Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

33 Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.08 KB, 118 trang )

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu của mọi quốc gia
nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần
phải huy động mọi nguồn lực cần thiết (trong nước và từ nước ngoài), bao gồm:
nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính, nguồn lực công nghệ, nguồn lực tài
nguyên, các ưu thế và lợi thế (về điều kiện địa lý, thể chế chính trị, …). Trong
các nguồn này thì nguồn nhân lực là quan trọng , quyết định các nguồn lực khác.
Hiện nay, ở nước ta sự nghiệp cộng nghiệp hoá, hiện đại hoá đang đặt ra yêu
cầu ngày càng cao đối với việc phát triển nguồn nhân lực (PTNNL), nhất là NNL
GD - ĐT (vì NNL GD - ĐT là cái quyết định chất lượng nguồn nhân lực nói chung
của đất nước), đòi hỏi một đội ngũ lao động trí tuệ có trình độ quản lý, chuyên môn
và kỹ thuật cao, có ý thức kỷ luật, lòng yêu nước, có thể lực, để có thể đảm đương
nhiệm vụ GD - ĐT, cung cấp nguồn nhân lực theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội.
Trên thực tế, trong những năm qua và hiện nay mặc dù NNL GD- ĐT đã
tăng cả về số lượng, chất lượng và sự thay đổi về cơ cấu v.v…Tuy nhiên với yêu
cầu cao của phát triển kinh tế và quá trình hội nhập đang đặt ra thì NNL trong
GD - ĐT còn nhiều bất cập: chất lượng NNL GD - ĐT còn chưa cao so với đòi
hỏi của phát triển kinh tế – xã hội, cơ cấu NNL GD - ĐT còn thiếu cân đối giữa
các bậc học giữa các vùng/miền; cơ chế, chính sách sử dụng, sắp xếp, bố trí
NNL (nhất là sử dụng nhân tài trong lĩnh vực này) còn chưa phù hợp, chưa thoả
đáng, việc đầu tư cho NNL GD-ĐT còn thấp, chưa xứng đáng với vai trò và vị
thế của đội ngũ. Chính vì vậy việc PTNNL trong GD - ĐT đang đặt ra là hết sức
quan trọng, và cần thiết. Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX đã định hướng cho
PTNNL Việt Nam “Người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có
phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo bồi dưỡng và phát triển bởi một nền giáo dục
tiên tiến gắn với một nền khoa học- công nghệ và hiện đại’’.
1
Như vậy, việc PTNNL trong lĩnh vực GD - ĐT phải đặt trong chiến lược
phát triển, kinh tế - xã hội, phải đặt ở vị trí trung tâm, chiến lược của mọi chiến


lược phát triển kinh tế – xã hội. Chiến lược phát triển NNL GD-ĐT của nước ta
phải đặt trên cơ sở phân tích thế mạnh và những yếu điểm của nó, để từ đó có
chính sách khuyến khích, phát huy thế mạnh ấy, đồng thời cần có những giải
pháp tích cực, hạn chế những mặt yếu kém trong việc PTNNLtrong GD - ĐT.
Có như vậy chúng ta mới có được nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu
cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trên cơ sở đó, việc làm rõ vấn đề: “Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh
vực giáo dục - đào tạo ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp’’. Tác giả luận
văn nhằm luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực trong
lĩnh vực GD-ĐT đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay và những năm tới .
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trong những năm gần đây, vấn đề PTNNL đã thu hút không ít sự quan
tâm các nhà quản lý, các nhà khoa học ,đặc biệt các nhà nghiên cứu, các viện
các trường đại học… Đã có rất nhiều công trình khoa học được công bố trên các
sách báo, tạp chí, yêu cầu về phương hướng , giải pháp PTNNL và sử dụng
nguồn nhân lực có hiệu quả phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội .
Chẳng hạn :
- GS.TS Phạm Minh Hạc phân tích vấn đề con người trong “sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam’’, NXB Chính trị quốc gia ,Hà Nội 1996.
- TS. Nguyễn Hữu Dũng : “Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực con người ở
Việt Nam, NXB Lao động – xã hội , Hà Nội 2003”.
- Tác giả Mai Quốc Chánh : “Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá’’, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội 1999.
- Tác giả Lê Thị Ái Lâm: “PTNNL thông qua GD-ĐT và kinh nghiệm
Đông Á, NXB khoa học – xã hội, Hà Nội 2003”.
2
- TS. Nguyễn Thanh: “PTNNL phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
NXB giáo dục, Hà Nội 2002”.
Ngoài ra, có các bài đăng trên các báo, tạp chí như bài của Phạm Thành

Nghị: "Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực Giáo dục - đào tạo”,
tạp chí GD số 11 năm 2004; bài của PGS.TS Mạc Văn Trang:"Quản lí nguồn
nhân lực trong GD-ĐT những vấn đề cần nghiên cứu-trong quản lí nguồn nhân
lực ở Việt Nam một số vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB Khoa học Giáo dục, Hà
Nội 2004". Tuy nhiên những kết quả được nghiên cứu về nguồn nhân lực mới
chỉ đề cập tới những vấn đề chung của nguồn nhân lực, và mới chỉ từng bước
giải quyết tháo gỡ những khó khăn trước mắt của những vấn đề cơ bản này. Còn
vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực GD - ĐT chưa được đề cập đến.
Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các tác giả đi trước, luận văn tập trung
phân tích luận giải những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong
quá trình PTNNL trong lĩnh vực GD - ĐT ở Việt Nam.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Mục đích của đề tài: Phân tích thực trạng NNL trong lĩnh vực GD-ĐT,
chỉ ra những thành công, hạn chế chủ yếu trong lĩnh vực này, từ đó đưa ra
những quan điểm và một số giải pháp cơ bản nhằm PTNNL trong lĩnh vực GD-
ĐT ở Việt Nam.
- Để hoàn thành mục đích đặt ra, đề tài tập trung giải quyết một số nhiệm
vụ cơ bản sau:
+ Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn về PTNNL trong lĩnh
vực GD - ĐT.
+ Phân tích thực trạng của việc PTNNL trong lĩnh vực GD-ĐT hiện nay ở
nước ta; chỉ ra những thành công, hạn chế chủ yếu và các nguyên nhân của nó.
+ Đưa ra những quan điểm và một số giải pháp cơ bản nhằm PTNNL
trong lĩnh vực GD-ĐT ở nước ta trong giai đoạn hiện nay .
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự phát triển NNL trong lĩnh vực
GD-ĐT với tư cách là nhân tố quan trọng nhất để phát triển nguồn nhân lực..
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là lĩnh vực GD-ĐT trong những năm gần đây
ở nước ta. (Bao gồm: đội ngũ những người làm công tác giảng dạy, cán bộ quản

lý GD. Không chỉ về mặt số lượng mà cả về mặt chất lượng).
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để làm rõ những nội dung cơ bản đặt ra của luận văn, trong quá trình
nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp: Phương pháp hệ thống, phương
pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp ... trong quá trình nghiên cứu.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Một là, hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về PTNNL trong
lĩnh vực GD- ĐT và đúc rút những kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
trong việc PTNNL trong lĩnh vực này.
- Hai là, đánh giá thực trạng PTNNL trong lĩnh vực GD-ĐT ở Việt Nam
trong những năm qua, đưa ra những đánh giá , nhận xét về ưu điểm và tồn tại
trong việc PTNNL.
- Ba là, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm PTNNL trong lĩnh vực
GD-ĐT ở Việt Nam .
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận , mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm ba chương:
- Chương I: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân
lực trong lĩnh vực GD - ĐT.
- Chương II: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực GD-
ĐT ở Việt Nam.
- Chương III: Quan điểm và một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân
lực trong lĩnh vực GD-ĐT ở Việt Nam trong giai đoạn tới .
4
Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
1.1. Nguồn nhân lực và vai trò của nguồn nhân lực đối với phát triển kinh
tế - xã hội

