Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

TỔNG HỢP CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN ÔN THI TỐT NGHIỆP MÔN TRIẾT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (527.8 KB, 38 trang )

Page 1 of 38
I. TRIẾT HỌC:
Câu 1: Sự phát triển của các hình
thái KT-XH là quá trình lịch sử - tự
nhiên? Ý nghĩa của vấn đề này với
việc bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN ở Việt Nam hiện nay.
Trả lời:
XH là tổng thể của nhiều lĩnh vực
với những mối quan hệ XH hết sức
phức tạp. Với sự ra đời của học thuyết
về hình thái KT-XH, chủ nghĩa DVLS
đã vạch ra thực chất sự tồn tại và phát
triển của các XH trong kết cấu khách
quan của chúng. Đó là các hệ thống
bao gồm những yếu tố và các mối liên
hệ được hình thành và vận động tuân
theo những quy luật vốn có của chúng.
1. Khái niệm, kết cấu của hình thái
KTXH.
- Khái niệm:
Hình thái KT-XH là một phạm trù
cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ XH ở từng giai đoạn lịch
sử nhất định, với những QHSX đặc
trưng cho XH đó phù hợp với một
trình độ nhất định của LLSX và với
một KTTT tương ứng được xây dựng
trên những QHSX ấy.
- Kết cấu của hình thái KT-XH:
Theo khái niệm trên thì kết cấu của


hình thái KT-XH bao gồm:LLSX,
QHSX và KTTT, trong đó: LLSX
quyết định toàn bộ quá trình phát triển
của hình thái KT-XH, quan hệ hạ tầng
cơ sở và KTTT là hình thức, diện mạo
của các hình thái KT-XH. Ba bộ phận
này quan hệ mật thiết với nhau tạo
thành hai quy luật cơ bản của toàn bộ
lịch sử nhân loại, đó là: QHSX phải
phù hợp với trình độ phát triển LLSX
và CSHT quyết định KTTT.
+ LLSX: là sự kết hợp giữa người
lao động với TLSX, trước hết là
CCLĐ. LLSX biểu hiện mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên trong quá
tình sản xuất của cải vật chất, bao gồm
con người và tư liệu SX (TLSX gồm
CCLĐ, đối tượng lao động và phương
tiện sản xuất như đường xá, xe cộ, bến
cảng, kho chứa,…),trong đó con người
là yếu tố quan trọng nhất. Con người ở
đây gồm cả thể lực và trí lực, nó thay
đổi tùy theo mỗi thời đại kinh tế
Trình độ LLSX thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của con người
trong một giai đoạn lịch sử nhất định
và được thể hiện ở trình độ của CCLĐ,
trình độ KHKT, trình độ của người lao
động. Trong thời đại ngày nay, khoa
học đã trở thành LLSX trực tiếp, nó

vừa là ngành sản xuất riêng, vừa thâm
nhập vào các yếu tố cấu thành LLSX
và đem lại sự thay đổi về chất của
LLSX. Nếu con người là yếu tố quan
trọng nhất xuyên suốt trong lịch sử của
LLSX thì KHKT là LLSX số một, là
tiêu chí chủ yếu của LLSX tiên tiến.
LLSX tồn tại một cách khách quan,
như Mác nói con người không được tự
do lựa chọn LLSX cho mình, mỗi thế
hệ sau đã có sẵn LLSX do thế hệ trước
xây dựng lên.
+ QHSX: là quan hệ giữa người với
người trong quá trình SX (SX và tái
SX XH). QHSX gồm ba mặt: quan hệ
về sở hữu đối với TLSX, quan hệ
trong tổ chức và quản lý SX, quan hệ
trong phân phối sản phẩm SX ra.
Trong ba mặt của QHSX thì quan hệ
sở hữu về TLSX là quan hệ cơ bản,
quyết định 2 mặt kia của QHSX cũng
như các quan hệ XH khác, đặc trưng
cho QHSX trong từng XH. Ba mặt của
QHSX quan hệ khăng khít, thống nhất
với nhau, tạo thành một hệ thống
mang tính ổn định tương đối so với sự
vận động, phát triển không ngừng của
LLSX.
QHSX do con người tạo ra, nhưng
nó hình thành một cách khách quan

trong quá trình SX, không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của con người.
Tổng hợp các QHSX của một XH
trong sự vận động hiện thực của chúng
hợp thành CSHT (CSHT) của một XH
nhất định.
CSHT của XH, trong sự vận động
của nó, được tạo nên bởi cả ba loại
hình QHSX: QHSX thống trị, QHSX
tàn dư và QHSX mới tồn tại dưới hình
thức mầm mống, đại biểu cho sự phát
triển của XH tương lai, trong đó
QHSX thống trị chiếm địa vị chủ đạo,
chi phối các QHSX khác, định hướng
sự phát triển của đời sống kinh tế XH
và giữ vai trò là đặc trưng cho chế độ
kinh tế của một XH nhất định.
Hệ thống QHSX hiện thực của một
XH đóng vai trò hai mặt: một mặt là
hình thức kinh tế cho sự phát triển của
LLSX và mặt khác với các quan hệ
chính trị XH, nó đóng vai trò là cơ sở
hình thành kết cấu kinh tế, làm cơ sở
cho sự thiết lập hệ thống KTTT của
XH đó.
Vì vậy, khi nghiên cứu, xem xét
tính chất của một hình thái XH nào thì
không thể chỉ nhìn ở trình độ phát
triển của LLSX mà còn phải xét đến
tính chất của các QHSX.

+ KTTT (KTTT): là toàn bộ những
quan điểm chính trị, pháp luật, triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật với
những thể chế chính trị XH tương ứng
(nhà nước, đảng phái, giáo hội và các
đoàn thể) được hình thành trên một
CSHT nhất định. Mỗi yếu tố của yếu
tố của KTTT có đặc điểm riêng, có
quy luật phát triển riêng, nhưng không
tồn tại tách rời nhau mà liên hệ tác
động qua lại, lẫn nhau và đều nảy sinh
trên CSHT, phản ánh CSHT.
LLSX và QHSX có mối quan hệ
biện chứng với nhau và tạo thành quy
luật QHSX phải phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX. Mối quan hệ
biện chứng này được thể hiện ở:
LLSX quyết định QHSX: LLSX là
yếu tố động, khi nó thay đổi thì sớm
hay muộn cũng kéo theo sự thay đổi
của QHSX vì LLSX là nội dung còn
QHSX là hình thức, nội dung quyết
định hình thức.
QHSX có tính độc lập tương đối
và tác động trở lại LLSX: QHSX quy
định mục đích XH của sản xuất, xu
hướng phát triển của quan hệ lợi ích,
từ đó hình thành những yếu tố thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của
LLSX. Sự tác động trở lại của QHSX

đối với LLSX bao giờ cũng thông qua
các quy luật kinh tế XH, đặc biệt là
các quy luật kinh tế cơ bản.
Sự phù hợp hay không phù hợp
giữa LLSX và QHSX là khách quan
và phổ biến của mọi phương thức sản
xuất. Sẽ không đúng nếu quan niệm
trong CNTB luôn diễn ra không phù
hợp, còn dưới CNXH luôn phù hợp
giữa QHSX với LLSX.
Quan hệ biện chứng giữa CSHT và
KTTT:
CSHT và KTTT là hai phương diện
cơ bản của đời sống XH đó là phương
diện kinh tế và phương diện chính trị -
XH, chúng có quan hệ thống nhất biện
chứng với nhau, tác động lẫn nhau
trong đó CSHT đóng vai trò quyết
định đối với KTTT, KTTT có sự tác
động trở lại CSHT đã sản sinh ra nó.
CSHT quyết định KTTT theo nghĩa:
Tương ứng với một CSHT sẽ sản sinh
ra KTTT phù hợp, có tác dụng bảo vệ
CSHT đó. CSHT quyết định nội dung
và tính chất của KTTT. CSHT thay
đổi thì sớm hay muộn KTTT cũng
phải thay đổi theo.
Tính chất phụ thuộc của KTTT vào
CSHT có nguyên nhân từ vai trò quyết
định của QHSX, quan hệ kinh tế đối

với toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của
XH, trong đó có quan hệ về chính trị,
pháp quyền, tư tưởng,…
KTTT có tính độc lập tương đối và
tác động trở lại CSHT: các yếu tố của
KTTT đều có khả năng gây ra những
biến động không nhỏ đối với CSHT
bằng nhiều hình thức, theo những cơ
chế, khuynh hướng (tích cực, tiêu cực)
khác nhau.
Ngoài 03 yếu tố LLSX, QHSX,
KTTT, hình thái KT- XH còn có Các
quan hệ dân tộc, quan hệ gia đình,
quan hệ giai cấp, quan hệ quốc tế, và
các sinh hoạt XH khác, các quan hệ đó
đều gắn bó chặt chẽ với QHSX, biến
đổi cùng với sự biến đổi của QHSX.
2. Sự phát triển của các hình thái
KTXH là quá trình lịch sử tự nhiên.
Lịch sử phát triển của XH loài
người đã trải qua nhiều giai đoạn phát
triển nối tiếp nhau từ thấp đến cao.
Tương ứng với mỗi giai đoạn là một
hình thái KT-XH. Sự vận động thay
thế nhau của các hình thái KT-XH
trong lịch sử đều do tác động của các
quy luật khách quan, đó là quá trình
lịch sử tự nhiên.
- Phát triển tự nhiên là sự phát triển
tự nó, khách quan không phụ thuộc

vào ý muốn chủ quan của con người.
Còn các quá trình phát triển trong XH
đều có sự tham gia tích cực của con
người. Con người sáng tạo ra lịch sử
nhưng không phải sáng tạo một cách
tùy tiện, chủ quan mà sáng tạo trong
những điều kiện, hoàn cảnh, tiền đề
1
Page 2 of 38
vật chất nhất định, tuân theo và phù
hợp với quy luật khách quan.
- Sự phát triển của các hình thái
KT-XH là quá trình lịch sử tự nhiên
bởi vì:
+ Mang tính tự nhiên: Hình thái
KT-XH là một hệ thống, trong đó, các
mặt không ngừng tác động qua lại lẫn
nhau tạo thành các quy luật vận động,
phát triển khách quan của XH. Đó là
quy luật về sự phù hợp của QHSX với
trình độ phát triển của LLSX, quy luật
CSHT quyết định KTTT và các quy
luật XH khác. Chính sự tác động của
các quy luật khách quan đó mà các
hình thái KT-XH vận động phát triển
từ thấp đến cao. Nguồn gốc sâu xa của
sự vận động phát triển của XH là ở sự
phát triển của LLSX. Sự phát triển của
LLSX đã dẫn tới mâu thuẫn với tính
ổn định tương đối của QHSX và nó

buộc QHSX phải thay đổi. Đến lượt
mình, QHSX (CSHT) thay đổi sẽ làm
cho KTTT thay đổi theo, và do đó mà
hình thái KT-XH cũ được thay thế
bằng hình thái KT-XH mới cao hơn,
tiến bộ hơn. Hay nói cách khác từ mâu
thuẫn giữa LLSX và QHSX, giữa
CSHT và KTTT, mâu thuẫn giữa các
giai cấp trong XH có giai cấp và sự
giải quyết các mâu thuẫn này sẽ làm
cho các hình thái KTXH phát triển,
hình thái KTXH mới ra đời thay thế
cho hình thái HTXH cũ. Quá trình đó
diễn ra một cách khách quan chứ
không phải theo ý muốn chủ quan của
con người và nó cũng đi từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
+ Mang tính lịch sử: Mặc dù sự thay
thế các hình thái KT-XH là quá trình
tự nhiên, không phụ thuộc ý muốn chủ
quan, nhưng nó cũng phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế XH, chính trị, văn
hóa, truyền thống dân tộc,… tức là do
điều kiện lịch sử cụ thể nữa. Tùy thuộc
vào điều kiện lịch sử, điều kiện của
mỗi quốc gia, quá trình thay thế các
hình thái KT-XH có thể tuần tự từ
thấp lên cao, hoặc cũng có thể bỏ qua
một hoặc một vài hình thái KT-XH,

hoặc ngay trong cùng một thời đại, các
quốc gia khác nhau thì ở các hình thái
KT-XH khác nhau (lịch sử loài người
đã chứng kiến, có thời điểm cùng tồn
tại quốc gia ở hình thái phong kiến, có
quốc gia ở hình thái TBCN,…) hoặc
trong cùng một hình thái KT-XH
nhưng cũng có sự khác nhau ở mỗi
quốc gia. Mặt khác, quá trình phát
triển của các hình thái KT-XH, tức là
quá trình thay thế lẫn nhau của các
hình thái KT-XH là do sự tác động của
các quy luật khách quan làm cho các
hình thái KT-XH không tồn tại vĩnh
viễn mà chỉ tồn tại trong những giai
đoạn lịch sử nhất định. Điều đó nói lên
tính lịch sử của sự thay thế này.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên
của sự phát triển XH chẳng những
diễn ra bằng con đường phát triển tuần
tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua,
trong những điều kiện nhất định, một
hoặc một vài hình thái KT-XH nhất
định.,. Tuy nhiên sự bỏ qua đó cũng là
khách quan, hợp quy luật, không phụ
thuộc ý muốn chủ quan của con người,
nó cũng là một quá trình lịch sử tự
nhiên. Chỉ có bỏ qua, rút ngắn một
cách duy ý chí, bất chấp quy luật thì
mới không phải là một quá trình lịch

sử tự nhiên, ví dụ như các nước
XHCN trước kia và ở VN những năm
1975 - 1986.
3. Ý nghĩa đối với việc lựa chọn con
đường đi lên CNXH bỏ qua giai
đoạn phát triển TBCN ở VN.
Từ lý luận của CN Mác - Lênin về
hình thái KT-XH và sự phát triển lịch
sử tự nhiên của các hình thái KT-XH
trong đó có sự "bỏ qua" một hoặc một
vài hình thái KT-XH đối với từng
quốc gia cho thấy việc bỏ qua giai
đoạn phát triển TBCN để đi lên
CNXH ở Việt Nam là tuân theo quy
luật, hợp quy luật, tất nhiên, điều quan
trọng phải nhận thức đúng "bỏ qua" là
như thế nào?
- Trước khi tiến hành đổi mới
(1986) do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan, Việt Nam cũng
giống như các nước XHCN trước đây
hiểu "bỏ qua" giai đoạn phát triển
TBCN một cách máy móc, giáo điều,
duy ý chí không đúng với lý luận của
CN MacLenin (vi phạm quy luật về sự
phù hợp QHSX với trình độ của
LLSX, CSHT phù hợp với KTTT). Đó
là việc bỏ qua theo kiểu phủ định sạch
trơn, đem đối lập chủ nghĩa XH với
CNTB, bỏ qua cả những cái “không

thể bỏ qua” như khoa học công nghệ,
kinh tế,… những thứ là thành tựu của
cả loài người chứ đâu phải của CNTB.
Vì vậy đã dẫn tới những sai lầm, đổ vỡ
ở hệ thống các nước XHCN ở Liên
Xô, Đông Âu và sự khủng hoảng kinh
tế XH trầm trọng ở Việt Nam những
năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20.
- Hiện nay, từ Đại hội IX của Đảng,
"bỏ qua" được hiểu là bỏ qua việc xác
lập vị trí thống trị của QHSX và
KTTT TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về
khoa học công nghệ để phát triển
nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế
hiện đại.
Với nhận thức đúng đắn quan điểm
"bỏ qua" hình thái KT-XH theo học
thuyết của Mác-Lênin và điều kiện
thực tiễn của đất nước, Việt Nam có
cơ sở khoa học bằng lý luận và thực
tiễn để khẳng định "bỏ qua" giai đoạn
phát triển TBCN đi lên CNXH là hợp
quy luật, tất yếu và khách quan.
Những cơ sở đó cơ bản là:
+ Điều kiện chủ quan:
Có Đảng Cộng sản, Đảng của giai
cấp vô sản, cầm quyền lãnh đạo đất
nước, lãnh đạo hệ thống chính trị,

Đảng kiên định lập trường CN Mác-
Lênin, tư tưởng HCM, giàu kinh
nghiệm và truyền thống trong lãnh đạo
cách mạng, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đã và đang tập trung từng bước xây
dựng và thực hiện Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Có hệ thống chính trị đoàn kết đã và
đang được đổi mới nâng cao chất
lượng hoạt động quyết tâm cao phấn
đấu thật sự vững mạnh đưa đưa nền
kinh tế đất nước theo định hướng
XHCN.
Nền kinh tế Việt Nam sau 27 năm
đổi mới đã đạt được những thành tựu
quan trọng, có tính chất nền tảng tạo
thế và lực mới để hội nhập thành công
với nền kinh tế thế giới. Đặc biệt với
quyết tâm cao, tư duy biện chứng lịch
sử, Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh
đổi mới toàn diện, tái cấu trúc nền
kinh tế theo hướng phát triển theo
chiều sâu, đẩy mạnh CNH - HĐH, gắn
liền với phát triển nền kinh tế tri thức
tạo điều kiện cơ sở vật chất cho
CNXH.
Quá độ lên chủ nghĩa XH không
những phù hợp với quy luật phát triển

lịch sử mà còn phù hợp với nguyện
vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Việt
Nam đã chiến đấu, hi sinh không chỉ
vì độc lập dân tộc mà còn vì cuộc sống
ấm no, hạnh phúc, xây dựng XH công
bằng, dân chủ, văn minh. Những yêu
cầu ấy chỉ có CNXH mới đáp ứng
được. Quyết tâm của nhân dân sẽ trở
thành lực lượng vật chất để vượt qua
khó khăn, xây dựng thành công
CNXH.
+ Điều kiện khách quan:
Thời đại ngày nay là thời đại của
nền kinh tế tri thức, toàn cầu hóa, là
nước đi sau, Việt Nam có điều kiện,
cơ hội để di tắt, rút ngắn thời gian phát
triển thông qua chính sách đối ngoại,
hội nhập quốc tế rộng mở và các chính
sách phát triển đất nước phù hợp, đúng
đắn, hợp xu thế phát triển chung của
thế giới.
Sự phát triển cao của LLSX, tính
chất quốc tế hóa của LLSX đã tạo lên
một xu thế mới trong quan hệ giữa các
quốc gia, dân tộc, làm thức tỉnh các
dân tộc có thể đi vào con đường phát
triển phi TBCN. Xu thế này cũng tác
động tích cực đối với VN.
Thời đại ngày nay, quá độ lên
CNXH là xu hướng khách quan của

loài người. Đi trong dòng chảy đó của
lịch sử, VN đã, đang và sẽ nhận được
sự đồng tình, ủng hộ ngày càng mạnh
mẽ của loài người, của các quốc gia
độc lập đang đấu tranh để lựa chọn
con đường phát triển tiến bộ của mình.
- Những khó khăn, thuận lợi khi
VN đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn
TBCN:
+ Những khó khăn: Nước ta quá độ
lên CNXH không qua chế độ TBCN từ
một nước kinh tế chưa phát triển, nền
nông nghiệp lạc hậu, LLSX thấp kém,
giáo dục đào tạo còn nhiều hạn chế,
khoa học công nghệ yếu kém, bị chiến
tranh tàn phá nặng nề,…Trong khi đó,
các thế lực thù địch trên thế giới luôn
2
Page 3 of 38
tìm mọi thủ đoạn chống phá cách
mạng nước ta.
+ Những thuận lợi cơ bản:
Có sự lãnh đạo đúng đắn của
ĐCSVN do Chủ tịch HCM sáng lập và
rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững
vàng và dày dạn kinh nghiệm lãnh
đạo;
Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng,
có ý chí vươn lên mãnh liệt;
Nhân dân ta có lòng yêu nước nồng

nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân
ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn
luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng;
Chúng ta đã từng bước xây dựng
được những cơ sở vật chất - kỹ thuật
rất quan trọng;
Cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại, sự hình thành và phát
triển kinh tế tri thức cùng với quá trình
toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là
một thời cơ để phát triển.
- Những giải pháp để Việt Nam đi
lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát
triển TBCN.
Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kì quá độ lên CNXH
(bổ sung, phát triển năm 2011) những
giải pháp cơ bản để nước ta quá độ lên
CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN là:
Một là, phát triển LLSX, thực hiện
CNH, HĐH đất nước gắn với phát
triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trung
tâm để từng buớc xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của CNXH; không
ngừng nâng cao năng suất lao động
XH, chất lượng, hiệu quả, khả năng
độc lập, tự chủ của nền kinh tế và cải
thiện đời sống nhân dân.

