Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Tổng hợp câu hỏi ôn tập môn triết học duy vật biện chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.99 KB, 48 trang )

1
Tổng hợp câu hỏi ôn tập môn triết học duy vật biện chứng
Câu 1: Đề ra đường lối đổi mới, trong Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ VI, Đảng
coi việc "Phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật
khách quan" là một trong những bài học kinh nghiệm quí báu.
Đ/c hãy phân tích cơ sở triết học và thực tiễn của bài học trên và nêu ý
nghĩa của nó trong thực tiễn cách mạng nước ta hiện nay.
Ngay từ thời kỳ cổ đại quan điểm dv đã hình thành và pt. Thực chất của lịch
sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa dv và cn duy tâm, giữa phương
pháp biện chứng và pp siêu hình. Cuộc đau tranh đó kéo dài cho đến tận ngày nay
và chắc chắn vẫn tiếp diễn. Ở phương đông, cndv đã xuất hiện trong triết học trung
hoa cổ đại và Ấn độ cổ đại, điều đó đươc thể hiện trong học thuyết âm dương hay
thuyết ngũ hành của người Trung Hoa.
Trong TH ấn độ cổ đại một số trường phái VD như Vaisesika hoặc Lokygata
đều là trường phái duy vật. Theo trường phái Lokygata trường phái này do 4
nguyên tố này tạo nên đó là đất, nước, lửa và gió là tứ đại, bốn nguyên tô snày có
khả năng tồn tại trong không gian.
Ở Phương tây cndv phát triển mạnh mẽ thậm chí quan niệm tư tưởng của họ
thống trị trong suốt nhiều thế kỷ về sau nhất là trong triết học Hy lạp cổ đại.
Heraelit là một trong số nhà duy vật tiêu biểu của thời kỳ này, ông quan niệm rằng
thế giới này do lử tạo nên đó là lửa vũ trụ, ông nói “Thế giới này đã, đang và sẽ là
một ngọn lửa vĩnh viễn cháy và tắt đi theo những quy luật nhất định của nó.”
Trong khi đó thì Thalet lại cho rằng thế giới này do nước tạo nên bởi vì ông quan
sát và cho thấy trong đất, trong không khí, trên trời, cây cối, con người đều có
nuớc. Theo Đebolit cho rằng thế giới này do nguyên tử tạo nên sở dĩ có sự khác
nhau về hình dạng, kích thước và tư tưởng này thống trị đến tận nửa đầu thế kỷ 19.
2
Thế kỷ 15-16 khôi phục và làm hưng thịnh nền văn hoá cổ đại để chống lại
thế giới quan duy tâm tôn giáo của giai cấp phong kiến
Thời kỳ phục hưng triết học và nghệ thuật đươc khôi phcụ chủ nghĩa DV tiếp tục
pt dưới ánh sáng của khoa học tự nhiên (thiên văn học và cơ học )


Thế giới quan triết học DV, một tôn giáo mới ra đời, được tách ra từ cơ đốc giáo:
Tin lành phản ứng lại nhà thờ thiên chúa gíao Vaticang lợi dụng tôn giáo trục lợi
ktế. Phương thứuc hành lễ ảnh hưởng đến tgiáo sx trong xh tư bản chấp nhận đầu
tiên ở nước Phổ. Tin lành ở VN chủ yếu ptriển ở miền trung và miền núi.
Trong thời kỳ này, kHTN phát triển, phương thức SXTBCN xuất hiện, giai
cấp tư sản chủ trương khôi phục lại nền VH cổ đại đó có triết học nhất là CNDV.
Sự khôi phục này nhằm chống lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo. Quan điểm dv
của Copenich, Galile là những tư tưởng triết học tiếnbộ đặc biệt là tư tưởng của
Copennich về thuyết ‘nhập tâm” mặt trời là trungtâm của vũ trụ, chống lại thuyết
“địa tâm” có ảnh hưởng rất lớn đến sự ptriển của khoa học.
Vào thời kỳ này chủ ghĩa duy vật bắt đầu pt đặc biệt ở Anh và Pháp cho đến
nay người ta vẫn mệnh danh PhBê cơn là thuỷ tổ của chủ nghĩa dv, ông cho rằng
thế giới vật chất này tồn tại do 3 nguyên nhân sau đây; Hình dạng, vật chất,, vận
động và ba yêu tố này tạo nên vật chất.
Ở Pháp có Điđơro (1713-1784) có vai trò quan trọng, ông đứng đầu bách
khoa toànthư Pháp, ông có vai trò quan trọng trong cn vô thần của pháp, ông nói
rằng: “Vật chất là thể có khoảng tính, có hình thức có tính chất ông xuyên qua
được và có chuyển động. Ông nói rằng: “vật chất luôn luôn gắn liền với vận động”
đây là tư tưởng tiến bộ, cách mạng lúc bấy giờ”.
Thời kỳ cổ điển thế kỷ 19 là Phoi ơ bắc, Ông là nhà duy vật khai sáng
Sự hình thành và phát triển của cndv Mác xit
Lịch sử tư tưởng nhân loại chứngtỏ rằng một tư tưởng quan điểm nào đó xuất
hiện thường kế thừa yếu tố tích cực mà nhân loại đat được điều đó. Sự phát triển
3
của chủ nghĩa duy vật cũng không nằm ngoài quy luật đó. Lê Nin viết rằng: “Học
thuyết của ông ra đời là sự kế thừa thẳng và trực tiếp đến học thuyết của đạibiết
xuất sắc nhất trong triết học và trong ktct học và trong cnxh. Về mặt triết học, Mác
và Anghen kế thừa toàn bộ lịch sử tư tưởng nhân loại đang đạt được đó những trực
tiếp là triết học cổ điển Đức thế kỷ 19 trong đó chủ nghĩa dv của Phoi và cnbc của
Anưghen ảnh hưởng trựctiếp và sâu rộng nhất đối vơi ssự hìnhh thành của thế giới