1.1.1. Các khái niệm cơ bản
* Nguồn nhân lực:
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực (NNL) được hiểu là nguồn lực con
người (Human resources) của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, là một bộ phận
của các nguồn lực có khả năng huy động, quản lý để tham gia vào quá trình phát
triển kinh tế - xã hội.Theo quan niệm của kinh tế học hiện đại, NNL là một trong
bốn nguồn lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Các nguồn lực đó là: nguồn lực
vật chất (physical resouces ), nguồn lực tài chính ( finalcial resources )…..
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động hay
nguồn nhân lực xã hội. Đó là một bộ phận dân số trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động.
Nguồn nhân lực được nghiên cứu trên giác độ số lượng, chất lượng.
Số lượng nguồn nhân lực được xác định dựa trên quy mô dân số, cơ cấu
tuổi, giới tính và sự phân bố theo khu vực và vùng lãnh thổ của dân số. Ở nước
ta, số lượng nguồn nhân lực được xác định bao gồm tổng số người trong độ tuổi
lao động (Nam: 15 đến 60; nữ : 15 đến 55 ) vì người lao động phải ít nhất đủ 15
tuổi và được hưởng chế độ hưu trí hàng năm khi có đủ điều kiện về tuổi đời
(Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi ) và thời gian đóng bảo hiểm xã hội ( 20 năm trở
lên). Đây là lực lượng lao động tiềm năng của nền kinh tế - xã hội.
Sự gia tăng tổng dân số là cơ sở để hình thành và gia tăng nguồn nhân lực,
có nghĩa là sự gia tăng dân số sau 15 năm sẽ kéo theo sự gia tăng nguồn nhân
lực. Nhưng nhịp độ tăng dân số chậm lại cũng không giảm ngay lập tức nhịp độ
tăng nguồn nhân lực.
5
Chất lượng nguồn nhân lực thể hiển trạng thái nhất định của nguồn nhân
lực với tư cách vừa là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi
hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực là tổng thể
những nét đặc trưng phản ánh bản chất, tính đặc thù liên quan trực tiếp tới hoạt
động sản xuất và phát triển con người. Do vậy chất lượng nguồn nhân lực bao
gồm: Tình trạng sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn và năng lực

phẩm chất… Chất lượng nguồn nhân lực liên quan trực tiếp đến nhiều lĩnh vực
như đảm bảo dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục và đào tạo, lao động và
việc làm gắn với tiến bộ kỹ thuật, trả công lao động và các mối quan hệ xã hội
khác.
* Phát triển nguồn nhân lực (PTNNL).
Về phát triển nguồn nhân lực ( Human resources development ) có nhiều
cách tiếp cận khác nhau. UNESCO sử dụng khái niệm PTNNL dưới góc độ hẹp
là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối quan
hệ phát triển của đất nước. Các nhà kinh tế có quan niệm PTNNL gần với quan
niệm của UNESCO là phải gắn với phát triển sản xuất và chỉ nên giới hạn
PTNNL trong phạm vi phát triển kĩ năng lao động và thích ứng với yêu cầu về
việc làm.
Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO): Sự phát triển
nguồn nhân lực như một quá trình mở rộng các khả năng tham gia hiệu quả vào
phát triển nông thôn bao gồm cả tăng năng lực sản xuất.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cho rằng PTNNL không chỉ chiếm lĩnh
trình độ lành nghề hoặc bao gồm cả vấn đề đào tạo nói chung mà còn là phát
triển năng lực và sử dụng năng lực đó của con người để phát triển tiến tới có
việc làm hiệu quả, cũng như thoả mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân.
Mặc dù có sự diễn đạt khác nhau, song có một điểm chung nhất của tất cả
các định nghĩa là đều coi phát triển nguồn nhân lực là quá trình nâng cao năng
6
lực của con người về mọi mặt để tham gia một cách hiệu quả vào quá trình phát
triển quốc gia.
Do vậy, có thể hiểu, PTNNL là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất
lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền kinh
tế - xã hội. Quá trình đó bao gồm phát triển thể lực, trí lực, khả năng nhận thức
và tiếp thu kiến thức, tay nghề; tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con
người; nền văn hoá, truyền thống lịch sử dân tộc….
Phát triển nguồn nhân lực bị tác động bởi nhiều yếu tố: Sinh đẻ và sức

khoẻ sinh sản; chăm sóc sức khoẻ ( dinh dưỡng, vệ sinh môi trường, phòng ngừa
bệnh tật…); giáo dục và đào tạo nghề nghiệp; văn hoá và truyền thống dân tộc;
mối quan hệ xã hội và gia đình; việc làm và trả công lao động; thu nhập và mức
sống; trình độ phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành nguồn nhân lực.
Theo quan niệm của Thủ tướng Phan Văn Khải: “Nguồn lực con người
bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc
ta”[19]. Nguồn nhân lực, theo cách tiếp cận mới, có nội hàm rất rộng, bao gồm các
yếu tố cấu thành về lực lượng (Số lượng) trí thức, khả năng nhận thức và tiếp thu
kiến thức, tính năng động xã hội và sức sáng tạo, truyền thống lịch sử, nền văn
hoá…
Có thể cụ thể hoá và phân loại các yếu tố cấu thành nguồn nhân lực theo
các nhóm sau đây:
- Quy mô, cơ cấu dân số, lao động và sức trẻ của nguồn nhân lực. Nhóm
này liên quan đến các biến đổi về dân số, lao động tham gia vào phát triển kinh
tế - xã hội của một quốc gia trong từng thời kỳ nhất định.
- Trình độ dân số và chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực. Đây là yếu
tố cấu thành đặc biệt quan trọng có tính chất quyết định của NNL trong tiếp thu,
làm chủ và thích nghi với kỹ thuật, công nghệ và quản lý nền kinh tế tri thức.
Nhóm này liên quan và phụ thuộc vào sự phát triển giáo dục - đào tạo và dạy
7
nghề của một quốc gia, trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập trong xu thế toàn cầu hoá.
- Nhóm yếu tố cấu thành NNL thể hiện tính năng động xã hội và sức sáng
tạo của con người. Nhóm này liên quan đến môi trường pháp luật, thể chế và các
chính sách, cơ chế giải phóng sức lao động, tạo động lực để con người phát
triển, phát huy tài năng và sức sáng tạo của mình trong nền kinh tế.
- Truyền thống lịch sử, nền văn hoá của một quốc gia. Nó bồi đắp và kết
tinh trong mỗi con người và cả cộng đồng dân tộc, hun đúc nên bản lĩnh, ý chí,
tác phong của con người trong lao động.

