Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Đầu tư phát triển nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 20092013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.18 KB, 31 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
Phải khẳng định rằng nông nghiệp là một lợi thế to lớn của Việt Nam, với trên 9 triệu
ha đất nông nghiệp, trong đó có hai vùng đồng bằng phì nhiêu là vùng đồng bằng sông
Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, là những vùng trồng lúa được xếp vào loại tốt nhất của
thế giới; có vùng đất đồi núi bao la có thể phát triển cây công nghiệp và rừng; có bờ biển
dài tới 3.200 km, cùng với diện tích mặt nước lớn khác có thể phát triển thuỷ sản. Lợi thế
về tài nguyên thiên nhiên: đất nông nghiệp, đất rừng, mặt nước, cộng với hàng chục triệu
nông dân vừa cần cù, vừa thông minh, lại có học vấn khá và năng động, tạo nên hai nguồn
lực “trời cho” hiếm có so với nhiều nước trên thế giới.Với lợi thế đó, Việt Nam có thể
phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh, có sức cạnh tranh cao trong khu vực và
thế giới, có thể làm giàu cho nông dân, làm giàu cho đất nước.
Tuy nhiên, nếu Việt Nam chỉ dựa trên những lợi thế đặc thù của tự nhiên không thôi
thì nền nông nghiệp của nước nhà chỉ dậm chân tại chỗ trong khi nền nông nghiệp của các
nước khác lại một ngày phát triển. Do đó, vấn đề đầu tư phát triển nông nghiệp đã, đang
được Đảng và nhà nước quan tâm đúng mực, góp phần vào sự phát triển phồn vinh của đất
nước. Bên cạnh những thành tựu mà ngành nông nghiệp đạt được nhờ đầu tư hiệu quả thì
không thể tránh khỏi những sai lầm dẫn đến một số hạn chế nhất định. Vậy qua đây, em
xin chọn đề tài “ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN 2009 - 2013” để từ đó có cái nhìn tích cực hơn về công tác đầu tư phát triển
cho ngành nông nghiệp Việt Nam cho thời gian tới. Bài biết của em có bố cục gồm ba
phần:
Phần 1: Lý luận chung về đầu tư phát triển và đầu tư phát triển nông nghiệp.
Phần 2: Tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp trong giai đoạn 2009 – 2013
Phần 3: Định hướng chiến lược và một số giải pháp đầu tư phát triển nông nghiệp
trong thời gian tới.
Với lượng kiến thức còn khá hạn chế cũng như việc cập nhật thông tin chưa hoàn
chỉnh nên bài làm của em còn nhiều thiếu sót, cần được sự góp ý, bổ sung và chỉnh sửa
của Giáo viên hướng dẫn. Mong rằng dưới sự hướng dẫn tận tình của cô thì bài viết của
em sẽ ngày càng hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
2


3
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP.
1.1 Lý luận chung về đầu tư phát triển.
1.1.1 Khái niệm đầu tư phát triển.
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động
nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra
để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí
tuệ và nguồn lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội.
1.1.2 Vai trò của đầu tư phát triển:
1.1.2.1 Xét trên giác ngộ toàn bộ nền kinh tế đất nước.
• Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu
Về mặt cầu đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng cầu của toàn bộ nền
kinh tế, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước
trên thể giơí, đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn.
Về mặt cung khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng các năng lực mới đi vào hoạt
động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên kéo theo sản lượng tăng, giá
giảm cho phép tăng tiêu dùng, tiếp tục lại kích thích sản xuất hơn nữa.
• Đầu tư tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế
Sự tác động không đồng thời về thời gian của đầu tư với tổng cầu và tổng cung của
nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù tăng hay giảm đều vừa là yếu tố duy trì
ổn định vừ là yếu tố phá vỡ sự ổn định. Khi tăng đầu tư cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm
giá cá của các hàng hoá liên quan tăng. Khi tăng đầu tư cũng làm cho cầu của các yếu tố
liên quan tăng, sản xuất các ngành này phát triển thu hót lao động giảm tình trạng thất
nghiệp.
4
• Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Để tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15-25% so với GDP

tuỳ thuộc vào Icor mỗi nước, chỉ tiêu Icor của mỗi nước tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố thay
đổi theo trình độ phát triển kinh tế.
• Đầu tư tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Con đường tất yếu có thể tăng nhanh tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm
tạo ra sự phát triển nhanh ở khu công nghiệp và dịch vụ, đối với các ngành nông nghiệp,
lâm ngư nghiệp do hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học để đạt tốc độ tăng trưởng
từ 5-6% là khó khăn, như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
• Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát
triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Để có công nghệ thì phải tự
nghiên cứu phát minh hoặc nhập công nghệ từ nước ngoài nhưng vấn đề là phải có tiền,
vốn đầu tư.
1.1.2.2Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ
Để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sù ra đời của cơ sở nào đó cần phải xây
dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng mua sắm lắp đặt thiết bị máy móc, thực hiện các chi phí
khác gắn liêng với sự hoạt động trong mét chu kỳ của các cơ sở vật chất - kỹ thuật. Các
hoạt động này chính là hoạt động đầu tư, sau một thời gian hoạt động các cơ sở này hao
mòn, hư háng và để hoạt động bình thường hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt
động mới thì phải đầu tư nâng cấp và tiến hành sửa chữa.
1.2 Khái quát nền nông nghiệp Việt Nam.
1.2.1 Đặc điểm nông nghiệp Việt Nam.
5
Dù đang trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước nhưng Việt Nam
vẫn là một nước nông nghiệp và trình độ phát triển của ngành nông nghiệp vẫn ở mức rất
thấp. Vì thế nghiên cứu rõ đặc điểm của nền nông nghiệp này sẽ giúp cho chúng ta có những
chính sách đầu tư phát triển phù hợp nhằm thúc đẩy nền nông nghiệp nước ta từng bước đi
lên, theo kịp tiến trình phát triển của cả nước. Có thể nói nền nông nghiệp nước ta ngoài
những đặc điểm chung như nêu ở trên thì có những đặc điểm riêng sau:
Nông nghiệp nước ta hiện nay được phát triển trong điều kiện đất nước đang tiến hành

quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Chính vì vậy mà nó nhận đước sự quan tâm lớn
của toàn xã hội, mức độ công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn sẽ được tiến hành
nhanh hơn và rộng hơn trên cả nước, đồng thời sự áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ
thuất cũng nhiều hơn và tốt hơn. Tuy vậy thì nông nghiệp lại chịu một sự thiệt thòi lớn là tỷ
lệ đầu tư của nhà nước và xã hội cho nông nghiệp sẽ ngày càng giảm sút
Đất nước ta được chia ra làm 3 miền Bắc - Trung - Nam với khí hậu và địa hình rất phức
tạp và khác biệt. Tỉ lệ đồi núi chiếm tới hơn 70 % lãnh thổ, các vùng đồng bằng có điều kiện
cũng không giống nhau, khí hậu, thời tiết rất phức tạp. Chính sự phức tạp, đa dạng này đã tạo
cho sản xuất nông nghiệp nước ta không không thống nhất và đồng bộ giữa các miền, và khó
cho việc áp dụng những giống cây trồng vật nuôi đại trà trong cả nước.Nhưng lại tạo ra cho
nước ta thuận lợi trong việc phát triển đa dạng những sản phẩm nông nghiệp.
Hiện nay nền nông nghiệp chúng ta đã có một khối lượng rất lớn hàng nông lâm thuỷ sản
xuất khẩu, chiếm một tỉ lệ cao trong giá trị xuất khẩu của cả nước. Nhưng có một thực tế
ngược lại là tuy sản lượng tăng mạnh, năng suất lao động lại chưa cao, hơn nhiều so với các
nước khác.Chất lượng hàng nông sản của chúng ta cũng không cao do vậy mà giá trị của
chúng trên thị trường cũng thấp.Nền nông nghiệp Việt Nam vẫn mang tính truyền thông sâu
sắc, chưa có những thay đổi lớn so với những năm trước đây. Sản xuất nông nghiệp vẫn
mang tính cá thể và đơn lẻ; mức độ áp dụng khoa học kĩ thuật công nghệ vào nông nghiệp là
rất ít, đồng thời mức độ cơ giới hoá trong nông nghiệp là không cao. Ngoài ra, hệ thống cơ
sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, một số vùng nếu có thì đã quá lạc hậu hoặc
thiếu đồng bộ còn lại là rất thiếu. Tất cả những điều này ảnh hưởng rất lớn đối với sản
6
xuất nông nghiệp
Tóm lại , nền nông nghiệp nước ta tuy có nhiều tiến bộ trong những năm gần đây vẫn còn
yếu kém và lạc hậu; do vậy cần nhận được sự đầu tư toàn diện và sâu rộng, của Đảng, của
nhà nước và của toàn dân để nó có thể phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có.
1.2.2 Vai trò của nền nông nghiệp Việt Nam
Thế giới dù có hiện đại, dù có phát triển đến mấy thì nông nghiệp vẫn giữ những vị trí
hết sức then chốt và cực kì quan trọng. Sở dĩ nông nghiệp có được vị trí như vậy vì ngành
này có những vai trò sau:

Thứ nhất, đối với các nước đang phát triển , nông nghiệp đóng vai trò cực kì quan trọng,
góp một tỷ lệ lớn vào giá trị hàng hoá xuất khẩu và thu ngoại tệ cho đất nước đồng thời cũng
chiếm một vị trí khá cao trong GDP của đất nước. Như ở Việt Nam, xuất khẩu hàng nông
sản và sản phẩm chế biến từ nông sản thu được hàng tỷ Đôlla, chiếm một tỉ lệ cao trong
tổng giá trị xuất khẩu; các mặt hàng như gạo, cà phê có giá trị xuất khẩu lớn.
Thứ hai, nông nghiệp còn có vai trò khá quan trọng đối với một số ngành kinh tế khác
như công nghiệp chế biến.Có thể nói ngành công nghiệp chế biến nông sản phụ thuộc rất
nhiều vào nông nghiệp. Để ngành này muốn hoạt động tốt thì đòi hỏi ngành nông nghiệp
phải phát triển ổn định và thường xuyên cung cấp các đầu vào rẻ và có chất lượng cao.
Ngoài ra một số nông sản còn là những đặc sản trong hoạt động du lịch và dịch vụ ăn uống
nhằm thu hút khách hàng, nên nông nghiệp cũng là nhân tố thúc đẩy du lịch
Thứ ba, đối với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển thì nông
nghiệp vẫn là một ngành kinh tế tạo ra một khối lượng lớn công ăn việc làm và tạo thu nhập
cho người dân. Như ở Việt Nam, hiện nay vẫn có tới khoảng 70% dân số sống ở nông thôn
và cũng một tỉ lệ tương tự làm việc trong ngành nông nghiệp.
Thứ tư, nông nghiệp là ngành kinh tế đóng vai trò như một nhân tố tạo vốn, lao động
và thị trường cho thời kì đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở các nước đang
phát
Thứ năm, nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực thực phẩm duy nhất cho cả xã
hội loài người. Đây là vai trò nổi bật của nông nghiệp,với vai trò này nông nghiệp quyết định
sự ổn định và phát triển của xã hội loài người.
7
1.3 Đầu tư phát triển nông nghiệp.
1.3.1 Nội dung đầu tư phát triển nông nghiệp.
Đầu tư là nhân tố quyết định những sự biến đổi vượt bậc của ngành nông nghiệp. Đầu
tư chính là đòn bẩy, là động lực cho sự phát triển.
Thứ nhất đầu tư phát triển khoa học công nghệ: đầu tư vào lĩnh vức khoa học công nghệ
sẽ góp phần tạo ra cho nông nghiệp những giống cây trồng vật nuôi mới hiệu quả hơn. Mỗi
người đều hiểu rằng khoa học công nghệ là động lực cho sự phát triển các ngành kinh tế và no
vẫn là nhân tố quan trọng cho sự phát triển mạnh sản xuất nông nghiệp. Ngày nay, công

nghệ sinh học đang phát triển mạnh mẽ và chiếm một vị trí ngày càng quan trọng trong đời
đời sống kinh tế thế giới. Công nghệ sinh học ngày càng có những thành công to lớn hơn
và là lĩnh vực liên quan khá chặt chẽ với ngành nông nghiệp.
Thứ hai đầu tư vào cơ giới hoá nông nghiệp: trong thế giới hiện nay, một nền nông
nghiệp hiện đại, có năng suất, hiệu quả cao khi nó được cơ giới hoá, công nghiệp hoá một
cách cao độ. Hay nói rõ hơn là sản xuât nông nghiệp được áp dụng máy móc một cách phổ
biến và đại trà trong mọi khâu và mọi lĩnh vực và góp phần giải phóng sức lao động của
con người. Nhờ có những chính sách hỗ trợ mà đặc biệt là do có các nguồn đầu tư hữu ích
của xã hội mà ngành nông nghiệp có được những loại máy móc hiện đại, tiên tiến như
máy cày máy kéo, máy gặt đập, máy xay xát, các loại xe chuyên chở thay thế cho sức
người và súc vật trong quá trình sản xuất những phương tiện này là đỏi hỏi cấp thiết của
nền nông nghiệp. Tuy nhiên chúng ta phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng địa
phương, từng lĩnh vực mà mua sắm những máy móc cho thích hợp nhất.
Thứ ba đầu tư phát triển nguồn nhân lực: đầu tư là đã góp phần tạo ra cho nông
nghiệp một lực lượng lao động hùng hậu có tay nghề chuyên môn và trình độ kĩ thuật cao.
Khi người nông dân có trình độ càng cao sẽ càng thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp
trong việc sử dụng những kĩ thuật mới và giúp cho ngành này có sự tăng trưởng cao.
Thứ tư đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: đầu tư tạo cho nông nghiệp một hệ thống cơ sở
hạ tầng hiện đại và có qui hoạch, tập trung. Khi những hệ thống này hoạt động tốt sẽ rất
8
thuận lợi cho sản xuất. Tuy nhiên những cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động của nông
nghiệp không tự nhiên có mà cần phải có sự đầu tư tiền và các nguồn lực khác. Việc đầu tư
này cần phải được qui hoạch tổng thể , tránh hiện tượng đâu tư dàn trải, không trọng điểm.
Khi đã có đầu tư và đầu tư hiệu quả thì chúng ta sẽ có một hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại,
sẽ giúp cho nông nghiệp có thể tiến hành những phương thức sản xuất mới, có thể tiến
hành thâm canh tăng vụ, người nông dân cũng có thể chủ động trong quá trình sản
xuất những thuận lợi này sẽ làm cho sản lượng ngành nông nghiệp tăng cao và chất lượng
nông sản cũng tốt hơn.
1.3.2 Đặc trưng của đầu tư phát triển nông nghiệp.
Nông nghiệp là một ngành kinh tế đặc thù với những đặc điểm riêng biệt, vì vậy mà đầu