quan và phương pháp triết học của Mác. tất nhiên đây là sự kế thừa có chọn lọc, có
phê phán, có sáng tạo.
Kế thừa quan điểm duy vật thời đó dựa trên ảnh hưởng khoa học tự nhiên Mác
và Anghen xây dựng quan điểm dvbc điều đó thể hienẹ trong nhiều tác phẩm của
ông nhất là trong tác phẩm biện chứng của tự nhiên của Anghen. Trong tác phẩm
này Anghen đã có 2 lần đưa ra quan điểm của mình về phạm trù vật chất
Quan điểm thứ nhất: “Thực thể vật chất khôngthể phận biệt cái gì khác hơn là
tổng số các vật thể ”
Quan điểm thứ 2: “vật chất vơi tính cách của vc là sáng tạo thuần tuý của tư duy
và là sự trừu tượng”
Lê Nin là người kế thừa những tư tưởng của mác và Anghen cũng nhưtoàn bộ
lịch sử tư tưởng nhân loại và dựa trên sự khái quát của mặt triết học nhữngthành
tựu của khoa học tự nhiên đương thời, đặc biệt là vật lý học đã đưa ra định nghĩa
kinh nghiệm của phạm trù vật chất. Trogn định nghĩa đó có mấy vấn đề cần đưa ra
chú ý sau: ở đay Lê Nin đnghĩa phạm trù vc khôngtheo đn triét học mà quy đnghĩa
vào phạm trù rộng hơn.
- Lê Nin cũng vượt qua những nhà duy vật trước đây nhất là dv cổ đại và dv
siêu hình thế kỷ 17-18 đã đồng nhất vc dưới một dạng tồn tại cụa thể vc hay một
thuộc tính nào ở đó như khối lượng, trọng lượng.
4
Trên cơ sở phân tích sâu sắc cuộc “khủng hoảng vật lý học” và phê phán những
quan niện duy tâm và siêu hònh về VC, Lê Nin đã đưa ra định nghĩa hoàn chỉnh về
phạm trù VC, một ĐN mà đến nay các nhà khoa học hiện tại vẫn thừa nhận.
ở đây phạm trù cần được ĐN là VC là một phạm trù “rộng đến cùng cực, rộng
nhất cho đến nay, thực ra nhận thức luân vẫn chưa vượt quá được”. Người ta
khong thể quy VC vào một phạm trù nào rộng hơn nó. Do vậy, chỉ có định nghĩa
VC bằng cách đối lập với nó là ý thức, xác định nó “là cái mà tác động lên giác
quan của chúng ta thì gây ra cảm giác”. Lê Nin khẳng định VC khôgn có nghĩa gì
hơn là “thựuc tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và được ý thức
con người phản ánh”.

Định nghĩa phạm trù VC của lê Nin được ĐN như sau:
VC là một phạm trù triết học dùng để chỉ hiện tại khách quan được đem lại cho
con người trogn cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Ở ĐN này Lê Nin đã chỉ rõ khi VC đối lập YT trong nhận thức luận thì cái quan
trọng để nhận biết nó chính là thuộc tính khách quan.Khách quan theo lê Nin là cái
đang tồn tại độc lập với loài người và vơi scảm giác của con người.
Như vậy DN VC của lê Nin bao gồm nội dung cơ bản như sau:
+ Vật chất tồn tại khách quan tức là tồn tại bên ngoài ý thức của con người
không phụ thuộc vào ý thức của con người. VC có trước YT có sau.
+ CV là cái có thể nhận thức được, cái gây nên cảm giác của con người khi
trực tiếp hoặc gián tiếp tác động nên giác quan.
+ Cảm giác tư duy, YT cho là sự phản ánh của vật chất vào bộ não của con
người đó là hiện thực khách quan di chuyển vào bộ óc con người và được cải tiến ở
trong đó
Lê Nin khẳng định thuộc tính chung nhất của VC là sự tồn tại khách quan ở
bên ngoài YT. Tấ cả những gì tồn tại bênngoài và không phụ thuộc vào YT con
5
người đều thuộc phạm trù VC. Khi khẳng dịnh VC là thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác. Lê
nin đã thừa nhận rằng, trong nhận thứuc luận Vc là tính thứ nhất, là nguồn gốc
khách quan của cảm giác, YT. Như vậy ĐN VC của L.Nin đã bác bỏ thuyết không
thể biết đồng thời cũng khắc phục đượcnhững khiếm khuyết trong quan điểm siêu
hình, máy móc về vật chất. VC phải được hiểu là tất cả những gì tồntại khách quan
bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tạiâý con người đã nhận thức được hay chưa nhận
thức được.
Ý nghĩa của ĐN:
Ngoài những phân tích như trên Đ. Nghĩa Vc của lê nin còn có ý nghĩa đính
hướng vơi skhoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới
của vật thể trong thế giới.

