Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

câu hỏi và đáp án ôn thi tốt nghiệp môn triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.72 KB, 14 trang )

CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN ÔN THI TỐT NGHIỆP MÔN TRIẾT HỌC
Đề 5. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận mà không liên hệ với
thực tiễn là lý luận suông”.
Đồng chí hãy giải thích luận điểm trên và nói rõ ý nghĩa của vấn đề này
trong đấu tranh, khắc phục bệnh kinh nghiệm và giáo điều ở cán bộ hiện
nay?
Trả lời:
I. Thực tiễn và vai trò của nó
1. Phạm trù thực tiễn
Các trào lưu triết học trước đây, kể cả triết học của Phoiơbắc, xem xét nhận
thức tách rời hoạt động thực tiễn của con người. Khuyết điểm chủ yếu của chủ
nghĩa duy vật trước Mác là thiếu quan điểm thực tiễn, vì thế nó mang tính chất
trực quan. Chủ nghĩa duy tâm đã đề cập đến vai trò tích cực sáng tạo của con
người, nhưng lại chỉ giới hạn tính tích cực sáng tạo đó trong lĩnh vực tinh thần.
Chủ nghĩa duy tâm đã tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần, chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt
động tinh thần, và như vậy, thực chất là đã gạt bỏ vai trò của thực tiễn.
Trong lịch sử triết học, Mác là người đầu tiên nêu rõ vai trò quyết định của
thực tiễn đối với nhận thức. Đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức là một
bước chuyển biến cách mạng trong lý luận về nhận thức nói riêng và trong triết
học nói chung.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn là những hoạt động
vật chất cảm tính có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người, nhằm cải
tạo tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn biểu hiện dưới nhiều hình thức. Hình thức đầu tiên của hoạt động
thực tiễn, cơ sở của hoạt động sống của con người là hoạt động sản xuất vật chất.
Hoạt động cải tạo xã hội bao gồm những hoạt động của con người trong các lĩnh
vực chính trị - xã hội cũng là một dạng cơ bản của hoạt động thực tiễn. Những
hoạt động thực nghiệm khoa học cũng là một dạng đặc biệt của thực tiễn. Trong
những hình thức đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất, vì nó


quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người trong mọi thời kỳ lịch sử.
Hơn nữa, các hình thức hoạt động khác suy cho cùng là từ hoạt động đó mà ra và
nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động đó.
Nói đến phạm trù thực tiễn, cần lưu ý đến hai đặc trưng:
Thứ nhất, hoạt động thực tiễn là những hoạt động vật chất của con người
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Nói đến hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất,
điều đó có nghĩa là, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng những đối tượng
vật chất, những phương tiện vật chất … để tác động, trực tiếp làm thay đổi bản
1
thân sự vật, trực tiếp cải tạo thế giới trong hiện thực. Nói đến hoạt động vật chất,
tức là nói đến sức mạnh vật chất, sức mạnh trực tiếp cải tạo thế giới của con
người. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người đã tạo ra một hiện thực
mới, một “thiên nhiên thứ hai”, thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những
điều kiện mới cho sự tồn tại và phát triển của con người.
Thứ hai, hoạt động thực tiễn có tính lịch sử xã hội. Tính xã hội của hoạt
động thực tiễn có nghĩa là thực tiễn không chỉ là những hoạt động của từng con
người riêng lẻ, mà là dạng hoạt động cơ bản của xã hội loài người. Xét từ nội dung
cũng như từ phương thức thực hiện, hoạt động thực tiễn mang tính xã hội. Hoạt
động thực tiễn là một quá trình lịch sử, trải qua quá trình vận động và phát triển và
các giai đoạn lịch sử của nó. Có thể nói, thực tiễn là sản phẩm lịch sử, những mối
quan hệ muôn vẻ và vô tận giữa con người với giới tự nhiên và con người với con
người.
Thực tiễn là cơ sở và động lực chủ yếu của nhận thức. Bằng hoạt động thực
tiễn, con người trực tiếp tác động vào sự vật, bắt các sự vật hiện tượng của thế giới
phải bộc lộ những thuộc tính và tính quy luật của chúng. Điều đó có nghĩa là thực
tiễn đã cung cấp những tài liệu làm cơ sở cho nhận thức. Tri thức của con người
có thể thu nhận được dưới dạng trực tiếp từ thực tiễn hoặc dưới dạng gián tiếp.
Nhưng xét đến cùng thì mọi tri thức của con người đều nảy sinh từ hoạt động thực
tiễn. Không có thực tiễn thì con người sẽ không có nhận thức, không có hiểu biết.
Không có những kinh nghiệm thực tiễn thì không có tri thức lý luận. Hơn nữa,