Hai là, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Trong đó,
cơ chế thị truờng được vận dụng đầy
đủ phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của cơ chế thị trường để phát
huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn
lực nhằm phát triển nhanh, bền vững
nền kinh tế. Phát triển kinh tế đi đôi
với phát triển văn hóa, XH, thực hiện
tiến bộ và công bằng XH.
Ba là, chăm lo phát triển văn hóa,
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; làm cho CN Mác-
Lênin, tư tưởng HCM trở thành nền
tảng, giữ vai trò chỉ đạo trong đời sống
tinh thần, XH. Đấu tranh chống tư
tưởng, văn hoá hóa phản tiến bộ, trái
với những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc.
Bốn là, củng cố quốc phòng, an
ninh, xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân, thế trận an ninh nhân dân
vững chắc để bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN,
giữ vững hòa bình, ổn định chính trị,
an ninh quốc gia và trật tự an toàn XH;
chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi
âm mưu và hành động chống phá của

các thế lực thù địch đối với sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta.
Năm là, thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển; đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định, thuận lợi
cho sự phát triển đất nước, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị
thế của đất nước; là bạn, là đối tác tin
cậy và thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế, góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế
giới.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ
XHCN, thực hiện và phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Lấy
mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hoà
bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, XH
công bằng, dân chủ, văn minh để tập
hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp
nhân dân, đồng bào các dân tộc, tôn
giáo, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài. Xây dựng, phát huy vai trò của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân
dân trang việc tập hợp, đoàn kết toàn

dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bảy là, xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân
do ĐCS lãnh đạo; Quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp giữa các cơ quan trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp; có tổ chức bộ máy tinh gọn,
hợp lý, trong sạch, vững mạnh; có đội
ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất
và năng lực cao; có cơ chế kiểm soát,
ngăn ngừa, trừng trị tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, xâm
phạm quyền dân chủ của nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; kiên định CN Mác–Lênin, tư
tưởng HCM là nền tảng tư tưởng; thật
sự là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và toàn dân tộc; có năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu cao, thường xuyên tự
chỉnh đốn, tự đổi mới, ra sức nâng cao
trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo.
Trước những sự thay đổi của lịch sử
và sự phát triển của khoa học, đã có
không ít học thuyết, lý luận mới về sự

phát triển của XH loài người. Tuy
nhiên học thuyết về hình thái KT-XH
của Mác vẫn giữ nguyên giá trị khoa
học, tính đúng đắn và thời đại của nó.
Lý luận hình thái KT-XH cũng là
phương pháp luận khoa học để chúng
ta phân tích công cuộc xây dựng đất
nước hiện nay, luận chứng được sự tất
yếu, khách quan con đường đi lên
CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN ở Việt Nam. Kiên định với mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH, dưới
sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
CSVN, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, tiếp tục đẩy mạnh
CNH-HĐH, kết hợp sáng tạo sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
nhân dân ta sẽ thực hiện thắng lợi mục
tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Kết luận: Ngày nay, trước sự phát
triển mạnh mẽ của KHKT và sự sụp
đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu
đã tạo cơ hội cho kẻ thù mở đợt tấn
công vào học thuyết Mác nói chung và
lý luận về hình thái KTXH nói riêng.
Chính vì vậy vấn đề học tập nâng cao
lý luận CN Mác - Lê nin nói chung có
ý nghĩa rất quan trọng. Một mặt đả
phá những tư tưởng thù địch. Khẳng

định lý luận hình thái KTXH CN Mác
là hoàn toàn đúng đắn và ngày nay
vẫn còn nguyên giá trị. Mặt khác quán
triệt lý luận hình thái KTXH của CN
Mác cũng khẳng định con đường và
bước đi lên CNXH của nước ta theo
hướng đổi mới mà Đảng ta đã và
đang lãnh đạo thực hiện là hoàn toàn
đúng đắn phù hợp qui luật tự nhiên,
phù hợp điều kiện hoàn cảnh của
nước ta. Trên cơ sở nhận thức đó ra
sức tuyên truyền vận động mọi người
trong XH hăng say lao động, học tập
trên mọi lĩnh vực để góp phần nhanh
chóng đưa nước ta phát triển đi lên.
3
Page 4 of 38
Câu 2: Nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn? Ý nghĩa của
nguyên tắc này trong việc ngăn
ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm
và bệnh giáo điều ở Việt Nam.
Trả lời:
1. Nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn:
Thực tiễn là hoạt động vật chất cảm
tính, có tính lịch sử - XH của con
người nhằm cải tạo tự nhiên và XH.
Con người muốn biến đổi được tự
nhiên và xã hội thì cần phải có những

hiểu biết về chúng, nhưng những hiểu
biết đó không có sẵn trong con người.
Muốn có tri thức, con người phải tác
động vào thế giới khách quan bằng
hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó,
con người tích lũy được những tri thức
kinh nghiệm. Những tri thức kinh
nghiệm mới chỉ đem lại sự hiểu biết về
từng mặt riêng lẻ, bên ngoài của sự
vật, hiện tượng. Ph.Ăng-ghen đã từng
chỉ rõ: "Sự quan sát dựa vào kinh
nghiệm tự nó không bao giờ có thể
chứng minh được đầy đủ tính tất
yếu"(C.Mác- PhẨngghen: Toàn tập,
Nxb CTQG, 1994, tập 20, trang 718).
Để nắm được cái tất yếu sâu sắc nhất,
mối quan hệ bản chất của các sự vật,
hiện tượng, con người phải khái quát
những tri thức kinh nghiệm thành lý
luận. Nếu lý luận chỉ là sản phẩm khái
quát hoá, trừu tượng hóa thuần túy của
tư duy, thì lý luận đó chỉ mang lại sự
hiểu biết hư ảo, hoang đường. Lý luận
thực sự khoa học khi nó được khái
quát từ kinh nghiệm thực tiễn. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: "Lý luận là sự tổng kết
những kinh nghiêm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên và
xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch
sử Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb

CTQG, Hà Nội, 1996, tập 8, trang
497).
Lý luận được hình thành trên cơ sở
khái quát kinh nghiệm thực tiễn, song
không phải cứ có kinh nghiệm thực
tiễn là hình thành được lý luận. Lý
luận được hình thành thông qua hoạt
động tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
của các nhà lý luận. Vì vậy, lý luận
không thể ra đời một cách tự phát và
luôn luôn phải được bổ sung, phát
triển bằng những kinh nghiệm thực
tiễn mới, phong phú. Do tính độc lập
tương đối của mình lý luận có thể vượt
trước các dữ liệu thực tiễn. Nhưng xét
đến cùng, lý luận không thể không dựa
trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn.
Lý luận khoa học thông qua thực
tiễn của con người góp phần làm biến
đổi thế giới khách quan và chính thực
tiễn. Lý luận đóng vai trò soi đường,
dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Nó vạch ra
phương hướng và phương pháp cho
hoạt động thực tiễn, nhằm biến đổi
hiện thực khách quan theo hướng tiến
bộ vì lợi ích của con người. Lý luận
khi thâm nhập vào quần chúng thì trở
thành sức mạnh vật chất vĩ đại. Lý
luận với sức mạnh nội tại của mình, có
thể dự kiến được xu hướng vận động,

biến đổi, phát triển của sự vật, hiện
tượng cũng như của thực tiễn. Nó giúp
con người chủ động, tự giác hơn trong
hoạt động thực tiễn, tránh bớt được
mò mẫn tự phát.
Lý luận khoa học là một hệ thống
những tri thức được khái quát từ thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản
chất, tất nhiên, tính quy luật của các sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
phản ánh khái quát những vấn đề sinh
động của thực tiễn. Nó do thực tiễn
quy định, phụ thuộc vào thực tiễn vì
chính thực tiễn là cơ sở, là động lực, là
mục đích, là tiêu chuẩn để kiểm tra
nhận thức và lý luận; thực tiễn cung
cấp chất liệu phong phú sinh động để
hình thành lý luận và thông qua hoạt
động thực tiễn, lý luận mới được vật
chất hóa, hiện thực hóa, mới có sức
mạnh cải tạo hiện thực. Đồng thời, lý
luận có tính độc lập tương đối so với
thực tiễn, có thể tác động trở lại thực
tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn.
Sự tác động của lý luận thể hiện qua
vai trò xác định mục tiêu, khuynh
hướng cho hoạt động thực tiễn (lý luận
là kim chỉ nam cho hoạt động thực
tiễn), vai trò điều chỉnh hoạt động thực

tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn có
hiệu quả hơn. Lý luận có vai trò tác
động tích cực đối với thực tiễn, một
khi nó phản ánh đúng hiện thực khách
quan và thâm nhập được vào đông đảo
quần chúng. Nếu lý luận sai lầm, ảo
tưởng, chủ quan, giáo điều, kinh
nghiệm sẽ tác động tiêu cực trở lại
đối với thực tiễn. Cho nên, phải coi
trọng lý luận nhưng không được coi
thường, hạ thấp thực tiễn và không
tách rời lý luận khỏi thực tiễn.
Từ mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn, ta rút ra được quan
điểm thực tiễn. Quan điểm thực tiễn
đòi hỏi khi xem xét sự vật hiện tượng
phải gắn với thực tiễn, phải theo sát sự
phát triển của thực tiễn để điều chỉnh
nhận thức cho sự phù hợp với sự phát
triển của thực tiễn, hiệu quả của thực
tiễn để kiểm tra những kết luận của
nhận thức, kiểm tra những luận điểm
của lý luận. Quan điểm thực tiễn cũng
đòi hỏi những khái niệm của chúng ta
về sự vật phải được hình thành, bổ
sung và phát triển bằng con đường
thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn chứ
không phải bằng con đường suy diễn
thuần túy, không phải bằng con đường
tự biện. Do thực tiễn luôn vận động và

phát triển nên phải thường xuyên tổng
kết quá trình vận dụng lý luận vào
thực tiễn, xem nó thừa thiếu nhằm bổ
sung phát triển nó cho phù hợp.
Vì vậy việc vi phạm sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn dẫn tới căn
bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh
giáo điều.
2. Ý nghĩa của nguyên tắc này trong
việc ngăn ngừa, khắc phục bệnh
kinh nghiệm và bệnh giáo điều ở
Việt Nam.
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Quán triệt nguyên
tắc này, có ý nghĩa phương pháp luận
quan trọng trong việc đấu tranh ngăn
ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm
giáo điều. Như Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ:
“Thực tiễn không có lý luận hướng
dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là
lý luận suông”.
Kinh nghiệm đóng vai trò hết sức to
lớn trong nhận thức cũng như trong
hoạt động thực tiễn. Nhưng nếu coi
kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hóa
kinh nghiệm, coi nhẹ lý luận, đề cao
thực tiễn, không chịu học tập lý luận
thì sẽ mắc bệnh kinh nghiệm. Người

mắc bệnh kinh nghiệm thì nhân danh
đề cao thực tiễn, hạ thấp lý luận, coi
thường lý luận. Họ không hiểu được
rằng: “Có kinh nghiệm mà không có
lý luận, cũng như một mắt sáng một
mắt mờ”. Bệnh kinh nghiệm có nhiều
tác hại, dễ dẫn tới việc coi thường lý
luận, coi thường việc học tập lý luận,
coi nhẹ vai trò của cán bộ lý luận, của
đội ngũ trí thức; dễ rơi vào lối suy
nghĩ đơn giản, tư duy áng chừng, đại
khái. Trong hoạt động thực tiễn thì mò
mẫm, tùy tiện, sự vụ, bặp đâu hay đó,
thiếu nhìn xa trông rộng
Bệnh kinh nghiệm ở nước ta có
nhiều nguyên nhân khác nhau:
- Ảnh hưởng tiêu cực của XH nông
nghiệp cổ truyền: nền sản xuất nhỏ,
nông nghiệp lúa nước, làm theo mùa
vụ, theo chu kỳ;
-Ảnh hưởng của tư tưởng phong
kiến, tư tưởng tiểu tư sản, gia trưởng
phong kiến;
-Ảnh hưởng của kinh nghiệm chiến
tranh;
- Vi phạm nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, không nắm
được thực chất mối quan hệ biện
chứng giữa kinh nghiệm và lý luận.
Để khắc phục và ngăn ngừa có hiệu

quả căn bệnh này phải quán triệt tốt
trên thực tế sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn, coi trọng cả lý luận và
thực tiễn; coi trọng công tác tổng kết
thực tiễn; nâng cao trình độ lý luận
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân;
từng bước khắc phục triệt để tư tưởng
phong kiến, tư tưởng tiểu tư sản. Đồng
thời tiếp tục đổi mới tư duy lý luận,
đổi mới công tác lý luận theo tinh thần
Nghị quyết TW V (khóa IX), Nghị
quyết Đại hội X của Đảng).
Nếu cường điệu lý luận, coi nhẹ
thực tiễn, coi lý luận là bất di, bất
dịch, tách lý luận khỏi thực tiễn, vận
dụng lý luận không căn cứ vào hoàn
cảnh lịch sử - cụ thể sẽ mắc phải bệnh
giáo điều. Ở nước ta có hai loại giáo
điều đó là giáo điều lý luận biểu hiện ở
việc học tập lý luận tách rời thực tiễn,
xa rời cuộc sống, rơi vào bệnh sách
vở, câu chữ, Giáo điều kinh nghiệm
của nước khác vào nước mình, của địa
phương khác vào địa phương mình,
không tính đến những điều kiện lịch
4
Page 5 of 38
sử cụ thể. Bệnh giáo điều ở nước ta có
nhiều ngun nhân:
-Sự yếu kém về trình độ lý luận của

cán bộ, đảng viên và nhân dân;
-Ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp tồn tại q lâu;
-Ảnh hưởng của chủ nghĩa thành
tích, hình thức;
-Vi phạm ngun tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn
Để khắc phục và ngăn ngừa có hiệu
quả hai loại giáo điều này, chúng ta
phải từng bước nâng cao trình độ lý
luận, trình độ tư duy lý luận cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân; hồn thiện
nền dân chủ XH chủ nghĩa; qn triệt
tốt sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn
Như vậy, cả bệnh kinh nghiệm và
bệnh giáo điều ở nước ta ngồi những
ngun nhân khách quan cùng có
chung một ngun nhân: vi phạm sự
thống nhất giữa thực tiễn và lý luận.
Đó là thực chất của cả hai căn bệnh
này. Vì vậy, cùng với các giải pháp
khác thì quan trọng là phải qn triệt
tốt sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn.
Qn triệt sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn có thể bằng nhiều
hình thức phong phú khác nhau như:
tổng kết thực tiễn; vận dụng các lý
thuyết khoa học vào sản xuất, vào cải

tạo XH; đẩy mạnh sự hợp tác giữa các
trung tâm nghiên cứu với các cơ sở
sản xuất’ tăng cường hợp tác giữa các
nhà lý luận và các nhà hoạt động thực
tiễn trong tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn, Trong đó, tổng kết thức tiễn là
biện pháp cơ bản, trực tiếp, quan trọng
nhất. Vì vậy, Đảng ta đề ra nhiệm vụ:
“Coi trọng tổng kết thực tiễn trong
nghiên cứu lý luận và trong hoạt động
của các cấp ủy đảng; coi tổng kết thực
tiễn là nhiệm vụ thường xun của các
cấp, các ngành”.
Tổng kết thực tiễn là q trinh bằng
tư duy khoa học với phương pháp duy
vật biện chứng phân tích, đánh giá,
khái qt thực tiễn nhằm rút ra những
bài học cho chỉ đạo thực tiễn tiếp theo.
Trên cơ sở của tổng kết thực tiễn,
chúng ta mới thấy rõ những ưu điểm
của kinh nghiệm thực tiễn, đồng thời
phát hiện hạn chế của nó, có căn cứ để
khơng ngừng xem xét lại, bổ sung, sửa
đổi, phát triển lý luận. Đồng thời, có
cơ sở để khái qt thành lý luận.
Tổng kết thực tiễn giúp chúng ta
khơng bị dừng lại ở những tri thức
kinh nghiệm cụ thể, cá biệt; khơng bị
trói buộc vào một thực tiễn cụ thể nhất
định hay những tình huống cá biệt với

những cách thức, phương pháp hành
động cũ. Cho nên, tổng kết thực tiễn
vai trò hết sức quan trọng trong việc
phát triển lý luận, khắc phục hết bệnh
kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Đồng
thời, tổng kết thực tiễn đóng góp phần
đảm bảo trên thực tiễn sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn. Để tổng kết
thực tiễn có hiệu quả thì phải đảm bảo
được ba u cầu cơ bản: tính khách
quan; tính khái qt cao và tính mục
đích đúng đắn.
u cầu khách quan trong tổng kết
thực tiễn đòi hỏi phải qn triệt tốt
quan điểm duy vật biện chứng và phải
có thái độ trung thực, để tránh tổng
kết thực tiễn theo kiểu “tơ hồng” hoặc
“bơi đen”. u cầu khách quan cũng
đòi hỏi khơng được lấy ý đồ có sẵn
của người tổng kết thực tiễn để áp đặt
cho việc tổng kết thực tiễn, cũng
khơng được lấy việc tổng kết thực tiễn
để “chứng minh” cho ý muốn chủ
quan cá nhân. Phải tơn trọng kết quả
tổng kết thực tiễn, dù kết quả đó có
trái với mong muốn chủ quan. Cần
phải khắc phục tình trạng là khi tổng
kết thực tiễn hoặc chỉ đổ lỗi cho hồn
cảnh khách quan, hoặc chỉ đổ lỗi cho
những thiếu sót, khuyết điểm chủ

quan. Bởi lẽ, cả hai xu hướng này đều
vi phạm nghiêm trọng u cầu khách
quan trong tổng kết thực tiễn.
Tính khái qt trong tổng kết thực
tiễn đòi hỏi qua phân tích, đánh giá,
xem xét các sự kiện thực tế, khi tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn phải rút ra
được kết luận có tính quy luật, tức là
nắm được các mối liên hệ bản chất
nhất. Những kết luận được rút ra từ
thực tiễn có tính khái qt cao là
những kết luận phải có tính phổ biến,
tính điển hình và phải có giá trị thực
tiễn cao, tức là chúng có tác dụng định
hướng, dẫn đường, chỉ đạo cho hoạt
động thực tiễn khơng chỉ trước mắt mà
còn cho giai đoạn tiếp theo. Đồng thời,
chúng góp phần vào việc bổ sung,
hồn chỉnh, phát triển lý luận.
Tính mục đích đúng đắn đòi hỏi
tổng kết thực tiễn, dù ở cấp nào, đều
phải phục vụ cho mục đích xây dựng
thành cơng chủ nghĩa XH, phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh trong điều kiện mới. Mọi
biểu hiện xa rời những mục tiêu trên,
như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ
hội, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa thành
tích, chủ nghĩa hình thức, tư tưởng cục
bộ, đều làm cho tổng kết thực tiễn

biến dạng nghiêm trọng. Như vậy sẽ
khơng qn triệt được thực tế thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Cùng với việc qn triệt tốt những
u cầu trên trong tổng kết thực tiễn,
chúng ta còn phải thực hiện tốt quy
trình tổng kết thực tiễn. Quy trình tổng
kết thực tiễn gồm các bước cơ bản:
xác định mục đích và lựa chọn đúng
vấn đề cần tổng kết; lập chương trình
kế hoạch, tổ chức lực lượng tổng kết;
tiến hành điều tra, thu thập tư liệu,
khảo sát thực tế; xử lý thơng tin, phân
tích tư liệu, dữ liệu, rút ra kế hoạch và
hướng dẫn vận dụng.
Những giải pháp khắc phục bệnh
kinh nghiệm và bệnh giáo điều có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy,
thực hiện chúng phải đồng bộ, nhất
qn. Có như vậy, chúng mới mang lại
hiệu quả thiết thực.
Kết luận: Qua những nhận định ở
trên, chúng ta thấy rằng, để qn triệt
tốt ngun tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn nhằm ngăn ngừa, khắc
phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo
điều có hiệu quả thì phải khơng ngừng
học tập lý luận, nâng cao trình độ lý
luận; đấu tranh chống lại những quan
điểm, luận điệu sai trái; đổi mới và

nâng cao chất lượng công tác nghiên
cứu lý luận, công tác giảng dạy và
học tập lý luận; mở rộng dân chủ và
giữ vững đònh hướng chính trò trong
họat động lý luận; đổi mới công tác
lý luận của Đảng viên trên nền tảng
Chủ Nghóa Marx – Lénin và tư tưởng,
đạo đức Hồ Chí Minh và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác lý luận, Đảng đònh hướng cho
công tác lý luận.
Khi có lý luận thì phải vận dụng
vào thực tiễn, phải biết tổng kết thực
tiễn để làm giàu lý luận bằng những
kinh nghiệm thực tiễn mới. Chỉ thơng
qua quy trình như vậy thì lý luận mới
gắn với thực tiễn, mới khơng trở thành
giáo điều. Đồng thời thực tiễn mới sẽ
được chỉ đạo bởi lý luận sẽ khơng bị
mò mẫm, vấp váp, hay chệch hướng.
Như vậy thì bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều cũng khơng còn chỗ đứng.
Liên hệ thực tiễn:
Trước thời kỳ đổi mới ( Đại hội 6 ),
căn “bệnh” này biểu hiện ở nước ta
là qua việc xóa bỏ chế độ tư hữu, tiến
hành cải tạo XHCN; xóa tất cả các
thành phần kinh tế, chỉ còn kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể. Điều
này do áp dụng lý luận vào đâu cũng

được mà không xem xét điều kiện
thực tiễn, điều kiện cơ sở vật chất
khách quan của đất nước. Hay là việc
bắt chước một cách rập khuôn theo
mô hình XHCN ở Liên Xô (cũ) : Liên
Xô có bao nhiêu bộ ta cũng có bấy
nhiêu bộ, Liên Xô phát triển công
nghiệp năng thì ta cũng phát triển
công nghiệp nặng mà không xem xét
đến điều kiện cụ thể của Việt Nam,
đồng thời không chú ý đến phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ
trong khi nước ta là một nước nông
nghiệp với tất cả những điều kiện vật
chất khách quan đều thuận lợi để
phát triển nông nghiệp.
Từ những sai lầm về việc vi phạm
ngun tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, không nắm được thực chất
mối quan hệ biện chứng giữa kinh
nghiệm và lý luận đã dẫn đến bệnh
kinh nghiệm, giáo điều như phân tích
ở trên. Đó là một trong số rất nhiều
căn bệnh dẫn tới cái giá mà những
người cộng sản đã phải trả quá đắt,
đó là sự tan vở của hệ thống xã hội
chủ nghóa, sự thóai trào của phong
trào công sản và công nhân quốc tế.
Đó là bài học xương máu mà Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã rút ra được để

tiến hành họach đònh và thực hiện
đường lối đổi mới từ Đại Hội tòan
quốc của Đảng lần thứ 6 đến nay.
Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục
tổng kết từ sự vận động của thực tiễn
5
Page 6 of 38
trong nước và trên thế giới đã khẳng
đònh một trong những bài học chủ
yếu đưa công cuộc đổi mới ở nước ta
đi đến thắng lợi là : “ đường lối đúng
đắn của Đảng là nhân tố quyết đònh
thành công của đổi mới. Đảng khởi
xướng và lãnh đạo công cuộc đổi
mới, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu
lý luận, hòan thiện đường lối đổi
mới; thường xuyên xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về
quan điểm, ý chí và hành động trong
tòan Đảng; lãnh đạo tổ chức thực
hiện, xây dựng và kiện tòan bộ máy
nhà nước trong sạch, vững mạnh”.
( VK-ĐHĐBTQ lần thứ IX – NXB –
CTQG, H.2001, trang 82 ) ./.
II. KINH TẾ CHÍNH TRỊ:
Câu 3: Hai con đường phát triển
TBCN trong nơng nghiệp. Đặc điểm
của tư bản kinh doanh nơng nghiệp.
Bản chất và các hình thức địa tơ
TBCN. Sự tiến bộ của địa tơ TBCN

so với địa tơ phong kiến.
Trả lời:
1. Hai con đường phát triển TBCN
trong nơng nghiệp
Trong CNTB nơng nghiệp cũng trở
thành lĩnh vực đầu tư của tư bản, cũng
được kinh doanh theo phương thức
TBCN. CNTB xuất hiện trong nơng
nghiệp bằng cả con đường phân hố
của những người nơng dân hình thành
lớp giàu có (phú nơng, tư bản nơng
nghiệp) kinh doanh nơng nghiệp theo
phương thức TBCN và bằng cả sự
thâm nhập của các nhà tư bản đầu tư
vào nơng nghiệp.
Trong lịch sử, CNTB trong nơng
nghiệp hình thành theo hai con đường
điển hình:
Thứ nhất, bằng cải cách tuần tự
chuyển kinh tế địa chủ phong kiến
sang kinh doanh theo phương thức
TBCN, sử dụng lao động làm th. Đó
là con đường của các nước Đức, Italia,
Nhật, Nga
Thứ hai: bằng cuộc cách mạng dân
chủ tư sản, xóa bỏ chế độ kinh tế địa
chủ phong kiến, thủ tiêu quyền sở hữu
ruộng đất phong kiến, phát triển
CNTB trong nơng nghiệp. Đó là con
đường diễn ra ở các nước Pháp.