1.1.3. Vai trò của nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.3.1. Nguồn nhân lực - mục tiêu và động lực chính của sự phát triển.
Nói đến vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển là nói đến vai trò
của con người trong phát triển.
* Con người là động lực của sự phát triển.
Bất cứ một sự phát triển nào cũng đều phải có một động lực thúc đẩy.
Phát triển kinh tế - xã hội được dựa trên nhiều nguồn lực: Nhân lực (nguồn lực
con người), vật lực (nguồn lực vật chất: Công cụ lao động, đối tượng lao động,
tài nguyên thiên nhiên…), tài lực (nguồn lực về tài chính, tiền tệ)… Song chỉ có
nguồn lực con người mới tạo ra động lực cho sự phát triển, những nguồn lực
khác muốn phát huy được tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn lực con người.
Từ thời kỳ xa xưa con người bằng công cụ lao động thủ công và nguồn lực do
chính bản thân mình tạo ra để sản xuất ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu của bản
thân. Sản xuất ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng chi tiết, hợp
tác càng chặt chẽ tạo cơ hội để chuyển dần hoạt động của con người cho máy
móc thiết bị thực hiện, làm thay đổi tính chất của lao động từ lao động thủ công
sang lao động cơ khí và lao động trí tuệ. Nhưng cả trong điều kiện đạt được tiến
bộ khoa học kỹ thuật hiện tại như hiện nay thì cũng không thể tách rời nguồn lực
con người bởi lẽ:
- Chính con người đã tạo ra những máy móc thiết bị hiện tại đó.
8
- Ngay cả đối với máy móc thiết bị hiện đại, nếu thiếu sự điều khiển,
kiểm tra của con người (tức tác động của con người) thì chúng chỉ là vật chất,
chỉ có tác động của con người mới phát động chúng và đưa chúng vào hoạt
động.
Vì vậy nếu xem xét nguồn lực là tổng thể những năng lực ( cơ năng và trí
năng) của con người được huy động vào qúa trình sản xuất, thì năng lực đó là
nội lực con người. Đối với những nước có nền kinh tế đang phát triển như nước
ta dân số đông, nguồn nhân lực dồi dào đã trở thành một nội lực quan trọng
nhất. Nếu biết khai thác nó sẽ tạo nên một động lực to lớn cho sự phát triển.

* Con người là mục tiêu của sự phát triển.
Phát triển kinh tế - xã hội suy cho cùng là nhằm mục tiêu phục vụ con
người, làm cho cuộc sống con người ngày càng tốt hơn, xã hội ngày càng văn
minh. Nói cách khác, con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh
thần của xã hội. Và như vậy, nó thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất
và tiêu dùng. Mặc dù mức độ phát triển sản xuất quyết định mức độ tiêu dùng,
song nhu cầu tiêu dùng của con người lại tác động mạnh mẽ tới sản xuất, định
hướng phát triển sản xuất thông qua quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường.
Nhu cầu con người vô cùng phong phú, đa dạng và thường xuyên tăng
lên, nó bao gồm nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần, về số lượng và chủng loại
hàng hoá càng ngày càng phong phú, đa dạng, điều đó tác động tới quá trình
phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.3.2. Vai trò nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước
Về vai trò của NNL trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH,HĐH) đất nước, Nghị quyết Đại hội Đảng VIII đã khẳng định: "Nâng cao
dân trí và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết
định thắng lợi của CNH, HĐH đất nước."[49,Tr78].
9
Các công trình nghiên cứu và thực tế phát triển của đất nước đều khẳng
định vai trò có tính chất quyết định của nguồn nhân lực đối với quá trình CNH,
HĐH. Vai trò đó được thể hiện trên hai mặt:
Thứ nhất, Các nguồn lực như vốn, tài nguyên thiên nhiên không có sức
mạnh tự thân. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực xã hội khi
được kết hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt động của con người.
Thứ hai, con người với trí tuệ của mình - là nguồn lực không bao giờ cạn
kiệt, có khả năng phục hồi và tự tái sinh. Quan điểm phát triển nguồn nhân lực
đã được nhiều quốc gia quan tâm và vấn đề này đang nổi lên ở khu vực Đông Á.
Xuất phát là những nước nghèo, chỉ có thể rút ngắn thời kỳ công nghiệp hoá và
đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững trong trường hợp đầu tư phát triển

nhanh nguồn nhân lực. Sự đầu tư được hiểu ở cả ba mặt: Chăm sóc sức khoẻ,
nâng cao mức sống và phát triển giáo dục, trong đó đầu tư có hiệu quả nhất là
đầu tư giáo dục.
Vào những năm 80 quan điểm về phát triển nguồn nhân lực đã trở thành
vấn đề được quan tâm đặc biệt ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Con
người được coi là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển. Không thể xem xét
khía cạnh nguồn nhân lực theo quan hệ một phía mà phải nhận thấy vai trò sản
xuất của nguồn nhân lực - vấn đề cốt lõi của học thuyết “vốn con người”, và vai
trò tiêu dùng của nó được thể hiện bằng chất lượng cuộc sống. Cơ chế nối liền
hai vai trò là trả công cho người lao động tham gia các hoạt động kinh tế và thu
nhập đó đầu tư trở lại cho con người để nâng cao mức sống. Đặc biệt từ những
năm 90, khi cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật bước sang giai đoạn mới với
bước tiến phi thường của công nghệ thông tin, việc áp dụng kỹ thuật tin học với
những sản phẩm phần mềm tự động hoá đã liên tục làm biến đổi quá trình sản
xuất và tăng năng suất lao động. Điều này làm nảy sinh mâu thuẫn giữa thực tiễn
sản xuất và sự phân công lao động hiện tại, buộc hình thành một cơ chế mới về
lao động trong sự thay đổi thang giá trị con người; đồng thời phải xem xét lại
toàn bộ hệ thống đào tạo nhân công khi mối quan hệ chặt chẽ giữa các khía cạnh
10
công nghệ, xã hội và kinh tế được hình thành. Triết lý kinh doanh chuyển từ
công nghệ là trung tâm sang con người là trung tâm với các ưu tiên tri thức, trình
độ chuyên môn và động cơ lao động.
Xem xét yếu tố con người với tư cách là nguồn lực cơ bản của sự phát
triển kinh tế-xã hội, UNESCO nêu “con người đứng ở trung tâm của sự phát
triển, là tác nhân và là mục đích của sự phát triển” [47,Tr82].Trong bối cảnh
giao lưu, mở cửa đất nước hiện nay, chúng ta có lợi thế của nước đi sau, thấy
được những thuận lợi, khó khăn để rút ra những bài học cho chính mình. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, về thực chất là qúa trình thực hiện chiến lược
phát triển con người. Thực ra, đây không phải là hai vấn đề song song hay tách
biệt nhau mà là hai cách thể hiện của một nội dung thống nhất phát triển đất