chính trong quá trình hoạt động thực tiễn là cơ sở phát huy tính tích cực sáng tạo
của con người, là cơ sở của sự phát triển trí tuệ con người. Thực tiễn không ngừng
biến đổi và phát triển, luôn đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi nhận thức phải trả lời,
đặt ra những nhiệm vụ và phương hướng phát triển cho nhận thức, đòi hỏi những
tri thức mới, những khái quát mới để lý giải những vấn đề nảy sinh … Đó chính là
động lực thúc đẩy nhận thức phát triển. Trong lịch sử, các môn khoa học nối tiếp
nhau ra đời và phát triển trên cơ sở quá trình hoạt động thực tiễn của loài người,
nhằm đáp ứng những nhu cầu do sự phát triển của thực tiễn đề ra.
2. Vai trò của thực tiễn đối với hoạt động nhận thức của con người
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức
Hoạt động thực tiễn của con người ngay từ đầu đã bị quy định bởi những
nhu cầu thực tiễn. Muốn sống, muốn tồn tại, con người phải sản xuất, cải tạo tự
nhiên và xã hội. Chính nhu cầu sản xuất vật chất, cải tạo xã hội buộc con người
phải tìm hiểu, khám phá, nhận thức thế giới xung quanh. Rõ ràng con người quan
hệ với thế giới xung quanh không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng và thông qua
thực tiễn. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới khách quan,
làm cho thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính, những tính chất, những
quy luật để con người nhận thức. Chính thực tiễn đã cung cấp cho nhận thức của
con người những hiểu biết về thế giới. Như vậy, mọi tri thức của con người, xét
đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
2
Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của
nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học mới. Thực
tiễn có tác dụng rèn luyện các giác quan của con người, làm cho chúng phát triển
tinh tế hơn, hoàn thiện hơn. Trên cơ sở đó giúp nhận thức của con người đạt hiệu
quả hơn. Bởi lẽ, chính trong hoạt động thực tiễn, con người cũng cải biến luôn
chính bản thân mình, phát triển năng lực, trí tuệ của mình. Ph. Ăngghen đã khẳng
định: “… chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới
tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư
duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã

học cải biến tự nhiên”
1
. Hoạt động thực tiễn còn là cơ sở để chế tạo ra các công cụ,
phương tiện, máy móc mới hỗ trợ con người trong quá trình nhận thức. Chính nhu
cầu chế tạo và cải tiến công cụ sản xuất cũng như công cụ, máy móc hỗ trợ con
người nhận thức đã thúc đẩy nhận thức, tư duy phát triển.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Nhận thức của con người là nhằm phục vụ thực tiễn, soi đường, dẫn dắt, chỉ
đạo thực tiễn. Nhận thức mà không nhằm mục đích phục vụ thực tiễn thì sẽ mất
phương hướng, bế tắc. Mọi tri thức khoa học, mọi lý luận chỉ có ý nghĩa đích thực
khi chúng được áp dụng vào thực tiễn, nghĩa là được vận dụng vào sản xuất vật
chất, vào cải tạo xã hội và vào thực nghiệm khoa học nhằm phục vụ con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Tri thức của con người là kết quả của quá trình nhận thức. Trí thức ấy có
thể phản ánh đúng hoặc không đúng hiện thực khách quan. Triết học Mác - Lênin
cho rằng, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra chân lý. “Vấn đề
tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn
toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn”
2
. “Con người
chứng minh bằng thực tiễn của mình sự đúng đắn khách quan của những ý niệm,
khái niệm, tri thức của mình, của khoa học mình”
3
. Dựa vào thực tiễn, người ta có
thể chứng minh, kiểm nghiệm chân lý. Chỉ có thực tiễn mới có thể “vật chất hóa”
được tri thức, hiện thực hóa được tư tưởng, qua đó mới có thể khẳng định hay phủ
định một giả thiết khoa học nào đó. Có nhiều hình thức hoạt động thực tiễn khác
nhau, do vậy cũng có nhiều hình thức kiểm tra chân lý khác nhau, như bằng thực
nghiệm khoa học, bằng việc áp dụng lý luận xã hội vào cải biến xã hội v.v Thực
tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tính

tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, là tiêu chuẩn
khách quan duy nhất để khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể
hiện ở chỗ, thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển, do đó “không bao giờ có
thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn toàn một biểu tượng nào đó của con
người, dù biểu tượng ấy là thế nào chăng nữa”
4
. Vì vậy, xem xét thực tiễn trong
không gian càng rộng, trong thời gian càng dài, trong chỉnh thể thì càng rõ, đâu là
1
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 1994, t. 20, tr. 720.
2
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 1995, t. 3, tr. 10.
3
V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M. 1981, t. 29, tr. 203.
4
V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M. 1980, t. 18, tr. 168.
3
chân lý, đâu là sai lầm. Cũng vì vậy, những tri thức đã đạt được trước kia và đã
được thực tiễn kiểm nghiệm vẫn phải thường xuyên được kiểm tra bởi thực tiễn
mới để được bổ sung, hoàn thiện hơn. Cho nên, chủ nghĩa Mác - Lênin yêu cầu:
“Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản cảu lý
luận về nhận thức”
5
.
II. Lý luận và ý nghĩa của nó
1. Phạm trù lý luận
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ những kinh nghiệm
thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tính quy luật của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan.
Kinh nghiệm và lý luận đều là những tri thức, những hiểu biết của con

người về sự vật, hiện tượng nhưng ở những trình độ khác nhau. Kinh nghiệm được
nảy sinh trực tiếp từ cuộc sống và thực tiễn. Nó không chỉ là kết quả của hoạt động
trực quan cảm tính, mà còn có sự tham gia của yếu tố lý tính. Kinh nghiệm do đó
đã mang tính trừu tượng và khái quát, song mới là bước đầu và còn hạn chế. Nó
chỉ mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng lẻ, về các mối liên hệ bên ngoài của
sự vật, hiện tượng.
Còn lý luận là những tri thức được khái quát từ những kinh nghiệm thực
tiễn, “là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người” (Hồ Chí Minh) thông qua sự trừu
tượng hóa và khái quát hóa của tư duy. Bằng sức mạnh của sự trừu tượng hóa và
khái quát hóa, lý luận đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất nhiên, tính
quy luật của sự vật, hiện tượng.
2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
Kinh nghiệm và lý luận đều có vai trò đối với thực tiễn. Kinh nghiệm do sự
hạn chế của nó nên phạm vi vận dụng (cả thời gian, cả không gian) hẹp hơn, đồng
thời hiệu quả thường không cao. Còn lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn,
chính xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa là có tính bản chất sâu sắc hơn, do đó phạm vi
vận dụng rộng hơn và có hiệu quả cao hơn.
Nhờ có ưu điểm trên đây, lý luận có vai trò rất to lớn đối với thực tiễn. Cụ
thể:
Một là: lý luận hướng dẫn, soi đường, dẫn dắt chỉ đạo thực tiễn, giúp cho
thực tiễn hoạt động đúng hướng, có hiệu quả, tránh mò mẫm, tự phát.
Hai là: lý luận góp phần giáo dục, động viên cổ vũ, tổ chức quần chúng,
biến thành niềm tin và phong trào quần chúng cải tạo hiện thực: “lý luận mỗi khi
thâm nhập vào quần chúng sẽ biến thành một sức mạnh vật chất vô cùng to lớn”
(C. Mác).
Ba là: lý luận, do sức mạnh trừu tượng hóa, nó có khả năng dự kiến được sự
vận động và phát triển cảu sự vật trong tương lai, từ đó chỉ ra những phương
hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn.
5
V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M. 1981, t. 29, tr. 167.