2. Đặc điểm của tư bản kinh doanh
nơng nghiệp
Đặc điểm nổi bật của QHSX TBCN
trong nơng nghiệp là chế độ độc
quyền sở hữu ruộng đất và độc quyền
kinh doanh ruộng đất. Cả hai loại độc
quyền ruộng đất đã ngăn cản tự do
cạnh tranh trong nơng nghiệp.
Về quan hệ XH đối với ruộng đất
trong CNTB, nếu khơng kể đến một số
ít nơng dân cá thể tự canh tác trên
mảnh đất của họ thì bao gồm ba giai
cấp: địa chủ (là người sở hữu ruộng
đất, nhưng khơng trực tiếp kinh doanh
mà cho th đất), tư bản kinh doanh
nơng nghiệp (là người th ruộng đất
của địa chủ để kinh doanh theo
phương thức TBCN) và cơng
nhân nơng nghiệp (là người lao động
làm th cho các nhà tư bản kinh
doanh nơng nghiệp).
Cơng nhân nơng nghiệp là thành
phần trực tiếp canh tác ruộng đất và
tạo ra giá trị thặng dư cho tư bản kinh
doanh nơng nghiệp dưới hình thức lợi
nhuận nơng nghiệp. Tư bản kinh
doanh nơng nghiệp hưởng lợi nhuận
bình qn., Địa chủ sở hữu ruộng đất
hưởng địa tơ.
3. Bản chất và các hình thức địa tơ

TBCN
a. Khái niệm địa tơ TBCN:
Trong CNTB, người thực sự canh
tác ruộng đất là những người lao động
làm th, nhà tư bản muốn kinh
doanh trong nơng nghiệp thì phải th
ruộng đất của địa chủ. Vì vậy ngồi lợi
nhuận bình qn ra, nhà tư bản kinh
doanh nơng nghiệp còn phải thu thêm
được một phần giá tri thặng dư dơi ra
nữa tức là lợi nhuận siêu ngạch để nộp
cho chủ đất. Khoản lợi nhuận siêu
ngạch này phải được đảm bảo thường
xun và tương đối ổn định. Đó là địa
tơ TBCN.
b. Bản chất của địa tơ TBCN:
Địa tơ TBCN là bộ phận lợi nhuận
siêu ngạch do cơng nhân làm th
trong nơng nghiệp tạo ra ( tức bộ phận
giá trị thặng dư sau khi trừ đi lợi
nhuận bình qn của tư bản đầu tư vào
nơng nghiệp) và do nhà tư bản th
đất nộp cho chủ sở hữu ruộng đất.
Địa tơ TBCN phản ánh quan hệ ba
giai cấp cơ bản. Biểu hiện quan hệ
giữa địa chủ với nhà tư bản kinh
doanh nơng nghiệp trong việc chia
nhau giá trị thặng dư do cơng nhân
nơng nghiệp tạo ra, mặt khác biểu hiện
quan hệ bóc lột giữa địa chủ với lao

động làm th trong nơng nghiệp.
c. Các hình thức địa tơ của TBCN:
Địa tơ TBCN có các hình thức cơ
bản:
* Địa tơ chênh lệch: Trong ngành
nơng nghiệp cũng như cơng nghiệp
đều có lợi nhuận siêu ngạch. Trong
cơng nghiệp lợi nhuận siêu ngạch chỉ
là hiện tượng tạm thời đối với các nhà
tư bản cá biệt nào đó có được do điều
kiện sản xuất tốt hơn điều kiện sản
xuất trung bình của XH, còn trong
nơng nghiệp nó ln tồn tại tương đối
dài và ổn định .
-Trong sản xuất nơng nghiệp, ruộng
đất là TLSX cơ bản, nó có đặc điểm là
có diện tích giới hạn, vị trí cố định và
tốt xấu khác nhau Người ta khơng thể
tạo thêm được ruộng đất tốt có điều
kiện canh tác thuận lợi. Trong khi đó
hầu hết ruộng đất đã bị độc quyền kinh
doanh. Do đó những người kinh doanh
trên ruộng đất tốt, có điều kiện sản
xuất thuận lợi sẽ sử dụng được sức tự
nhiên một cách độc quyền nên ln
thu được lợi nhuận siêu ngạch ổn định
lâu dài.
-Khác với trong lĩnh vực cơng
nghiệp, trong nơng nghiệp giá cả sản
xuất chung của nơng phẩm do điều

kiện sản xuất xấu nhất quyết định.
Bởi vì, nếu chỉ canh tác trên ruộng đất
tốt và trung bình thì sẽ khơng đủ nơng
phẩm cho nhu cầu XH mà phải canh
tác trên cả ruộng đất xấu. Do đó giá cả
sản xuất chung phải đảm bảo cho tư
bản đầu tư trên ruộng xấu cũng thu
được lợi nhuận bình qn. Như vậy,
các nhà tư bản kinh doanh trên ruộng
đất trung bình và tốt đều thu được lợi
nhuận siêu ngạch. Như vậy địa tơ
chênh lệch là những phần lợi nhuận
siêu ngạch ngồi lợi nhận bình qn
thu được trên những ruộng đất tốt và
trung bình, là số chênh lệch giữa giá
cả sản xuất chung của nơng phẩm
được quyết định bởi điều kiện sản xuất
trên ruộng đất xấu nhất và giá cả cá
biệt trên ruộng đất trung bình và tốt.
Nguồn gốc của địa tơ và địa tơ
chênh lệch khơng phải do độ màu mỡ
của ruộng đất sinh ra mà do lao động
thặng dư của cơng nhân nơng nghiệp
tạo ra. Màu mỡ ruộng đất chỉ là điều
kiện tự nhiên để cho lao động của
cơng nhân có năng suất cá biệt cao
hơn và là điều kiện để hình thành lợi
nhuận siêu ngạch. Địa tơ chênh lệch
gắn liền với độc quyền kinh doanh
TBCN về ruộng đất. Nói cách khác nó

sinh ra là do có sự độc quyền kinh
doanh ruộng đất theo lối TBCN.
Khơng có sự độc quyền về sức tự
nhiên thì khơng có bất cứ lợi nhuận
siêu ngạch. Địa tơ chênh lệch vì thế
khơng tham gia tham gia hình thành
giá trị nơng phẩm. Chế độ tư hữu
ruộng đất cũng khơng phải ngun
nhân sinh ra lợi nhuận siêu ngạch mà
là ngun nhân làm cho mọi lợi nhuận
siêu ngạch chuyển hố thành địa tơ,
tức là làm cho địa chủ chiếm lợi nhuận
siêu ngạch đó.
Địa tơ chênh lệch có hai loại đó là:
địa tơ chênh lệch I và địa tơ chênh
lệch II.
6
Page 7 of 38
+ Địa tô chênh lệch I là địa tô thu
được trên cơ sở đất đai có điều kiện tự
nhiên thuận lợi (như ruộng đất màu
mỡ hoặc ở vị trí thuận lợi gần nơi tiêu
thụ hay đường giao thông thuận tiện )
Như vậy hai yếu tố làm cơ sở xuất
hiện địa tô chênh lệch I có thể phát
sinh tác dụng ngược chiều nhau: Đất
tốt ở xa hoặc ngược lại. Địa tô chệnh
lệch gắn với điều kiện tự nhiên thuận
lợi bị độc chiếm. Do vậy, nó thuộc về
chủ ruộngđất.

+ Địa tô chênh lệch II là địa tô do
thâm canh mà có.
Thâm canh ruộng đất là đầu tư thêm
tư bản để tăng thêm một cách hợp lí
TLSX, sức lao động, cải tiến kỹ thuật
vào một đơn vị diện tích để cải tạo đất
đai, nâng cao chất lượng canh tác
nhằm tăng năng suất lao động, năng
suất ruộng đất và chất lượng sản
phẩm. Khi năng suất lần đầu tư thêm
lớn hơn năng suất tư bản đầu tư trên
ruộng đất xấu nhất thì có được địa tô
chênh lệch II. Vì lợi nhuận siêu ngạch
của loại này có được là kết quả được
đầu tư thêm tư bản, cho nên chừng
nào thời hạn hợp đồng thuê ruộng đất
vẫn còn thì nó thuộc về tư bản kinh
doanh ruộng đất. Nhưng khi hợp đồng
hết hạn thì địa chủ sẽ tìm mọi cách để
nâng mức địa tô lên để chiếm lấy lợi
nhuận siêu ngạch, biến nó thành địa tô
chênh lệch I. Chính vì vậy mà địa chủ
chỉ muốn cho thuê ngắn hạn, còn nhà
tư bản muốn thuê ruộng đất dài hạn.
Đồng thời cũng vì lẽ đó các nhà tư bản
không muốn bỏ tư bản lớn đầu tư thâm
canh, họ tìm cách khai thác triệt để độ
màu mỡ của ruộng đất trong thời gian
hợp đồng C.Mác đã chỉ ra rằng: mỗi
một bước tiến của nền nông nghiệp

TBCN không những là một bước tiến
trong nghệ thuật bóc lột công nhân,
đồng thời còn là một bước tiến trong
nghệ thuật bóc lột đất đai.Sự giành
giật khoản địa tô này giưuã chủ ruộng
đất và nhà tư bản kinh doanh thuê đất
đã có thời kỳ làm cho đất đai ngày
càng bị bạc màu đi. Đó không phải là
qui luật của tự nhiên, mà là xu hướng
chịu sự tác động của quan hệ kinh tế
trong nông nghiệp.
* Địa tô tuyệt đối: Là địa tô mà tất
cả các nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp đều phải nộp cho địa chủ dù
ruộng đất tốt hay xấu. Đây là loại tô
thu trên tất cả mọi thứ ruộng đất.Vậy
tư bản kinh doanh trên ruộng đất xấu
lấy gì để nộp tô? Hiển nhiên không thể
lấy trong số lợi nhuận bình quân, mà
phải là số lợi nhuận ngoài lợi. nhuận
bình quân đó là lợi nhuận siêu ngạch.
Vấn đề đặt ra là làm sao kinh doanh
trên ruộng đất xấu cũng có được lợi
nhuận siêu ngạch?
Dưới CNTB lĩnh vực nông nghiệp
lạc hậu hơn so với lĩnh vực công
nghiệp về kinh tế và kĩ thuật, nên cấu
tạo hữu cơ của tư bản trong nông
nghiệp thấp hơn trong công nghiệp. Vì
vậy nếu tỷ suất giá trị thặng dư bằng

nhau thì tư bản bằng nhau đầu tư trong
nông nghiệp sẽ thu được nhiều giá trị
thặng dư hơn trong công nghiệp. Do
sự độc quyền tư hữu ruộng đất đã ngăn
cản quá trình tự do di chuyển tư bản
vào nông nghiệp, do đó đã ngăn cản
việc hình thành lợi nhuận bình quân
chung giữa công nghiệp và nông
nghiệp. Nông sản được bán theo giá
thị trường vì thế số giá trị thặng dư dôi
ra ngoài lợi nhuận bình quân không bị
bình quân hoá mà được giữ lại để nộp
địa tô tuyệt đối cho địa chủ.
Vậy địa tô tuyệt đối là lợi nhuận
siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân,
hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư
bản trong nông nghiệp thấp hơn trong
công nghiệp, mà bất cứ nhà tư bản
thuê loại ruộng đất nào đều phải nộp
cho địa chủ.
Đó là số chênh lệch giữa giá trị của
nông phẩm với giá cả sản xuất chung
của nông phẩm.
Độc quyền tư hữu ruộng đất là
nguyên nhân làm cho lợi nhuận siêu
ngạch hình thành trong nông nghiệp
và làm cho nó chuyển thành địa tô .
Do đó nếu không còn chế độ độc
quyền tư hữu ruộng đất thì địa tô này
sẽ bị xoá bỏ, giá cả nông sản sẽ bị hạ

xuống có lợi cho người tiêu dùng.
Địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối
giống nhau ở chỗ: cả hai đều là lợi
nhuận siêu ngạch, đều có chung nguồn
gốc và bản chất là một bộ phận giá trị
thặng dư do lao động của công nhân
nông nghiệp tạo ra. Do đó chúng đều
phản ánh quan hệ bóc lột TBCN.
Nhưng chúng khác ở chỗ, nếu như
nguyên nhân sinh ra địa tô chêng lệch
là độc quyền kinh doanh ruộng đất thì
đối với địa tô tuyệt đối lại là độc
quyền sở hữu ruộng đất. Nếu như
điều kiện hình thành địa tô chênh lệch
là điều kiện thuận lợi của đất đai thì
đối với địa tô tuyệt đối lại là cấu tạo
hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp
thấp hơn trong công nghiệp. Địa tô
chênh lệch không tham gia hình thành
giá nông phẩm.
* Địa tô đất xây dựng, địa tô hầm
mỏ, địa tô độc quyền
+ Địa tô đất xây dựng:
Địa tô đất xây dựng về cơ bản được
hình thành như địa tô đất nông nghiệp.
Nhưng nó cũng có những đặc trưng:
Thứ nhất, việc hình thành địa tô xây
dựng, vị trí của đất đai là yếu tố quyết
định, còn độ màu mỡ của đất đai là
yếu tố không ảnh hưởng lớn.

Thứ hai, địa tô đất xây dựng tăng
lên nhanh chóng do sự phát triển của
dân số, do nhu cầu nhà ở tăng lên và
do những tư bản cố định sáp nhật vào
ruộng đất ngày càng tăng lên.
Loại địa tô này nêu bật tinh chất ăn
bám của giai cấp địa chủ, tính chất phi
lý của chế độ tưu hữu đất đai.
+ Địa tô hầm mỏ:
Đất hầm mỏ có khoáng sản cũng
đem lại địa tô chênh lệch và địa tô
tuyệt đối cho người sở hữu đất đai ấy.
Địa tô hầm mỏ cũng hình thành và
được quyết định như địa tô đất nông
nghiệp. Đối với địa tô hầm mỏ, giá trị
của khoáng sản, hàm lượng, trữ lượng
của khoáng sản, vị trí và điều kiện
khai thác là những yếu tố quyết định.
+ Địa tô độc quyền:
Địa tô luôn gắn liền với độc quyền
sở hữu ruộng đất, độc chiếm các điều
kiện tự nhiên thuận lợi, cản trở sự
cạnh tranh của tư bản, tạo nên giá cả
độc quyền của nông sản. Tuy nhiên,
có những loại đất có thể trồng những
loại cây cho những sản phẩm quý
hiếm, có giá trị cao hay có những
khoáng sản đặc biệt có giá trị, thì địa
tô của những đất đai đó sẽ rất cao, có
thể xem đó là địa tô độc quyền. Nguồn

gốc của địa tô độc quyên này cũng là
lợi nhuận siêu ngạch do giá cả độc
quyền cao của sản phẩm thu được trên
đất đai ấy mà nhà tư bản phải nộp cho
địa chủ, người chủ sở hữu đất đai đó.
4. Sự tiến bộ của địa tô TBCN so với
địa tô Phong kiến
-Giữa địa tô tư bản chủ nghĩa và địa
tô phong kiến có điểm giống nhau và
khác nhau:
Sự giống nhau trước hết là quyền sở
hữu ruộng đất, được thực hiện về mặt
kinh tế, tức là đem lại thu nhập.Cả hai
loại địa tô đều là kết quả của sự bóc
lột đối với người lao động.
Song hai loại địa tô trên khác nhau
về lượng và chất:
+Về mặt lượng: địa tô phong kiến
gồm toàn bộ sản phẩm thặng dư do
nông dân tạo ra và bị chúa phong kiến
chiếm đoạt, có khi còn lạm cả vào
phần sản phẩm cần thiết. Địa tô TBCN
là một phần sản phẩm thặng dư dôi ra
ngoài lợi nhuận bình quân và do nhà
tư bản kinh doanh nông nghiệp trả cho
địa chủ. Đây cũng chính là sự tiến bộ
của địa tô TBCN so với địa tô phong
kiến.
+Về mặt chất: địa tô phong kiến
phản ánh quan hệ của hai giai cấp, địa

chủ và nông dân. Địa tô TBCN phản
ánh quan hệ giữa ba giai cấp: địa chủ,
tư bản kinh doanh nông nghiệp và
công nhân nông nghiệp làm thuê.
Địa tô phong kiến dựa trên sự
cưỡng bức siêu kinh tế của địa chủ với
nông dân, thì địa tô TBCN dựa trên cơ
sở quan hệ kinh tế giữa địa chủ và tư
bản, giữa tư bản với người lao động
làm thuê.
Trong CNTB, có các loại địa tô: địa
tô chênh lệch, địa tô tuyệt đối và địa tô
độc quyền.
-Sự tiến bộ củã địa tô tư bản chủ
nghĩa so với địa tô phong kiến:
Nếu như địa tô phong kiến là toàn
bộ sản phẩm thặng dư và nhiều khi
lạm cả vào phần sản phẩm tất yếu của
người nông dân lao động thì địa tô tư
bản chủ nghĩa là phần giá trị thặng dư
dôi ra ngoài phần lợi nhuận bình quân.
Hơn nữa, địa tô TBCN phản ánh sự
phát triển của QHSX TBCN trong
7
Page 8 of 38
điều kiện trình độ phát triển của LLSX
của CNTB. Xét về mặt phát triển thì
CNTB tiến bộ hơn so với phong kiến
trước đó.
5.Vì sao C.Mác khẳng định rằng:

“ Công lao lớn của phương thức sản
xuất TBCN là làm cho quyền sở hữu
ruộng đất trở thành một điều phi lý ”
Quyền sở hữu ruộng đất về nguyên
tắc chỉ liên quan trực tiếp đến việc thu
địa tô. CNTB đã hoàn thành việc tách
rời quyền sở hữu khỏi quyền sử dụng
đất đai và người chủ đất có thể cả đời
sống ở TP mà không cần biết kinh
doanh trên ruộng đất ngoài việc thu
địa tô. Vì thế, C.Mác viết: “Những
công lao lớn của phương thức sản
xuất TBCN là, một mặt thì hợp lý hóa
nông nghiệp, việc hợp lý hóa này lần
đầu tiên đã tạo khả năng kinh doanh
nông nghiệp theo phương thức XH, và
mặt khác làm cho quyền sở hữu (tư
hữu) ruộng đất trở thành một điều phi
lý” Trong khi đó, thực hiện các quyền
chiếm hữu và sử dụng ruộng đất lại
gắn trực tiếp với việc khai thác, canh
tác trên đất đai, nó là một điều kiện tất
yếu cho sản xuất vì ruộng đất là tư liệu
lao động quan trọng của nông nghiệp.
Bởi vậy, để khuyến khích thâm canh
và đầu tư dài hạn, pháp luật các
nước phải quy định thời hạn lâu dài,
điều kiện ổn định và bảo hộ đầy
đủ cho chủ thể thực hiện các quyền
này.