tư trong nông nghiệp cũng có những nét đặc trưng riêng, không giống bất cứ một ngành
kinh tế nào trong nền kinh tế.
Đặc trưng thứ nhất là đầu tư trong nông nghiệp đó là nó đỏi hỏi một lượng vốn đầu tư
khá lớn, có độ rủi ro cao nhưng tỷ suất lợi nhuận lại thấp hơn nhiều so với các ngành, lĩnh
vực khác.Cụ thể, khi ta tiến hành đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng (như hệ thống thuỷ lợi)
hay khoa học công nghệ thì lượng vốn đầu tư thất không nhỏ chút nào. Vì vậy mà khi đầu
tư, đỏi hỏi các nhà đầu tư phải có những chính sách biện pháp huy động đủ vốn và kịp tiến độ.
Khí hậu cũng ảnh hưởng tới quá trình đầu tư, khi đầu tư người ta thường phải nghiên
cứu rõ điều kiện khí hậu, bởi nó có ảnh hưởng mạnh tới kết quả của sản xuất nông nghiệp
hay kết quả đầu tư. Do vậy mà khi đầu tư vào nông nghiệp các nhà đầu tư phải nghiên cứu
rất kĩ đặc điểm tự nhiên của từng vùng để có thể có những công cuộc đầu tư mang hiệu quả
cao hoặc có những biện pháp phòng tránh ảnh hưởng xấu của tự nhiên hữu hiệu.
Do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ nên đầu tư trong nông nghiệp cũng mang tính
thời vụ khá rõ rệt. Rất nhiều hoạt động đầu tư trong nông nghiệp phải nghiên cứu thời
điểm đầu tư và chọn khu vực điểm điểm đầu tư. Tuy nhiên, với trình độ khoa học phát
triển chúng ta có thể đầu tư đa dạng và với khoảng thời gian rộng hơn.
Một đặc trưng nổi rõ của đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp là quá trình thực hiện một
công cuộc đầu tư cũng như việc thu hoạch những kết quả của nó chịu ảnh huởng nhiều của
các điều kiện tự nhiên. Điều đặc trưng này là do đặc điểm ngành nông nghiệp chi phối như
9
điều kiện đất đai, địa hình… Khi đầu tư dựa vào điều kiện của địa hình để có những chính
sách đầu tư phù hợp nhất.
Đầu tư trong nông nghiệp có độ rủi ro cao, đây là vấn đề thiệt thòi cho nông nghiệp. Sở
dĩ rủi ro cao vì đầu tư trong ngành nông nghiệp một mặt chịu những rủi ro chung của các
công cuộc đầu tư mặt khác nó còn chịu ảnh hưởng cực mạnh của những biến đổi tự nhiên
xấu. Ngoài ra việc kiểm soát và hạn chế những loại rủi ro này là rất khó, đôi khi không thể
ngăn chặn nổi. Một thiệt thòi lớn của đầu tư là tỷ suất lợi nhuận của hoạt động đầu tư trong
nông nghiệp rất thấp thường chỉ vài phần trăm một năm trong khi các ngành khác đạt hơn 10
%, do nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng không cao.Khi đầu tư thời gian thu hồi vốn cũng rất
lâu. Còn một số công trình đầu tư trong nông là hoà vốn, thậm chí nhiều công trình không thu

đủ số vốn đầu tư ban đầu bỏ ra.
Tóm lại, hoạt động đầu tư trong nông nghiệp có những nét riêng, chính vì những nét
này mà các nhà đầu tư thường không muốn bỏ vốn của mình đầu tư vào ngành nồng
nghiệp, hoặc có thì cũng rất ít. Do vậy để thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển thì đòi hỏi
chính phủ mỗi nước phải có những chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư nhằm thu hút
vốn đầu tư và bản thân nhà nước phải bỏ vốn đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở.
1.3.3 Nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư nông nghiệp.
Qua thực tế ở Việt Nam và các nước có thể thấy các nhân tố ảnh hưởng tới sự
chuyển dịch cơ chế đầu tư cho nông nghiệp là:
- Chủ trương chính sách phát triển kinh tế -xã hội của Chính phủ trong từng thời kỳ
và khả năng ngân sách của nhà nước.Khi sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn Chính phủ
có thể để hỗ trợ để khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư vào các lĩnh vực cụ thể.
- Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học. Điều này
đem lại cho đất nước những loại hình sản xuất mới nuôi trồng và phát triển cây, con
mới.Từ đấy mà đòi hỏi tỷ lệ đầu tư thích hợp.
- Điều kiện tự nhiên: ở mỗi vùng, mỗi lãnh thổ có điều kiện tự nhiên khác nhau, từ
đó mà nó cho phép khai thác lại các lợi thế về các loại cây, con nhất định. Vì thế mà xác
định đúng cơ cấu đầu tư cho nông nghiệp từng vùng sẽ có tác dụng khuyến khích phát
triển và ngược lại.
Một trong những nhân tố quyết định đến chiến lược đầu tư thích hợp, lựa chọn kỹ
10
thuật và năng suất nông nghiệp của một quốc gia trong các thời kỳ khác nhau là tỷ lệ đất
trên lao động mà mối quan hệ của tỷ lệ đất trên lao động với hộ phát triển lao động, năng
suất lao động và năng suất đất đai được biểu hiện qua công thức
Y/L = Y/A x A/L
Trong đó: Y: là sản lượng nông nghiệp
L: là số lao động trong nông nghiệp
A: là diện tích đất canh tác
Các nhân tố trên là các nhân tố chủ yếu tác động tới đầu tư vào nông nghiệp ta cần
nghiên cứu, xem xét để có thể đầu tư hợp lý hơn vào nông nghiệp.

