi và trung
du Bắc Bộ, đồng bằng Sông Hồng, khu bốn cũ và miền Đông Nam Bộ. Cả 4
vùng này chiếm đến 3/4 diện tích và sản lượng, còn lại rải rác ở một số vùng.
Tiềm năng để nâng cao năng suất lạc của nước ta còn rất lớn. Kết quả
nghiên cứu trong những năm gần đây cho thấy trên diện tích rộng hàng chục
hecta, gieo trồng giống mới và các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, nông dân có
thể dễ dàng đạt năng suất lạc 4 - 5 tấn/ha, gấp 3 lần so năng suất lạc bình quân
trong sản xuất đại trà. Điều đó chứng tỏ rằng kỹ thuật tiên tiến được áp dụng
rộng rãi trong sản xuất sẽ góp phần rất đáng kể trong việc tăng năng suất và
sản lượng ở nước ta. Vấn đề chính hiện nay là làm sao để các giống mới và
các kỹ thuật tiến bộ đến được với nông dân và được nông dân tiếp nhận.
Hơn 10 năm trở lại đây việc thực hiện chính sách chuyển đổi cơ chế
quản lý trong sản xuất nông nghiệp đã giải quyết được vấn đề lương thực. Vì
vậy người dân có điều kiện chủ động để chuyển dần một phần diện tích trồng

lúa thiếu nước sang trồng các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao hơn, trong
đó cây lạc có vị trí quan trọng trong nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá, cũng
như góp phần cải tạo và sử dụng tài nguyên đất đai, nhằm khai thác lợi thế
của vùng khí hậu nhiệt đới. Đồng thời, việc sử dụng những giống mới có năng


12

suất cao, kỹ thuật thâm canh lạc tiên tiến cũng được áp dụng rộng rãi. Nhờ
vậy năng suất và sản lượng lạc ở nước ta ngày càng tăng.
Thực hiện chiến lược phát triển nông nghiệp ở Việt Nam cho đến năm
2010 về sản xuất mặt hàng nông sản (trong đó lạc là quan trọng). Xuất khẩu
lạc đạt 40% tổng sản lượng lạc của cả nước và đáp ứng nhu cầu sử dụng trong
cả nước ở nhiều dạng khác nhau. Chính vì vậy mà sản xuất lạc của Việt Nam
ngày càng tăng. Dự kiến sản xuất, diện tích, năng suất, sản lượng lạc của Việt
Nam đến năm 2015 là: Về diện tích đạt 400.000 ha. Năng suất bình quân đạt
25 - 30 tạ/ha. Sản lượng là 10 - 12 nghìn tấn. Kim ngạch xuất khẩu đạt:150
triệu USD. Để thực hiện chiến lược này, nhà nước ta cần có biện pháp đổi
mới bộ giống, đưa nhanh các giống tốt có năng suất cao, chất lượng tốt phù
hợp với đặc điểm từng vùng sinh thái. Ưu tiên phát triển lạc ở các vùng thâm
canh, chuyên canh, các vùng sản xuất tập trung cho chế biến và xuất khẩu.
Mạnh dạn đầu tư thâm canh và áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật canh
tác tiên tiến, bón đủ phân cân đối, sử dụng chế phẩm chuyên dùng, ứng dụng
kỹ thuật IPM, cơ giới hoá các khâu trồng lạc. Tăng cường thông tin, đào tạo,
huấn luyện chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho người sản xuất và đẩy mạnh chế
biến và xuất khẩu.
Trong những năm gần đây, nhà nước ta có chủ trương phát triển mạnh cây
lạc, cho nên diện tích trồng lạc tăng lên đáng kể. Quá trình phát triển sản xuất lạc
ở nước ta trong giai đoạn từ năm 2001 - 2012 được thể hiện qua bảng 2.2.