+ Giúp chúng ta phân biệt đâu là vc và đâu không phải là vc
+ Giúp chúng ta khắc phục được hạn chế trong các quan niệm dv trước đây
+ Nó giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học
+ là cơ sở lý luận giúp chúng ta chống lại thuyết không thể biết, chống lại quan
điểm máy móc siêu hình, chống lại bệnh chủ quan duy ý chí.iệcnhận thức các hiện
tượn của đời sống Xh, ĐN v/chất cảu Lê Nin đã cho phép xác định cái gì là VC
trognlĩnh vực XH. Đây là diều các nhà duy vật trước C. Mac cũng chưa đạt tới. ĐN
của Lê Nin giúp cho các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên
nhân cuôi cùng của các biến cố XH, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của
phương thứuc SX; trên cơ sở đó người ta có thể tìm ra các phưogn án tối ưu về
hoạt động thúc đẩy XH phát triển.
Vật chất luôn vận đọng và biến đổi trong không gian và thời gian, vì vậy vận
động, không gian và thưòi gian là những phương thức tồn tại của VC. Hiểu theo
nghĩa chung nhất vận động bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra
trong vũ trụ kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.
6
Các hình thức vận động của vc bao gồm: vđộng cơ học, vđ vật lý, vđ hoá học,
vđ sinh học và vđ xã hội.
+ Tính thống nhất vc của t/giới: tgiới này thống nhất ở tính vc của nó. Tính vc
này được chứng minh không phải vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật mà
đó là kquả của ptriển lâu dài của triết học và khoa học tự nhiên. Vậy tính vc đó là
tính tồn tại và khách quan. Khi tác động vào giác quan để gây cảm giác về vc và
hiện tượng đó.
Ý thức là gì?
Ý thức: "Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới quan". Theo C.Mác, ý
thức "chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và
được cải biến đi trong đó" .
Ý thức của con người là sự phản ánh trong bộ não con người một cách tích cực
chủ động và sáng tạo đối với thế giới khách quan để có hình ảnh của các sự vật
hiện tượng giúp con người có tri thức, sự hiểu biết và tình cảm đối với thế giới trên

cơ sở của hoạt động thực tiễn (lao động đấu tranh ).
Về nguồn gốc bản chất của ý thức đây cũng là nguồn gốc phức tạp và khác
nhau về vân đề này. CNDVBC c ho rằng YT là sự phản ánh hiện thựuc khách quan
vào bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo. Mác có nói rằng; Ý niệm
chẳng qua chỉ là hiện thực khách quan di chuyển vào bộ óc của con người và được
cải tiến ở vị trí đó.
Khi xét về nguồn gôc YT chúng ta cần chú ý đến nguồn gốc tự nhiên và nguồn
gốc xh. Về nguồn gốc tự nhiên đó là bộ óc con người hiện thựckhách quan bởi bộ
óc con người. Chính vì vậy Mác mới nói rằng về thực chất, ý thức cuat conngười
chỉ là sự phản ánh hienẹ thực khách quanbởi bộ óc của nos, bộ óc của con người.
Về nguồn gốc xh đó là tác động của ngôn ngữ, đây là hai sức kích thích chủ
yếu để làm cho bộ óc con vượn trở thành bộ óc con người. Nguồn gôc xã hội giữ
vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định.
7
Tính tích cực, năng động sáng tạo của phản ánh YT.
Kẻ thù cả CN Mác thưùơng cho rằng Mác là nhà kinh tế chứ không phải nhà
triết học. nếu là nhà triết học thì đó là giai đoạn trước năm 1844. Trên thực tế
chúng ta thấy rằng, các tác phẩm kinh điển mà mác và Anghen để lạicho chúng ta
là tác phẩm trực tiếp hay gián tiếp ề cập đến triết học và vấn đề con người. triết học
Mác không chỉ khẳng định VC là cái có trước YT là cái có sau mà chỉ ra tính tích
cực, năng động, sáng tạo của phản ánh ý thức. Chỉ ra sự tác động trởlại của YT đối
với vật chất thông qua hoạt động thựctiễn của con người. nếu không có hoạt động
trực tiếp thì bản thân YT, tinh thần tư tưởng không thôi thì không thể thựuc hiện
được một điều gì cả. Chính mác và ănghen ết rằng “Tư tưởng căn bản không thể
thực hiện được cái gì hết, muốn thực hiện tư tưởng được cần có con người sử dụng
được thực tiễn”.
Có 3 hình thức:
+ Lao động và săn xuất
+ Thực nghiệm khoa học thực tiễn
+ Đấu tranh Xh và đấu tranh cách mạng

II- Cơ sở thực tiễn:
Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trước thời kỳ đổi mới, chúng ta
đã phần nào chưa xuất phát từ thực tế, mắc bệnh chủ quan duy ý chí nóng vội chạy
theo nguyện vọng chủ quan muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội đã phần nào vi
phạm, bất chấp quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất, trình độ của
lực lượng sản xuất.
Phạm những sai lầm từ những chủ trương chính sách lớn và cơ chế kinh tế vi
phạm quy luật khách quan trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ
ở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, xóa bỏ ngay nền
kinh tế nhiều thành phần, không thừa nhận kinh tế thị trường ở Việt Nam vi phạm
quy luật kinh tế thị trường, làm theo lòng mong muốn chủ quan dẫn đến đầu tư tràn
8
lan thiếu hiệu quả ở một số lĩnh vực, một số ngành hoặc trong chuyển đổi cơ cấu
cây trồng vật nuôi ở một địa phương vận động nhân dân làm ào ạt nhưng không
gắn với thực tế thị trường nên đã thất bại, do đó đã dẫn tới khủng hoảng kinh tế,
khủng hoảng xã hội.
Vì vậy trong những năm đổi mới chúng ta phải sửa những sai lầm này, xuất
phát từ thực tế tôn trọng hành động theo quy luật khách quan khi đưa ra đường lối
đổi mới chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã rút ra là
“Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan”, coi việc phải luôn xuất phát từ thực tế tôn trọng và hoạt động theo
quy luật khách quan là một trong những bài học kinh nghiệm quý báu.
Cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ VII đã khẳng định:
“Đảng đã phạm sa lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” (Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội). Vì vậy, từ lý
luận chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đại hội lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút
ra bài học quan trọng là “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ

thực tế, tôn trọng luật khách quan”. Đại hội lần thứ VIII của Dảngđã tổng kết 10
năm đổi mới, đề ra những mục tiêu, phương pháp, nhiệm vụ cho thời kỳ mới - thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong thời kỳ mới này phải
“lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững” (văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII) chúng ta cần tránh sai lầm
chủ quan nóng vội trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời phải “khơi dậy
trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt
Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu ”. Đất nước ta đang
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, trong thời kỳ công
9
nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay, hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng đòi hỏi phải
nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ đảng viên từ trung ương tới địa phương.
Đảng chủ trương: “huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước,
đặc biệt là nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất nước (Văn kiện đại biểu
toàn quốc lần thứ X), muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X). Tiếp tục thực hiện quá trình đổi mới, cải tiến hoàn thiện chính sách, vấn
đề lợi ích hiện nay ngày càng phải hợp lý và hoàn thiện hơn nhằm mục đích
khuyến khích trình độ của người lao động phát huy được động cơ lòng nhiệt tình
của cán bộ đảng viên và nhân dân làm cho cả nước tập trung hướng theo đường lối
của đảng.
- Vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vật chất, cho nên trong
nhận thức phải bảo đảm nguyên tắc “tính khách quan của sự xem xét” và trong
hoạt động thực tiễn phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo các quy luật khách quan, biết tạo điều kiện và phương tiện vật chất tổ chức lực
lượng thực hiện biến khả năng thành hiện thực. Tôn trọng khách quan là tôn trọng
tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải xuất phát từ thực

tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.
V.I. Lênin dã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm
chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách
lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho
thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.
(Nguyên nhân: ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ; yếu kém về lý luận; quan liêu
xa rời thực tế).
10
+ Khi đánh giá kết luận các sự vật hiện tượng đòi hỏi chúng ta phải đảm bảo
tính khách quan: điều tra kiểm sát thông tin đối tượng một cách nghiêm túc và đảm
bảo thông tin phải trung thực, không được điều tra sơ sài đã kết luận dẫn đến suy
diễn có tính chủ quan sai lầm.
+ Khi đề ra những mục tiêu chương trình phát triển phải điều tra kiểm sát
một cách khách quan và phải nắm bắt đúng thực tế, dựa trên điều kiện thực tế
khách quan đồng thời phải tôn trọng những quy luật khách quan.
+ Khi đề ra chủ trương chính sách mục tiêu, chương trình phát triển đòi hỏi
phải tổng kết thực tiễn, nhưng tổng kết đòi hỏi phải khách quan (điều tra, kiểm sát,
tổng kết, báo cáo) nếu không sẽ nhiễu loạn thông tin gây khó khăn cho quản lý nhà
nước (ví dụ các vụ đất đai ở Hải Phòng, thanh tra dầu khí, giáo dục )
- Cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ thụ động,
chờ đợi vào điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan Bằng sự nỗ lực và ý chí
mạnh mẽ của mình, con người có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. Ở đây ý thức,
tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi
phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan, vì đó là cơ sở quan trọng cho việc
xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác. Ngược lại, ý thức, tư
tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh
sai thế giới khách quan. Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức,
cần phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, cần phải khái quát, tổng kết
hoạt động thực tiễn để thường xuyên nâng cao năng lực nhận thức, năng lực chỉ
đạo thực tiễn, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách

quan; đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động,
ngồi chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh, vào điều kiện vật chất trong quá trình đổi mới hiện
nay.
Tại ĐH đảng lần 11 cương lĩnh xd đất nước trongthời kỳ quá độ lên XHCN
trong đại hội đại biểu lần thứ 7 có giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn đối với sự
11
nghiệp cách mạng của nd ta trong suốt hai thập kỷ qua. Những thành tựu to lớnvà ý
nghĩa lịch sử của dân tộc ta 20 năm qua đã chứngt ỏ sựu đúng đắn ý nghĩa quan
trọng to lớn và đúng đắn trong cương lĩnh năm 1991. Nghiêncứu mqh giữa VC và
YT cso ý nghĩa quan trọng trong nhận thức và thực tiễn. Một mặt đòi hỏi chúng ta
phải phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của ý thưc nhưng mặt khác chúng ta
không được chủ quan, nóng vội duy ý chí.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi chúngta phải tôn trọng quy luật
khách quan phải xuất phát từ thực tế khách quan. Không đượclấy ý kiên chủ quan
thay thế cho khách quan. Tại ĐH lần thứ 11 tổng kết thực hiện 20 năm đổi mới,
đảng ta đa rút ra một số bài học kinh nghiệm trong đó bài học số 5 là mọi chủ
trương đường lối của Đảng phải thật khách quan.
Trong quá trình lãnh đạo CM bên cạnh những ưu điểm thành công. Trong
cương lĩnh 2011 đã thừa nhận đảng có lúc cũng nhận sai lầm và nhận khuyết điểm
nghiêm trọng rất giáo điều, chủ quan duy ý chí.
Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước ta, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân từng bước được
ổn định và nâng cao, chế độ XHCN ngày càng củng cố và đất nước đã ra khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế xã hội và đang có những bước chuyển biến tích cực trong tất
cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
12
Đề 2- Nêu quan điểm triết học của Lê Nin về vật chât, ý thức và quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận.
TRẢ LỜI
I- Mối quan hệ giữa Vật chất và ý thức