4
3. Ý nghĩa
Trong thời đại văn minh trí tuệ ngày nay, lý luận có vai trò cực kỳ to lớn.
Trên một ý nghĩa nào đó nó quyết định sự thành bại của một chủ thể, của một
quốc gia, dân tộc. Đặc biệt, nước ta hiện nay đang định hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Sự nghiệp đó sẽ không thành công nếu thiếu
lý luận khoa học soi đường.
Trong khi đó, thứ nhất, lý luận của chúng ta còn bất cập so với yêu cầu của
thực tiễn. Mặc dù lý luận ở nước ta đã có những bước phát triển quan trọng, nhận
thức về con đường và mô hình chủ nghĩa xã hội càng ngày càng rõ ràng và đầy đủ
hơn, nhưng nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tiễn đổi mới, lý luận chưa lý
giải được, hoặc chưa lý giải được một cách thuyết phục. Một số vấn đề ở tầm quan
điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ, nên chưa đạt được sự thống nhất cao về
nhận thức và do đó thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều
hành.
Thứ hai, trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu
so với thực tiễn. Điều đó biểu hiện trong lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn vẫn thường
rơi vào bệnh kinh nghiệm (tuyệt đối hóa kinh nghiệm, chỉ đạo thực tiễn bằng kinh
nghiệm) và bệnh giáo điều (vận dụng lý luận như những công thức cứng nhắc,
nhận thức lý luận chỉ dừng lại ở câu chữ, lý luận suông).
Do đó, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của đất nước phải đẩy mạnh công tác
nghiên cứu lý luận, đồng thời phải tăng cường công tác giáo dục lý luận trên cơ sở
đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy và học
tập lý luận.
III. Ý nghĩa của vấn đề này trong đấu tranh, khắc phục bệnh kinh
nghiệm và bệnh giáo điều ở cán bộ hiện nay
Tri thức kinh nghiệm là những tri thức được chủ thể thu nhận trực tiếp trong
quá trình hoạt động thực tiễn. Tri thức kinh nghiệm hết sức quan trọng trong quá
trình nhận thức và cải tạo thế giới. Nó giúp cho con người kịp thời điều chỉnh hoạt
động của mình, giúp cho con người có được những quyết định nhanh chóng và