13

Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng lạc ở Việt Nam
giai đoạn 2001 - 2012
Năm
Diện tích
(Nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(Nghìn tấn)
2001 244,6 14,8 363,1
2002 246,7 16,2 400,4
2003 243,8 16,7 406,2
2004 263,7 17,8 469,0
2005 269,6 18,1 489,3
2006 246,7 18,7 462,5
2007 254,5 20,0 510,0
2008 255,3 20,8 530,2
2009 245,0 20,9 510,9
2010 231,4 21,1 487,2
2011 223,8 20,9 468,7
2012 220,5 21,3 470,6
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam
Qua bảng 1.2. trong 12 năm gần đây từ năm 2001 - 2012 diện tích trồng
lạc của nước ta luôn biến động (từ 244,6 - 220,5 nghìn ha), năng suất và sản
lượng có chiều hướng tăng. Trong năm 2012 diện tích (220,5 nghìn ha) có
chiều hướng giảm (24,1 nghìn ha) so với năm 2001. Về năng suất tăng (6,5
tạ/ha) so với 2001, sản lượng (470,6 nghìn tấn), tăng (107,5 nghìn tấn) so với

2001. Năm 2012 so với 2011 thì diện tích giảm (3,3 nghìn ha) nhưng năng
suất lại tăng (0,4 tạ/ha), sản lượng tăng (1,9 nghìn tấn).
1.2.2. Một số yếu tố hạn chế sản xuất lạc ở Việt Nam
Cũng như các nước thế giới, các yếu tố hạn chế đến sản xuất lạc Việt
Nam bao gồm các nhóm yếu tố: Kinh tế - xã hội, phi sinh học và sinh học.


14

Trần Văn Lài (1991) [19] cho rằng yếu tố kinh tế - xã hội hạn chế đến
sản suất lạc là thiếu sự quan tâm của nhà nước và lãnh đạo các địa phương,
thiếu hệ thống tưới tiêu. Hệ thống cung ứng giống lạc thiếu và không đảm bảo
độ tin cậy về chất lượng giống. Khả năng đầu tư của nông dân thấp, các tỉnh
vùng xuôi có 75-80 %, vùng Đông Bắc có 96 - 100 % số hộ thiếu vốn trồng
lạc. Kết quả điều tra năm 2006 của Nguyễn Thị Chinh [3] cho thấy có 65-70
% số hộ nông dân ở các tỉnh Bắc Giang, Thanh Hoá, Nghệ An thiếu vốn để
mua giống mới và vật tư để thâm canh lạc trong khi nhà nước chưa có chính
sách hỗ trợ tích cực như trợ giá giống mới trong một vài năm đầu để nông dân
mạnh dạn sử dụng giống mới cho sản xuất. Hệ thống cung ứng giống còn bất
cập, giá cả sản phẩm không ổn định cũng là nguyên nhân quan trọng làm cản
trở sản xuất. Giống phần lớn do nông dân tự lựa chọn, bảo quản và trao đổi
lẫn nhau do vậy dẫn đến tình trạng lẫn giống, đây là một trong những nguyên
nhân làm cho năng suất lạc thấp và không ổn định. Các cơ quan nghiên cứu
chọn, tạo giống mới có tiềm năng năng suất cao nhưng do thiếu vốn, thiếu cơ
sở sản xuất để tổ chức sản xuất và dịch vụ cung ứng giống nên tốc độ phát
triển giống mới còn chậm so với yêu cầu của sản xuất. Bên cạnh đó, công tác
tổ chức thu mua sản phẩm, chế biến và xuất khẩu lạc ở Việt Nam còn kém.
Hiện tượng tranh mua, tranh bán, tranh xuất khẩu lạc còn phổ biến, từ đó làm
cho giá lạc trên thị trường không ổn định, hạn chế đến sản xuất lạc. Việt Nam
có tới 46,6 % diện tích đang trồng cây họ đậu là không thích hợp đối với cây

đậu đỗ, có trên 70 % diện tích trồng lạc nhờ nước trời, lượng mưa lớn và phân
bố không đều là yếu tố hạn chế lớn đối với sản suất lạc. Đất khô và nhiệt độ
thấp ở đầu vụ xuân, cuối vụ thu đông, hay mưa lớn và nhiệt độ cao ở cuối vụ
xuân, trong vụ thu, đầu vụ thu đông đều là những yếu tố hạn chế đến năng
suất lạc ở miền Bắc Việt Nam. Nguyễn Thị Dần (1991) [7], Ngô Thế Dân
(1994) [8], Bùi Huy Hiền (1995) [16] chỉ ra rằng đất chua dẫn đến thiếu N, P,