nước. Đi lên từ xã hội nông nghiệp lạc hậu, điểm xuất phát công nghiệp hoá,
hiện đại hoá thấp, kết cấu hạ tầng yếu kém, trình độ khoa học và công nghệ lạc
hậu, khả năng về vốn còn hạn chế. Do vậy, phải biết huy động và sử dụng có
hiệu quả tất cả mọi nguồn lực mà một trong những nguồn lực lớn nhất, quyết
định nhất là nguồn lực con người.
Khi xác định nguồn lực con người là yếu tố quyết định của qúa trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xem xét nguồn lực đó trên cả hai bình
diện: số lượng và chất lượng để có giải pháp xây dựng và khai thác hợp lý. Mặc
dù ở nước ta có số lượng nguồn lao động đông, trẻ, nhưng chất lượng nguồn
nhân lực còn hạn chế, việc sử dụng NNL còn chưa hợp lý, chưa sử dụng một
cách có hiệu quả. Trước yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang đặt ra hiện
nay là Việt Nam cần tăng trưởng nguồn nhân lực này, tạo ra khả năng lao động
mới cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu nhân lực, sử dụng NNL nhằm đẩy
mạnh, nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá như mục tiêu Đại hội VIII
đã đề ra, đồng thời theo kịp xu hướng phát triển của khu vực và thế giới. Điều
đó không có lựa chọn nào khác là phải chuẩn bị tốt hơn chiến lược con người, có
ý thức khai thác, sử dụng nguồn nhân lực vô tận này.
1.2. Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo
11
1.2.1. Đặc điểm nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo
1.2.1.1.Là một bộ phận nguồn nhân lực có học vấn cao nhất
Nhìn chung, nguồn nhân lực GD là lực lượng lao động có trình độ khá cao
và được đào tạo cơ bản, hệ thống là chủ yếu. Đội ngũ nhân lực GD-ĐT này trình
độ đào tạo có một phổ khá rộng:
- Trình độ THCN cho giáo viên mầm non.
- Trình độ đào tạo cao đẳng cho giáo viên THCS, tiểu học và mầm non.
- Trình độ đào tạo đại học cho giáo viên THPT, THCS và một bộ phận
giáo viên tiểu học, giáo viên mầm non.
- Trình độ sau đại học (Thạc sĩ, tiến sĩ, tiến sĩ khoa học) cho giáo viên cao
đẳng, đại học, THPT, cán bộ quản lý; các cơ quan nghiên cứu khoa học

Bộ phận nguồn nhân lực trong lĩnh vực GD từ giáo viên, giảng viên,
chuyên viên, thanh tra viên cho đến cán bộ quản lý GD từ Bộ, Sở cho đến
Phòng… đều có một trình độ học vấn khá cao so với nguồn nhân lực nói chung
trong nền kinh tế. Đặc điểm này tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo nguồn
nhân lực quốc gia có một chất lượng tốt phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế
và hội nhập quốc tế.
1.2.1.2. Kết quả hoạt động của nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục-
đào tạo không chỉ phụ thuộc vào bản thân nó mà còn phụ thuộc vào môi trường
xã hội
Nếu hoạt động sản xuất vật chất của con người là sự tác động của con
người vào đối tượng vật chất nhằm biến đổi đối tượng ấy và tạo ra sản phẩm
phục vụ cho nhu cầu của con người và xã hội, thì hoạt động GD - ĐT tác động
vào chính con người với tư cách là chủ thể của mọi hoạt động xã hội, nhằm biến
đổi chủ thể đó thành con người có nhân cách. Nhờ lĩnh hội được kinh nghiệm
của xã hội ngày càng phong phú hơn, cao hơn mà trình độ con người ở thế hệ
sau cao hơn thế hệ trước, do đó sức mạnh thể chất và tinh thần của con người
ngày càng tăng, khả năng tham gia vào các hoạt động xã hội ngày càng lớn.
Hoạt động GD - ĐT, trong đó đội ngũ nhân lực GD - ĐT là lực lượng đóng vai
12
trò nòng cốt, là một hoạt động xã hội đặc thù - hoạt động tái sản xuất ra nhân
cách và năng lực của con người (con người là chủ thể của mọi hoạt động xã hội),
khi trực tiếp tham gia vào sự hình thành nhân cách con người, giáo dục bao hàm
cả quá trình tự phát lẫn tự giác, trong đó quá trình tự giác đóng vai trò quan
trọng trong việc hình thành nhân cách toàn diện, đào tạo con người, hình thành
sức mạnh bản chất của con người để con người tham gia vào các hoạt động xã
hội.
Cũng chính hoạt động NNL GD - ĐT là một hoạt động đặc thù, nó không
chỉ đào tạo ra con người có trình độ chuyên môn, kỹ năng.... mà nó còn phát
triển nhân cách, giáo dục cho con người có một lý tưởng cách mạng, có phẩm
chất đạo đức chính trị, làm cho con người sống có ích không chỉ cho chính bản

thân mình mà còn cho cả xã hội. Hoạt động của đội ngũ nhân lực GD - ĐT thực
chất là giáo dục và đào tạo NNL đáp ứng những yêu cầu cơ bản của sự nghiệp
phát triển nền kinh tế đất nước nói chung và sự nghiệp GD - ĐT nói riêng. Để
hoạt động này có hiệu quả, thì bản thân NNL GD - ĐT phải đảm bảo về chất
lượng, được trang bị những yêu cầu cơ bản về: kiến thức, trình độ chuyên môn,
phẩm chất đạo đức, chính trị, có kỹ năng , nghiệp vụ, có bề dày kinh nghiệm và
cả được trang bị cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ cho hoạt động của mình một
cách hiện đại, tiên tiến, đủ về số lượng và có sự phù hợp về cơ cấu loại hình
nhân lực.
Bản thân hoạt động NNL GD - ĐT là một hoạt động mang tính xã hội
cao, sản phẩm của nó tạo ra có đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi của xã hội
hay không, điều đó còn phụ thuộc vào môi trường xã hội vì sản phẩm của hoạt
động này tạo ra phải có một quá trình tác động nhất định và phải có một môi
trường nhất định mới khẳng định được. Chẳng hạn hoạt động nghiên cứu khoa
học hay sinh viên tốt nghiệp ra trường có trình độ kiến thức, kỹ năng hay không,
hay nói cách khác có đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi của xã hội hay không
thì phải được thu hút sử dụng – tức có việc làm, có môi trường làm việc tốt, có
chính sách xã hội thích hợp... thì mới đánh giá được sản phẩm của hoạt động
13
GD cao hay thấp. Như vậy môi trường xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả
cuả hoạt động NNL GD - ĐT. Môi trường xã hội ở đây bao gồm cả môi trường
pháp luật, các chính sách xã hội: việc làm, thu nhập, trả công lao động....; sự kết
hợp giữa gia đình, các tổ chức xã hội, các đoàn thể với nhà trường ngành GD.
Kết quả hoạt động cuối cùng của NNL GD-ĐT là sản phẩm- người học có
nhân cách, có trình độ, kĩ năng, có khả năng tham gia vào các hoạt động sản
xuất, hoạt động xã hôi. Vì thực chất hoạt động của NNLGD-ĐT là đào tạo, phát
triển NNL cả về số lượng, chất lượng và nhằm biến đổi NNL theo từng thời kỳ
khác nhau cho phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Để tạo ra một
NNL có trình độ chuyên môn nhất định và có một kỹ năng vững chắc thì phụ
thuộc phần lớn vào đội ngũ NNL GD - ĐT, tức là cần có những cán bộ quản lý