đáng tin cậy trong một phạm vi nhất định, trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định.
Tuy nhiên, nhìn chung những tri thức kinh nghiệm thường chỉ mới là sự
khái quát ban đầu và trong một phạm vi hẹp, thường chỉ mới là sự phản ánh sự vật
trong những hoàn cảnh cụ thể, cục bộ riêng biệt, và trong nhiều trường hợp, tri
thức kinh nghiệm chỉ mới phản ánh được cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên. Chính vì
vậy, tri thức kinh nghiệm chưa đi sâu vào bản chất và quy luật của sự vật, chưa tạo
thành một hệ thống tri thức chặt chẽ. Và cũng vì vậy, phạm vi áp dụng cũng như
tính hướng dẫn, chỉ đạo của tri thức kinh nghiệm thường bị hạn chế trong một
phạm vi hẹp.
Ở trình độ tri thức lý luận, tư duy đã vượt ra ngoài giới hạn của những tri
thức kinh nghiệm. Lý luận là sự tổng kết, là sự khái quát những kinh nghiệm thực
5
tiễn bằng hệ thống những khái niệm, phạm trù, những nguyên lý và quy luật phản
ánh sự vận động và phát triển cuiar sự vật mà ta nghiên cứu.
Tri thức lý luận có tính trừu tượng và khái quát cao; nó đem lại sự hiểu biết
sâu sắc về bản chất và quy luật của sự vật; nó có tính hệ thống chặt chẽ. Chính vì
vậy, phạm vi áp dụng cũng như tính hướng dẫn, chỉ đạo của tri thức lý luận có một
phạm vi rộng lớn hơn rất nhiều so với tri thức kinh nghiệm. Chỉ có những tri thức
lý luận mới làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động, tránh được tình
trạng mò mẫm, tự phát.
Tuy tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận có một số đặc điểm khác nhau,
nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ. Nói đến mối quan hệ giữa trình độ
kinh nghiệm và trình độ lý luận, về thực chất cũng chính là quan hệ biện chứng
giữa thực tiễn và lý luận, nói đến sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận.
Kinh nghiệm thực tiễn có vai trò rất quan trọng đối với lý luận. Kinh
nghiệm là cơ sở để tổng kết, khái quát thành lý luận. Kinh nghiệm là căn cứ để
chúng ta không ngừng xem xét lại, bổ sung, sửa đổi, phát triển lý luận. Tri thức lý
luận hinh thành từ sự tổng kết, khái quát kinh nghiệm, nhưng lại phải thông qua tư
duy trừu tượng của cá nhân nhà lý luận, cho nên nó cũng chứa đựng khả năng
không chính xác, xa rời thực tiễn. Vì vậy, tri thức lý luận phải được thể nghiệm

trong thực tiễn để khẳng định, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện. Mặt khác, lý luận một
khi đã được hình thành thì nó không phải thụ động mà có vai trò độc lập tương đối
của nó. Lý luận tác động trở lại đối với thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động
thực tiễn, dự báo, dự đoán tình hình và phương hướng hoạt động thực tiễn trong
tương lai …
Chúng ta coi trọng những kinh nghiệm thực tiễn và không ngừng tích lũy
vốn kinh nghiệm quý báu đó. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, chỉ
dựa vào những hiểu biết ở trình độ kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn liếng của bản
thân, coi kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hóa kinh nghiệm, đồng thời coi nhẹ lý
luận, không chịu học tập, nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý luận, không chịu vươn
lên để nắm lý luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận, v.v
thì dễ mắc bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa.
Mặt khác, thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi ngăn ngừa chủ nghĩa
giáo điều. Nếu tuyệt đối hóa lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận
bất di, bất dịch, nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu tượng,
không chú ý đến những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của sự vận dụng lý luận v.v thì
sẽ mắc bệnh giáo điều.
Thực chất những sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là vi
phạm sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận.
6
Đề 7: V.I.Leenin khẳng định: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội
vào những quan hệ sản xuất và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình
độ của lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để
quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên”
Đồng chí hãy phân tích luận điểm trên và liên hệ với con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam.
Trả lời:
I- Phân tích luận điểm
Giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện chứng với nhau tạo

thành các xã hội cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Các xã hội
cụ thể đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khai quát thành phạm trù hình thái kinh
tế - xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng
sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất ấy.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệt hống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp,
trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua
lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
- Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất,
trước hết là công cụ lao động. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế
- xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy
đến cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển
và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.
7
- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất vật chất, thể hiện ở quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong
tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Các
quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi quan
hệ xã hội khác. Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết
định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu
quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để
phân biệt các chế độ xã hội.
- Cơ sở hạ tầng là tổng hợp các quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu kinh tế
của một xã hội nhất định. Tổng hợp các quan hệ sản xuất có nghãi là bao gồm các