15

K dễ tiêu, thiếu Ca, Mg, Mo, chất hữu cơ thấp và chứa nhiều độc tố Al và Mn
có hại với cây lạc. Theo Nguyễn Tử Siêm và Thái Phiên (1998) [22], đất đồi
núi phía Bắc Việt Nam chua, xói mòn, rửa trôi mạnh, hấp phụ trao đổi thấp, P
dễ tiêu thấp, đây là trở ngại lớn đối với sản xuất lạc.
Trần Văn Lài (1991) [19], Ngô Thế Dân (2000) [6] cho rằng, yếu tố
hạn chế sinh học quan trọng nhất đối với sản xuất lạc ở Việt Nam là thiếu
giống chịu thâm canh, năng suất cao, có khả năng kháng sâu bệnh hại và thích
ứng cho từng vùng sinh thái. Nguyễn Xuân Hồng, Mechan V. K. (1995) [17],
Vũ Thị Hậu (1998) [15] cho rằng, bệnh gây hại là yếu tố hạn chế lớn đối với
nhiều vùng trồng lạc ở Việt Nam, đặc biệt nguy hiểm là bệnh chết héo xanh ở
lạc. Để khắc phục yếu tố này, Việt Nam đã có chiến lược nghiên cứu, xây
dựng biện pháp phòng trừ bệnh hại tổng hợp trên cây lạc.
1.2.3. Tình hình nghiên cứu về chọn tạo giống lạc ở Việt Nam
Trong thời gian gần đây, công tác chọn, tạo giống đã thu được kết quả
đáng khích lệ. Một số giống lạc tiến bộ đã được công nhận với ưu điểm năng
suất cao, chất lượng tốt đáp ứng được nhu cầu sản xuất hàng hóa đã dần thay
thế được các giống cũ. Tiến bộ kỹ thuật về giống là tiềm năng quan trọng để
phát triển lạc.
Để công tác chọn tạo giống lạc phát triển tốt thì việc thu thập và bảo
tồn nguồn gen lạc ở Việt Nam đã được các nhà khoa học quan tâm thực hiện.

Thời gian qua, chúng ta đã nhập nội nhiều mẫu giống lạc từ các nơi trên thế
giới. Trên cơ sở đó, các nhà chọn tạo giống Việt Nam đã tập trung chọn tạo
giống hướng theo các mục tiêu: Giống lạc năng suất cao thích hợp cho từng
vùng sinh thái, thời gian sinh trưởng ngắn, có khả năng kháng sâu bệnh hại, tỷ
lệ nhân và hàm lượng dầu cao dùng cho xuất khẩu.
Từ năm 1974, bộ môn Cây Công nghiệp - Trường Đại học Nông nghiệp
I Hà Nội đã bắt đầu nghiên cứu chọn tạo giống lạc bằng phương pháp lai hữu


16

tính và phương pháp đột biến phóng xạ.
Các giống được chọn tạo từ gây đột biến có: Giống V79, có năng suất trung
bình 25 tạ/ha, tỉ lệ nhân 73-76 %, khối lượng 100 hạt 48-52 g, chịu hạn khá, song
dễ mẫn cảm với các bệnh đốm lá, gỉ sắt và héo xanh vi khuẩn (Lê Song Dự, và các
cộng sự, 1996) [10]. Giống 4329, có năng suất trung bình là 25 tạ/ha, khối lượng
100 hạt 55-60 g, tỉ lệ nhân đạt 70-72 %, thích hợp cho vùng đồng bằng, trung du
Bắc bộ.
Ngô Ngọc Đăng (1984) [11] cho biết, các giống lạc địa phương của
Việt Nam thuộc dạng phân cành từ gốc thân, những cành mọc từ nách lá mầm
chiếm 1 nửa số cành của cây. Trong khi Phạm Văn Biên và cộng sự (1991)
[1] nghiên cứu 112 giống lạc cho rằng, ở miền nam các giống này thuộc dạng
cây đứng, kiểu spanish, thời gian sinh trưởng ngắn khoảng 90 - 97 ngày.
Theo Nguyễn Thế Côn (1996) [5], Nguyễn Thị Chinh (2006) [3] việc
phát triển vụ lạc thu đông là một hướng để mở rộng diện tích trồng lạc ở miền
Bắc cũng như nâng cao chất lượng giống cho vụ lạc xuân. Ngoài tác dụng luân
canh tăng vụ, bồi dưỡng cải tạo đất thì vụ lạc thu và lạc thu đông có nghĩa rất
lớn trông việc tăng chất lượng hạt làm giống cho vụ xuân. Đối với vụ lạc thu
trong thời kỳ sinh trưởng đầu, cây lạc thường gặp điều kiện nhiệt độ cao (30
0