GD chuyên sâu, có kinh nghiệm, các thanh tra, chuyên viên vững chắc… và với
một đội ngũ những người làm công tác giảng dạy có một trình độ chuyên sâu, có
kỹ năng sư phạm, có một lòng nhiệt tình… cùng với các trang thiết bị cơ sở vật
chất trong giáo dục mới tạo ra một kết quả NNL cao, có hiệu quả đáp ứng nhu
cầu đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế và quá trình hội nhập nền kinh tế.
Nhưng hoạt động GD - ĐT là một hoạt động đặc thù như đã phân tích ở
trên, nó đòi hỏi cần phải có một môi trường xã hội tốt như: Chính sách xã hội ưu
tiên phát triển GD - ĐT, cần có sự quan tâm các cấp, ngành có liên quan, môi
trường gia đình kết hợp…có như vậy mới tạo ra được NNL vừa có tính năng
động xã hội, vừa có nhân cách hoàn chỉnh có khả năng tham gia vào đời sống xã
hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
1.2.1.3 Chất lượng nguồn nhân lực giáo dục- đào tạo quyết định đến chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực nói chung của quốc gia
Chất lượng NNL nói chung liên quan đến nhiều vấn đề như: Đảm bảo
dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục - đào tạo và các mối quan hệ khác,
trong đó GD - ĐT có vai trò quyết định. Nói một cách khác việc đào tạo NNL có
chất lượng cho một quốc gia (vùng lãnh thổ) chỉ có thể thực hiện được bởi đội
ngũ nhân lực trong GD - ĐT. Đội ngũ nhân lực này bao gồm từ cán bộ quản lí
14
GD, nhân viên giáo dục cho đến cán bộ giảng dạy. Những lực lượng này là
người trực tiếp kết hợp các yếu tố khác (cơ sở vật chất, trang thiết bị…) để đào
tạo ra đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn cao từ công nhân kỹ thuật cho
đến đại học và sau đại học cho xã hội. Mặt khác chất lượng nguồn nhân lực chỉ
có thể nâng cao khi được giáo dục đào tạo tốt. Nguồn NLGD-ĐT là một mắt
xích quan trong của một chu trình phát trình phát triển NNL. Nó tạo nên sự
chuyển biến về chất (kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp) của NNL. Nâng
cao chất lượng NNLGD-ĐT cũng là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến chất
lượng đào tạo NNL nói chung của đất nước.
Ở nước ta để có một NNL vừa đảm bảo về số lượng, chất lượng đáp ứng
những yêu cầu đòi hỏi cao của sự phát triển kinh tế - xã hội, của sự hội nhập

kinh tế quốc tế, thì NNL nói chung ở nước ta phải được đào tạo theo một quy
trình nhất định (dù đào tạo chính quy hay tại chức hoặc dưới dạng hình thức
khác), thì phụ thuộc vào đội ngũ nhân lực GD - ĐT, NNLGD-ĐT cũng cần phải
trang bị những kiến thức kỹ năng... cần thiết để đào tạo nguồn nhân lực cho đất
nước Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2001 - 2010 đã định hướng cho
phát triển NNL Việt Nam với mục tiêu “Ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo
nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực khoa học - công nghệ trình độ cao, cán bộ
quản lý, kinh doanh giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề trực tiếp góp phần nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế” 55, Tr. 207]
Vì vậy, phát triển NNLGD-ĐT để đảm bảo cả về số lượng nâng cao chất
lượng, phù hợp cơ cấu và có chính sách đào tạo, sử dụng hợp lý là hết sức quan
trọng, có vai trò quyết định đến chất lượng NNL nói chung của đất nước.
1.2.2. Nội dung phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo
1.2.2.1. Số lượng nguồn nhân lực giáo dục - đào tạo
Số lượng NNL GD - ĐT là muốn đề cập đến lực lượng lao động đang làm
việc trong ngành GD - ĐT, bao gồm: số CBQLGD, giáo viên, nhân viên kỹ
thuật, nghiệp vụ... từ cơ sở đến cấp Bộ trong ngành GD. Họ là lực lượng lao
động có vai trò đào tạo nguồn nhân lực nói chung cho đất nước. Lực lượng này
15
nhiều hay ít là phụ thuộc vào quy mô GD - ĐT, cũng như chính sách phát triển
GD- ĐT ở mỗi quốc gia trong mỗi vùng nhất định. Lực lượng lao động trong
ngành GD-ĐT được phân thành:
+ Lực lượng giảng dạy bao gồm: Những người trực tiếp làm công tác
giảng dạy.
+ Lực lượng không giảng dạy bao gồm: Các cán bộ quản lý, thanh tra
viên, nhân viên, cán bộ phụ trách, cán bộ hỗ trợ…
Tỉ lệ phân chia lực lượng này tùy thuộc vào quy mô GD-ĐT, nhu cầu thiết
yếu …..và tùy từng mỗi nước khác nhau. Theo tài liệu của UNESCO-Tổ chức
của LHQ về giáo dục , khoa học và văn hóa (năm 1992) ở Mỹ toàn bộ đội ngũ
cán bộ nhân viên trong ngành GD chiếm 5,8% lực lượng lao động toàn xã hội ,

trong đó số người giảng dạy trực tiếp là 2,7%, không giảng dạy 3,1%; tỉ lệ nay ở
một số nước khác là:
+ Nhật bản 3,1% lực lượng toàn xã hội (trong đó 2,4% lực lượng giảng
dạy trực tiếp và 0,7% là không giảng dạy.
+ Italia : 5,5% lực lượng toàn xã hội, trong đó 4,2% lực lượng giảng dạy
và 1,3% lực lượng không giảng dạy.
+ Australia : 4,2%, trong đó lực lượng giảng dạy là 2,9% còn lại là 1,3%
không giảng dạy [39, Tr.1 - 2].
Tuy nhiên sự phân chia này chỉ mang tính chất tương đối, trong những
trường hợp cụ thể, cần thiết nhất định một người vẫn có thể thực hiện hai vai trò
(vừa giảng dạy, vừa quản lý).
Tỉ lệ này còn phản ánh qua số trường, lớp, các cơ sở GD - ĐT từ GD mầm
non cho đến đại học và sau đại học trong toàn bộ hệ thống GD quốc dân, tỉ lệ
học sinh, sinh viên/giáo viên hay tỉ lệ giáo viên/lớp học;
Tỉ lệ phần trăm số cán bộ quản lý, nhân viên, kỹ thuật viên/ cơ sở đào tạo .....
Ở Việt Nam theo qui định của bộ GD - ĐT nhu cầu giáo viên tính theo
định mức hiện nay là:
+ 6 trẻ em nhà trẻ / giáo viên;
16
+ 22 trẻ em mẫu giáo / giáo viên;
+ 1,15 giáo viên/ lớp tiểu học ( 30 học sinh);
+ 1,85 giáo viên / lớp THCS (40 học sinh);
+ 2,1 giáo viên/ lớp THPT ( 45 học sinh);
+ 20 học sinh THCN và dạy nghề/ giáo viên;
+ 20 sinh viên CĐ và ĐH / giáo viên [55, Tr.531].
Số học sinh, sinh viên/ giáo viên còn tuỳ thuộc vào từng ngành học bậc
học. Ở bậc cao đẳng, đại học, ngành năng khiếu: âm nhạc, mỹ thuật hay ở ngành
tin học, ngoại ngữ thì tỉ lệ học sinh, sinh viên/ giáo viên còn nhỏ hơn. Tỉ lệ số
cán bộ quản lý/ giáo viên cũng phải phù hợp. chẳng hạn ở khối phổ thông như ở
hệ THCS số cán bộ quản lý lãnh đạo tối thiểu là một Hiệu trưởng, hai Hiệu phó,