1- Khái niệm:
Vật chất: "Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Ý thức: "Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới quan". Theo C.Mác, ý
thức "chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và
được cải biến đi trong đó" .
Ý thức của con người là sự phản ánh trong bộ não con người một cách tích
cực chủ động và sáng tạo đối với thế giới khách quan để có hình ảnh của các sự vật
hiện tượng giúp con người có tri thức, sự hiểu biết và tình cảm đối với thế giới trên
cơ sở của hoạt động thực tiễn (lao động đấu tranh ).
2- Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
a) Vật chất quyết định ý thức:
- Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất sinh ra ý thức, ý thức là chức
năng của óc người - dạng vật chất có tổ chức cao nhất của thế giới vật chất. Không
thể có ý thức trước khi có con người hay ý thức nằm ngoài con người, độc lập với
con người.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con người. Thế giới vật chất
là nguồn gốc khách quan của ý thức.
- Tồn tại vật chất trong hoạt động thực tiễn trong xã hội của loài người (sản
xuất, đấu tranh ) quyết định đến nội dung hoạt động tư duy của loài người cũng
như từng cá nhân con người.
* Hoàn cảnh yếu tố địa lý:
13
+ Điều kiện địa lý là tồn tại vật chất chi phối sự nhận thức của con người để
tạo ra của cải vật chất (phải tính toán ).
+ Là tài nguyên thiên nhiên.
+ Là tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội, giai cấp nào nắm được sẽ trở thành
ông chủ và chi phối toàn xã hội.
+ Giai cấp nào nắm tư liệu sản xuất sẽ nắm quyền lực chính trị, vì vậy mọi

hoạt động văn hóa chính trị, tinh thần, tư tưởng phụ thuộc vào ông chủ. (Khi làm
chủ được chính trị lại nắm được kinh tế đó là sự tác động ngược trở lại).
+ Trong quá trình tổ chức hoạt động, con người phải căn cứ điều kiện vật
chất khách quan để hoạt động (sản xuất của cải vật chất nuôi sống xã hội; dựa vào
điều kiện, sự tồn tại vật chất để định ra tư duy về quốc phòng )
+ Điều kiện hoàn cảnh yếu tố địa lý gắn với từng dân tộc tạo ra yếu tố tâm
lý, sinh hoạt mang tính truyền thống và ảnh hưởng đến văn chương, hội họa, nghệ
thuật, sắc thái văn hóa.
* Dân số và mật độ dân số liên quan đến mọi lĩnh vực: nguồn lực lao động.
* Phương thức sản xuất:
+ Lực lượng sản xuất: người lao động gắn với dân số, nguồn lực lao động.
Tư liệu sản xuất gắn với tài nguyên, đất đai.
+ Quan hệ sản xuất: ai nắm đất đai, tài nguyên, lực lượng lao động người đó
có quyền phân phối của cải vật chất.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất:
- Ý thức có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm với một mức độ nhất định sự biến
đổi của những điều kiện vật chất. Con người có khả năng nhận biết được các hiện
tượng tự nhiên xã hội trên cơ sở đó con người có khả năng tổ chức cải tạo tự nhiên
xã hội tổ chức các mặt của hoạt động thực tiễn (Bảo vệ ).
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con
người. Con người dựa trên các tri thức về những quy luật khách quan mà đề ra mục
14
tiêu, phương hướng thực hiện; xác định các phương pháp và bằng ý thức thực hiện
mục tiêu ấy. Sự tác động của ý thức đối với vật chất dù có đến mức độ nào đi
chăng nữa thì nó vẫn phải dựa trên sự phản ánh thế giới vật chất.
Để cải tạo tự nhiên xã hội đòi hỏi con người phải có tri thức, nhận thức đúng
và nếu đề ra chủ trương chính sách hợp lý phù hợp quy luật thì sẽ thúc đẩy hoạt
động thực tiễn đi nhanh hơn, đời sống phát triển. Ngược lại trong một giai đoạn
nào đó nếu chúng ta đề ra những chủ trương chính sách xa thực tế hay làm trái quy
luật thfi sẽ làm kinh tế xã hội sa sút cản trở sự phát triển và tiến bộ xã hội.

Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại tồn tại xã
hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối
quan hệ khác nhau: chủ thể và khách thể, lý luận và thực tiễn, điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan v.v
II- Cơ sở thực tiễn:
Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trước thời kỳ đổi mới, chúng ta
đã phần nào chưa xuất phát từ thực tế, mắc bệnh chủ quan duy ý chí nóng vội chạy
theo nguyện vọng chủ quan muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội đã phần nào vi
phạm, bất chấp quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất, trình độ của
lực lượng sản xuất.
Phạm những sai lầm từ những chủ trương chính sách lớn và cơ chế kinh tế vi
phạm quy luật khách quan trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ
ở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, xóa bỏ ngay nền
kinh tế nhiều thành phần, không thừa nhận kinh tế thị trường ở Việt Nam vi phạm
quy luật kinh tế thị trường, làm theo lòng mong muốn chủ quan dẫn đến đầu tư tràn
lan thiếu hiệu quả ở một số lĩnh vực, một số ngành hoặc trong chuyển đổi cơ cấu
cây trồng vật nuôi ở một địa phương vận động nhân dân làm ào ạt nhưng không
15
gắn với thực tế thị trường nên đã thất bại, do đó đã dẫn tới khủng hoảng kinh tế,
khủng hoảng xã hội.
Vì vậy trong những năm đổi mới chúng ta phải sửa những sai lầm này, xuất
phát từ thực tế tôn trọng hành động theo quy luật khách quan khi đưa ra đường lối
đổi mới chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã rút ra là
“Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan”, coi việc phải luôn xuất phát từ thực tế tôn trọng và hoạt động theo
quy luật khách quan là một trong những bài học kinh nghiệm quý báu.

Cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ VII đã khẳng định:
“Đảng đã phạm sa lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” (Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội). Vì vậy, từ lý
luận chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đại hội lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút
ra bài học quan trọng là “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng luật khách quan”. Đại hội lần thứ VIII của Dảngđã tổng kết 10
năm đổi mới, đề ra những mục tiêu, phương pháp, nhiệm vụ cho thời kỳ mới - thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong thời kỳ mới này phải
“lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững” (văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII) chúng ta cần tránh sai lầm
chủ quan nóng vội trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời phải “khơi dậy
trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt
Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu ”. Đất nước ta đang
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, trong thời kỳ công
nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay, hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng đòi hỏi phải
nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ đảng viên từ trung ương tới địa phương.
16
Đảng chủ trương: “huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước,
đặc biệt là nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất nước (Văn kiện đại biểu
toàn quốc lần thứ X), muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X). Tiếp tục thực hiện quá trình đổi mới, cải tiến hoàn thiện chính sách, vấn
đề lợi ích hiện nay ngày càng phải hợp lý và hoàn thiện hơn nhằm mục đích
khuyến khích trình độ của người lao động phát huy được động cơ lòng nhiệt tình
của cán bộ đảng viên và nhân dân làm cho cả nước tập trung hướng theo đường lối
của đảng.
III. Ý nghĩa phương pháp luận

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức thì: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức,
quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người; vì vậy, con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời
phát huy tính năng động chủ quan của mình.
- Vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vật chất, cho nên trong
nhận thức phải bảo đảm nguyên tắc “tính khách quan của sự xem xét” và trong
hoạt động thực tiễn phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo các quy luật khách quan, biết tạo điều kiện và phương tiện vật chất tổ chức lực
lượng thực hiện biến khả năng thành hiện thực. Tôn trọng khách quan là tôn trọng
tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải xuất phát từ thực
tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.
V.I. Lênin dã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm
chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách
17
lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho
thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.
(Nguyên nhân: ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ; yếu kém về lý luận; quan liêu
xa rời thực tế).
+ Khi đánh giá kết luận các sự vật hiện tượng đòi hỏi chúng ta phải đảm bảo
tính khách quan: điều tra kiểm sát thông tin đối tượng một cách nghiêm túc và đảm
bảo thông tin phải trung thực, không được điều tra sơ sài đã kết luận dẫn đến suy
diễn có tính chủ quan sai lầm.
+ Khi đề ra những mục tiêu chương trình phát triển phải điều tra kiểm sát
một cách khách quan và phải nắm bắt đúng thực tế, dựa trên điều kiện thực tế
khách quan đồng thời phải tôn trọng những quy luật khách quan.
+ Khi đề ra chủ trương chính sách mục tiêu, chương trình phát triển đòi hỏi
phải tổng kết thực tiễn, nhưng tổng kết đòi hỏi phải khách quan (điều tra, kiểm sát,
tổng kết, báo cáo) nếu không sẽ nhiễu loạn thông tin gây khó khăn cho quản lý nhà

nước (ví dụ các vụ đất đai ở Hải Phòng, thanh tra dầu khí, giáo dục )
- Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động của con người, cho nên cần phải phát huy tính tích cực, tính năng động chủ
quan của ý thức đối với vật chất bằng cách nhằm nâng cao năng lực nhận thức các
quy luật khách quan và vận dụng chúng vào trong hoạt động thực tiễn của con
người. Phát huy tính năng động chủ quan tức là phát huy vai trò tích cực của ý
thức, vai trò tích cực của nhân tố con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp
thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện thực
phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực hiện trong thực
tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua
hoạt động của con người được bắt đầu từ khâu nhận thức cho được quy luật khách
quan, biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, phải có ý chí, phải có phương
pháp để tổ chức hành động, cần nhận rõ vai trò tích cực của nhân tố ý thức, tinh
18
thần trong việc sử dụng một cách có hiệu quả nhất những điều kiện phương tiện vật
chất hiện có.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố con người để
cải tạo thế giới khách quan, phải tạo ra động lực hoạt động cho con người bằng
cách quan tâm tới đời sống kinh tế, lợi ích thiết thực của quần chúng, phát huy dân
chủ rộng rãi Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức về
bản chất quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy, con người xác định
đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. Tiếp theo, con
người với ý thức của mình xác định các biện pháp để thực hiện tổ chức các hoạt
động thực tiễn.
- Cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ thụ động,
chờ đợi vào điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan Bằng sự nỗ lực và ý chí
mạnh mẽ của mình, con người có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. Ở đây ý thức,
tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi
phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan, vì đó là cơ sở quan trọng cho việc
xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác. Ngược lại, ý thức, tư

tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh
sai thế giới khách quan. Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức,
cần phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, cần phải khái quát, tổng kết
hoạt động thực tiễn để thường xuyên nâng cao năng lực nhận thức, năng lực chỉ
đạo thực tiễn, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách
quan; đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động,
ngồi chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh, vào điều kiện vật chất trong quá trình đổi mới hiện
nay.
19
Đề 3: Trong “bút ký triết học” của V.I Lê Nin viết “Phát triển là cuộc
đâu stranh giữa các mặt đối lập” Đồng chí hãy phân tích cơ sở triết học của
luận điểm trên và nêu ý nghĩa của vấn đề này đối với việc thực hiện các chế độ
tự phê bình và phê bình của Đảng trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng
hiện nay.
Cơ sở triết học:
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lậpthống nhất và đâu
strang của các mặt đối lập là quy luật cơ bản của phép bản của phép biên chứng
duy vật. Nó đã được con người nhân thức rất sâu sắc và đầy đủ hơn. Đó chính là
một tiền đề lýd luận hết sức quan trọng để hình thành lý luận Mác xít về quy luật
này.
- C.Mác, Ph. Angghen, V.I Lê Nin đã kế thừa tư tưởng biện chhứng về mâu
thuẫn, tổng kết những lịch sử của loài người, khái quát những thành tựu mưói
của khoa học từ cuối thế kỷ 18 và đầu TK 20 để luận giải mối quan hệ của các
mặt đối lập một cách khoa học và vận dụng lý luận này để phân tích Ch tìm ra
phương thức để cải tạo nó
- Trên cơ sở xác định rõ quy luật thống nhấtvà đấu tranh của các mặt đối lập
là hạt nhân của phép biện chứng, chủ nghĩa Mác đã làm rõ bản chất các mặt đối
lập và mối quan hệ của chúng. Các măt đói lập phải bao hàm nhiều nội dung
khác nhau. Các mặt đối lập phải là những bộ phận, những nhân tố có thuộc tính
hoặc nhân tố có thuộc tính hoặc có khuynh hướng vận động trái ngược nhau

cùng tồn tại trogn một sự vật, tác độgn qua lại vơi nhau tạo nên sự vận động và
biến đổi. Chính vì tồn tại trong một sự vật bên ngoài thuọc tính, khuynh hướng
vận động trái ngược nhau chúng phải có cái đồng nhất. Chính Lê Nin đã khanửg
định “phép biện chứng là học thuyết vạch ra rằng những mặt đối lập làm thế nào
20
mà có thể và thường là đồng nhất, trong những điều kiện nào chúng đồng nhất,
bằng cách chuyển hoá lẫn nhau”.
Do những đặc điêm trên mà các mặt đối lập có sự đồng nhất vơi snhau.
Nghiên cứu “Bút ký triết học” của lê Nin ta thấy ông đề cập đến thống nhất
có hai nghĩa như sau:
+Cùng tồn tại, sự liên kết nương tựa, bổ sung cho nhau của các mặt đối lập
trong cùng một sự vật.
+ các mặt đói lập do bản chất của chúng là trái ngược nhua nên chúng phải
đấu tranh vơi snhau.
Trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, V.I. Lênin đã coi
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (hay còn gọi là quy luật mâu
thuẫn) là “hạt nhân của phép biện chứng”, bởi vì quy luật này đã chỉ rõ nguồn gốc,
động lực bên trong của sự vận động và phát triển của sự vật; và là “chìa khóa” giúp
chúng ta nắm vững thực chất của các quy luật cơ bản và các cặp phạm trù của chủ
nghĩa duy vật biện chứng. V.I.Lênin viết “có thể định nghĩa vắn tắt phép biện
chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt
nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một
sự phát triển thêm”.
Mâu thuẫn là sự tác độgn qua lại của các mặt đối lập
Với cách nhìn đó chủ nghĩa Mác cho rằng bất kỳ một sự vật nào cũngg chứa
mâu thuẫn. Khôgn ở đâu làkhông có mâu thuẫn và không bao giờ không có mâu
thuẫn. Nhìn sự vật mà chỉ thấy sự đồng nhất , đồng nhất tuyệt đối là lối nhìn hời
hợt, nông cạn, bề ngoài.
1. Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến- Mâu thuẫn là một
khái niệm để chỉ sự liên hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập. Các mặt đối

lập là những bộ phận, những nhân tố có thuộc tính hoặc có khuynh hướng vận
động trái ngược nhau cùng tồn tại trong một sự vật, tác động qua lại với nhau tạo
21
nên sự vận động và biến đổi của sự vật đó. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan
và là phổ biến trong tất cả các sự vật. Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới
đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Trong nguyên tử có điện tử và hạt
nhân; trong sinh vật có đồng hóa và dị hóa; trong kinh tế thị trường có cung và cầu,
v.v
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành
mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ
biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản
ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức.
- Mâu thuẫn có tính khách quan và phổ biến, nên mâu thuẫn có tính đa dạng
và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong các lĩnh vực khác nhau cũng
khác nhau. Trong mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một mâu thuẫn, mà có
nhiều mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc điểm, có vai
trò tác động khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Vì vậy, cần
phải có phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể.
2. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó, hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa
đấu tranh với nhau.
Mâu thuẫn là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Sự thống nhất của các mặt
đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn
tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia để làm tiền đề.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự liên hệ, quy định, ràng buộc lẫn
nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.
Trong quy luật mâu thuẫn, khái niệm “thống nhất” và “đồng nhất” thường
được dùng cùng một nghĩa. Nhưng cũng có lúc, khái niệm “đồng nhất” được hiểu
theo nghĩa là sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Các mặt đối lập tồn tại
không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau.
Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất” của các mặt đối lập. Với ý