Phần 2: TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2009 -2013
2.1 Chính sách đầu tư phát triển nông nghiệp trong giai đoạn 2009 – 2013
2.1.1 Chính sách đầu tư phát triển nông nghiệp Việt Nam
Ở nước ta, nông nghiệp giữ vai trò đặc biệt quan trọng và nông nghiệp chiếm tỷ
trọng rất lớn trong GDP. Vì vậy, vấn đề đầu tư cho nông nghiệp có ảnh hưởng lớn đến nền
kinh tế quốc dân nói chung và đối với khu vực nông thôn nói riêng.
11
Chính sách đầu tư và đầu tư cho nông nghiệp được hình thành trên cơ sở lý luận về
tương quan giữa đầu tư và phát triển cũng như yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn phát triển
của vùng, khu vực và toàn bộ nền kinh tế. Mục đích của chính sách đầu tư cho nông
nghiệp là tái tạo và nâng cao năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nông nghiệp là tái
tạo và nâng cao năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nông nghiệp, thúc đẩy quá
trình chuyển giao công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp, từ đó nâng
cao năng suất và chất lượng sản phẩm của các ngành trồng trọt và chăn nuôi, đồng thời
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng và chính sách kinh tế của
Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Thực tiễn của quá trình phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam qua các thời kỳ đã
chứng minh rằng đầu tư phát triển là cơ sở, nền tảng của sự phát triển ngành nông nghiệp
Việt Nam
Trong giai đoạn 2009 – 2013, để thúc đẩy sự phát triển của nền nông nghiệp, Việt Nam
đã đề ra chính sách đầu tư phát triển nông nghiệp dựa trên một số hạn chế và yếu kém
trong quá trình sản xuất nông nghiệp của giai đoạn trước đó. Thực tế thấy rằng tốc độ tăng
đầu tư cho nông nghiệp chỉ đạt 3,2% - 3,4%/năm chưa tương xứng với vai trò quan trọng
và sự đóng góp của nông nghiệp cho nền kinh tế quốc dân. Tốc độ này cũng còn thấp xa
so với tiềm năng của nông nghiệp Việt Nam. Phải hết sức cẩn thận tránh rơi một cách vô ý
thức vào chiến lược coi trọng công nghiệp, xem nhẹ nông nghiệp của một số nước trên thế
giới đã đưa đến sự không hài hòa phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Muốn vậy, cần
tăng cường đầu tư nhiều hơn nữa cho nông nghiệp, hướng vào nghiên cứu, áp dụng khoa
học công nghệ hiện đại trong nông nghiệp, tăng cường khuyến nông, khuyến lâm, khuyến

ngư và xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản xuất, cho giai đoạn sau thu
hoạch, chế biến, bảo quản nông sản cho đến khi đưa đến người tiêu dùng trong và ngoài
nước.
2.1.2 Quan điểm và mục tiêu phát triển ngành nông nghiệp
2.1.2.1 Quan điểm phát triển ngành nông nghiệp.
12
Phát triển nông nghiệp đóng vai trò chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế
xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng.
Các vấn đề phát triển nông nghiệp phải giải quyết đồng bộ gắn với công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, là một nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển toàn diện,
hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.
Phát triển nông nghiệp phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt
các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy cao nội lực, đồng thời tăng
mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội; ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ
tiên tiến, phát triển nguồn nhân lực
Phát triển phải vững bền cả vềchất và lượng. Đảm bảo môi trường sản xuất nông
nghiệp và thực phẩm vệ sinh; tài nguyên sinh học đa dạng; thiên tai và quá trình biến đổi
khí hậu gây ra.
2.1.2.2 Mục tiêu phát triển nông nghiệp
Mục tiêu tổng quát là xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện
đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh
tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài .
Mục tiêu cụ thể là phục hồi tăng trưởng, tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp; phát
huy dân chủ cơ sở, huy động sức mạnh cộng đồng để phát triển nông nghiệp
Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp ổn định 3,3-3,8%. Tạo chuyển biến rõ rệt về mở
rộng quy mô sản xuất bình quân của hộ và ứng dụng khoa học công nghệ.

Tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực. Nâng cao cả kiến thức, kỹ năng sản xuất
kinh doanh nông lâm ngư nghiệp và phi nông nghiệp cho lao động nông thôn.
13
Tạo chuyển biến rõ rệt phát triển kinh tế hợp tác, hiệp hội, phát triển liên kết dọc theo
ngành hàng, kết nối giữa sản xuất - chế biến - kinh doanh. Hình thành kết cấu hạ tầng căn
bản phục vụ hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Cải thiện căn bản môi trường và sinh thái
nông thôn tập trung vào đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh cho
cây trồng và vật nuôi, phòng chống thiên tai.
2.2 Tình hình đầu tư cho nông nghiệp Việt Nam
Tình hình chung khó khăn trong vài năm gần đây khiến vai trò của nông nghiệp nổi
lên như một trụ đỡ vững chắc cho cả nền kinh tế. bởi vậy, nguồn vốn dành cho ngành
nông nghiệp ngày càng được quan tâm dầu tư. Với chủ trương vốn đầu tư cho nông
nghiệp “ 5 năm sau tăng gấp đôi so với 5 năm trước”. Nên việc sử dụng nguồn vốn đầu tư
sao cho hiệu quả, hợp lý cũng là bài toán đặt ra cho ngành nông nghiệp.
2.2.1 Vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp
Thực hiện theo chủ trương từ Nghị quyết Trung ương 7 khóa X, vốn đầu tư cho
lĩnh vực nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2009 – 2013 khoảng 520.490 tỷ đồng, tăng gấp
2.64 lần so với 5 năm trước.
14
Bảng 2.1 Vốn đầu tư ngành nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2004 – 2013
ĐVT: Tỷ đồng.
Giai đoạn 2004 – 2008 2009 – 2013 Chênh lệch
Tổng
VĐT
% Tổng
vốn
% Tổng
vốn%
%
Tổng vốn đầu tư