một nhân viên kế toán , văn thư. Tỉ lệ này sẽ có sự thay đổi theo thời kì, như ở
nước ta dự báo đến năm 2010 phải đảm bảo chỉ tiêu sinh viên/giảng viên:
+Từ 5-10 sinh viên/giảng viên đối với các ngành đào tạo năng khiếu;
+Từ 10-15 sinh viên/giảng viên đối với các ngành khoa học, kỹ thuật và
công nghệ;
+Từ 20-25 sinh viên/giảng viên đối với các ngành khoa học xã hội và
nhân văn, kinh tế-quản trị kinh doanh.
Căn cứ vào quy định chuẩn trên sẽ cho ta thấy số lượng NNL GD - ĐT đủ
hay thiếu. Tuy nhiên quy định chuẩn ở mỗi nước có sự khác nhau, và ở mỗi thời
kỳ sẽ có sự khác. Có thể thấy điều này qua tỉ lệ học sinh/ giáo viên ở một số
nước:
Tỉ lệ học sinh/ 1 giáo viên bậc tiểu học : ở Đức là 14, ở Pháp là 12, ở Hà
Lan là 18, ở Anh là 22.
Tỉ lệ này ở bậc Đại học ở một số nước khác như: Mỹ là 10, Nhật Bản là
18, Austraylia là 16 (năm 2000). [79, Tr. 47, 56]
Việc PTNNL GD - ĐT đòi hỏi phải luôn đảm bảo về số lượng nguồn nhân
lực trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của ngành GD - ĐT. Vì ở mỗi giai
17
đoạn phát triển nền kinh tế, sự phát triển của quy mô trường, lớp, học sinh, sinh
viên đòi hỏi số lượng NNLGD & ĐT là khác nhau.
Ngoài ra, để đáp ứng đủ về số lượng phải tính đến nguồn NNL GD - ĐT
cho tương lai vì để có một nguồn nhân lực GD - ĐT đủ về số lượng cho ngành
GD ở mỗi quốc gia phải mất một thời gian nhất định. Chẳng hạn ở Việt Nam để
đào tạo một giáo viên tiểu học có bằng trung học sư phạm phải mất thời gian ít
nhất là 2,5 năm, giáo viên THPT có bằng Đại học sư phạm thời gian là 4 năm
hay đố với cán bộ quản lí giáo dục cũng đòi hỏi phải được đào tạo trong một
thời gian nhất định mới đảm đương và làm tốt chức năng công việc ở vị trí lãnh
đạo. Việc phát triển NNL GD - ĐT này phải gắn với các cơ sở đào tạo đội ngũ
nhân lực trong ngành GD.
1.2.2.2 Chất lượng nguồn nhân lực giáo dục - đào tạo

Chất lượng NNL GD-ĐT thể hiện ở trình độ chuyên môn được đào tạo,
kỹ năng nghiệp vụ, quản lý GD, phẩm chất đạo đức, chính trị... Nên có thể đo
chất lượng NNL GD-ĐT qua một hệ thống các chỉ tiêu, trong đó có các chỉ tiêu
chủ yếu sau:
+ Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn được đào tạo và được phản ánh
qua bằng cấp, tuổi đời thâm niên công tác trong ngành. Trình độ chuyên môn
này được đo bằng :
Tỉ lệ cán bộ trung cấp;
Tỉ lệ cán bộ CĐ, ĐH;
Tỉ lệ cán bộ trên ĐH.....ở các cấp học, các cơ sở đào tạo trong cả nước.
Trong mỗi chuyên môn có thể phân thành những chuyên môn nhỏ hơn như ĐH
bao gồm: kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ, quản lý....Thậm chí trong từng chuyên
môn lai chia thành những chuyên môn hẹp hơn.
Chất lượng NNL này còn phản ánh qua công tác đào tạo bồi dưỡng
thường xuyên NNLGD-ĐT như: Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, sư phạm,
tin học, ngoại ngữ.....; Tỉ lệ đạt chuẩn về trình độ, tỉ lệ đạt trình độ lý luận chính
trị... Hay được hiểu thông qua khái niệm chuẩn hóa. Chuẩn hóa được hiểu là một
18
quá trình biến đổi hoạt động hay công việc, dịch vụ hay sản phẩm,…. theo
hướng đạt tới những tiêu chuẩn đã đề ra đối với hoạt động, dịch vụ hay sản
phẩm đó. Chuẩn hóa cũng chính là đưa những công việc, sản phẩm, dịch vụ,….
vào phạm vi kiểm soát của người quản lí dựa theo tiêu chuẩn. Còn tiêu chuẩn
người ta thường hiểu đó là quy tắc, quy định, yêu cầu tối thiểu cần đạt tới hoặc
tiêu chuẩn dùng làm thước đo đánh giá hoạt động, công việc, sản phâm, dịch vụ,
… trong một lĩnh vực nhất định. Nếu hoạt động, công việc, sản phẩm, dịch vụ,
… đạt được những chỉ tiêu, tiêu chí của tiêu chuẩn thì điều đó có nghĩa là chúng
ta đạt được mục tiêu mong muốn của chủ thể quản lí để đáp ứng yêu cầu "tối
thiểu" của người sử dụng.
Chuẩn hóa đối với NNLGD-ĐT được hiểu bao gồm chuẩn hóa về trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, quản lí; chuẩn hóa chức vụ…..