22
nghĩa đó, “sự thống nhất của các mặt đối lập” còn bao hàm cả sự “đồng nhất” của
các mặt đó. Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của
mâu thuẫn đếnmột lúc nào đó các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau.
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự xung đột, bài trừ và phủ định lẫn
nhau của các mặt đối lập. Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn luôn
“đấu tranh” với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu
hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết
sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, vào mối quan hệ qua lại giữa các
mặt đối lập và tùy điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển
Phát triển là một sự đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động
khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện
chứng bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống
nhất gắn liền với sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là: “Sự thống nhất
( ) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu
tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự
vận động là tuyệt đối”.
+ Quá trình hình thành và phát triển của một mâu thuẫn: lúc đầu mới xuất
hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt; sau đó phát triển lên thành hai mặt đối lập;
khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và có điều kiện thì
giữa chúng có sự chuyển hóa - mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi,
mâu thuẫn mới được hình thành và lại một quá trình mới làm cho sự vật không
ngừng vận động và phát triển. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể
thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế.
Chẳng hạn, bất kỳ một sinh vật nào cũng chỉ có thể tồn tại và phát triển được
khi có sự tác động qua lại giữa đồng hóa và dị hóa. Sự tiến hóa của các giống loài
23
không thể có được, nếu không có sự tác động qua lại giữa di truyền và biến dị. Tư

tưởng, nhận thức của con người không thể phát triển, nếu không có sự cọ sát
thường xuyên với thực tiễn, không có sự tranh luận để làm rõ đúng sai
V.I.Lênin viết : “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối
lập”. Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu
tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách
rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự
thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn
chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
+ Nếu mâu thuẫn không được giải quyết (các mặt đối lập không chuyển
hóa), thì không có sự phát triển. Chuyển hóa của các mặt đối lập là tất yếu, là kết
quả của sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Do sự đa dạng của thế giới, nên các hình
thức chuyển hóa cũng rất đa dạng: có thể hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau và
cũng có thể chuyển hóa lên hình thức cao hơn
Sự vận động và phát triển của sự vật thể hiện trong sự thống nhất biện chứng
giữa hai mặt: thống nhất của các mặt đối lập và đấu tranh của hai mặt đối lập, trong
đó: thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời, tương đối; còn đấu tranh của các
mặt đối lập là tuyệt đối. Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho
sự vận động và phát triển của sự vật là sự tự thân và diễn ra liên tục. Tính tương
đối của thống nhất giữa các mặt đối lập làm cho thế giới vật chất phân hóa thành
các bộ phận, các sự vật đa dạng, phức tạp, gián đoạn.
Trong thực tế do có sự đồng nhất một cách sai lầm đấu tranh với va chạm
đụng độ, rối loạn, mất ổn định, bè phái mất đoàn kết nên người ta ác cảm, không
có cảm tình với đấu tranh. V.I.Lênin khẳng định : “không thể đồng nhất sự đấu
tranh với các hiện tượng bè phái mất đoàn kết, vì các hiện tượng này không tạo ra
sự phát triển”.
24
Trong phong trào cộng sản quốc tế trước kia có người, có nơi quy sự khác
biệt chính kiến về mâu thuẫn biến bạn thành thù nhằm phục vụ lợi ích cá nhân,
nhằm thực hiện mưu đồ chính trị cá nhân -> ác cảm với đấu tranh.

* Mâu thuẫn là sự tác động qua lại, là sự thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập nhưng không phải chỉ có đấu tranh tức quá nhấn mạnh vào đấu tranh
dân tộc, giai cấp, trong thống nhất có đấu tranh (đấu tranh trong sự thống nhất),
trong đấu tranh có thống nhất (bao hàm sự thống nhất).
Tóm lại: mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan đều là thể thống
nhất của các mặt đối lập, chính ự đấu tranh của các mặt đối lập và sự chuyển hóa
giữa chúng là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Ý nghĩa của vấn đề này đối với việc thực hiện các chế độ tự phê bình và
phê bình của Đảng trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay).
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý
nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Mẫu thuẫn là khách quan, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên
muốn nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng
cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật.
Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những
khuynh hướng trái ngược nhau, tức tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối
liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó. V.I.Lênin viết: "Sự phân
đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận của nó , đó là thực chất của
phép biện chứng".
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của
từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn;
phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan
hệ tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Đồng
thời, cũng phải xem xét các mâu thuẫn cụ thể với vai trò, vị trí và mối quan hệ của
25
nó. Chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng
vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là phổ biến, đa dạng, do đó trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn, phải có phương pháp phân tích mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một cách
cụ thể. Việc giải quyết mâu thuẫn chỉ bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối

lập và với những điều kiện chín muồi.
Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn,
không được điều hoà mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp
với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực
lượng để giải quyết mâu thuẫn. Hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi sự vật là quá
trình giải quyết mâu thuẫn của nó. Muốn vậy, phải xác định đúng trạng thái chín
muồi của mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi.
Cho nên, chúng ta không được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa
có đủ điều kiện; cũng không để cho việc mâu thuẫn và tìm ra phương thức, phương
tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải
quyết mâu thuẫn một cách thực tế.
Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh (dưới những hình thức
cụ thể rất khác nhau). Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác
nhau. Điều đó tuỳ thuộc vào bản chất của mâu thuẫn, vào những điều kiện cụ thể.
Phải có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn. Phải tìm ra các hình
thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu
thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.
Trong hoạt động, công tác của Đảng, tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc
bén để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, xây dựng
đường lối chính sách phù hợp, tổ chức thực hiện hiệu quả, khắc phục sai lầm,
khuyết điểm, phát huy ưu điểm để Đảng thật sự là đội tiền phong cách mạng chiến
đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Tự phê bình và phê

×