C
- 35
0
C) nên đã rút ngắn thời gian sinh trưởng sinh dưỡng, từ đó dẫn đến lượng
chất khô tích lũy ít, ra hoa sớm, số hoa số quả ít so với vụ xuân. Bên cạnh đó
thời kỳ ra hoa làm quả luôn bị khô hạn nên đã làm giảm khối lượng quả và hạt.
Quả thường nhỏ hơn so với vụ xuân, trong trường hợp này nếu sử dụng những
giống có số lượng hoa nhiều, thời gian ra hoa tập trung, khả năng tích lũy chất
khô cao sẽ nâng cao được năng suất vụ lạc thu.
Theo Lê Song Dự và cộng sự (1979) [9]; Ngô Thế Dân và cộng sự
(2000) [6] lạc là cây công nghiệp ngắn ngày có giá trị kinh tế cao, giúp cải tạo
đất do có khả năng cố định đạm nhờ nốt sần ở rễ, có vai trò tích cực trong hệ


17

thống luân canh, xen canh cây trồng theo hướng nông nghiệp bền vững.
Những tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng trong việc sử dụng các vật liệu
che phủ cho lạc như: nilon tự hủy, nilon thường hay tận dụng rơm rạ…giúp
giữ ẩm cho đất, tăng tỷ lệ nảy mầm giúp cây sinh trưởng phát triển tốt ngay từ
giai đoạn đầu, đạt năng suất cao khi thu hoạch, đặc biệt góp phần mở rộng
diện tích trồng lạc tại những vùng đất khô hạn, canh tác chủ yếu phải phụ
thuộc vào nước trời (Nguyễn Thị Chinh và cộng sự, 2002; Nguyễn Thị Chinh
2006) [4], [3].
Theo Nguyễn Hữu Quán (1961) [21] khi nghiên cứu 11 giống lạc địa
phương đã nhận xét về số lượng quả/1 kilogam khối lượng hạt, hàm lượng
dầu của 6 giống đều đạt trên 50%.
Các giống được chọn tạo bằng lai hữu tính: Giống lạc Sen lai 75/23
được chọn tạo từ việc lai hữu tính 2 giống Mộc Châu Trắng và Trạm Xuyên,
có khối lượng 100 hạt là 50-55 g, năng suất trung bình là 28 tạ/ha, được

trồng phổ biến ở các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ. Giống L12 được chọn
tạo từ tổ hợp lai giữa V79 và ICGV 87157, có năng suất trung bình là 30
tạ/ha, chịu hạn tốt, kháng trung bình một số bệnh như đốm nâu, đốm đen, gỉ
sắt, khối lượng 100 hạt 50-60 g. Giống VD2, chín sớm, năng suất trung bình
đạt 30 tạ/ha, khối lượng 100 hạt 46-48 g, tỉ lệ nhân cao 78-80 %, thích hợp
cho các tỉnh phía Nam (Nguyễn Thị Chinh, 2006) [3].
Giai đoạn 1996 - 2004 chương trình giống Quốc gia đã chọn tạo được
16 giống lạc, trong đó các giống lạc có năng suất vượt trội là L18, L14; giống
có khả năng kháng bệnh héo xanh vi khuẩn năng suất khá MD7, giống chất
lượng cao L08, giống chịu hạn L12 hiện đang phát triển mạnh ở các tỉnh Phía
Bắc. Các giống lạc VD1, VD2 năng suất cao hơn Lỳ địa phương, phù hợp cho
các tỉnh phía Nam.

×