quan hệ sản xuất thống trị đặc trưng cho phương thức sản xuất và các quan hệ sản
xuất đan xen cũng như các quan hệ sản xuất tàn dư đang tồn tại trong xã hội đó.
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật,
triết học, đạo đức tôn giáo, nghệ thuật với những thể chế tương ứng (nhà nước,
đảng phái, giáo hội và các đoàn thể) được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất
định.
Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ
tầng, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh
ra nó.
Ngoài các mặt cơ bản đã nêu trên, các hình thái kinh tế - xã hội còn có quan
hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó
chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự
nhiên
Trong tự nhiên, các quá trình phát triển đều diễn ra một cách tự nó, tự phát;
còn các quá trình phát triển trong xã hội đều có sự tham gia tích cực của con
người. Con người sáng tạo ra lịch sử, nhưng không phải sáng tạo một cách tùy
tiện, chủ quan, mà sáng tạo trong những điều kiện, hoàn cảnh, tiền đề vật chất nhất
8
định, tuân theo và phù hợp với quy luật khách quan (trách chủ nghĩa chủ quan
cũng như khách quan thuần túy).
Xã hội là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người, là tổng
số những mối liên hệ, quan hệ của các cá nhân. Nhưng những cá nhân này luôn có
những lợi ích, ý chí nguyện vọng, mong muốn ít nhiều mang tính chất chủ quan
không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau; điều người này muốn lại bị người kia
cản trở (hạnh phúc là cái chăn hẹp); và xu hướng phát triển của xã hội, cuối cùng
xuất hiện ra như là một cái mà không ai mong muốn cả, không theo ý muốn chủ
quan của người này, người nọ, tức tuân theo xu hướng khách quan; bởi vậy, cho
đến nay, lịch sử đã phát triển theo kiểu một quá trình tự nhiên, về căn bản, cũng bị
chi phối bởi những quy luật vận động như tự nhiên.

Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống trong đó, các mặt không ngừng
tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan
của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng và các quy luật xã hội khác. Theo quy luật, hình thái kinh tế - xã hội sau cao
hơn, tiến bộ hơn, thay thế các hình thái kinh tế- xã hội trước. Chính sự tác động
của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động phát
triển từ thấp đến cao.
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối
tiếp nhau. Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển là ở sự phát triển của lực
lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan
hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà
hình thái kinh tế- xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao
hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý
muốn chủ quan. V.I. Lênin viết: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào
những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của
những lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
và các quy luật xã hội khác. Theo quy luật, hình thái kinh tế - xã hội sau cao hơn,
9
tiến bộ hơn, thay thế các hình thái kinh tế - xã hội trước. Chính sự tác động của
các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động phát triển từ
thấp đến cao .
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế -xã hội nối
tiếp nhau. Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết
định, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ
làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội
cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá
trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
V.I.Lênin viết: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản

xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản
xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển
của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã
hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao - đó là con đường phát triển chung của
nhân loại. Song, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi
các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị,
về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế v.v Chính vì vậy, lịch sử phát triển
của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng
trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái
kinh tế - xã hội nào đó, chẳng hạn như người thổ dân châu Úc, châu Mỹ đi từ chế
độ nô lệ lên thẳng chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo
một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những
diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong
những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Nếu trong tự nhiên có tuần tự và nhảy vọt thì trong xã hội (một bộ phận đặc
biệt, hình thức tổ chức cao nhất của giới tự nhiên) cũng có tuần tự và bỏ qua. Quy
10
luật kế thừa của lịch sử cho phép trong sự giao lưu, hợp tác với trung tâm phát
triển cao hơn về sản xuất vật chất, về khoa học kỹ thuật, về văn hóa chính trị
một số nước đi sau, trong những điều kiện nhất định (được trung tâm phát triển
này giúp xây dựng cơ sở vật chất, chuyển giao khoa học kỹ thuật, giúp đào tạo
nhân lực ), có thể rút ngắn tiến trình lịch sử mà không phải lặp lại tuần tự các quá
trình mà nhân loại đã trải qua. Nếu không sẽ bị lịch sử sa thải. Như vậy bỏ qua là
xu hướng tất yếu, khách quan hợp quy luật thì cũng là một quá trình lịch sr tự
nhiên.
Tính quy luật chung của sự phát triển lịch sử toàn thế giới, theo V.I.Lênin,
đã không loại trừ mà trái lại còn bao hàm một số giai đoạn phát triển đặc thù về
hình thức. Nhìn chung có hai hình thức bỏ qua:

- Bỏ qua do đòi hỏi tất yếu khách quan từ bên trong (nội sinh) của một xã
hội nhất định.
- Bỏ qua do tác động khách quan từ bên ngoài (ngoại sinh).
Chỉ có bỏ qua, rút ngắn một cách duy ý chí, bất chấp quy luật thì mới không
phải là một quá trình lịch sử tự nhiên, chẳng hạn như các nước xã hội chủ nghĩa
trước kia, Việt Nam 1975 - 1986 sẽ dẫn đến khủng hoảng kinh tế, xã hội.
II - Liên hệ với con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam
1- Trước kia, Việt Nam sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc
đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là xu hướng tất yếu khách quan hợp quy
luật vì:
- Tư tưởng làm cách mạng cho đến nơi của chủ tịch Hồ Chí Minh, để dân
chúng được hạnh phúc, để khỏi phải hy sinh nhiều lần. Từ đó một logic rút ra là
cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn liền với cách mạng XHCN; làm cách mạng
giải phóng dân tộc xong phải tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy sau khi
giải phóng miền Bắc tiến lên CNXH (một xã hội tươi đẹp nhất trong lịch sử) là
nhu cầu của hàng chục triệu người.
11
- Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cũng nêu tư tưởng về khả năng rút
ngắn lên CNXH đối với nước lạc hậu như Việt Nam.
(+ Chế độ đương thời ở nước được bỏ qua phải rất thối nát không được
nhân dân chấp nhận.
+ Phải có giai cấp chính trị tiên phong, Đảng chính trị tiên phong đủ năng
lực bản lĩnh để chèo lái.
+ Yếu tố ngoại sinh: Phải có mẫu hình một nước tiên tiến đi trước giúp đỡ).
- Điều kiện trong những năm 1930 - 1975 khiến cho Việt Nam đi theo con
đường XHCN là tất yếu: Chúng ta đã tiến hành nhiều cuộc cách mạng như cách
mạng tháng 8 năm 1945, cải cách ruộng đất không phải là cách mạng xã hội chủ
nghĩa mà là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Những cuộc cách mạng này phải là
giai cấp tư sản dân tộc lãnh đạo, nhưng ở Việt Nam điều này không xảy ra (giai

cấp tư sản không làm được, có lúc câu kết với phong kiến, ngoại xâm -> không
nhân danh được dân tộc) nhiệm vụ đó đặt lên vai giai cấp vô sản Việt Nam, làm
thay nhiệm vụ lịch sử của giai cấp tư sản. Do đó giai cấp vô sản Việt Nam khi
giành được chính quyền về tay mình thì đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là xu
hướng tất yếu.
2- Hiện nay tộc đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là xu hướng tất yếu
khách quan hợp quy luật vì:
- Lịch sử có thể có những bước quanh co (CNTB, CNĐQ ) song “theo quy
luật tiến hóa của lịch sử, loài ngoài nhất định sẽ tiến tới CNXH” (văn kiện đại hội
IX) bởi lẽ, theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, xã hội tư bản không phải là
HTKTXH cuối cùng, nó nhất định phải được thay thế bởi HTKTXH cao hơn (còn
khi nào, lúc nào sẽ được lịch sử trả lời). Hiện nay trong nhiều nước TB phát triển
(Thụy Điển) đã xuất hiện một số mầm mống của CNXH, xuất hiện những phương
tiện ít nhiều để thay thế CNTB. Điều này đã được Mác dự đoán khi ra đời các
công ty cổ phần ở thời ông rằng đó là “hình thái quá độ từ phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa” sang “phương thức sản xuất tập thể”, là sự thủ tiêu sở hữu tư nhân
ở trong những giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mặt
12
khác hiện nay nhiều nước Mỹ la tinh (san sau của Mỹ), các đảng phải cánh tả lại
có xu hướng đi lên xã hội chủ nghĩa.
- Xã hội XHCN là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh; do dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao; có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng mọi áp bức, bất công, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện đó là ước mơ ngàn đời của
dân tộc Việt Nam.
- Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã quốc
tế hóa lực lượng sản xuất. Vì thế ở đây đã chứa đựng “dưới một hình thức ít nhiều
phát triển” - theo cách phân tích của Ăng ghen - những phương tiện để xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản. Và do đó, có thể thông qua con đường giao lưu và hợp tác “đa
phương hóa” , “đa dạng hóa” để các nước chậm phát triển có thể sử dụng thành