cho ngành nông
nghiệp
197.510 100 520.490 100 322.980 163.5
( Nguồn: Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn)
Theo số liệu từ bảng 2.1, ta thấy nhà nước đã nhìn nhận được tầm quan trọng trong
đầu tư cho nông nghiệp nên vốn đầu tư giai đoạn 2009 – 2013 tăng 63.5% so với giai đoạn
trước đó. Tuy tổng vốn xã hội đầu tư cho nông nghiệp nhìn chung tăng nhưng nguồn lực
của nhà nước đầu tư cho nông nghiệp lại tăng có xu hướng chậm. Báo cáo của Ban Chỉ
đạo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp cho thấy, tỷ
trọng đầu tư NSNN cho nông nghiệp, nông thôn đã tăng từ 32,8% năm 2008 lên 41,3%
vào năm 2013. Tuy nhiên, đầu tư xã hội cho nông nghiệp, nông thôn lại giảm cả tỷ trọng
và giá trị thực, trong đó đầu tư cho phát triển sản xuất nông, lâm, thủy sản chỉ đạt 10,4%
so với GDP nông, lâm, thủy sản và có tới 76% vốn đầu tư từ NSNN. Mức đầu tư này chỉ
đáp ứng 65 - 75% so với yêu cầu đầu tư để đạt tốc độ tăng trưởng 3,5 - 4%/năm.
Đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước rất hạn chế, trong khi đầu tư tư nhân trong
nước vào nông nghiệp, cũng liên tục giảm. Tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư sản xuất nông
nghiệp giảm từ 1,48% giai đoạn 2004 – 2008, xuống còn 0,89% giai đoạn 2009 - 2013.
15
Trong 5 năm qua, chỉ có 3.486 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn 126.469 tỷ đồng,
nhưng lại có 475 doanh nghiệp (15%) bị giải thể.
Không chỉ các nhà đầu tư trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài cũng không mấy
mặn mà với nông nghiệp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông nghiệp cũng thấp.
Trong giai đoạn 2009 - 2013, số dự án đầu tư và số vốn đầu tư tăng nhẹ so với 5 năm
trước, tăng lần lượt ở mức 1,61% và 0,55%. Tuy nhiên, tính đến ngày 20/5/2013 lũy kế
các dự án trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản còn hiệu lực là 496 dự án với số vốn đăng ký
là 3,26 tỷ USD. Mặc dù đã có những nỗ lực nhằm huy động vốn ODA đầu tư cho nông
nghiệp nhưng số vốn huy động được trong năm 5 qua chỉ đạt gần 1,6 tỷ USD.
Mặc dù, tín dụng cho nông nghiệp, luôn tăng với tốc độ cao hơn tốc độ tăng chung
cho nền kinh tế, bình quân đạt 21%/năm, song, đang có dấu hiệu tăng chậm lại. Giai đoạn
2010 - 2013, nếu loại trừ yếu tố lạm phát, thì tín dụng nông nghiệp hầu như không tăng.

Để cải thiện tình hình nông nghiệp Việt Nam, chỉ có cách duy nhất là đưa công
nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Song cho đến nay, cả nước mới chỉ có 5 doanh nghiệp
nông nghiệp được công nhận là doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Theo ông Ngô
Tiến Dũng, Tổng Thư ký Hiệp hội các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nông
nghiệp, nhiều năm qua, mô hình liên kết 4 nhà ở Việt Nam tại nhiều nơi thất bại. Các
doanh nghiệp vẫn cho rằng, đầu tư vào nông nghiệp rủi ro cao, vốn đầu tư lớn, thu hồi
chậm nên không muốn mạo hiểm bỏ vốn vào nông nghiệp.
2.2.2 Ứng dụng khoa học công nghệ trong đầu tư phát triển nông nghiệp.
Phát triển công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp là “chìa khóa vàng” mở ra
một trang mới cho ngành nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều rào cản khiến
cho việc đưa công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp vẫn chưa đạt được kết quả
cao.Thực trạng chung trong đầu tư phát triển nông nghiệp giai đoạn 2009 – 2013 là chậm
ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp.
Công nghệ cao đóng vai trò rất quan trọng trong xây dựng nền nông nghiệp toàn
diện, theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và
16
sức cạnh tranh cao. Đó là cơ sở để nền nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững, đóng góp
vào phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn nước ta đã hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, trong thực tế việc đưa công nghệ vào sản xuất nông nghiệp từ cấp T.Ư đến các
địa phương vẫn triển khai chậm. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có 29 khu nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao được xây dựng, đưa vào hoạt động và quy hoạch tại 12 tỉnh, thành
phố.
Một số vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao bắt đầu được hình thành như Hà Nội,
TP Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Hậu Giang Tuy nhiên, hoạt động của các khu công nghiệp
công nghệ cao này còn rất hạn chế do đầu tư chưa đồng bộ, tập trung; cơ chế hỗ trợ, thu
hút doanh nghiệp còn thiếu hấp dẫn, tính cạnh tranh của sản phẩm chưa cao. Việc lựa
chọn mô hình, sản phẩm, lựa chọn công nghệ để sản xuất chưa phù hợp; chi phí đầu tư,
vận hành quá cao dẫn đến sản xuất không hiệu quả. Một số khu nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao ở Hà Nội, Hải Phòng được đầu tư hàng chục tỷ đồng để nhập công nghệ
trọn gói của nước ngoài nhưng chưa thành công.

Thực tế những năm qua, tăng trưởng nông nghiệp có xu hướng chậm lại, tăng trưởng
ngành nông nghiệp các giai đoạn: 1996-2000 ở mức 4,01%, 2001-2005 là 3,83%, 2006-
2010 là 3,03%, 2009-2013 chỉ còn 2,9%. Phần lớn nông sản của Việt Nam đang được xuất
khẩu ở dạng thô, sơ chế, giá trị gia tăng rất thấp, nhiều loại nông lâm thủy sản chưa có
thương hiệu trên thị trường quốc tế.
Nông nghiệp Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới phát triển theo chiều sâu với quy
mô lớn hơn, chất lượng và giá trị gia tăng cao hơn để hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đó đặt
ra yêu cầu về ứng dụng công nghệ cao, nhằm nâng cao hiệu quả, khả năng cạnh tranh,
chất lượng sản phẩm và đáp ứng nhu cầu ngày một đa dạng của người tiêu dùng, đặc biệt
đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn hàng hóa xuất khẩu
Trước thực tế đó, vấn đề đặt ra cho ngành nông nghiệp hiện nay cần phải có một cuộc
cách mạng lớn nhằm thay đổi hoàn toàn phương thức sản xuất cũ. Đặc biệt, trong bối cảnh
Việt Nam là thành viên của WTO thì những phương thức sản xuất quy mô nhỏ lẻ, sản xuất
manh mún, thiếu tính liên kết… sẽ cản trở sự tham gia vào chuỗi cung ứng quốc tế. Vì
vậy, việc tái cơ cấu mạnh mẽ nền nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị, liên kết sản
xuất theo quy mô lớn và ứng dụng công nghệ cao, bền vững là cần thiết trong giai đoạn
hiện nay.
2.2.3 Nguồn nhân lực cho ngành nông nghiệp:
17
Nhân lực ngành nông, lâm, ngư nghiệp vừa thiếu, vừa yếu đang là rào cản khiến
kinh tế nông nghiệp ở nhiều địa phương gặp khó khăn. Trong khi đó, công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ chuyên môn, cán bộ quản lý lĩnh vực này đã bộc lộ nhiều yếu kém.
Bộ NN&PTNT cho biết, hiện cả nước mới có 13 trường đại học, cao đẳng có ngành
đào tạo về nông, lâm nghiệp; 60% trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng nghề, trung
cấp nghề, trung tâm nghề có dạy nghề nông, lâm nghiệp. Số cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ khối
ngành nông, lâm nghiệp ra trường hằng năm không cung ứng đủ nhu cầu xã hội vốn đang
tăng lên rất nhanh. Lý do là chúng ta chưa nắm được nhu cầu nguồn nhân lực nông, lâm
nghiệp về số lượng và cơ cấu ngành nghề; chưa dự báo được thị trường nguồn nhân lực
nông, lâm nghiệp, đặc biệt là nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Hiện nay, trong 21,264 triệu lao động nông nghiệp có đến 20,765 triệu người