Ở Việt Nam theo Luật GD năm 1998 và Luật GD sửa đổi năm 2005 quy
định trình độ đạt chuẩn được đào tạo ở các cấp bậc học như sau:
- Đối với giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học trình độ đạt chuẩn có
bằng Trung học Sư phạm
- Đối với giáo viên trung học cơ sở có bằng cao đẳng Sư phạm hoặc có
bằng tốt nghiệp Cao đẳng và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ Sư phạm.
- Đối với giáo viên THPT có bằng đại học sư phạm hoặc có bằng Đại học
và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ Sư phạm.
- Đối với giáo viên THCN có bằng Đại học sư phạm hoặc bằng Đại học
khác và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm giáo viên dạy nghề phải có
bằng CĐ sư phạm hoặc bằng CĐ khác
- Đối với giảng viên CĐ và ĐH phải có bằng ĐH trở lên, có chứng chỉ
nghiệp vụ sư phạm và đối với giảng viên sau Đại học trình độ đạt chuẩn Tiến sĩ
trở lên.
Tỉ lệ đạt chuẩn của cán bộ quản lý, ngoài bằng cấp ra còn phải có lý luận
chính trị từ sơ cấp đến cao cấp, chứng chỉ tin học, ngoại ngữ tuỳ theo cán bộ ở
cấp cơ sở hay cấp bộ hoặc cơ quan ngang bộ.
19
Tỉ lệ đạt chuẩn đối với nhân viên ở cấp bộ, sở ngoài bằng cấp quy định
của bộ GD-ĐT ra còn phải có các chứng chỉ khác: tin học, ngoại ngữ.....
Tiêu chí trình độ chuẩn của chất lượng nguồn nhân lực GD-ĐT cũng có
sự khác nhau ở các nước và cũng thay đổi theo thời kỳ. Như ở Trung Quốc quy
định chuẩn đối với giáo viên hiện nay là:
- Giáo viên tiểu học phải có trình độ cao đẳng trở lên;
- Giáo viên trung học phải có trình độ từ đại học đến thạc sỹ trở lên;
- Giáo viên đại học phải có học vị tiến sỹ trở lên;
+ Chỉ tiêu phản ánh năng lực phẩm chất đạo đức, chính trị, sức khỏe, lối
sống của NNL GD-ĐT; năng lực tư duy sáng tạo, tính năng động, khả năng
thích ứng với công việc hay còn được biểu hiện ở các chỉ số phản ánh cơ chế tổ
chức vận hành, quản lý quá trình dạy và học hoặc tổ chức quản lý ở cấp độ vĩ

mô (đối với cán bộ quản lý GD).
Ngoài ra, chất lượng NNL GD - ĐT còn phản ánh qua công tác nghiên
cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với giảng dạy, đánh giá qua việc đội
ngũ cán bộ QLGD, cán bộ giảng dạy được đi khảo sát thực tế, tham gia hội thảo
về các chuyên đề hoặc các chuyên ngành đào tạo... và qua việc đào tạo bồi
dưỡng thường xuyên và định kỳ về nghiệp vụ sư phạm, nghiệp vụ quản lý…
1.2.2.3. Cơ cấu nguồn nhân lực giáo dục - đào tạo
Cơ cấu đội ngũ NNL GD - ĐT bao gồm số: CBQLGD, nhân viên, chuyên
viên kỹ thuật ; số giáo viên các cấp, bậc học trong toàn ngành GD - ĐT. Cơ cấu
NNL GD - ĐT được phản ánh qua các chỉ số % như :
- % CB lãnh đạo, QL GD, chuyên viên GD, thanh tra viên từ Bộ/ cơ quan
ngang Bộ đến Sở , Phòng;
- % Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường CĐ, ĐH , THCN, phổ thông
- % Trưởng khoa, phó trưởng khoa các trường ĐH, CĐ .....
- % Cơ cấu loại hình giáo viên các cấp học:
+ Giáo viên mầm non
+ Giáo viên phổ thông
20
+ Giáo viên THCN và dạy nghề
+ Giảng viên CĐ, ĐH và sau ĐH
Trong cơ cấu loại hình giáo viên còn thể hiện cơ cấu giáo viên ở các môn
học, các chuyên ngành được đào tạo trong toàn bộ hệ thống GD quốc dân . Cơ
cấu NNL GD - ĐT cần phù hợp với từng môn học, chuyên ngành ở các cấp bậc
học trong cả nước.
- Nhân viên kỹ thuật và nghiệp vụ : nhân viên thư viện, nhân viên phòng
thí nghiệm, tin học và nhiều loại hình nhân viên nghiệp vụ khác;
- Cán bộ nghiên cứu tại các viện, trung tâm nghiên cứu và các cơ sở GD-
ĐT khác.
Cơ cấu loại hình NLGD-ĐT có thể xây dựng theo mô hình sau để thấy được
mối liên hệ của các loại hình nhân lực:


Điều
h nh à
GD vi

21
 Cán bộ
thanh tra
 Các chuyên
viên

Giáo viên

Nhân viên
nh trà ường

Hiệu trưởng
Điều
h nh à
GD vĩ

Cán bộ lãnh đạo 
 Cán bộ
thanh tra
 Các
chuyên viên
 Đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học giáo dục [19, Tr. 304 - 305].
Cơ cấu NNL GD - ĐT còn phản ánh qua tỉ lệ % giữa nam và nữ; tỉ lệ %
tuổi đời công tác trong ngành nhiều hay ít.
Về cơ cấu trình độ NNL GD - ĐT thể hiện ở tỉ lệ % trình độ trung cấp,

CĐ, ĐH và sau ĐH... là bao nhiêu trong tổng số lực lượng lao động trong toàn
ngành. Hay tỉ lệ giáo viên đạt chuẩn ở các cấp học là bao nhiêu % trong tổng số
lao động. Từ những loại hình cơ cấu đó cho ta thấy tỉ lệ % cơ cấu giữa các loại
hình nhân lực GD - ĐT cân đối hay không cân đối, phù hợp hay không phù hợp
so với quy mô học sinh, sinh viên, sự phát triển của các cơ sở GD - ĐT .
Do vậy, việc nghiên cứu cơ cấu NNL GD - ĐT để xem tỉ lệ % cơ cấu
NNL GD - ĐT phù hợp hay không phù hợp là phải căn cứ vào quy mô GD - ĐT,
sự phát triển của ngành GD - ĐT trong mỗi thời kỳ nhất định. Chẳng hạn: việc
mở rộng quy mô đào tạo nghề ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi đội ngũ giáo viên
phải đảm bảo cân đối giữa các ngành nghề đang đào tạo như: giáo viên điện tử,
giáo viên cơ khí, giáo viên kỹ thuật, giáo viên tin...
22







Sự phát triển NNL GD-ĐT đòi hỏi vừa đủ về số lượng, đảm bảo chất
lượng và sự phù hợp về cơ cấu nhân lực, có như vậy mới thúc đẩy sự nghiệp GD
- ĐT phát triển, đáp ứng tốt những yêu cầu đòi hỏi đặt ra của sự phát triển nền
kinh tế của đất nước.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực giáo dục -
đào tạo
Phát triển NNL GD-ĐT bị ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố như: chính
sách phát triển GD-ĐT ( trong đó có chính sách PTNNL GD - ĐT), chính sách
sử dụng, bố trí sắp xếp NNL, chính sách đầu tư và hàng loạt các chính sách
khác. Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến một số chính sách cơ bản có ảnh hưởng đến
PTNNL GD -ĐT ở Việt Nam.