6. Từ lý luận địa tô của C.Mác liên
hệ với thực tiễn quản lý đất đai hiện
nay ở nước ta.
Lý luận địa tô TBCN của C.Mác
không chỉ vạch rõ bản chất QHSX
TBCN trong nông nghiệp mà còn là cơ
sở khoa học để xây dựng các chính
sách kinh tế liên quan đến thuế, đến
điều tiết các loại địa tô, đến giải quyết
các quan hệ đất đai, Tất cả nhằm kết
hợp hài hòa các lợi ích, khuyến khích
thâm canh, sử dụng đất đai tiết kiệm,
phát triển một nền nông nghiệp hàng
hóa sinh thái bền vững.
Trong chủ nghĩa XH, khi ruộng đất
thuộc sở hữu toàn dân, không còn là tư
hữu của địa chủ hay nhà tư bản, thì
những cơ sở kinh tế để hình thành địa
tô tuyệt đối và địa tô độc quyền cũng
bị xoá bỏ, nhưng vẫn tồn lại địa tô
chênh lệch, song nó thuộc sở hữu của
nhà nước và khác về bản chất với địa
tô chênh lệch dưới CNTB.
Ở Việt Nam với chiến thắng lịch sử
Điện biên phủ (07/5/1954) kết thúc
cuộc chiến tranh xâm lược của thực
dân Pháp. Đảng và Nhà nước ta đã
tiến hành cuộc cải cách ruộng đất,
quốc hữu hóa ruộng đất của địa chủ
phong kiến chia cho nông dân xây

dựng hợp tác xã nông nghiệp. Đầu tiên
những năm 60 của thế kỷ 20, nhiệm vụ
cách mạng của nước ta là: xây dựng
chủ nghĩa và XH ở miền Bắc và tiếp
tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
ở miền Nam để tiến tới thống nhất đất
nước cùng đi lên CNXH.
Chúng ta đang ở thời kỳ quá độ lên
CNXH với điểm xuất phát thấp. Nước
nông nghiệp lạc hậu, tiến lên CNXH
bỏ qua giai đoạn TBCN, lại phải tiến
hành hai cuộc kháng chiến với thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ trong thời gian
dài. Chính vì vậy vấn đề quản lý đất,
các chính sách về đất đai chúng ta
không có điều kiện thực hiện sớm.
Mãi đến năm 1993 chúng ta mới có
Luật đất đai. Đồng thời được sửa đổi,
bổ sung vào năm 1998, 2001 và ngày
10/12/2003 Chủ tịch nước Cộng hòa
XHCN VN ký lệnh công bố Luật đất
đai - Được Quốc hội khóa XI, kỳ họp
thứ tư thông qua ngày 26/11/2003.
Luật này được sửa đổi, bổ sung hoàn
chỉnh hơn.
Về vấn đề sở hữu đất đai, trước khi
có Luật đất đai và sau khi có Luật này
đều khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở
hữu”. Nhà nước thực hiện quyền định

đoạt đối với đất đai: quyết định mục
đích sử dụng đất; quy định về hạn mức
giao đất, thời hạn sử dụng đất; định
giá đất. Nhà nước thực hiện quyền
điều tiết các nguồn lợi đất đai thông
qua các chính sách tài chính.
Trong thời gian dài sống trong thời
kỳ cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu
bao cấp; ruộng đất nông nghiệp được
Nhà nước giao cho chủ sử dụng đất là
hợp tác xã Nông nghiệp. Với suy nghĩ
của xã viên hợp tác xã là: ruộng đất
của hợp tác xã, đi làm theo cách
“Đánh kẻng ghi tên” vì vậy không
phát huy được năng xuất của ruộng
đất, năng xuất của cây trồng, bỏ phí
nhiều ruộng đất hoang không khuyến
khích được người nông dân, xã viên
hợp tác xã tích cực lao động.
Từ khi có cơ chế khoán 100, tuy đã
có đổi mới nhưng khoán theo vụ, theo
năm (gần như thời gian hợp đồng rất
ngắn). Nông dân không giám đầu tư
nhiều mà chỉ tích cực sử dụng phân
hóa học bón cho cây trồng để nhằm
tăng năng suất. Xong lại làm cho đất
bạc màu đi, giá phân bón lên cao. Khi
cơ chế khoán 10, giao ruộng đất lâu
năm đã tạo điều kiện cho nông dân
giám đầu tư, thâm canh để tăng năng

xuất cây trồng, sử dụng đất có hiệu
quả.
Mấy năm gần đây, Đảng và Nhà
nước có chủ trương đổi thửa, dồn
nhiều ô thửa nhỏ thành nhiều ô thửa
lớn; chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp đặc biệt là chuyển ruộng
đất cấy lúa kém hiệu quả sang sản xuất
đa canh nhằm nâng cao hiệu quả kinh
tế trên một đơn vị diện tích
Những việc làm trên của Đảng và
Nhà nước ta đối với nông nghiệp,
nông thôn và nông dân đã làm rõ hai
vấn đề về sở hữu đất và quyền sử dụng
đất, giúp cho nông dân đầu tư có hiệu
quả trên những thửa ruộng của mình,
áp dụng các ứng dụng KHKT để tăng
năng suất
Chính vì vậy năng suất lúa, cây
trồng tăng lên; diện tích đất nông
nghiệp được sử dụng hết và giao cho
nông dân. Đất nước ta, trước đây là
nước thiếu gạo, dân còn đói ăn. Những
năm gần đây Việt Nam đã đủ gạo và
thừa gạo để xuất khẩu, là nước đứng
thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo.
Về vấn đề đất đai, đất nông nghiệp
đã được Nhà nước quản lý chặt chẽ
hơn, đề ra các chính sách phù hợp với
thời kỳ kinh tế thị trường nhiều thành

phần kinh tế có định hướng XHCN
như giá đất, các chính sách tài chính
về đất: thu tiền sử dụng đất, tiền thuê
đất, thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ
chuyển quyền sử dụng đất, điều tiết
phần giá trị tăng thêm từ đất mà không
do đầu tư của người sử dụng đất mang
lại,
Nhà nước đã thực hiện chuyển
quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho
nông dân, và người sử dụng đất phải
nộp thuế sử dụng đất; cho người nước
ngoài thuê đất để lập doanh nghiệp
hay để xây dựng trụ sở cơ quan ngoại
giao; cho phép các tổ chức, cá nhân
người Việt Nam tham gia xí nghiệp
liên doanh với người nước ngoài được
góp vốn pháp định bằng giá trị đất sử
dụng.
Ta nhận thức được rằng, tuy hình
thức địa tô tuyệt đối không còn, nhưng
ruộng đất vẫn là một TLSX có giá trị
và người sử dụng vẫn phải trả giá như
là một loại địa tô.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ IX Ban
Chấp hành TW Đảng khóa IX đã tiếp
tục khẳng định: “Hướng dẫn thi hành
Luật Đất đai (sửa đổi) và các văn bản
pháp luật có liên quan khác để phát
triển và quản lý có hiệu quả thị trường

bất động sản; áp dụng những biện
pháp mạnh mẽ, đồng bộ để xóa bao
cấp về đất, chống đầu cơ trục lợi, kích
cầu ảo, gây khan hiếm “sốt” nhà đất
giả tạo, tham nhũng, chiếm dụng trái
phép và lãng phí về đất đai”.
Nghiên cứu sâu sắc lý luận địa tô
TBCN của Mác và thực tiễn quản lý
đất đai nông nghiệp. Với sự lãnh đạo
của Đảng, trên lộ trình quá độ tiến lên
CNXH,chắc chắn kinh tế nông nghiệp,
quản lý đất đai góp phần thắng lợi
trong chiến lược phát triển KT-XH của
đất nước.
8
Page 9 of 38
III. CNXH KHOA HỌC
Câu 4: Dân chủ XH chủ nghĩa và
xây dựng nền dân chủ XH chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Trả lời
Dân chủ xuất hiện từ khi XH có chế
độ tư hữu, có giai cấp, xuất hiện sự
thống trị của giai cấp này đối với giai
cấp khác trong XH. Nhà nước dân chủ
chủ nô đầu tiên xuất hiện ở Aten-Hi
lạp cổ đại và chính thức sử dụng danh
từ “dân chủ - Demokratia”, trong đó
demos là “nhân dân” và kratos là
chính quyền hay “quyền lực”. Có

nghĩa là Nhà nước dân chủ chủ nô có
“quyền lực của dân”. Theo nguyên
nghĩa của nó, dân chủ có nghĩa là
quyền lực của nhân dân, nó nói lên
rằng nhân dân là chủ thể của quyền
lực. Nhưng dân theo quy định của
pháp luật gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ,
thương gia, một số trí thức và người tự
do, còn đại đa số là nô lệ thì không
được coi là dân. Như vậy, về thực chất
giai cấp bóc lột đầu tiên đã lập ra Nhà
nước và luật pháp, lạm dụng khái niệm
dân chủ để chiếm lấy quyền lực thực
sự của nhân dân lao động.
Trong suốt chiều dài lịch sử, khi
Nhà nước nằm trong tay giai cấp bóc
lột thì dù có mang tên dân chủ nhưng
thực chất vẫn không phải là Nhà nước
thực hiện quyền lực thực sự của nhân
dân, nó chỉ phục vụ quyền và lợi cho
một số thiểu số thống trị mà thôi. Chỉ
đến cách mạng XHCN Tháng 10 Nga
thắng lợi, mở ra thời đại mới, khi đó
nhân dân lao động mới thực sự giành
được chính quyền, giành lại những
TLSX chủ yếu của XH, giành lại
quyền lực thực sự của mình, lập ra
Nhà nước dân chủ XHCN. Khi đó dân
chủ mới đúng nghĩa là nhân dân lao
động làm chủ.

Tóm lại, nhân loại từ lâu đời đã có
nhu cầu và bước đầu thực hiện dân
chủ và có quan niệm về dân chủ, đó là
việc thực thi quyền lực của dân. Đây
là một khái niệm lịch sử, tuy nhiên dân
là những ai, còn do bản chất của chế
độ XH quy định, nhất là từ khi XH
phân chia thành giai cấp, thì dân còn
do bản chất giai cấp thống trị XH quy
định cụ thể trong từng XH nhất định.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu quan
niệm về dân chủ với các luận điểm cơ
bản sau:
Thứ nhất: Kế thừa những thành tựu
dân chủ mà nhân loại đã đạt được trên
cả hai phương diện lý luận và thực
tiễn, chủ nghĩa Mác-Lê nin cho rằng:
Dân chủ là một nhu cầu khách quan
của nhân dân lao động, dân chủ là
quyền lực thuộc về nhân dân lao động.
Thứ hai: Khi XH có giai cấp, mọi
chế độ dân chủ gắn với Nhà nước đều
mang bản chất giai cấp thống trị XH.
Lịch sử nhân loại từng chứng kiến các
kiểu dân chủ khác nhau: Dân chủ chủ
nô, dân chủ tư sản, dân chủ XHCN. Vì
vậy, dân chủ không phải phạm trù bất
biến, ngược lại nó là phạm trù lịch sử,
phạm trù chính trị.
Thứ ba: Từ khi có Nhà nước, dân

chủ còn có ý nghĩa là một hình thức
Nhà nước, trong đó có chế độ bầu cử,
bãi miễn các thành viên Nhà nước, có
quản lý XH theo pháp luật và thừa
nhận ở Nhà nước đó quyền lực thuộc
về nhân dân (theo quan niệm của giai
cấp thống trị), gắn với một hệ thống
chuyên chính của giai cấp thống trị
XH đó.
Thứ tư: Với một chế độ dân chủ và
Nhà nước tương ứng, đều do giai cấp
thống trị cầm quyền chi phối tất cả các
lĩnh vực của toàn XH, do vậy tính giai
cấp cũng gắn liền và chi phối tính dân
tộc, tính chất của chế độ chính trị, kinh
tế, văn hóa, XH … ở mỗi quốc gia,
dân tộc cụ thể.
Về bản chất của nền dân chủ
XHCN.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin thì:
chuyên chính vô sản và dân chủ
XHCN về căn bản là thống nhất. Từ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Đảng ta thống nhất gọi chuyên chính
vô sản là nền dân chủ XHCN (Vẫn
thực hiện nội dung cơ bản của chuyên
chính vô sản).
Ta có thể khái quát về bản chất của
nền dân chủ XHCN như sau:
Bản chất chính trị: Dưới sự lãnh

đạo duy nhất của một đảng của giai
cấp công nhân-đảng Mác-Lênin mà
trên mọi lĩnh vực XH đều thực hiện
quyền lực của nhân dân, thể hiện qua
các quyền dân chủ, làm chủ, quyền
con người, thỏa mãn ngày càng cao
hơn các nhu cầu và các lợi ích của
nhân dân.
Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ: Bản
chất chính trị của nền dân chủ XHCN
là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp
công nhân thông qua đảng của nó đối
với toàn XH, nhưng không phải chỉ để
thực hiện quyền lực và lợi ích riêng
cho giai cấp công nhân, mà chủ yếu là
để thực hiện quyền lực và lợi ích của
toàn thể nhân dân, trong đó có giai cấp
công nhân.
Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: Trong
chế độ dân chủ XHCN thì bao nhiệu
quyền lực đều là của dân, bao nhiêu
sức mạnh đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi
ích đều là vì dân… Chế độ dân chủ
XHCN, Nhà nước XHCN do đó về
thực chất là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Cuộc cách mạng
XHCN, khác với các cuộc cách mạng
trước đây là ở chỗ nó là cuộc cách
mạng của số đông, vì lợi ích của số
đông nhân dân.

V.I.Lênin còn nhấn mạnh rằng: Dân
chủ XHCN là chế độ mà nhân dân
ngày càng tham gia nhiều vào công
việc Nhà nước. Với ý nghĩa đó,
V.I.Lênin đã diễn đạt một cách khái
quát về bản chất và mục tiêu của dân
chủ XHCN rằng: đó là nền dân chủ
“gấp triệu lần dân chủ tư sản”.
Tóm lại, xét về bản chất chính trị,
dân chủ XHCN vừa có bản chất giai
cấp công nhân, vừa có tính nhân dân
rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc.
Bản chất kinh tế: Nền dân chủ
XHCN dựa trên chế độ công hữu về
những TLSX chủ yếu của toàn XH
đáp ứng sự phát triển ngày càng cao
của LLSX dựa trên cơ sở khoa học -
công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn
ngày càng cao những nhu cầu vật chất
và tinh thần của toàn thể nhân dân lao
động.
Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ
đầy đủ qua một quá trình ổn định
chính trị, phát triển sản xuất và nâng
cao đời sống của toàn XH, dưới sự
lãnh đạo của đảng Mác-Lênin và quản
lý, hướng dẫn, giúp đỡ của Nhà nước
XHCN.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ
XHCN dù khác về bản chất kinh tế

của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột,
bất công, nhưng cũng như toàn bộ nền
kinh tế XHCN, nó không hình thành
từ “hư vô” theo mong muốn của bất
kỳ ai. Kinh tế XHCN cũng là sự kế
thừa và phát triển mọi thành tựu nhân
loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời
lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực,
kìm hãm… của các chế độ kinh tế
trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp
bức bóc lột bất công… đối với đa số
nhân dân.
Bản chất tư tưởng - văn hóa: Nền
dân chủ XHCN lấy hệ tư tưởng Mác -
Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân làm nền tảng, chủ đạo đối với
mọi hình thái ý thức XH khác trong
XH mới (như văn học nghệ thuật, giáo
dục, đạo đức, lối sống, văn hóa, XH,
tôn giáo v.v…). Đồng thời nó kế thừa,
phát huy những tinh hoa văn hóa
truyền thống các dân tộc; tiếp thu
những giá trị tư tưởng - văn hóa, văn
minh, tiến bộ XH… mà nhân loại đã
tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc…
Do đó, đời sống tư tưởng - văn hóa
của nền dân chủ XHCN rất phong phú,
đa dạng, toàn diện và ngày càng trở
thành một nhân tố quan trọng hàng
đầu, thành mục tiêu và động lực cho

quá trình xây dựng CNXH.
Dân chủ XHCN luôn gắn bó mật
thiết với hệ thống chính trị XHCN.
Hệ thống chính trị XHCN là hệ
thống các tổ chức chính trị căn bản, có
quy mô quốc gia, có ý nghĩa chiến
lược đối với sự tồn tại, ổn định và phát
triển của một nước XHCN, được hình
thành và hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật chung, phù hợp với vai trò,
nhiệm vụ, chức năng của mỗi tổ chức
và mối quan hệ giữa các tổ chức đó.
Toàn bộ hệ thống này hoạt động là sự
thể hiện trên thực tế nền dân chủ
XHCN trong quá trình xây dựng
CNXH.
Cấu trúc của hệ thống chính trị
XHCN là một hệ thống chỉnh thể bao
gồm ba thành tố cơ bản là: Đảng cộng
sản (đảng duy nhất lãnh đạo XH); Nhà
nước XHCN (nhà nước của dân, do
dân, vì dân); Các tổ chức chính trị -
XH hợp pháp. Hệ thống này vận hành
theo nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ.
9
Page 10 of 38
Xét về bản chất hệ thống chính trị
XHCN và hệ thống chuyên chính vô
sản là đồng nhất. Nó là cơ chế đảm

bảo quyền lực của nhân dân, vì những
lợi ích của nhân dân. Những vấn đề đó
chỉ có thể thực hiện được khi hệ thống
chính trị XHCN phải là chế độ nhất
nguyên về chính trị - tức là chỉ có một
giai cấp và một Đảng duy nhất lãnh
đạo XH, đó là giai cấp công nhân và
Đảng của nó.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện
nay bao gồm: Đảng CSVN; Nhà nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam; Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân. Trong đó, Đảng CSVN là
một bộ phận của hệ thống chính trị,
nhưng có vai trò lãnh đạo toàn bộ hệ
thống đó và lãnh đạo toàn XH. Nhà
nước do nhân dân cử ra để quản lý XH
về mọi mặt bằng pháp luật. Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính
trị của các đoàn thể nhân dân, vừa để
bảo vệ những lợi ích chính đáng của
các đoàn viên, hội viên, vừa để tổ
chức và giáo dục họ tham gia bảo vệ,
xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước,
quản lý XH, bảo vệ chế độ XHCN.
Nhà nước XH chủ nghĩa là một
trong những tổ chức chính trị cơ bản
nhất của hệ thống chính trị XHCN,
một công cụ quản lý mà đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo nhân dân tổ

chức ra để qua đó nhân dân lao động
thực hiện quyền lực và lợi ích của
mình, cũng qua đó là chủ yếu mà giai
cấp công nhân và Đảng của nó lãnh
đạo XH về mọi mặt trong quá trình
bảo vệ và xây dựng CNXH. Chủ nghĩa
Mác - Lênin cũng quan niệm nhà nước
XHCN là thống nhất về căn bản với
nhà nước chuyên chính vô sản cả về
bản chất, mục tiêu, vai trò, chức năng
và các hoạt động theo những nguyên
tắc, pháp luật, chính sách của nó.
Mối liên hệ giữa đổi mới hệ thống
chính trị với dân chủ hóa ở Việt
Nam:
Thứ nhất: Phát huy vai trò người
lãnh đạo duy nhất là Đảng cộng sản
Việt Nam, không chia sẻ quyền lãnh
đạo XH cho bất kỳ giai cấp nào, tầng
lớp nào hay cá nhân nào (đó là điều có
tính nguyên tắc cao nhất). Điều đó
xuất phát từ thực tế lịch sử của đất
nước, từ yêu cầu khách quan của sự ổn
định và phát triển XH, từ lợi ích cơ
bản của nhân dân lao động và của dân
tộc ta.
Thứ hai: Khẳng định bản chất chế
độ dân chủ và hệ thống chính trị nước
ta hiện nay là XHCN (dù mới bước
đầu xây dựng), thể hiện cả tính giai

cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi,
tính dân tộc và nhân đạo sâu sắc, có kế
thừa những thành quả tích cực của dân
chủ tư sản, nhưng khác về bản chất,
mục đích và nhiều vấn đề khác.
Thứ ba: Trong nền dân chủ và hệ
thống chính trị nước ta hiện nay, Nhà
nước là tổ chức đặc biệt quan trọng,
nhà nước chuyên chính vô sản, chuyên
chính với mọi kẻ thù của nhân dân,
của CNXH và mọi thế lực cản trở
công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng XHCN, từng bước tổ chức và
xây dựng CNXH mới với mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân
chủ, văn minh; đây vẫn là chức năng,
nhiệm vụ cơ bản quyết định nhất, khó
khăn, phức tạp và lâu dài nhất.
Thứ tư: Cơ cấu chủ yếu của hệ
thống chính trị ở nước ta hiện nay xét
theo nghĩa hẹp, vẫn gồm có Đảng
Cộng sản lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
các đoàn thể chính trị của nhân dân.
Thứ năm: Vai trò, chức năng, nhiệm
vụ chung nhất của mỗi tổ chức trong
hệ thống chính trị và mối quan hệ giữa
các tổ chức đó, vẫn quán triệt những
tư tưởng chỉ đạo rất cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.