(chiếm 97,65%) chưa qua đào tạo và không có chứng chỉ chuyên môn; người có bằng sơ
cấp, công nhân kỹ thuật chiếm 1,26%; bằng trung cấp chiếm 0,87%; bằng cao đẳng, đại
học chiếm 0,22%. Đáng nói là với số lượng 60,7 triệu nông dân, chỉ có 4.847 cán bộ
khuyến nông chuyên trách hưởng lương từ ngân sách nhà nước; 10.543 cán bộ khuyến
nông không chuyên trách và 15.744 cộng tác viên thôn bản. Lực lượng lao động thuộc các
đơn vị của Bộ NN&PTNT được phân theo ngành nghề, có 37 giáo sư, 98 phó giáo sư, 19
tiến sĩ khoa học, 652 tiến sĩ, 874 thạc sĩ, chiếm 8,54% số cán bộ có trình độ từ đại học trở
lên và chiếm 0,71% tổng số lao động trong ngành. (Theo Tiến sĩ Nguyễn Thắng, Hiệu
trưởng Trường Cán bộ quản lý NN&PTNT II)
Bên cạnh đó, việc thu hút học sinh sau khi tốt nghiệp THPT thi vào các khối ngành nông,
lâm nghiệp lại đang gặp không ít khó khăn: số lượng không bảo đảm, chất lượng đầu vào
thấp… Thống kê tại Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội (đơn vị đứng trong tốp đầu
đào tạo về nông nghiệp, nông thôn) cho thấy, năm học 2009-2010 ngành khoa học đất chỉ
thu hút được 10 thí sinh đăng ký; ngành sư phạm kỹ thuật tuyển 100 chỉ tiêu nhưng chỉ
được 50; ngành cơ khí tuyển 3 lớp nhưng chỉ được 1 lớp; ngành công thôn đã phải "đóng
cửa" sau 4 năm liền không mở được lớp do ít sinh viên theo học.
Tình trạng nêu trên vẫn tồn tại vì nhiều người cho rằng, ngành nông nghiệp không
có nhiều công việc thú vị hoặc mức lương chưa cao; không cần những người được đào tạo
chuyên sâu Tuy nhiên, theo lý giải của nhiều chuyên gia, nguyên nhân sâu xa là do hệ
thống các cơ sở đào tạo còn yếu; chương trình đào tạo, bồi dưỡng không cân đối giữa lý
thuyết và thực hành; đánh giá nhu cầu đào tạo, kết quả sau đào tạo yếu; phương pháp
18
giảng dạy, học tập chậm đổi mới Công tác sử dụng cán bộ thiếu động lực cạnh tranh
khiến hạn chế tính sáng tạo của cán bộ, không giữ chân được người giỏi.
Bộ NN&PTNT đã đặt ra yêu cầu mới đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực có
chất lượng cao thuộc những ngành trọng điểm như quản lý, phát triển, sử dụng và thương
mại tài nguyên rừng; quản lý đất đai; xây dựng công trình và hiện đại hóa nông thôn; chế
biến nông, lâm sản; quản lý tài nguyên nước và lưu vực
Đáng chú ý, Bộ NN&PTNT cũng đang đề xuất với Chính phủ việc hỗ trợ học phí,
học bổng cho sinh viên khối ngành nông, lâm nghiệp giống như hỗ trợ đối với sinh viên

ngành sư phạm. Ngoài ra, sẽ sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực được đào tạo; xây dựng cơ
chế hỗ trợ kỹ sư đi đào tạo sau đại học ở trong và ngoài nước Giám đốc Sở NN&PTNT
TP Hà Nội Trần Xuân Việt cho rằng, trên thực tế cần tiến hành điều tra, nghiên cứu toàn
diện về nông nghiệp, nông thôn, nông dân, từ đó xác định chính xác nhu cầu, mục tiêu đào
tạo, bồi dưỡng bằng những bước đi cụ thể, vững chắc. Mặt khác, ưu tiên lựa chọn cán bộ
trẻ, tâm huyết cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở các trường, trung tâm uy tín trong và ngoài nước,
đồng thời đề ra chiến lược, kế hoạch sử dụng và đề bạt cán bộ.
2.2.4 Đầu tư cơ giới hóa trong phát triển nông nghiệp.
Trong nhiều năm qua, cơ giới hóa trong sản xuất, chế biến nông, lâm, ngư nghiệp
có sự tăng trưởng nhanh về số lượng, chủng loại , góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất
nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mặc dù vậy, so với các nước trong khu vực, tỷ lệ cơ giới hóa trong nông nghiệp ở
Việt Nam vẫn còn rất thấp, không đồng đều giữa các ngành, chủ yếu tập trung ở ngành
sản xuất, chế biến lúa gạo. Đặc biệt, tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch trong nông sản vẫn ở
mức cao, xấp xỉ 14% đối với lúa gạo, từ 20 - 25% các ngành khác như chăn nuôi, cây ăn
quả, đánh bắt thủy hải sản
Thống kê của Bộ NNPTNT, cả nước hiện có khoảng 600.000 máy kéo các loại sử
dụng trong nông nghiệp với tổng công suất 9 triệu mã lực (CV), trong đó máy kéo nhỏ
dưới 12 mã lực chiếm 50%. Ông Đào Xuân Hòa - Phó Cục trưởng Cục Chế biến, Thương
mại nông lâm thủy sản và Nghề muối (Bộ NNPTNT) cũng thừa nhận, mức độ cơ giới hóa
tập trung chủ yếu ở các vùng sản xuất lớn như ĐBSCL, đồng bằng sông Hồng, phục vụ
trong các khâu như làm đất, tuốt lúa, xay xát gạo Trong khi đó, tỷ lệ sử dụng hệ thống
19
chuồng lồng, chuồng có hệ thống làm mát và sưởi ấm, có máng ăn, núm uống tự động
trong ngành chăn nuôi lợn chỉ mới chiếm 35% và khoảng 40% đối với gà.
Toàn quốc hiện có trên 10 triệu hộ nông nghiệp với mức độ trang bị động lực bình
quân chỉ đạt 1,6 CV/ha canh tác. Vùng có mức độ trang bị động lực cao nhất cả nước như
ĐBSCL cũng chỉ đạt 1,85CV/ha. Tỷ lệ hộ có máy kéo và máy kéo và máy nông nghiệp
cũng còn thấp, phải 62 hộ mới có một máy kéo. Mức trang bị này chưa bằng 1/3 của Thái
Lan, 1/4 của Hàn Quốc và xấp xỉ 1/6 của Trung Quốc.