1.2.3.1 Chính sách phát triển giáo dục - đào tạo của Quốc gia
Chính sách phát triển GD-ĐT mà trong đó trọng tâm là chính sách
PTNNLGD-ĐT thể hiện ở, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, được
ghi nhận trong các nghị quyết của đại hội Đảng và các Nghị quyết của các hội
nghị BCHTW Đảng (Hội Nghị trung ương 4 khoá VII; Nghị quyết trung ương 2
khoá VIII....)
Xuất phát trên quan điểm, đường lối, chính sách và mục tiêu của Đảng và
nhà nước để xây dựng chiến lược phát triển GD-ĐT mà trong đó nòng cốt là
chiến lược PTNNLGD-ĐT cho từng giai đoạn như: giai đoạn 2001-2010 và
những giai đoạn tiếp theo. Thông qua chiến lược này tạo cơ sở định hướng cho
việc phát triển NNL GD-ĐT nhằm đạt những mục tiêu đã đề ra. Đặc biệt từ
những mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội, NNLGD-ĐT có vai trò quan trọng
nhằm đào tạo NNL đáp ứng những yêu cầu cơ bản của sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước. Nguồn nhân lực GD-ĐT muốn thực hiện những mục tiêu GD-ĐT đề ra
cần phải xây dựng chiến lược phát triển NNLGD-ĐT thích ứng cho từng thời
kỳ, đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH , cũng như
đáp ứng kịp với sự mở rộng của các cơ sở GD-ĐT, sự mở rộng của quy mô học
sinh, sinh viên ở các cấp bậc học trong cả nước. Do vậy việc PTNNL GD-ĐT ở
23
mỗi thời kỳ đều bị tác động bởi chính sách phát triển GD-ĐT của mỗi quốc gia
như : Chính sách mở rộng các cơ sở đào tạo NNL cho ngành GD - ĐT, sự mở
rộng về quy mô sinh viên các trường sư phạm, các khoa sư phạm, các trường
đào tạo cán bộ quản lý GD, chính sách của nhà nước về tăng cường biên chế cho
ngành GD-ĐT......sẽ là nhân tố tác động đến việc tăng số lượng NNL GD-ĐT
cho thời kỳ đó hoặc nếu Nhà nước chủ trương chính sách cắt giảm biên chế,
nâng cao mức chuẩn hoá nghề nghiệp hoặc những quy định khác sẽ tác động đến
việc thu hẹp chỉ tiêu đào tạo ở các trường sư phạm, các khoa sư phạm, các
trường đào tạo cán bộ quản lý thì cũng bị ảnh hưởng đến phát triển NNL GD-
ĐT.
1.2.3.2 Đầu tư cho giáo dục - đào tạo

Đầu tư cho GD-ĐT mà trong đó chủ yếu là việc đầu tư cho đội ngũ nhân
lực GD-ĐT đóng vai trò then chốt quyết định đến chất lựơng NNL GD-ĐT và
quyết định đến việc đào tạo NNL nói chung cho đất nước. Đầu tư cho NNL GD
-ĐT bao gồm:
- Ngân sách nhà nước, dành cho việc chi trả lương, chi cho phụ cấp ưu
đãi;
- Chi cho đào tạo bồi dưỡng thường xuyên nhằm nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý GD; chi cho việc đầu tư ở các trường Sư phạm,
trường CBQLGD, ở các viện nghiên cứu GD;
- Chi cho việc nghiên cứu khoa học, khoả sát tham quan thực tế trong
nước và ngoài nước.... là động lực thu hút phát triển NNLGD-ĐT và lực lượng
lao động khác tham gia vào ngành GD-ĐT.
Đầu tư cho việc phát triển NNLGD-ĐT cần nhiều lực lượng tham gia: nhà
nước, các tổ chức cá nhân trong và ngoài nứơc, hay là các tổ chức quốc tế chính
phủ và phi chính phủ. Nhưng trong đó nhà nước đóng vai trò chủ yếu quyết
định. Việc tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước cho đội ngũ NL GD-ĐT sẽ là
nhân tố tác động rất lớn đến việc làm tăng về số lượng và nâng cao chất lượng
NNLGD-ĐT. Đặc biệt việc tăng cho trả lương, phụ cấp ưu đãi, và tăng cho việc
24
đào tạo, bồi dưỡng cũng sẽ có tác dụng kích thích lực lượng lao động trong
ngành GD-ĐT nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và cả tình yêu nghề.
Ngoài ra, để tăng cường cho đầu tư cho NNLGD-ĐT sẽ khắc phục hạn chế, khả
năng của ngân sách nhà nước nên cần phải thúc đẩy tăng cường nhiều nguồn đầu
tư khác nhau: nguồn đầu tư của các cá nhân, tổ chức trong nước và ngoài
nước…nhằm nâng cao hiệu quả GD-ĐT và PTNNLGD-ĐT.
Kinh nghiệm ở một số nước phát triển cho thấy đầu tư cho GD-ĐT mà
nòng cốt là đội ngũ NLGD-ĐT là một trong những giải pháp khôn ngoan nhất
trong việc đào tạo NNL có chất lượng cao và là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển nền kinh tế. Ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX ở Hoa Kỳ đầu tư
cho giáo dục-đào tạo đã chiếm 7% tổng GDP, Nhật Bản chiếm 5% tổng GDP, ở

các nước châu Âu (Anh, Pháp, Đức, Hà Lan....), mức trung bình chiếm khoảng
5-6% tổng thu nhập quốc dân [79, Tr. 45]. Ở Việt Nam tính đến 2000-2001 đạt
2,3 - 2,6% GDP, năm 2004 đầu tư từ ngân sách nhà nước đạt 17,1%. Do vậy để
nguồn nhân lực GD-ĐT đủ về số lượng, đảm bảo về cơ cấu nhân lực ở các cấp
bậc học giữa các vùng, miền của đất nước đều bị ảnh hưởng của chính sách đầu
tư, cho nên nếu sử dụng chính sách đầu tư thích hợp có hiệu quả sẽ là nhân tố
làm tăng cả về số lượng và chất lượng NNLGD-ĐT ở nước ta.
1.2.3.3 Cơ chế, chính sách sử dụng, bố trí sắp xếp nguồn nhân lực giáo
dục- đào tạo
Phát triển NNLGD-ĐT cần phải có một cơ chế chính sách thích hợp bao
gồm: chính sách sử dụng, bố trí, sắp xếp NNLGD-ĐT... một cách hợp lý, tạo
động lực cho đội ngũ nhân lực GD-ĐT phát huy được tính năng động sáng tạo,
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, quản lý, yêu nghề, thu hút được lực
lượng lao động khác tham gia vào ngành GD-ĐT đáp ứng được những yêu cầu
đòi hỏi của sự nghiệp phát triển GD-ĐT của đất nước.
Cơ chế chính sách sử dụng, bố trí sắp xếp NNLGD-ĐT là nhân tố ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng NNLGD-ĐT ở mỗi một quốc gia trong mỗi thời kỳ
nhất định. Xây dựng cơ chế chính sách trên cơ sở đặc điểm của mỗi vùng mỗi
25

×