Các nội dung cơ bản trong đổi mới
hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ ở
nước ta hiện nay
-Trong đổi mới hệ thống chính trị
ở nước ta hiện nay cần quán triệt tốt
các nguyên tắc chung sau:
Một là: Đổi mới HTCT tức là ngày
càng làm rõ vai trò, nhiệm vụ, chức
năng, nội dung, phương thức hoạt
động của mỗi bộ phận và các mối
quan hệ giữa các tổ chức chính trị hợp
pháp và đang có vai trò với cả nước.
Đổi mới không phải là “đổi hướng”
chính trị, không thay đổi mục tiêu, con
đường XHCN.
Hai là: Thực hiện ngày càng tốt hơn
những nguyên tắc, chức năng, nhiệm
vụ của chuyên chính vô sản trong quá
trình xây dựng, hoàn thiện nền dân
chủ XHCN.
Ba là: Không chấp nhận đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn XH nhằm
mục tiêu ổn định về phát triển vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, XH công
bằng, dân chủ, văn minh.
Bốn là: Trên cơ sở ổn định, phát
triển kinh tế và đời sống nhân dân để
từng bước đổi mới hệ thống chính trị,
đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao

của mọi lĩnh vực XH.
Năm là: Tổ chức cho nhân dân
tham gia đóng góp vào sự nghiệp đổi
mới, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
theo nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình,
tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi.
Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu
“diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch muốn xóa bỏ chế độ XHCN ở
nước ta.
- Các phương hướng, nhiệm vụ cụ
thể để đổi mới hệ thống chính trị
thực hiện dân chủ.
Một là: Đổi mới xây dựng và chỉnh
đốn đảng nhằm giữ vững và nâng cao
vai trò, năng lực hiệu quả và uy tín
lãnh đạo của đảng với toàn XH. Trước
hết đổi mới tư duy lý luận, thực hiện
dân chủ trong đảng, không ngừng
nâng cao chất lượng đảng viên, kiện
toàn các tổ chức cơ sở và cấp ủy đảng,
làm cho đảng ngày càng gắn bó chặt
chẽ với GCCN và nhân dân trong toàn
XH.
Hai là: Cải cách Nhà nước XHCN
Việt Nam theo hướng xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực hiện quản lý Nhà nước theo
nguyên tắc tập trung, dân chủ, thống

nhất trên toàn quốc.
Văn kiện Đại hội Đảng IX, Đảng ta
chỉ rõ: “Nhà nước ta là công cụ chủ
yếu để thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công
và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp Cải
cách tổ chức và hoạt động của nhà
nước gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, đổi mới nội dung, phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Xây dựng bộ máy Nhà nước tinh gọn;
nâng cao chất lượng hoạt động của các
tổ chức Đảng và Đảng viên trong các
cơ quan Nhà nước”.
Ba là: Đổi mới phương thức hiệu
quả hoạt động của Quốc hội: Nâng cao
năng lực am hiểu về lập pháp, lập
quy của các cơ quan và các đại biểu
của Quốc hội (nhất là đại biểu chuyên
trách) “Đổi mới quy trình chuẩn bị
và thông qua các dự án luật tại kỳ họp
Quốc hội; xây dựng Luật về hoạt động
giám sát của Quốc hội, xác định rõ cơ
chế giám sát đối với Chính phủ, Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; từng bước tăng tỷ lệ

đại biểu Quốc hội chuyên trách; coi
trọng việc lấy ý kiến nhân dân trong
quá trình xây dựng pháp luật và chuẩn
bị những quyết sách của Quốc hội ”.
Trên cơ sở đổi mới Quốc hội mà
kiện toàn, nâng cao năng lực và hiệu
quả của các cấp Hội đồng nhân dân
với những chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và nội dung cụ thể gắn với
cơ sở, địa phương.
Bốn là: Đổi mới hoạt động của Chính
phủ và hệ thống cơ quan hành pháp; Tiến
hành cải cách bộ máy hành chính, trước
hết là bố trí lại cơ cấu tổ chức Chính phủ
cho tinh gọn, năng động và quản lý vĩ mô
có hiệu quả hơn. Từ đó điều chỉnh cơ cấu
các bộ, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các
cấp cũng theo hướng gọn nhẹ, năng động
hiệu quả trong thực thi pháp luật, chính
sách, kế hoạch phục vụ phát triển KT-
XH trên cả nước. Từng bước hiện đại hóa
cơ quan hành chính các cấp, trong đó có
vấn đề vai trò hoạt động “hành chính
công”.
Đối với đội ngũ cán bộ công chức
Nhà nước: Nâng cao chất lượng đào
tạo, đào tạo lại cán bộ, công chức theo
yêu cầu mới của cải cách hành chính
Nhà nước. Đổi mới việc quản lý, đánh
giá cán bộ, công chức; sử dụng, đãi

ngộ cán bộ, công chức theo hướng tiêu
chuẩn hóa; cải cách hành chính chế độ
tiền lương, nâng cao phẩm chất đạo
đức cán bộ, công chức; tăng cường
10
Page 11 of 38
kiểm tra, giám sát, thưởng, phạt
nghiêm minh.
Năm là: Đổi mới phương thức hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân. Nâng cao chất
lượng tham gia quản lý, giám sát các
hoạt động của nhà nước, tham gia xây
dựng và bảo vệ chế độ, bảo vệ lợi ích
chính đáng của các thành viên, gắn
hoạt động của các đoàn thể với các
hoạt động kinh tế, văn hóa, XH, dân
tộc, tôn giáo v.v một cách thiết
thực, chủ động và hiệu quả.
* Liên hệ thực tiễn
Sau 10 năm triển khai thực hiện Chỉ
thị số 10CT/TW của Ban Bí. thư
Trung ương, 5 năm thực hiện Chỉ thị
số 22 CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy về xây dựng và thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở đã tạo được sự
chuyển biến hết sức quan trọng về
quan điểm, nhận thức, trách nhiệm
của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã

hội tỉnh Hòa Bình nói chung và Liên
đoàn lao động tỉnh nói riêng đối vói
việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở.
Tổng số công nhân viên chức lao
động tỉnh Hòa Bình có trên 50.000
người, 1328 công đoàn cơ sở của 19
Liên đoàn lao động huyện, TP, công
đoàn cơ sở trực thuộc Liên đoàn lao
động tỉnh. Đảng bộ Liên đoàn lao
động tỉnh luôn quan tâm chỉ đạo sát
sao với việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở, phát huy thực hiện tốt
Nghị định số 71, nghị định số 07 của
Chính phủ ban hành Quy chế thực
hiện dân chủ ở doanh nghiệp Nhà
nước và Nghị định số 87 về phát huy
quyền lảm chủ của cán bộ, công nhân
viên chức lao đông, góp phần xây
dựng cơ quan trong sạch vững mạnh,
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cơ
quan có đủ phẩm chất, năng lực, làm
việc có hiệu quả đáp ứng yêu cầu phát
triển và đổi mới của đất nước. Đảng
bộ và chính quyền luôn có sự trao đổi
trên các lĩnh vực hoạt động, quán triệt
phổ biến chủ trương pháp luật của
Nhà nước tới toàn thể công nhân viên
chức lao động trong toàn tỉnh, quán
triệt tinh thần của Ban chỉ đạo Quy

chế dân chủ của Trung ương, của
Tỉnh ủy và Tổng Liên đoàn lao động
Việt Nam. Hàng năm Liên đoàn lao
động tỉnh đã chỉ đạo, triển khai việc
thực hiện Quy chế dân chủ tói các
Liên đoàn lao động huyện, TP, công
đoàn ngành và công đoàn cơ sở trực
thuộc.
Các cấp công đoàn trong các cơ
quan, đơn vị hành chính sự nghiệp
thực hiện Nghị định 71/NĐ-CP được
thể chế các quy định cụ thể về nội quy
cơ quan, quy chế chi tiêu nội bộ, quy
chế thi đua khen thưởng, kỷ ỉuật phù
hợp với từng loại hình cơ quan đơn vị.
Đối với các doanh nghiệp, công ty
cổ phần thực hiện Nghị định 07, Nghị
định 87 với nhiều nội dung nhằm phát
huy quyền dân chủ của công nhân
viên chức lao động như: phối hợp với
thủ trưởng cơ quan, ban giám đốc
doanh nghiệp tổ chức hội nghị cán bộ
công chức, đại hội công nhân viên
chức và hội nghị người lao động các
quy định về ký kết thỏa ước lao động
như ừang thiết bị bảo hộ lao động, an
toàn vệ sinh lao động, tiền lương, thời
gian làm việc
Căn cứ các văn bản hướng dẫn của
cấp trên Liên đoàn ỉao động tỉnh đã

chủ động xây dựng kế hoạch và những
nội dung công việc để phổ biến, tuyên
truyền tới công đoàn các cấp, đồng
thời tổng họp ý kiến của cơ sở để điều
chỉnh các nội quy, quy chế cho phù
hợp với điều kiện thực tế.
Qua thực hiện Quy chế dân chủ ở
các huyện, ngành hầu hết các doanh
nghiệp các tổ chức công đoàn đều
thực hiện tốt. Các lãnh đạo cộng ty,
doanh nghiệp đã có nhận thức đúng
đắn hơn, sâu sắc hơn trong việc thực
hiện Quy ché dân chủ.
Với việc thực hiện và phát huy có
hiệu quả Quy chế dân chủ, tỷ lệ tổ
chức đại hội công nhân viên chức, hội
nghị cán bộ công chức ngày càng đạt
tỷ lệ cao.
Bên cạnh những kết quả đạt được
vẫn còn tồn tại một số hạn chế đó là:
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một
số ít thủ trưởng trong doanh nghiệp
chưa thực sự nhiệt tình phối hợp với
công đoàn nên việc chấp hành thực
hiện
Quy chế dân chủ còn mang tính
hình thức, chưa tạo được động lực
thúc đẩy phong trào.
Một số đơn vị có ban hành nội quy,
quy chế hoạt động nhưng nội dung

còn mang tính sao chép, không thiết
thực với điều kiện của đơn vị hiệu quả
thực hiện chưa cao.
Phương hướng chỉ đạo trong những
năm tới là:
Tăng cường công tác tuyên truyền
giáo dục.
Tiếp tục quán triệt tổ chức học tập
đầy đủ, sâu sắc Chỉ thị 30/CT-TW, các
Nghị định, pháp lệnh của Chính phủ,
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và
Tỉnh ủy Hòa Bình, xác định mục tiêu
thực hiện Quy chế dân chủ là nhiệm
vụ thường xuyên và lâu dài của các
cấp ủy đảng, chính quyền và mặt trận,
đoàn thể.
Nâng cao chất lượng hội nghị cán
bộ công chức, đại hội công nhân viên
chức, hội nghị người lao động.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo
của các cấp ủy đảng:
Các cấp ủy và người đứng đầu tổ
chức đảng, cấp ủy đảng cần đặc biệt
quan tâm tạo lập, hoàn thiện phương
thức lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, nâng
cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của
tổ chức đảng ở địa phương, đơn vị
mình. Phải nghiên cứu, tháo gỡ vướng
mắc, ách tắc trong phương thức lãnh
đạo, khắc phục cho được cả hai

khuynh hướng là buông lỏng lãnh đạo
hoặc bao biện, làm thay.
Việc xác định rõ chức năng, nhiệm
vụ của từng tổ chức và phương thức
lãnh đạo của tổ chức đảng đối với cơ
quan nhà nước, đoàn thể thể hiện tập
trung ở quy chế làm việc, quy chế
quan hệ công tác. Quy chế cần được
thảo luận dân chủ, có tổng kết thực
tiễn và đạt sự thống nhất cao. Khi đã
có quy chế thì nhất thiết phải thực
hiện nghiêm quy chế. Định kỳ rà soát
lại, bổ sung, hoàn thiện thêm quy chế.
Yêu cầu có tính bao trùm đối với các
quy chế là phải bảo đảm đúng Điều lệ
các quy đinh, nguyên tắc tập trung
dân chủ của Đảng; tuân thủ nghiêm
Hiến pháp, pháp luật và điều lệ của
đoàn thể; nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của các tổ chức, cá nhân
liên quãn; quyền đi đôi với trách
nhiệm.
Một yêu câu cấp bách hiện nay
trong phương thức lãnh đạo của Đảng
là tăng cường bám sát thực tiễn,
hướng mạnh về cơ sở, lắng nghe được
nhiều ý kiến đóng góp của cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Vì vậy, cần
giảm bớt những cuộc họp, hội nghị
không cần thiết; có chế độ đi cơ sở,

trực tiếp tiếp xúc với cán bộ, nhân
dân; coi trọng việc làm thí điểm trước
khi nhân ra diện rộng; thường xuyên
kiểm tra và tổng kết thực tíễn.
Các cấp ủy đảng quan tâm xây
dựng hệ thống thông tin phong phú,
chính xác, kịp thời phục vụ sự lãnh
đạo, chỉ đạo; duy trì nghiêm chế độc
báo cáo; từng bước hiện đại hóa, tin
học hóa hệ thống thu thập và xử lý
thông tin phục vụ lãnh đạo.
Về phong cách và chế độ công tác,
các cán bộ lãnh đạo phải thực hiện
dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến
của tập thể, kể cả các ý kiến thuộc
thiểu số, chống độc đoán, gia trưởng,
trù dập; xây dựng nền nếp làm việc
khoa học, lời nói đi đôi với việc làm;
coi trọng hiệu quả công việc, không
phô trương hình thức; tăng cường đối
thoại, thảo luận thẳng thắn với đảng
viên trong tổ chức đảng, với cơ bản
công chức trong cơ quan nhà nước và
với nhân dân; dũng cảm nhận thiếu
sót, khuyết điểm và có biện pháp sửa
chữa kịp thời./.
11
Page 12 of 38
IV. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Câu 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về

Nhà nước của dân, do dân, vì dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp, tinh hoa văn hóa
của nhân loại. Một trong những tư
tưởng lớn của người là xây dựng nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa
Mác-Lê nin, vấn đề cơ bản của mọi
cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền
nhà nước. Qua quá trình hoạt động
cách mạng của mình, Hồ Chí Minh
gắn liền với những nhận thức, tìm
kiếm, lựa chọn mọi hình thức, chế độ
nhà nước thích hợp, đưa dân tộc Việt
Nam phát triển theo đúng quỹ đạo tiến
bộ XH. Người đã thấy rõ bộ mặt phân
nhân tính của Nhà nước thực dân
phong kiến và tính chất phiến diện nửa
vời, không triệt để, chứa đầy những
đối kháng không thể điều hòa của Nhà
nước dân chủ tư sản. Bằng những
khảo nghiệm thực tiễn, với tư duy
nhạy cảm, sắc sảo để quyết định lựa

chọn kiểu nhà nước theo học thuyết
Mác-Lênin.
Để lựa chọn kiểu nhà nước theo xu
thế vận động của lịch sử, người dựa
trên hai cơ sở chính: đó là tính chất
nhân dân và khả năng của Nhà nước
trong việc đảm bảo cuộc sống tự do,
ấm no, hạnh phúc thảo mãn các “nhu
cầu trần thế” của nhân dân và con
người, lựa chọn của người gắn bó chặt
chẽ với mục tiêu giải phóng con người
và phát triển XH.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước của dân, do
dân, vì dân có thể được thể hiện trên
những khía cạnh sau:
Thứ nhất, xây dựng Nhà nước do
nhân dân làm chủ
Xây dựng Nhà nước do nhân dân
lao động làm chủ là tư tưởng nhất
quán trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của Hồ Chí Minh. Nhà nước
Việt Nam kiểu mới thể hiện khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, trong đó công,
nông là gốc và trí thức ngày càng có vị
trí quan trọng đặc biệt khi đất nước
bước vào thời kỳ xây dựng. Tất cả mọi
người dân Việt Nam, không phân biệt
trai, gái, giàu nghèo, nòi giống, tôn
giáo, đều là chủ của nước nhà, có

trách nhiệm xây dựng Nhà nước.
Điều 3, Hiến Pháp 1959 ghi rõ:
‘Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là
một nước thống nhất gồm nhiều dân
tộc. Các dân tộc trên nước Việt Nam
đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
vụ, Nhà nước có nghĩa vụ giữ gìn và
phát triển sự đoàn kết giữa các dân
tộc. Mọi hành vi khinh miệt, áp bức,
chia rẽ dân tộc đều bị nghiêm cấm”.
Sự sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh
về bản chất Nhà nước là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa các phạm trù dân
tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa XH, dân tộc và thời đại, dân chủ
nhân dân và chính quyền vô sản.
Hồ Chí Minh khẳng định tất cả
quyền binh trong nước là của toàn thể
nhân dân Việt Nam. “Nước ta là nước
dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân”. Tính chất dân chủ nhân dân là
đặc trưng nổi bật của chính quyền nhà
nước kiểu mới. Trong nước ta nhân
dân là người nắm giữ mọi quyền lực,
còn các cơ quan Nhà nước do nhân
dân tổ chức ra, nhân viên Nhà nước là
người được ủy quyền, thực hiện ý chí
nguyện vọng của nhân dân, trở thành
công bộc của nhân dân, nhân dân được
đặt ở vị trí cao nhất, nhà nước không

còn là công cụ thống trị, nô dịch dân
như trong thời phong kiến, tư bản.
Nhà nước dân chủ nhân dân do
nhân dân trực tiếp tổ chức, xây dựng
thông qua tổng tuyển cử phổ thông
đầu phiếu. Hồ Chí Minh nhận thức
tổng tuyển cử là một quyền chính trị
mà nhân dân giành được qua đấu tranh
cách mạng là hình thức dân chủ, thể
hiện năng lực, thực hành dân chủ của
nhân dân. “Tổng tuyển cử là một dịp
cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn
những người có tài, có đức để gánh
vác việc nước nhà. Trong cuộc tổng
tuyển cử, hễ là người muốn lo việc
nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là
người công dân thì đều có quyền đi
bầu cử, do tổng tuyển cử mà toàn
dân bầu ra quốc hội, Quốc hội sẽ cử ra
Chính phủ, Chính phủ đó thực sự là
của nhân dân”. Thông qua việc bầu cử
quốc hội và chính phủ, nhân dân thực
hiện quyền lực của mình bằng hình
thức dân chủ trực tiếp và đại diện. Với
tư cách là một nội dung làm chủ của
Nhà nước của nhân dân, quyền bầu cử
được ghi rõ trong hiến pháp năm 1946
và Hiến pháp năm 1959 do Hồ Chí
Minh chỉ đạo soạn thảo và ban hành.
Trong tư tưởng Hồ Chí minh, quyền

lực tối cao của nhân dân không chỉ thể
hiện ở việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp mà còn ở quyền bãi
miễn họ, kiểm soát, giám sát hoạt
động của các đại biểu, cơ chế dân chủ
này là cho Quốc hội được trong sạch,
giữ được phẩm chất năng lực hoạt
động.
Hồ Chí Minh có ý thức sâu sắc rằng
đây là nội dung rất khó của làm chủ
nhưng lại thể hiện rất rõ các tư cách là
chủ nhà nước và năng lực thực hành
dân chủ của quần chúng lao động.
Theo người để nhân dân lao động làm
chủ nhà nước thì đại biểu do dân bầu
ra phải có mối liên hệ thường xuyên
với nhân dân, thoát ly mọi mối liên hệ
này, Nhà nước rất dễ rơi vào quan
liêu, trì trệ, đứng trên đầu nhân dân,
trái với bản chất dân chủ đích thực vốn
có của nhà nước kiểu mới.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà
nước của dân, do nhân dân làm chủ
còn bao hàm một nội dung quan trọng
khác, đó là nhân dân có quyền kiểm
soát nhà nước, như vậy thực hiện chức
năng kiểm soát nhà nước, nhân dân
được đặt ở vị trí tối thượng có quyền
được đảm bảo trên thực tế chứ không
chỉ trên danh nghĩa lời nói. Hồ Chí

Minh viết: “Chính phủ ta là Chính phủ
của nhân dân chỉ có một mục đích là
phụng sự cho lợi ích của nhân dân.
Chính phủ mong đồng bào giúp đỡ,
đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm
tròn nhiệm vụ của mình là người đầy
tớ trung thành tận tụy của nhân dân”.
Là người làm chủ nhà nước, nhân
dân có quyền, thông quan cơ chế làm
chủ thực thi quyền lợi nhưng đồng
thời nhân dân phải có nghĩa vụ xây
dựng và bảo vệ nhà nước làm cho nhà
nước ngày càng hoàn thiện, trong
sạch, vững mạnh. Hồ Chí Minh luôn
đòi hỏi với tư cách là chủ nhân của
một nước độc lập, tự do, quyền và
nghĩa vụ của công dân phải luôn gắn
bó chặt chẽ với nhau.
Hồ Chí Minh đề cập đến mặt thứ
hai này của quyền dân chủ với tinh
thần nhất quán và triệt để cách mạng.
Người cho rằng: “Chế độ ta là chế độ
dân chủ, nhân dân là chủ. Chính phủ là
đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có
quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ.
Chính phủ thì việc to, việc nhỏ đều
nhằm mục đích phục vụ lợi ích của
nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có
nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ, theo
đúng kỷ luật của Chính phủ và làm