Hơn nữa, trải dài từ Khánh Hòa vào tới Cà Mau, hơn 90% số máy nông nghiệp phục vụ
sản xuất lúa là do doanh nghiệp nước ngoài sản xuất. Nhiều cơ sở cơ khí trong nước cũng
đã có những sản phẩm máy gặp đập liên hợp, máy cày, máy sấy tuy nhiên, chất lượng
chưa cao và giá cả chưa cạnh tranh, chưa đáp ứng được nhu cầu của nông dân.
2.2.5 Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp theo ngành, lĩnh vực ưu tiên
Định hướng đầu tư vào nông nghiệp trong thời gian qua là lựa chọn lĩnh vực đầu tư
trọng điểm, tránh đầu tư dàn trải. Cụ thể là sàng lọc, lựa chọn các lĩnh vực đầu tư có thể
đem lại giá trị gia tăng cao để nuôi dưỡng nguồn thu. Còn vốn ngân sách nhà nước chỉ tập
trung đầu tư vào các lĩnh vực mà khả năng thu hồi vốn không cao hoặc không thể huy
động đầu tư tư nhân.
Theo định hướng đã đề ra, đầu tư cho phát triển sản xuất nông lâm thủy sản chỉ đạt
10,4% so với GDP nông lâm thủy sản, và có tới 76% trong số đó là từ ngân sách nhà
nước. Mức đầu tư này chỉ đáp ứng 65-75% so với yêu cầu đầu tư để tăng trưởng 3,5-
4%/năm. Tăng tỷ trọng vốn đầu tư cho các lĩnh vực trực tiếp sản xuất như khai thác, nuôi
trồng thủy sản, trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nghề muối. Trong số này, lĩnh vực được
tăng ưu tiên đầu tư trong cơ cấu ngành nông nghiệp là thủy sản. Tỷ trọng đầu tư tăng
mạnh từ 2,9% giai đoạn trước đó lên 5% giai đoạn 2009-2013. Tập trung vốn đầu tư vào
thực hiện các dự án hạ tầng cho nuôi trồng thủy sản tập trung, trung tâm giống thủy sản
cấp quốc gia ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Duyên hải Nam Trung bộ. Đầu tư các
cảng cá loại I tại các đảo có vị trí quan trọng, gần ngư trường trọng điểm và có khả năng
20
kết hợp với khu neo đậu tránh bão, đồng thời tập trung hoàn thành các khu neo đậu tránh
trú bão cấp vùng đang dở dang.
Các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp cũng được tăng tỷ lệ đầu tư với các chương
trình, dự án tập trung vào phát triển giống cây, con, quản lý dịch bệnh, an toàn thực phẩm,
công nghệ sau thu hoạch. Cùng với điều chỉnh theo từng lĩnh vực, cơ cấu đầu tư công theo
vùng qua việc tăng tỷ trọng đầu tư cho các vùng lợi thế phát triển nông nghiệp hàng hóa
như Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên.
2.2.5 Kết quả đầu tư phát triển nông nghiệp thời gian qua.
2.2.5.1 Sản xuất hàng hóa được đẩy mạnh.

5 năm qua, nhờ đẩy mạnh công tác đầu tư phát triển, nền nông nghiệp nước ta tiếp
tục gặt hái những thành tựu nổi bật. Cụ thể, GDP của nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản
giai đoạn 2009- 2013 tăng bình quân 2,9%/năm; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân
15,2%/năm; dự kiến năm 2013 kim ngạch xuất khẩu đạt 27,5 tỷ USD.
Việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất dần đi vào nền nếp, tới tận cấp xã, với
43,6% số xã được phê duyệt quy hoạch. Chăn nuôi trang trại đang từng bước thay thế hình
thức hộ chăn nuôi nhỏ lẻ. Công tác trồng rừng được đẩy mạnh xã hội hóa, góp phần bảo
vệ và khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên rừng, từng bước đáp ứng nhu cầu gỗ nguyên
liệu phục vụ chế biến trong nước và xuất khẩu.
Khai thác hải sản tiếp tục phát triển theo hướng đẩy mạnh đánh bắt xa bờ gắn với bảo vệ
chủ quyền quốc gia, hạn chế khai thác ven bờ. Năm 2013 có 18.300 lượt tàu thuyền hoạt
động ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, tăng gấp 3 lần so với năm 2010; sản
lượng thủy sản hiện đạt gần 6 triệu tấn, tăng 28,3% so với năm 2008, xuất khẩu thủy sản
đạt 6,7 tỷ USD, tăng 44%.
Bên cạnh đó, nhiều tiến bộ khoa học, kỹ thuật được ứng dụng vào sản xuất nông
nghiệp đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả nhiều sản phẩm nông,
lâm, thủy sản.
Về hình thức sản xuất, khu vực nông nghiệp, nông thôn có nhiều chuyển biến tích
cực khi nhiều trang trại sản xuất hàng hóa quy mô lớn hình thành, nhiều hợp tác xã kiểu
21
mới ra đời hoạt động hiệu quả; mô hình cánh đồng mẫu lớn được nhiều địa phương
hưởng ứng và đang thực hiện ở 43 tỉnh; các nông, lâm trường được sắp xếp lại cho
phù hợp hơn; xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào nông nghiệp
2.2.5.2 Cơ sở hạ tầng tiếp tục được hoàn thiện
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết, cơ sở hạ tầng phục vụ cho nông nghiệp tiếp
tục được nâng cấp và hoàn thiện, tạo điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng
sản phẩm nông nghiệp. Kết quả nổi bật là tổng năng lực tưới của hệ thống thủy lợi đảm
bảo chủ động nước tưới cho 6,92 triệu ha lúa, tăng 70.000ha (đạt 90%) và khoảng 1,5 triệu
ha rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày; việc tiêu nước thực hiện được với khoảng 1,75
triệu ha đất nông nghiệp. Nền nông nghiệp Việt Nam tiếp tục đạt được những kết quả nhất

định.
PHẦN 3: ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO NGHÀNH NÔNG NGHIỆP TRONG THỜI GIAN
TỚI.
3.1 Đánh giá tình hình đầu tư phát triển cho ngành nông nghiệp trong thời gian qua
3.1.1 Thuận lợi:
- Nông nghiệp tiếp tục phát triển với nhịp độ khá cao theo hướng tăng năng suất, chất
lượng và hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia; xuất khẩu nông, lâm,
thủy sản tăng nhanh; trình độ khoa học - công nghệ được nâng cao hơn.
22
- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường, nhất là thủy lợi, giao
thông,góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất.
- Nhiều năm qua, chúng ta đã tạo ra được bộ giống cây trồng phong phú, về cơ bản đáp
ứng được nhu cầu của sản xuất ở các vùng sinh thái, góp phần phát triển sản xuất nông
nghiệp, nâng cao tính cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường trong và ngoài
nước. Nhiều giống cây trồng được bắt đầu nghiên cứu một cách hệ thống, tính xã hội hóa
của ngành giống cây trồng được phát huy tốt. Chính những nông dân sản xuất giỏi đã
tham gia tích cực để có được bộ địa chỉ sưu tập cây đầu dòng, cùng với cán bộ khoa học
tâm huyết đã tạo ra những giống cây ghép có chất lượng không thua kém các nước trong
khu vực
Trong thời kỳ đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã đạt những thành tựu nổi bật, duy trì
tốc độ tăng trưởng đều và ổn định, thể hiện được lợi thế so sánh của Việt Nam so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Nông nghiệp đã thực sự trở thành chỗ dựa nền tảng
cho công nghiệp và dịch vụ, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm ổn định xã hội ở nước
ta. Tất cả đều nhờ vào sự quan tâm và nổ lực của công tác đầu tư phát triển nông nghiệp
mà Đảng và nhà nước đã giao phó và thực hiện. Được phản ánh một cách rõ ràng qua hình
sau:
23
Thành tựu rõ rệt nhất mà đầu tư phát triển nông nghiệp mang lại là tạo ra và duy trì
một quá trình sản xuất tăng trưởng với tốc độ nhanh, ổn định trong một thời gian dài.