tựu của nhân loại phục vụ con đường phát triển “rút ngắn” ngay cả khi chủ nghĩa
tư bản chưa bị đánh bại tại quê hương của nó.
+ Do sự phát triển cao của lực lượng sản xuất, tính chất quốc tế hóa của lực
lượng sản xuất đã tạo nên một xu thế mới trong quan hệ giữa các quốc gia, các dân
tộc, làm thức tỉnh các dân tộc có thể đi vào con đường phát triển phi tư bản chủ
nghĩa.
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong các nước tư bản chủ nghĩa do
cách mạng khoa học và công nghệ đưa lại, cũng mở ra nhiều yếu tố tăng trưởng
kinh tế - là thành tựu chung của nhân loại - mà các nước xã hội chủ nghĩa có thể
sử dụng như những bước "trung gian", "quá độ" về kinh tế để đi lên chủ nghĩa xã
hội.
- Chúng ta có sự nhận thức đúng đắn về sự bỏ qua ở chỗ: nếu như trước kia,
khi còn phe XHCN, ta và các nước XHCN bỏ qua giai đoạn TBCN thì từ năm
1991 đến nay, khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ta có sự điều chỉnh: bỏ qua chế độ
TƯ BẢN CHỦ NGHĨA (tức bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của QHSX và
KTTT TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được
dưới chế độ TBCN, đặc biệt là khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng
13
sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại). Như vậy trong bỏ qua có cái không bỏ
qua.
Quá độ từ XHTB lên CNXH, tất yếu phải phát triển tới mức nhất định kinh
tế tư nhân (các thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), phát huy vai trò tích cực nhât định
kinh tế tư nhân trong việc làm sống động kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất.
Phát triển các quan hệ hàng hóa - tiền tệ và tự do buôn bán, nhất định sẽ phát triển
TBCN. Vì vậy, vấn đề đặt ra là, làm sao hướng kinh tế cá thể và tư nhân làm lợi
ích cho CNXH, để nhà tư bản cày cấy trên mảnh đất vô sản. Muốn vậy, theo Lênin
"Chúng ta phải lợi dụng CNTB làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và
CNXH làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng
sản xuất lên". Sử dụng kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức và trình độ
khác nhau là công việc có ý nghĩa quan trọng để chuyển nền kinh tế tiểu nông lên

CNXH. Đối với kinh tế cá thể của những người nông dân, thợ thủ công, tiểu
thương thì phải hướng họ vào con đường hợp tác bằng những hình thức và bước đi
thích hợp từ thấp lên cao
Trên con đường đi tới CNXH, Việt Nam là một quốc gia chưa trải qua thời
kỳ phát triển TBCN. Đối với nước ta, quá độ trực tiếp lên CNXH không có khả
năng . Bởi vậy, con đường phát triển rút ngắn hay theo cách gọi của Lênin, phát
triển không phải trải qua giai đoạn phát triển. TBCN là con đường hiện thực.
- Chúng ta có Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lãnh đạo
với hệ thống chính trị đủ mạnh để đưa nền kinh tế đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Muốn vậy, Đảng và nhà nước không chỉ có trí tuệ mà phải trong
sạch, vững mạnh; phải nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan,
đặc biệt là các quy luật kinh tế; tập hợp và phát huy mọi tiềm năng của đất nước
để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; có chính sách đối
ngoại đúng đắn để thu hút vốn, khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ từ bên
ngoài để phát triển đất nước.
14

×