đúng cách của Chính phủ để Chính
phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã
giao phó”.
Nét độc đáo đặc sắc của Hồ Chí
Minh là ở chỗ quan niệm nghĩa vụ
công dân không chỉ trên tinh thần lập
pháp mà cả trên bình diện đạo đức,
nhân cách người công dân. Người chỉ
rõ: “ nhân dân có quyền làm chủ thì
phải có nghĩa vụ là tròn bổn phận công
dân, giữ đúng đạo đức công dân, nghĩa
là: tuân thủ pháp luật Nhà nước; tuân
thủ kỷ luật lao động; giữ gìn trật tự
chung; đóng góp “đúng kỳ, đúng số,
để xây dựng lợi ích chung”; hăng hái
tham gia công việc chung; bảo vệ tài
sản cộng đồng; bảo vệ tổ quốc”.
Trong nhà nước dân chủ, nhân dân
là người có địa vị cao nhất. HCM đã
nhiều lần khẳng định: “Trong bầu trời
không có gì quý bằng nhân dân”. Chỉ
có nhân dân, do địa vị tối cao của
mình, mới có quyền quyết định những
vấn đề quan trọng nhất của Quốc gia,
dân tộc và đất nước; chỉ có nhân dân
mới trở thành chỗ dựa vững chắc của
Nhà nước. Tâm đắc với quan niệm của
cha ông: “Lật thuyền là dân mà chở
thuyền cũng là dân” và quan điểm của
Chủ nghĩa Mác – Lê nin “quần chúng

nhân dân là động lực chủ yếu của mọi
tiến trình lịch sử”, HCM khẳng định:
“Nhân nghĩa là nhân dân Trong thế
giới không gì mạnh bằng lực lượng
đoàn kết của nhân dân”
Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò của
Nhà nước và sức mạnh của lực lượng
nhân dân trong mối quan hệ giữa nhân
12
Page 13 of 38
dân và nhà nước. Người cho rằng:
“Nếu không có nhân dân thì Chính
phủ không có lực lượng, nếu không có
Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn
đường. Vậy nên Chính phủ với nhân
dân đoàn kết thành một khối”.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của quần
chúng nhân dân, Hồ Chí Minh chủ
trương xây dựng một nhà nước do dân.
Nhà nước do dân theo Hồ Chí Minh
là:
Chính quyền từ xã đến Chính phủ
TW do dân cử ra. Đoàn thể từ TW đến
xã do dân tổ chức nên”.
Nhân dân sử dụng quyền lực của
mình thông qua Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra
và chịu trách nhiệm trước nhân dân;
Nhân dân tham gia vào công việc
của nhà nước;

Mọi việc xây dựng đất nước là trách
nhiệm của dân. Nhà nước nhất định
phải dựa vào lực lượng của dân, dựa
vào sáng kiến và trí tuệ của dân.
Dân tự làm, tự lo thông qua các mối
quan hệ trong XH, qua các đoàn thể,
các hội quần chúng, chứ không phải là
nhà nước bao cấp, lo thay cho nhân
dân. Nhà nước tin dân, dân tin nhà
nước thì việc gì cũng làm được, “dễ
trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn
lần dân liệu cũng xong”.
Thứ hai, xây dựng nhà nước phục
vụ quyền lợi của nhân dân
Nhà nước ta là một nhà nước dân
chủ vì dân trên thực tế và hành động.
HCM chỉ rõ: “ Các cơ quan của
Chính phủ từ toàn quốc cho đến làng,
đều là công bộc của dân, nghĩa là để
gánh vác việc chung cho dân chứ
không phải để đè đầu dân như trong
thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp,
Nhật”.
Việc gì lợi hại cho dân, ta phải hết
sức làm.
Việc gì hại đến dân ta phải hết sức
tránh.
Người thường xuyên dặn cán bộ
phải quan tâm đến những kiến nghị, đề
đạt của nhân dân, hết thảy những việc

có thể nâng cao đời sống vật chất tinh
thần cho nhân dân phải được đặc biệt
chú ý. Theo HCM: “Chúng ta tranh
được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết
đói, chết rét, thì tự do độc lập ấy cũng
không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị
của tự do độc lập khi mà dân được ăn
no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện
ngay: Làm cho dân có ăn; Làm cho
dân có mặc; Làm cho dân có chỗ ở;
Làm cho dân có học hành. Cái mục
đích của chúng ta đi đến là muốn điều
đó. Đi đến để nhân dân nước ta xứng
đáng với độc lập tự do và giúp sức
được cho tự do, độc lập”.
Theo người việc đáp ứng và thỏa
mãn nhu cầu lợi ích của nhân dân là
tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả
năng lực trong hoạt động của nhà
nước.
Muốn đạt được mục đích nhân bản
đó thì phải bảo đảm sự trong sạch của
nhà nước. Người ý thức rằng quản lý
đất nước, XH là một việc làm khó, nên
đòi hỏi cán bộ phải thành thật học hỏi,
đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.
Cũng theo Người nguy hại nhất là khi
được nhân dân ủy quyền mà cán bộ
ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, kéo bè, kéo
cánh thu vén lợi ích lợi cá nhân, nảy

sinh những “lỗi lầm rất nặng” Người
gọi đó là “giặc nội xâm”.
Thứ ba, Nhà nước mang bản chất
giai cấp công nhân
Quán triệt học thuyết Mác – Lênin
về Nhà nước chuyên chính vô sản,
Người thường nhấn mạnh tới tính chất
dân chủ của nhà nước ta. Nhưng HCM
cũng xác định dứt khoát, rõ ràng bản
chất giai cấp công nhân của nhà nước
đó. Nhà nước của dân, do dân , vì dân
theo tư tưởng HCM, không có nghĩa
là “nhà nước toàn dân”, nhà nước phi
giai cấp. Người khẳng đinh: “Nhà
nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân,
dựa trên nền tảng liên minh công
nông, do giai cấp công nhân lãnh
đạo”. Quan điểm này được cụ thể hóa
thành hiến pháp và pháp luật. Trong
khi khẳng định bản chất giai cấp công
nhân của nhà nước ta, HCM đã khéo
léo xử lý, kết hợp tính giai cấp và tính
độc lập thành một thể thống nhất, Nhà
nước dân chủ nhân dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo, theo hệ tư tưởng Mác-
Lênin, mang bản chất của giai cấp
công nhân. Nhưng mặt khác còn là
một nhà nước thống nhất của khối đại
đoàn kết dân tộc. Cơ sở XH của nhà
nước không bó hẹp trong phạm vi một

giai cấp, tầng lớp mà là toàn thể dân
tộc và không thay đổi trong quá trình
vận động đi lên của cách mạng.
Theo tư tưởng HCM để đảm bảo và
giữ vững bản chất của giai cấp công
nhân của nhà nước cần quán triệt
những vấn đề có tính nguyên tắc sau:
Một là, xây dựng tổ chức và hoàn
thiện chính quyền nhà nước phải trên
cơ sở các nguyên lý phổ biến của chủ
nghĩa Mác-Lênin về nhà nước, nhà
nước chuyên chính vô sản, áp dụng
thích hợp vào đặc điểm điều kiện của
nước ta. Xa rời chủ nghĩa Mác – Lê
nin sẽ làm biến dạng nhà nước, lu mờ
bản chất giai cấp, chệch hướng
XHCN.
Hai là, xác lập và tăng cường vai
trò lãnh đạo của ĐCS đối với nhà
nước, đây là vấn đề có tính nguyên tắc
số một bảo đảm bản chất giai cấp công
nhân của nhà nước.
Ba là, thiết chế, tổ chức và hoạt
động của nhà nước phải theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc này
đảm bảo bản chất giai cấp công nhân
và là nguyên tắc đặc thù của nhà nước
kiểu mới. Thực chất của nguyên tắc
này theo quan điểm của người là:
“Nhân dân là ông chủ nắm chính

quyền, nhân dân bầu ra đại biểu thay
mặt mình thi hành chính quyền ấy”.
Các cơ quan của chính quyền là
thống nhất, tập trung; số ít phải phục
tùng số nhiều; cấp dưới phải phục tùng
cấp trên; địa phương phải phục tùng
TW. Thế là vừa dân chủ vừa tập trung.
Chế độ dân chủ tập trung khiến cho
toàn thể nhân dân, đều trở nên là chủ
nhân chân chính của nước nhà, đều
đoàn kết để kháng chiến kiến quốc.
Thứ tư, xây dựng nhà nước của dân,
do dân, vì dân có sự thống nhất giữa
quản lý bằng pháp luật với nâng cao
giáo dục đạo đức trong tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Trước hết phải khẳng định rằng,
trong tư tưởng HCM về nhà nước
không hề có quan điểm “trị nước” hay
“trị dân”, Đối với dân với nước người
thường dùng từ lãnh đạo, quản lý, điều
hành, phụng sự, hay phục vụ khi dân
đã có chính quyền. Tuy HCM không
dùng hai từ này nhưng trong thực tế
người đã kết hợp chặt chẽ việc quản lý
điều hành XH bằng pháp luật với việc
tuyên truyền giáo dục đạo đức cách
mạng, nâng cao bản lĩnh công dân cho
cán bộ và nhân dân. Người đặc biệt
quan tâm tới cả hai lĩnh vực pháp luật

và đạo đức trong sự kết hợp hài hòa.
Theo người pháp luật cũng nhằm mục
đích thực hiện mục tiêu lý tưởng của
cách mạng, do đó phải giáo dục mọi
người ý thức tự giác, đạo đức cách
mạng mới làm cho luật pháp được
thực hiện.
Theo Hồ Chí Minh, trước hết nhà
nước pháp quyền phải được tổ chức và
hoạt động theo pháp luật, bảo đảm tính
tối cao của pháp luật trong mọi lĩnh
vực của đời sống XH.
Đây là tư tưởng đặc sắc của HCM,
phản ánh cốt lõi của nhà nước dân chủ
mới NN quản lý XH bằng pháp luật,
theo người một XH có trật tự kỷ
cương, một nhà nước mạnh, có hiệu
lực, thì nhất thiết không để một giờ
thiếu pháp luật, coi thường pháp luật.
Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp
luật trong tư tưởng HCM còn thể hiện
ở quan điểm xử lý các hành vi phạm
pháp theo nguyên tắc “có lý, có tình”.
Pháp luật không loại trừ một ai nhằm
ngăn cái xấu, cái ác, phát huy cái tốt,
cái thiện, có tấm lòng độ lượng, bao
dung nhưng không bao che, khoan
hồng nhưng nghiêm khắc, luôn đấu
tranh một cách chân thành thẳng thắn
với những khuyết điểm, sai lầm với

những hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ năm, về xây dựng bộ máy, đội
ngũ cán bộ, công chức trong nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
Về xây dựng bộ máy nhà nước:
Từ rất sớm HCM đã đặt vấn đề thiết
kế và xây dựng một nhà nước pháp
quyền mạnh mẽ, sáng suốt, hoạt động
vì lợi ích của nhân dân theo nguyên
tắc chung là:
Xây dựng Quốc hội là cơ quan
quyền lực cao nhất của đất nước, giải
quyết những vấn đề chung cho toàn
quốc, xây dựng hiến pháp pháp luật,
một Quốc hội lập hiến và lập pháp
rộng rãi, đại diện cho tiếng nói của
quốc dân;
13
Page 14 of 38
Xây dựng một chính phủ mạnh,
hoạt động có hiệu quả, là cơ quan
hành pháp cao nhất của nhà nước, hoạt
động trên cơ sở hiến pháp, pháp luật,
là trung tâm đầu não điều chỉnh mọi
hoạt động quản lý của các cơ quan nhà
nước.
Xây dựng một nền hành chính hiện
đại từ TW đến địa phương và cơ sở,
với việc xử lý tốt các mối quan hệ
giữa chính quyền các cấp.

Về xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức:
Trong công cuộc xây dựng bộ máy
nhà nước và nền hành chính. HCM
đặc biệt coi trọng việc xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức. Theo người
cán bộ là “nguồn vốn của nhà nước”,
là cái gốc của mọi công việc; công
việc thành công hay thất bại do cán bộ
quyết định. Vì thế chất lượng, hiệu lực
của nhà nước phụ thuộc vào chất
lượng của đội ngũ cán bộ, công chức.
Trong vấn đề này HCM đề cập đến
những vấn đề cốt lõi cơ bản sau:
HCM có một quan điểm nhất quán,
chuẩn xác hiện đại về cán bộ công
chức, xác định rõ tính cách chuyên
nghiệp của công chức theo chế độ
chức nghiệp.
Về tiêu chuẩn cán bộ công chức
theo người, cán bộ công chức phải có
đức, tài, vừa hồng, vừa chuyên nhưng
đức phải là gốc. Người nhấn mạnh các
tiêu chuẩn trung thành, hăng hái, liên
lạc mật thiết với quần chúng nhân dân,
thạo việc, dám phụ trách giải quyết
những vấn đề trong lúc khó khăn, khi
thất bại không hoang mang, khi thắng
lợi không kiêu ngạo, khi thi hành nghị
quyết thì gan góc, kiên quyết. Cán bộ,

công chức cần có đủ các đức tính:
“cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư,
có trí thức và học thức nắm vững lý
luận, sâu sát với thực tế, kết hợp
nhuần nhuyễn giữa chính trị và khoa
học, nắm vững và vận dụng nhuần
nhuyễn pháp luật để giải quyết công
việc hàng ngày. Đối với cán bộ lãnh
đạo, người yêu cầu phải biết người,
biết dùng người, tạo điều kiện cho
nhân viên phát huy được tài năng và
phẩm chất của mình.
Người có yêu cầu rất cao đội ngũ
cán bộ, công chức phải mang tính
chuyên nghiệp và được tiêu chuẩn
hóa. Người chỉ đạo xây dựng khung
thi tuyển cho cán bộ, công chức rất
chăt chẽ về cách làm, hình thức, nội
dung. Chế độ thi tuyển cán bộ công
chức do người khởi xướng, thể hiện
một cách rõ nét tư tưởng chính quy
hiện đại, dân chủ, công khai, công
bằng, bình đẳng XH.
Liên hệ thực tiễn
Cải cách hành chính nâng cao
chất lượng phục vụ dân sinh tại
TP.Đà Nẵng, đơn vị đầu tiên trong
cả nước thực hiện việc đánh giá xếp
hạng cải cách hành chính hàng năm
đối với các cơ quan nhà nước trên

địa bàn TP.
Bắt đầu từ năm 2012, Đà Nẵng đã
phát động thực hiện Cuộc vận động
“3 hơn”: Nhanh hơn - hợp lý hơn -
thân thiện hơn trong cải cách hành
chính. NHANH HƠN - đẩy nhanh
tốc độ xử lý công việc, hoàn thành
trước tiến độ, thời gian theo quy
định hoặc thời hạn được giao; HỢP
LÝ HƠN - cải tiến, sửa đổi, bổ sung,
hủy bỏ các quy trình, thủ tục,
phương pháp quản lý, làm việc, phối
hợp chưa thực sự hợp lý; THÂN
THIỆN HƠN - thực hiện phương
châm “thân thiện hơn” trong việc
tiếp xúc, giải quyết công việc của tổ
chức, cá nhân.
Kết quả thực hiện cuộc vận động
“3 hơn” của các cơ quan, đơn vị
được coi là một trong những tiêu chí
quan trọng để đánh giá xếp hạng về
công tác cải cách hành chính.
Từ đầu năm 2013 đến nay, TP đã
tiến hành việc khảo sát trực tuyến
mức độ hài lòng của công dân, tổ
chức đối với các các dịch vụ hành
chính công trực tuyến và cán bộ,
công chức làm việc tại Bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả của các đơn vị.
Kết quả triển khai 6 tháng đầu năm

2013 thông qua phần mềm trực
tuyến, cho thấy: tổng số ý kiến tham
gia trả lời khảo sát trực tuyến là
5.113 ý kiến. Qua phân tích kết quả
khảo sát đối với chất lượng dịch vụ
hành chính công, cho thấy có 95.7%
công dân, tổ chức đánh giá hài lòng
và rất hài lòng; kết quả khảo sát đối
với công chức tiếp nhận và trả kết
quả: có 92% công dân, tổ chức đánh
giá mức tốt và rất tốt.
Hiện nay, công dân tổ chức có thể
truy cập website cchc.danang.gov.vn
để đánh giá công chức tiếp nhận và
trả kết quả hồ sơ thủ tục hành chính
tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn
TP. Đồng thời, TP đã và đang xây
dựng hệ thống theo dõi, đánh giá kết
quả CCHC gồm các công cụ như:
Bộ chỉ số đánh giá, xếp hạng kết quả
CCHC hàng năm; kiểm tra, giám sát
định kỳ của cơ quan quản lý Nhà
nước về CCHC; giám sát của Hội
đồng nhân dân và Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc TP và các cấp; giám sát của
báo đài và các phương tiện truyền
thông, và đặc biệt là sự đánh giá của
công dân, tổ chức, doanh
nghiệp thông qua các công cụ khảo
sát sự hài lòng khách hàng trực tiếp

và trực tuyến. Kết quả theo dõi, đánh
giá đều được thông tin thường xuyên
và định kỳ hàng quý, năm.
Đến nay trên toàn địa bàn TP đã
có 1.066 nội dung TTHC được đăng
ký thực hiện nhanh hơn (tiết kiệm
được cho công dân, tổ chức 73.263
ngày làm việc), 392 nội dung TTHC
hợp lý hơn, 131 giải pháp thân thiện
hơn, góp phần giảm chi phí hành
chính, nâng cao hiệu quả hoạt động
quản lý Nhà nước và phục vụ nhân
dân trên địa bàn TP.
TP đã chỉ đạo nhiều giải pháp
nâng cao chất lượng của các yếu tố
tác động đến mức độ hài lòng của
công dân, tổ chức như: nghiêm túc
thực hiện các quy định về công khai
công vụ; công khai các nội dung
hướng dẫn về giải quyết thủ tục
hành chính, số điện thoại của lãnh
đạo cơ quan, đơn vị, tên người trực
tiếp giải quyết hồ sơ, quyền và nghĩa
vụ của công dân, tổ chức; cơ chế
thực hiện khiếu nại, tố cáo và cung
cấp thông tin; nâng cao chất lượng
cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
việc tiếp nhận hồ sơ, thủ tục hành
chính; ứng dụng công nghệ thông
tin; nâng cao trình độ và thái độ

phục vụ của đội ngũ cán bộ công
chức. Trong các yếu tố trên, cán bộ,
công chức đóng vai trò quyết định
đến chất lượng cung ứng dịch vụ và
mức độ hài lòng của công dân, tổ
chức. Do đó, TP đã triển khai nhiều
giải pháp để cải thiện nội dung này
như sau:
-Thứ nhất, tập trung nâng cao tinh
thần trách nhiệm và đạo đức công vụ
đối với đội ngũ cán bộ, công chức:
Theo Chỉ thị số 04/CT-UBND
ngày 27/4/2010 của Chủ tịch UBND
TP, hằng năm, từng cơ quan, đơn vị
và cá nhân CBCCVC tự soát xét và
đăng ký một nhiệm vụ, giải pháp để
làm chuyển biến rõ nét hơn lề lối
làm việc và thái độ phục vụ nhân
dân. Việc thực hiện nội dung cam kết
này có vai trò quan trọng trong việc
đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm
vụ của cán bộ, công chức cuối năm.
Đồng thời, TP cũng đã quy định rõ,
trong quá trình tiếp nhận và giải
quyết thủ tục hành chính đối với
công dân, tổ chức, nếu từ chối tiếp
nhận phải có văn bản giải thích
hướng dẫn cụ thể, rõ ràng đối với
công dân tổ chức.
Thứ hai, thực hiện nghiêm túc

công tác giám sát, đánh giá quá
trình tiếp nhận và giải quyết thủ tục
hành chính của cán bộ, công chức:
Hằng năm, UBND TP giao Sở Nội
vụ tiến hành thường xuyên các hoạt
động thanh tra, kiểm tra công vụ
(trung bình hơn 80 lượt đơn vị/năm).
Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn
và Chủ tịch UBND quận, huyện cũng
tiến hành kiểm tra hàng năm tại hơn
80% đơn vị, địa phương trực thuộc.
Nhiều cơ quan, đơn vị đã ứng dụng
công nghệ thông tin, hệ thống
camera giám sát để theo dõi, đôn
đốc việc giải quyết các thủ tục hành
chính theo đúng quy định.
Đồng thời, TP còn phát huy sự
tham gia giám sát, đánh giá của
công dân, tổ chức thông qua công
tác khảo sát mức độ hài lòng đối với
chất lượng dịch vụ hành chính công
và thái độ phục vụ của đội ngũ cán
bộ tiếp nhận thông qua phần mềm
khảo sát trực tuyến và phiếu khảo
sát. Kết quả khảo sát được công bố
một cách công khai, thường xuyên để
các đơn vị theo dõi và triển khai các
giải pháp khắc phục những nội dung
14
Page 15 of 38

công dân, tổ chức còn chưa hài lòng
về chất lượng phục vụ.
Thứ ba, thực hiện tốt các giải
pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức từ công tác tuyển
dụng, sử dụng, quản lý, đào tạo bồi
dưỡng, đánh giá, đề bạt
TP tổ chức thực hiện có hiệu quả
chính sách phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao, thực hiện tốt
việc đánh giá công chức theo kết quả
làm việc, các giải pháp đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, văn hóa giao tiếp,
ứng xử… nhằm xây dựng một đội
ngũ cán bộ, công chức chuyên
nghiệp và có đạo đức công vụ tốt.
Bên cạnh đó, thực hiện các giải pháp
động viên đối với đội ngũ công chức
thực hiện công tác tiếp nhận và trả
kết quả như chế độ phụ cấp hằng
tháng là 20% mức lương tối thiểu…
Việc thực hiện các giải pháp trên
đã góp phần mang lại hiệu quả khá
tốt và góp phần vào việc nâng cao
mức độ hài lòng của công dân, tổ
chức đối với chất lượng dịch vụ
hành chính công của TP. Tuy vẫn
còn một số ít lĩnh vực thủ tục hành
chính còn khiến người dân chưa thật

sự hài lòng nhưng với việc thực hiện
một cách đồng bộ và quyết liệt các
giải pháp trên, TP Đà Nẵng sẽ từng
bước giải quyết được những hạn
chế, bất cập về yếu tố cán bộ, công
chức trong giải quyết thủ tục hành
chính đối với công dân, tổ chức
trong thời gian tới.
V. XÂY DỰNG ĐẢNG
Câu 6: Cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc Đảng ta khẳng định: xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Phân tích các giải pháp xây dựng,
chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng
trong giai đoạn hiện nay.
Trả lời:
I- Tình hình tổ chức cơ sở Đảng và
đội ngũ cán bộ, đảng viên
Trong những năm qua, Ban Chấp
hành TW, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Quán triệt chủ trương và thực
hiện sự chỉ đạo của TW, công tác
xây dựng Ðảng ở cơ sở đã có một số
chuyển biến tiến bộ, góp phần đẩy
mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước.