Bảng 3.1: Tỷ trọng GDP theo lĩnh vực Nông Nghiệp.
ĐVT: %
Năm Lĩnh vực Nông, Lâm và
Ngư nghiệp.
2004 20,0%
2005 19,3%
2006 18,7%
2007 18,7%
2008 20,4%
2009 19,2%
2010 18,9%
2011 20,1%
2012 19,7%
2013 18,4%
3.1.2 Hạn chế:
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, hoạt động đầu tư công cho nông nghiệp
thời gian qua còn một số hạn chế, đó là:
- Nguồn lực đầu tư còn thiếu so với yêu cầu. Mặc dù Nhà nước đã chú trọng đầu tư
cho khu vực nông nghiệp nhưng thực tế mới chỉ đáp ứng được 55% - 60% yêu cầu, vì vậy
chưa phát huy hết tiềm năng trong nông nghiệp. Nguồn lực đầu tư vẫn chủ yếu dựa vào
NSNN, việc huy động nguồn lực đầu tư của toàn xã hội còn hạn chế.
- Vốn ODA giải ngân thường chậm so với dự kiến, dẫn đến nhiều dự án phải kéo dài
thời gian thực hiện; vốn đối ứng chưa được bố trí kịp thời; cơ chế quản lý đầu tư xây dựng
còn chậm điều chỉnh để đáp ứng với những thay đổi của thị trường (giải phóng mặt bằng,
thủ tục phê duyệt hoạt động mua sắm, đấu thầu, điều chỉnh giá, điều chỉnh định mức chi
xây dựng cơ bản, ).
- Còn tình trạng đầu tư dàn trải, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, một số nơi vẫn xảy ra
sai phạm trong quản lý đầu tư. Qua giám sát cho thấy, một số công trình đạt hiệu quả thấp
24
do bố trí vốn đầu tư chưa đáp ứng tiến độ theo kế hoạch được duyệt, đầu tư thiếu đồng bộ,

thi công kéo dài. Chất lượng công tác khảo sát, thiết kế còn chưa đạt yêu cầu, ảnh hưởng
tới chất lượng và hiệu quả công trình; khó khăn về giải phóng mặt bằng, giá cả nguyên vật
liệu biến động thất thường
Kết cấu hạ tầng mặc dù đã được tăng cường đầu tư nhưng ở nhiều khu vực vẫn còn rất
khó khăn. Hệ thống thủy lợi tại một số địa phương đầu tư còn thiếu đồng bộ.
3.1.3 Nguyên nhân của những hạn chế.
 Nguyên nhân khách quan
Do đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi nguồn lực rất lớn của Nhà
nước cũng như toàn xã hội, bởi lĩnh vực nông nghiệp và địa bàn nông thôn rộng lớn, địa
hình phức tạp, nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao, sản xuất chưa phát triển, thu nhập
của người dân còn thấp, đời sống khó khăn, Trong khi đó, nguồn lực đầu tư của Nhà
nước và toàn xã hội có hạn. Mặt khác, sản xuất nông nghiệp chịu rủi ro cao do sự tác động
trực tiếp của thời tiết, biến động của môi trường, dịch bệnh, Việc phòng, chống, khắc
phục hậu quả là rất khó khăn, phức tạp nên khó thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp trong
và ngoài nước. Không những vậy, một nguyên nhân nổi bật là diện tích đất nông nghiệp bị
thu hẹp trong những năm gần đây được cho là một trong những nguyên nhân khiến sản
xuất nông nghiệp giảm sút. Những năm trước diện tích đất nông nghiệp và đặc biệt cho
những ngành sản xuất chính liên tục gia tăng, nhưng từ năm 2000 - 2008, hơn 300.000 ha
đất lúa đã bị giảm. Những năm gần đây, đất lúa không giảm nhưng đất chuyên trồng lúa
vẫn tiếp tục giảm và mỗi năm khoảng gần 10.000 héc-ta. Bên cạnh đó, trong cơ cấu lao
động nông nghiệp, không những số lượng giảm xuống mà còn chất lượng lao động không
có sự cải thiện. Hơn nữa do tác động của khủng hoảng, suy thoái kinh tế trong khu vực và
trên thế giới, Nhà nước phải thực hiện một số chính sách, trong đó có việc cắt giảm đầu tư
công, nên việc huy động nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp những năm qua vẫn còn gặp
khó khăn.
 Nguyên nhân chủ quan
Nhận thức của một bộ phận cán bộ, các cấp chính quyền về vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của đầu tư cho nông nghiệp chưa cao; vẫn còn tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư
25
của Nhà nước; trong quá trình thực hiện đầu tư, tình trạng thất thoát, lãng phí, kém hiệu

quả vẫn xảy ra ở một số dự án do nhiều nguyên nhân,
3.2. Định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công cho nông nghiệp.
Từ những hạn chế cần được khắc phục kịp thời trong vấn đề đầu tư phát triển nông
nghiệp, trong thời gian tới Đảng và nhà nước đã đề ra những định hướng, giải pháp tích
cực nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư công cho nông nghiệp.
3.2.1 Định hướng.
Một là, đầu tư cho nông nghiệp là cơ sở và điều kiện cần thiết để phát triển nền nông
nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và
chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hai là, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển nông nghiệp. Tăng cường
mạnh mẽ đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học - công
nghệ tiên tiến trong nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí
nông dân. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao nhất các nguồn lực trong
xã hội, kể cả huy động vốn ODA và FDI đầu tư vào nông nghiệp.
3.2.2 Giải pháp.
Để tiếp tục phát triển nông nghiệp trong tình hình mới, một số giải pháp chủ yếu cần được
tập trung thực hiện nhằm tăng cường, nâng cao hiệu quả đầu tư công cho lĩnh vực này như
sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đầu tư công chonông
nghiệp. Bộ Tài chính tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành và địa phương hoàn thiện dự án
Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi) để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội bảo đảm thời
gian quy định theo hướng tăng chi đầu tư cho khu vực nông nghiệp; thực hiện phân bổ
NSNN bảo đảm hài hòa lợi ích của các địa phương có điều kiện phát triển công nghiệp với
các địa phương thuần nông; tăng cường phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho các địa
phương, kể cả cấp huyện, xã.
Tiếp tục đổi mới phân cấp quản lý đầu tư công gắn việc quyết định đầu tư với việc phân
bổ nguồn lực và cân đối vốn; thực hiện giao kế hoạch đầu tư trung hạn; sửa đổi hoàn thiện
quy chế thẩm định dự án, thẩm định vốn, quyết định đầu tư, khắc phục tình trạng mất cân

×