Nhiều tổ chức cơ sở đảng đã giữ
vững và phát huy được vai trò hạt
nhân chính trị ở cơ sở; lãnh đạo cán
bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện
chủ trương, đường lối của Ðảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Nhiều cấp ủy viên và cán bộ, đảng
viên đã được rèn luyện, thử thách,
trưởng thành qua thực tiễn công tác;
kiên định lập trường giai cấp công
nhân, trung thành với chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối đổi mới của Ðảng; gương
mẫu thực hiện quan điểm, đường lối
của Ðảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, hoàn thành nhiệm vụ
được giao.
Có được những chuyển biến tiến
bộ trên là do Ban Chấp hành TW, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy
đã có những nghị quyết, chỉ thị, quy
định và giải pháp lớn về xây dựng tổ
chức cơ sở đảng, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Nhiều cấp ủy cấp trên đã quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng tổ
chức cơ sở đảng trong sạch, vững
mạnh, củng cố cơ sở yếu kém; xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Các cấp ủy cơ sở đã nhận thức đầy

đủ hơn vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng và
chăm lo công tác xây dựng Ðảng. Ða
số cán bộ, đảng viên đã được rèn
luyện, thử thách qua thực tiễn. Cơ sở
vật chất, phương tiện và điều kiện
làm việc của cơ sở từng bước được
trang bị tốt hơn trước.
Tuy nhiên, năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên
còn một số khuyết điểm, yếu kém:
Nhiều cấp ủy chưa thực sự coi
trọng vị trí then chốt của công tác
xây dựng Ðảng; chưa dành thời gian,
công sức để tập trung chỉ đạo xây
dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng.
Không ít tổ chức cơ sở đảng chưa
nhận thức và thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở
đảng. Công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, bồi dưỡng lý tưởng cách
mạng, đạo đức, lối sống cho cán bộ,
đảng viên ở cơ sở chưa đúng mức,
tính định hướng, tính chiến đấu và
tính giáo dục, thuyết phục chưa cao.
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu,
khả năng nhận thức, vận dụng, cụ thể
hóa và tổ chức thực hiện các chủ
trương, đường lối của Ðảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước và của
cấp ủy cấp trên của nhiều tổ chức cơ
sở đảng còn yếu, chưa đủ sức phát
hiện, giải quyết những vấn đề phức
tạp xảy ra ở cơ sở; có tổ chức cơ sở
đảng bị mất sức chiến đấu.
Nhiều cấp ủy, đảng bộ, chi bộ
chưa thực hiện nghiêm nguyên tắc
tập trung dân chủ trong Ðảng; chưa
thực hiện có nền nếp chế độ sinh
hoạt đảng, nội dung sinh hoạt chi bộ
chậm đổi mới; chưa coi trọng đổi
mới phương thức lãnh đạo và phong
cách, lề lối làm việc; bệnh thành tích
còn nặng và khá phổ biến. Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí
phấn đấu, vi phạm nguyên tắc Ðảng,
tự phê bình và phê bình yếu
Công tác quản lý, kiểm tra, giám
sát, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán
bộ, đảng viên còn bị buông lỏng,
Những khuyết điểm, yếu kém trên
có nguyên nhân khách quan, song
chủ yếu là do một số nguyên nhân
chủ quan sau:
Trong quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XH
chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc
tế, do chưa lường hết tác động bởi

mặt trái của cơ chế thị trường nên
công tác xây dựng Ðảng nói chung,
xây dựng Ðảng ở cơ sở nói riêng tuy
đã được đổi mới nhưng chưa theo
kịp sự biến đổi của tình hình
Chưa nhận thức đúng, đầy đủ
nhiệm vụ then chốt của công tác xây
dựng Ðảng; chưa quán triệt sâu sắc
vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ
của chi bộ, của tổ chức cơ sở đảng.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám
sát của cấp ủy cấp trên đối với cơ sở
chưa thường xuyên; việc xử lý cán
bộ, đảng viên vi phạm chưa kịp thời,
thiếu kiên quyết.
Việc ban hành các quy định,
hướng dẫn của TW về công tác xây
dựng Ðảng còn chậm, thiếu đồng bộ,
một số quy định, hướng dẫn chưa sát
thực tế
II- Giải pháp xây dựng, chỉnh đốn,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng trong giai
đoạn hiện nay
Các cấp ủy, tổ chức đảng cần thực
hiện đồng bộ các nhiệm vụ và giải
pháp chủ yếu sau đây :
1- Tăng cường công tác giáo dục
chính trị tư tưởng, xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính

trị vững vàng, có trí tuệ, phẩm chất
đạo đức cách mạng, có ý thức tổ
chức kỷ luật, thực sự tiền phong
gương mẫu, đủ năng lực hoàn thành
nhiệm vụ được giao.
Các cấp ủy phải quan tâm làm tốt
công tác chính trị tư tưởng, chủ động
dự báo tình hình để kịp thời trang bị
những thông tin có định hướng của
Ðảng cho cán bộ, đảng viên. Ðổi
mới, nâng cao chất lượng công tác
giảng dạy và học tập lý luận chính
trị; chú ý bồi dưỡng cho cán bộ, đảng
viên kỹ năng lãnh đạo, giải quyết
những tình huống cụ thể xảy ra ở cơ
sở. Chủ động khắc phục những biểu
hiện phai nhạt lý tưởng; chống chủ
nghĩa cơ hội, thực dụng, vụ lợi, cá
nhân, trung bình chủ nghĩa; kiên
quyết đấu tranh với những luận điệu
tuyên truyền xuyên tạc, phản động,
góp phần làm thất bại mọi âm mưu
"diễn biến hòa bình" của các thế lực
thù địch.
Xây dựng sự đoàn kết thống nhất
trong cấp ủy, chi bộ, đảng bộ trên cơ
sở Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ
Ðảng, đường lối, chính sách của
Ðảng và tình đồng chí. Cấp ủy phải
nắm chắc tình hình tư tưởng, phát

hiện kịp thời những cán bộ, đảng
viên vi phạm về đạo đức, lối sống,
15
Page 16 of 38
tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực
khác; có biện pháp cụ thể để phòng
ngừa, giáo dục, giúp đỡ và xử lý
nghiêm minh đối với những cán bộ,
đảng viên sai phạm.
2- Hoàn thiện mô hình tổ chức của
các loại hình tổ chức cơ sở đảng theo
hướng gắn tổ chức cơ sở đảng với
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
và lãnh đạo các tổ chức chính trị -
XH; chăm lo kết nạp đảng viên, nhất
là ở những địa bàn, đơn vị chưa có tổ
chức đảng, chưa có đảng viên.
Tiếp tục kiện toàn, sắp xếp tổ chức
của các tổ chức cơ sở đảng cho đồng
bộ, thống nhất với các tổ chức của hệ
thống chính trị ở cơ sở. Ðồng thời,
xây dựng mô hình tổ chức phù hợp
với những tổ chức cơ sở đảng có tính
đặc thù, vừa tạo sự thống nhất chung,
vừa phù hợp với đặc điểm cụ thể của
từng địa phương, đơn vị.
Ðối với khu vực xã, phường, thị
trấn, tiến hành sắp xếp mô hình tổ
chức của đảng bộ, chi bộ, chính
quyền và các tổ chức chính trị - XH

trên địa bàn dân cư theo hướng: dưới
đảng bộ xã là chi bộ thôn (ấp, bản);
dưới đảng bộ phường, thị trấn nói
chung là chi bộ tổ dân phố. Những
thôn, tổ dân phố có đông đảng viên
thì thành lập đảng bộ bộ phận, có các
chi bộ trực thuộc. Ðối với những
đảng bộ cơ sở trong cơ quan, đơn vị
sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước
hoạt động trên địa bàn nhiều tỉnh,
TP, tổ chức đảng và các đoàn thể
quần chúng trực thuộc nhiều cấp trên
khác nhau, cần sắp xếp lại cho phù
hợp, bảo đảm sự lãnh đạo của tổ
chức cơ sở đảng trong việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị, công tác cán bộ
và lãnh đạo các tổ chức chính trị -
XH.
Ðối với tổ chức cơ sở đảng trong
các tập đoàn kinh tế, tổng công ty
lớn hoạt động theo mô hình công ty
mẹ - công ty con và các tổng công ty
hạng đặc biệt có nhiệm vụ chính trị
thống nhất, có cùng ngành nghề và
sản phẩm chính, gắn bó và chi phối
lẫn nhau, thì trên cơ sở tổng kết, rút
kinh nghiệm những mô hình đã có để
từng bước thực hiện chủ trương
thành lập tổ chức đảng toàn tập đoàn,
toàn tổng công ty; đồng thời cũng

cho phép có một số mô hình có tính
đặc thù. Gắn công tác xây dựng
Ðảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh, công tác cán
bộ của doanh nghiệp; có quy định cụ
thể về mối quan hệ giữa đảng ủy tập
đoàn, đảng ủy tổng công ty với các
cấp ủy địa phương có liên quan.
Ðối với các tỉnh, TP có nhiều khu
công nghiệp tập trung thì thành lập
đảng bộ cơ sở khu công nghiệp, đặt
trực thuộc cấp ủy cấp trên trực tiếp
phù hợp. Những doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài có quy mô lớn, đông
công nhân và đông đảng viên thì
thành lập tổ chức cơ sở đảng; những
doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ,
số lượng công nhân và đảng viên ít
thì thành lập chi bộ trực thuộc đảng
ủy cơ sở phù hợp. Những địa phương
còn nhiều thôn, làng, ấp, bản, tổ dân
phố, trường học, doanh nghiệp chưa
có tổ chức đảng, chưa có đảng viên,
cấp ủy cấp trên trực tiếp của cơ sở
phân công cấp ủy viên và các ban,
ngành, đoàn thể phụ trách từng đơn
vị để chỉ đạo công tác kết nạp đảng
viên, xây dựng tổ chức đảng và các
tổ chức chính trị - XH. Những đảng

viên làm việc ổn định trong các
doanh nghiệp phải chuyển sinh hoạt
đảng về nơi làm việc hoặc tổ chức
đảng phù hợp. Nâng cao chất lượng
kết nạp đảng viên mới, khắc phục
bệnh thành tích, chỉ chú ý nhiều đến
số lượng mà hạ thấp tiêu chuẩn.
3- Thực hiện mạnh mẽ chủ trương
trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, thể chế hóa
và từng bước nhất thể hóa chức danh
cán bộ; tạo bước chuyển có tính đột
phá về xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức ở cơ sở.
Ðể trẻ hóa và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở,
cần sớm ban hành chính sách thu hút
để thực hiện chủ trương đưa sinh
viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng về
công tác ở xã, phường, thị trấn,
doanh nghiệp; có cơ chế, chính sách
để giải quyết đối với những cán bộ
chưa được chuẩn hóa nhưng chưa đủ
tuổi, đủ năm công tác để nghỉ theo
chế độ
Xây dựng hệ thống chính sách
phù hợp và đồng bộ đối với cán bộ,
công chức cơ sở xã, phường, thị trấn
theo hướng: Một số chức danh cán
bộ chuyên trách ở xã, phường, thị
trấn cần và có đủ điều kiện, tiêu

chuẩn theo quy định của Chính phủ
thì được xem xét chuyển thành công
chức nhà nước để tạo sự liên thông
trong đội ngũ cán bộ, công chức ở
các cấp; các chức danh cán bộ
chuyên trách khác không đủ điều
kiện, tiêu chuẩn để trở thành công
chức nhà nước thì thực hiện theo chế
độ hiện hành, khi được giữ chức vụ
do bầu cử thì hưởng chế độ phụ cấp
trách nhiệm và thực hiện chế độ bảo
hiểm, khi thôi đảm nhiệm chức vụ
thì thôi hưởng phụ cấp và đóng bảo
hiểm tự nguyện
Ðổi mới mạnh mẽ nội dung, hình
thức đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ
cán bộ, công chức cơ sở xã, phường,
thị trấn theo chức danh cán bộ; chú ý
bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp
vụ và kinh nghiệm giải quyết những
tình huống cụ thể ở cơ sở. Hằng
năm, cán bộ chuyên trách, cấp ủy
viên cơ sở xã, phường, thị trấn phải
được bồi dưỡng để cập nhật kiến
thức mới tại trung tâm bồi dưỡng
chính trị cấp huyện hoặc trường
chính trị tỉnh, TP.
Bổ sung, sửa đổi một số quy định
về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức
cơ sở đảng nhằm xác định rõ hơn vai

trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
và công tác cán bộ. Bổ sung, sửa đổi
các quy định, hướng dẫn về đánh giá
chất lượng tổ chức cơ sở đảng và
đảng viên theo hướng đánh giá đúng
thực chất. Ban hành hướng dẫn về
đảng viên làm kinh tế tư nhân, việc
kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân
vào Ðảng; xử lý đối với đảng viên có
liên quan đến yếu tố nước ngoài để
thực hiện thống nhất trong toàn
Ðảng.
Thực hiện thí điểm chủ trương
nhất thể hóa hai chức danh cán bộ
chủ chốt ở cơ sở. Thực hiện thí điểm
từng bước việc đại hội đảng bộ cơ sở
bầu cấp ủy, ban thường vụ, bí thư và
phó bí thư. Ðối với những nơi có khó
khăn về cán bộ, có thể vận dụng linh
hoạt hơn chủ trương chủ tịch hội
đồng nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân
dân xã, phường, thị trấn không giữ
một chức vụ quá hai nhiệm kỳ.
Các tổ chức cơ sở đảng trong cơ
quan hành chính nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, thực hiện thống nhất chủ
trương thủ trưởng cơ quan, đơn vị
hoặc một đồng chí lãnh đạo của cơ
quan, đơn vị trực tiếp làm bí thư cấp

ủy
Trong các đơn vị cơ sở thuộc
Công an nhân dân, thực hiện chế độ
thủ trưởng đơn vị đồng thời làm bí
thư cấp ủy, đồng chí lãnh đạo cấp
phó làm phó bí thư và phụ trách công
tác xây dựng lực lượng
4- Nâng cao chất lượng, đổi mới
mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt
động của các loại hình tổ chức cơ sở
đảng theo hướng vừa mở rộng dân
chủ, vừa tăng cường kỷ cương, kỷ
luật; khắc phục tính hình thức, đơn
điệu trong sinh hoạt, bảo đảm tính
lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng.
Tập trung sức củng cố, xây dựng
tổ chức cơ sở đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thực
hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ, nâng cao chất lượng sinh hoạt
đảng, thực hiện tự phê bình và phê
bình, giữ nghiêm kỷ luật, tăng cường
đoàn kết trong Ðảng. Thường xuyên
giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm
chất chính trị, đạo đức cách mạng,
trình độ, kiến thức và năng lực công
tác cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Các cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ sở
thực hiện nghiêm túc, có nền nếp chế

độ sinh hoạt đảng định kỳ. Nội dung
sinh hoạt chi bộ phải cụ thể, thiết
thực, giải quyết kịp thời những vấn
đề bức xúc xảy ra ở địa phương, cơ
quan, đơn vị. Mỗi quý, các chi bộ
phải sinh hoạt chuyên đề ít nhất một
lần để bồi dưỡng, cập nhật kiến thức
mới cho đảng viên trong chi bộ.
Việc tự phê bình và phê bình
trong sinh hoạt đảng cần tiến hành
thường xuyên, nghiêm túc, thiết
thực, nhất là trong các đợt tự phê
bình và phê bình trong quá trình thực
16
Page 17 of 38
hiện Cuộc vận động "Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh"; kịp thời phát hiện và nêu
gương những đảng viên tiền phong
gương mẫu, có thành tích xuất sắc và
giáo dục, giúp đỡ những đảng viên
có sai phạm. Thi hành kỷ luật
nghiêm minh đối với đảng viên vi
phạm Ðiều lệ Ðảng và đưa ra khỏi
Ðảng những người không đủ tư cách
đảng viên. Ðộng viên những đảng
viên không còn tác dụng tự nguyện
xin ra Ðảng.
Ðịnh kỳ 6 tháng một lần, cấp ủy
cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở

đảng kiểm tra việc thực hiện nền
nếp, nội dung, chất lượng sinh hoạt
của các chi bộ và thông báo kết quả
kiểm tra trong toàn đảng bộ. Các cấp
ủy viên, người đứng đầu địa phương,
cơ quan, đơn vị và đảng viên là cán
bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp phải
chăm lo chỉ đạo công tác xây dựng
Ðảng ở nơi mình đang sinh hoạt và
phải chịu trách nhiệm khi tổ chức cơ
sở đảng nơi mình sinh hoạt yếu kém.
Thường xuyên bồi dưỡng đội ngũ
cấp ủy viên, bí thư cấp ủy về kỹ năng
cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có
hiệu quả chủ trương, đường lối của
Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, các nghị quyết, chỉ thị của cấp
ủy cấp trên; về biện pháp quy tụ, tập
hợp quần chúng, phát huy sức mạnh
tổng hợp của hệ thống chính trị ở cơ
sở để thực hiện có kết quả nhiệm vụ
chính trị của địa phương, cơ quan,
đơn vị. Những cơ quan, đơn vị sự
nghiệp, doanh nghiệp có đủ số lượng
đảng viên để bố trí cán bộ chuyên
trách thì phân công những đảng viên
có phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm
làm chuyên trách và hưởng lương từ
ngân sách đảng.
5- Tăng cường công tác chỉ đạo,

kiểm tra, giám sát, quản lý đảng
viên; dựa vào dân để xây dựng Ðảng.
Các cấp ủy cấp trên phải nắm
chắc tình hình cơ sở, phân công cấp
ủy viên trực tiếp phụ trách cơ sở, kịp
thời tháo gỡ khó khăn, giải quyết
những vấn đề xảy ra ở cơ sở. Các
văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cấp
ủy cấp trên phải có nội dung ngắn
gọn và dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện,
dễ kiểm tra, dễ quy trách nhiệm. Cán
bộ lãnh đạo, quản lý và các cấp ủy
viên cấp trên của tổ chức cơ sở đảng
phải bố trí thời gian để gặp gỡ đảng
viên và nhân dân tại cơ sở, giải quyết
kịp thời những kiến nghị chính đáng
của đảng viên và quần chúng; bảo vệ
những cán bộ tốt, những người trung
thực, thẳng thắn đấu tranh chống tiêu
cực.
Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
TW khóa X về tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát của Ðảng; Quy
định của Bộ Chính trị về xử lý đảng
viên vi phạm; về những điều đảng
viên không được làm. Cấp ủy cơ sở
phải giám sát đảng viên về các mặt,
kể cả đảng viên là cán bộ do cấp ủy
cấp trên quản lý. Phát huy vai trò của

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - XH trong việc vận động
nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên
ở địa bàn dân cư; tổ chức tốt việc lấy
phiếu tín nhiệm đối với các chức
danh do hội đồng nhân dân cấp xã
bầu ra.
Các chi bộ phải thực hiện tốt việc
phân công công tác cho đảng viên,
bảo đảm mọi đảng viên trong chi bộ
đều được phân công công tác phù
hợp. Ðối với những đảng viên là cán
bộ nghỉ hưu, sức khỏe yếu và tự
nguyện, được chi bộ và cấp ủy cơ sở
đề nghị, cấp ủy cấp trên trực tiếp của
tổ chức cơ sở đảng xem xét, cấp giấy
chứng nhận miễn sinh hoạt và công
tác. Những đảng viên 2 năm liền xếp
loại vi phạm tư cách thì đưa ra khỏi
Ðảng bằng hình thức phù hợp.
Hằng năm, các tổ chức cơ sở đảng
phải đăng ký phấn đấu thực hiện các
nhiệm vụ với cấp ủy cấp trên, trong
đó có nội dung cam kết không có cán
bộ, đảng viên tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực và kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí, tiêu
cực. Cuối năm, cấp ủy cấp trên căn
cứ vào nội dung đăng ký để đánh giá
chất lượng tổ chức cơ sở đảng và

đảng viên.
Tiếp tục đổi mới nội dung và
phương pháp đánh giá chất lượng tổ
chức cơ sở đảng và đảng viên. Ðánh
giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng
phải gắn với kết quả thực hiện nhiệm
vụ chính trị, sự vững mạnh của các
tổ chức trong hệ thống chính trị và
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên, đồng thời thông báo để cán bộ,
đảng viên và nhân dân tham gia ý
kiến. Cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ
chức cơ sở đảng phải kiểm tra, thẩm
định chặt chẽ và chịu trách nhiệm về
kết quả đánh giá chất lượng tổ chức
cơ sở đảng và đảng viên. Biểu
dương, khen thưởng những tổ chức
cơ sở đảng, đảng viên có thành tích
xuất sắc và tuyên truyền, phổ biến
kinh nghiệm để nhân rộng.
VI. QUẢN LÝ KINH TẾ:
Câu 7: Đổi mới quản lý nhà nước về
kinh tế phù hợp với kinh tế thị
trường định hướng XH chủ nghĩa ở
nước ta
Trả lời:
Ngày nay, trong điều kiện cạnh
tranh và hội nhập quốc tế, quản lý
kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của
các nước quốc gia. Ở nước ta từ khi

thực hiện đường lối đổi mới của Đảng
và Nhà nước, các nội dung quản lý
kinh tế của nhà nước cũng đã và đang
đổi mới sâu sắc và triệt để theo hướng
ngày càng khẳng định cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN.
Quá trình phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN cần tăng
cường vai trò quản lý nhà nước về
kinh tế nhằm phát huy những mặt tích
cực của cơ chế thị trường, giữ vững
bản chất của chế độ XHCN, đạt được
mục tiêu của chế độ XHCN và đồng
thời khắc phục những mặt hạn chế
-tiêu cực của cơ chế thị trường; Quá
trình đổi mới quản lý nhà nước về
kinh tế được hình thành từ đại hội VI,
được tổng kết thực tiễn qua các Đại
hội VII, Đại hội VIII và Đại hội IX.
Qua quá trình đổi mới chúng ta đã thu
được một số thành tựu quan trọng: giữ
vững được ổn định chính trị - XH;
đảm bảo kinh tế tăng trưởng khá; đưa
nước ta ra khỏi khủng hoảng góp
phần to lớn vào thành công của công
cuộc đổi mới. Tuy nhiên, quản lý nhà
nước về kinh tế ở nước ta hiện nay
đang đứng trước những thời cơ và
thách thức to lớn, đòi hỏi mỗi cán bộ,

đảng viên đặc biệt là cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp cần phải nghiên cứu
vai trò, chức năng, quá trình đổi mới
quản lý nhà nước về kinh tế và các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế.
1. Bản chất, vai trò của QLNN trong
nền Kinh tế thị trường
Phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN là quá trình khách quan,
hợp quy luật và là một nội dung cơ
bản của công cuộc đổi mới, cải cách ở
các nước XHCN trước đây, trong đó
có nước ta. Đây cũng là một quá trình
khó khăn, phức tạp vì phải đổi mới cả
cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, tổ chức
bộ máy quản lý và con người, đổi mới
tư duy, phong cách và đường lối cũ đã
ăn sâu vào từng con người. Do đó, đổi
mới thành công hay không lại phụ
thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước. Trong quá trình
chuyển đổi sang cơ chế thị trường -
khi cơ chế thị trường đã được xây
dựng đồng bộ, vai trò quản lý kinh tế
của nhà nước không hề bị suy giảm
mà càng tăng lên.
2. Vai trò của Nhà nước XHCN
trong quản lý nền kinh tế thị trường
Nhà nước tạo lập môi trường để

phát triển thị trường; Nhà nước bảo hộ
các chủ thể kinh tế kinh doanh hợp
pháp; Nhà nước dùng các công cụ điều
tiết vĩ mô nền kinh tế.
Cần nhận thức rằng, tăng cường vai
trò quản lý nhà nước về kinh tế không
có nghĩa nhà nước nắm tất cả, can
thiệp vào tất cả mọi hoạt động kinh tế
của toàn XH, mà trái lại nhà nước
phải nắm những lĩnh vực, những khâu,
thực hiện những công việc quan trọng
nhất mà thị trường và nhân dân không
làm được; biết sử dụng cơ chế thị
trường một cách khôn khéo để phục
vụ cho mục tiêu quản lý của mình, biết
phát huy những mặt tích cực của cơ
chế thị trường và hạn chế mặt tiêu cực
của cơ chế đó, biết “nắm những cái
17
Page 18 of 38
cần nắm và buông những cái cần
buông”, phát huy động lực của sự phát
triển kinh tế, xử lý những bất trắc và
tình huống mới nảy sinh, đảm bảo cho
cơ chế thị trường ra đời đồng bộ và
vận hành thông suốt, thúc đẩy kinh tế
phát triển.
Như vậy, vai trò của nhà nước trong
bước chuyển đổi sang cơ chế thị
trường hết sức quan trọng và nặng nề

vì:
- Vừa phải tiến hành đổi mới cách
thức điều hành từ cơ chế cũ sang cách
thức điều hành, quản lý theo cơ chế
mới, nguyên tắc mới nhằm thiết lập
mối quan hệ hợp lý giữa nhà nước –
thị trường – doanh nghiệp, vừa phải
liên tục hoàn thiện phương pháp, công
cụ và kỹ thuật điều hành trong điều
kiện vừa chuyển đổi vừa hội nhập, vừa
phát triển theo hướng CNH, HĐH đất
nước. Quan trọng và khó khăn nhất là
nhà nước phải xác định được phương
hướng, nguyên tắc, lộ trình cải cách
phù hợp và nâng cao năng lực để có
đủ khả năng quản lý nền kinh tế đang
chuyển đổi - hoàn toàn khác với nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước
đây.
-Với định hướng XHCN của mô hình
kinh tế đã được Đảng và nhân dân ta
lựa chọn, nhà nước phải thực hiện vai
trò làm người đại diện cho nhân dân
để quản lý nền kinh tế vì lợi ích của
đất nước và nhân dân, là người chịu
trách nhiệm về tài sản công hữu, đồng
thời là một tổ chức chịu sự lãnh đạo
của Đảng, thực hiện thể chế hóa, cụ
thể hóa đường lối, chủ trương của
Đảng thành pháp luật, chính sách và

biến các đường lối đó thành hiện thực
nhằm thực hiện mục tiêu KT-XH do
Đảng đề ra, thực hiện định hướng
XHCN của nền kinh tế.
3. Các chức năng QLNN trong nền
kinh tế thị trường
Chức năng QLNN về kinh tế là
những nhiệm vụ tổng quát, mà nhà
nước phải thực hiện để phát huy vai
trò và hiệu lực của mình. Chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế do bản
chất của nhà nước, do yêu cầu của
nhiệm vụ chính trị, KT-XH và tình
hình KT-XH của từng giai đoạn lịch
sử quy định. Các chức năng QLNN về
kinh tế quy định vị trí của mỗi cơ quan
trong hệ thống QLNN về kinh tế.
Một là, chức năng tạo lập môi
trường và điều kiện cho hoạt động
kinh doanh:
Nhà nước bảo đảm môi trường
(chính trị, pháp luật, XH ) thuận lợi,
bình đẳng cho hoạt động sản xuất kinh
doanh. Nhà nước ban hành và bảo đảm
việc thi hành pháp luật, bảo đảm các
điều kiện và nguyên tắc cơ bản như
quyền sở hữu, tự do kinh doanh, xử lý
tranh chấp theo pháp luật, bảo đảm
một XH lành mạnh, có văn hóa
Với chức năng này, nhà nước có vai

trò như một bà đỡ giúp cho các cơ sở
sản xuất kinh doanh, nói cách khác là
nhà nước có chức năng tạo ra các dịch
vụ công về môi trường chính trị, pháp
lý, an ninh, thủ tục quản lý, điều kiện
kinh doanh, thông tin, an toàn XH
phục vụ cho XH.
Trong cơ chế thị trường, muốn có
một môi trường sản xuất – kinh doanh
ổn định, tiến bộ, cần phải có bàn tay
của nhà nước từ việc ban hành và bảo
đảm thi hành pháp luật đến bảo đảm
các điều kiện và nguyên tắc cơ bản
như quyền sở hữu, tự do kinh doanh,
xử lý tranh chấp theo pháp luật, bảo
đảm một XH lành mạnh có văn hóa,
Hai là, chức năng định hướng và
hướng dẫn phát triển kinh tế:
Trong nền kinh tế có sự quản lý của
Nhà nước, nhà kinh doanh và các tổ
chức kinh tế được tự chủ kinh doanh
nhưng không thể nắm được hết tình
hình và xu hướng vận động của thị
trường. Vì vậy, họ thường chạy theo
thị trường một cách bị động, dễ gây ra
thua lỗ, thất bại và đổ vỡ, gây thiệt hại
chung cho nền kinh tế. Do đó, nhà
nước có chức năng định hướng phát
triển kinh tế và hướng dẫn các nhà
kinh doanh, các tổ chức kinh tế hoạt

động hướng theo các mục tiêu chung
của đất nước.
Nhà nước định hướng và hướng dẫn
bằng các công cụ như chiến lược, quy
hoạch, chính sách, kế hoạch, thông tin
và các nguồn lực của nhà nước. Nhà
nước cần sử dụng cách thức tác động
gián tiếp mang tính chất mềm dẻo,
uyển chuyển, vừa bảo đảm tính tự chủ
các cơ sở kinh tế, vừa bảo đảm mục
tiêu chung.
Ba là, chức năng tổ chức thực hiện
- Sắp xếp tổ chức lại các đơn vị kinh
tế. Trong đó quan trọng và cấp thiết
hơn là sắp xếp, củng cố lại các doanh
nghiệp nhà nước, tổ chức các vùng
kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế
xuất, để tạo nên cơ cấu kinh tế hợp
lý.
- Tổ chức lại hệ thống quản lý, sắp xếp
lại các cơ quan quản lý nhà nước về
kinh tế từ TW đến địa phương, đổi
mới thể chế thủ tục hành chính, sắp
xếp lại cán bộ công chức quản lý nhà
nước và quản lý doanh nghiệp
Bốn là, chức năng điều tiết
Trong khi điều hành nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, nhà nước
vừa phải tuân thủ và vận động các quy
luật khách quan của kinh tế thị trường

– phát huy mặt tích cực của cơ chế thị
trường, vừa điều tiết, chi phối hoạt
động theo định hướng của nhà nước,
bảo đảm cho kinh tế phát triển ổn
định, công bằng và có hiệu quả.
Để điều tiết, nhà nước sử dụng hàng
loạt biện pháp bao gồm các chính
sách, các đòn bẩy kinh tế, các công cụ
tài chính, thuế, tín dụng,
Năm là, chức năng kiểm tra, kiểm
soát
Nhà nước thực hiện chức năng kiểm
tra, kiểm soát nhằm thiết lập trật tự, kỷ
cương trong hoạt động kinh tế, phát
hiện và ngăn ngừa các hiện tượng vi
phạm pháp luật, sai phạm chính sách,
bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của
nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh
tế và từng bước thực hiện công bằng
XH.
Ở nước ta, trong điều kiện chuyển
sang nền kinh tế thị trường còn sơ
khai, tình trạng rối loạn, tự phát, vô tổ
chức cần phải đề cao chức năng kiểm
tra, kiểm soát của nhà nước.
Mối quan hệ giữa các chức năng
quản lý nhà nước và kinh tế:
Quản lý nhà nước về kinh tế có 5
chức năng cơ bản đã nêu ở trên. Năm
chức năng này có mối quan hệ chặt

chẽ và tác động hỗ trợ lẫn nhau. Quá
trình quản lý NN về kinh tế phải đồng
thời thực hiện cả 5 chức năng, không
coi nhẹ hoặc xem nhẹ chức năng nào.
Ví dụ: chức năng tạo lập môi trường
tốt tạo điều kiện cho các thành phần
kinh tế phát triển, đồng thời cũng tạo
cho chức năng kiểm tra, kiểm soát
điều chỉnh, tạo điều kiện cho các chức
năng khác tốt hơn và ngược lại các
chức năng khác bảo đảm tác động
ngược lại chức năng tạo lập môi
trường hoặc chức năng định hướng
(quy hoạch, kế hoạch) tạo cho mức
tăng tổ chức thực hiện tốt góp phần
phát triển KT-XH phát triển
4.Quá trình đổi mới quản lý nhà
nước về kinh tế ở nước ta
Trước đổi mới (1986): do yêu cầu
xây dựng nền kinh tế theo chế độ công
hữu phi hàng hóa và được quản lý theo
cơ chế kế hoạch hóa tập trung nên Nhà
nước quản lý tuyệt đối toàn bộ đời
sống KT-XH, nắm và chi phối toàn bộ
hoạt động kinh tế của đất nước và
không chỉ thực hiện toàn bộ các chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế mà
còn làm cả chức năng trực tiếp quản lý
sản xuất, can thiệp sâu vào hoạt động
sản xuất kinh doanh các đơn vị kinh tế

cơ sở.
Cơ chế quản lý đó đã thực hiện
được những mục tiêu kinh tế và chính
trị - XH quan trọng, thể hiện được tính
ưu việt của CNXH trên nhiều mặt.
Tuy nhiên, cơ chế quản lý đó cũng bộc
lộ nhiều khuyết tật, về cơ bản là triệt
tiêu động lực phát triển, nền kinh tế trì
trệ, rơi vào tình trạng khan hiếm, dẫn
tới khủng hoảng KT-XH. Còn nhà
nước thì bao biện, làm thay đổi thị
trường và xã hội, bộ máy cồng kềnh,
quan liêu, quản lý kém hiệu lực và
hiệu quả. Thực trạng đó buộc nhà
nước phải đổi mới quản lý kinh tế và
đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế.
Từ khi đổi mới đến nay: nước ta
tiến hành đổi mới toàn diện từ năm
1986, Đại hội VII, VIII, IX của Đảng
tiếp tục phát triển quan điểm đổi mới
đó. Trong quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường, vai trò quản lý
nhà nước về kinh tế không hề bị suy
giảm mà ngày càng tăng lên; Trong
nền kinh tế thị trường hoạt động kinh
tế do thị trường và XH đảm nhận, nhà
nước chỉ tập trung thực hiện những
chức năng quản lý chủ yếu nhất mà thị
18
Page 19 of 38

trường và XH không làm được và làm
không tốt.
4.1. Thành tựu của đổi mới quản lý
nhà nước về kinh tế.
Sau hơn 27 năm thực hiện chủ
trương đổi mới quản lý nhà nước về
kinh tế, nước ta đã đạt được một số
thành tựu quan trọng: nhà nước đã
phát huy vai trò, quản lý kinh tế - XH,
đổi mới quản lý kinh tế nhưng vẫn giữ
vững ổn định chính trị - XH, tăng
trưởng kinh tế khá, đưa nước ta ra
khỏi khủng hoảng; đổi mới cơ chế,
chính sách quản lý kinh tế và điều
hành, xử lý các tình huống có kết quả
tốt. Nhà nước cũng đã đổi mới hệ
thống kinh tế nhà nước, đổi mới hệ
thống tổ chức bộ máy nhà nước, đổi
mới và xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức quản lý nhà nước phù hợp với cơ
chế mới Do đó, đã góp phần to lớn
vào phát triển KT-XH và thành công
của công cuộc đổi mới. Cụ thể, từ khi
đổi mới, nhà nước đã thực hiện thành
công các nội dung sau đây:
Một là, kịp thời ban hành và từng
bước đưa vào cuộc sống một hệ thống
luật pháp khá đầy đủ, vận hành và
phát triển tạo khung pháp lý cơ bản
cho nền kinh tế.

Hai là, huy động được nguồn lực tài
chính khá lớn để chủ động đầu tư phát
triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng cơ
bản như giao thông, điện, nước, thông
tin liên lạc.
Ba là, chuyển đổi cách thức định
hướng, hướng dẫn từ kiểu trực tiếp
trước đây sang kiểu gián tiếp: nhà
nước chủ yếu quản lý kinh tế vĩ mô,
tăng cường sử dụng các chính sách
kinh tế như tài chính, tiền tệ.
Bốn là, trong quá trình phát triển,
nhà nước thực hiện điều tiết thành
công, đảm bảo các tiêu chí công bằng
XH trong điều kiện trình độ phát triển
kinh tế còn thấp.
Năm là, bước đầu làm quen và từng
bước đổi mới các phương pháp kiểm
tra, kiểm soát phù hợp với điều kiện
thị trường.
4.2. Hạn chế của đổi mới quản lý
nhà nước về kinh tế
Thứ nhất, quản lý nhà nước chưa
ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới,
chưa phát huy đầy đủ mặt tích cực và
hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của
kinh tế thị trường.
Thứ hai, hệ thống pháp luật, cơ chế
chính sách chưa đồng bộ và nhất quán,
thực hiện chưa nghiêm.

Thứ ba, quản lý các lĩnh vực tài
chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch
hóa, thương mại, phân phối thu nhập,
đất đai, vốn và tài sản của nhà nước
chưa tốt và chậm đổi mới.
Thứ tư, tổ chức bộ máy quản lý nhà
nước còn nặng nề quan hệ phân công
và hợp tác chưa rõ ràng còn nhiều
vướng mắc; tình trạng tham nhũng,
lãng phí, quan liêu, phân tán cục bộ
còn nghiêm trọng; cán bộ và công
chức nhà nước còn nhiều hạn chế cả
về trình độ năng lực và phẩm chất,
chưa tương xứng với yêu cầu của
nhiệm vụ.
Thứ năm, cải cách hành chính tiến
hành chậm, hiệu quả thấp.
4.3. Nguyên nhân của tình hình trên
đây có nhiều, nhưng chủ yếu do:
- Nước ta đang trong quá trình đổi
mới cái cũ chưa xóa bỏ hết, cái mới
chưa ra đời đồng bộ, việc xây dựng
nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân và quản lý nền kinh tế đang
chuyển sang kinh tế thị trường là công
việc mới mẻ phải vừa làm, vừa tìm tòi,
rút kinh nghiệm.
- Việc đổi mới hệ thống tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước về kinh tế trong
điều kiện cụ thể của nước ta, vừa thiếu

cơ sở lý luận khoa học nên khi thực
hiện còn vướng mắc hiệu quả và tác
dụng còn hạn chế, vừa thiếu trách
nhiệm và kiên quyết tự đổi mới, tự
chỉnh đốn của các cơ quan quản lý nhà
nước để đảm bảo sự trong sạch và
nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý.
- Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc
đổi mới và kiện toàn bộ máy quản lý
nhà nước còn nhiều hạn chế.
5. Phương hướng hoàn thiện quản lý
nhà nước phù hợp với nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN trong
thời gian tới.
Quản lý nhà nước về kinh tế ở nước
ta đang đứng trước những thời cơ và
thách thức lớn. Chúng ta đã có kinh
nghiệm và kết quả của trên 25 năm đổi
mới, đang đứng trước xu thế mở cửa,
hội nhập và hợp tác quốc tế; nhưng
khủng hoảng kinh tế khu vực và thế
giới vẫn còn nặng nề; việc nhà nước
phải tự đổi mới, tự cải cách hệ thống
quản lý càng trở lên phức tạp hơn;
cạnh tranh quốc tế ngày càng ngay gắt.
Tất cả các yếu tố đó đòi hỏi quản lý
nhà nước về kinh tế phải tiếp tục đổi
mới một cách toàn diện. Yêu cầu đặt
ra là phải tiếp tục đổi mới quản lý nhà
nước để nhà nước thực sự của dân, do

dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng; bộ máy nhà nước trong sạch
vững mạnh, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả; cán bộ, công chức nhà nước
thực sự là công bộc của dân, làm tốt
công tác quản lý kinh tế XH.
5.1. Nhận thức và xử lý tốt mối quan
hệ giữa nhà nước với nhân dân, giữa
sự lãnh đạo của Đảng và quản lý
nhà nước về kinh tế, giữa quản lý
nhà nước và quản lý doanh nghiệp.
- Cần khẳng định rằng nhân dân làm
người chủ đích thực và cao nhất của
đất nước, nhà nước là đại diện của
nhân dân để quản lý đất nước, do nhân
dân bầu ra và chịu sự giám sát của
nhân dân. Do đó, nhà nước phải tôn
trọng quyền làm chủ của dân, phục vụ
dân, còn nhân dân phải chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật, chính là sự
bảo vệ quyền làm chủ của mình.
- Cần nhận thức và phân biệt rõ chức
năng lãnh đạo của Đảng và chức năng
quản lý nhà nước. Đảng lãnh đạo kinh
tế bằng đường lối, chính sách và bằng
phương pháp giáo dục, thuyết phục,
còn nhà nước thể chế hóa đường lối
chính sách của Đảng thành pháp luật,
quản lý, điều hành nền kinh tế. Thông
qua nhà nước, đảng đưa đường lối,

chính sách của Đảng vào cuộc sống,
như vậy Đảng phải tăng cường lãnh
đạo nhà nước nhưng không làm thay
nhà nước và tạo điều kiện để phát huy
tính chủ động và nâng cao hiệu quả
quản lý, điều chỉnh của nhà nước.
- Đối với các doanh nghiệp, nhà nước
có chức năng và trách nhiệm quản lý
nhà nước về kinh tế, không can thiệp
trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp. Riêng các doanh
nghiệp nhà nước, tùy theo sự phân cấp
và ủy quyền của chính phủ và các bộ,
cơ quan thuộc chính phủ và ủy ban
nhân dân địa phương có trách nhiệm
đại diện sở hữu nhà nước đối với
doanh nghiệp trên một số chức năng
nhất định nhưng phải tôn trọng quyền
tự chủ, không can thiệp sâu vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
5.2. Thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy quản lý nhà nước về KTế
- Nâng cao hiệu lực quản lý thống nhất
của nhà nước TW đi đôi với phân cấp
quản lý cho địa phương. Để thực hiện
nguyên tắc này, nhà nước TW chỉ tập
trung quản lý ở tầm chiến lược, chính
sách quốc gia, chương trình, quy
hoạch, kế hoạch, các chính sách kinh

tế lớn có tác dụng chung cho toàn bộ
nền kinh tế. Còn chính quyền địa
phương có trách nhiệm và thẩm quyền
quyết định những vấn đề của địa
phương, đặc biệt là kế hoạch đầu tư
cho các khu vực công cộng, thu chi
ngân sách, về tổ chức và nhân sự hành
chính địa phương, xử lý các vụ việc
hành chính.
- Tăng cường phối hợp quản lý theo
ngành và theo lãnh thổ. Các ngành
TW có trách nhiệm quản lý theo
ngành trên phạm vi cả nước bao gồm
tất cả các thành phần kinh tế. Chính
quyền địa phương có trách nhiệm quản
lý toàn bộ hoạt động kinh tế trên phạm
vi lãnh thổ.
5.3. Đẩy mạnh cải cách nền hành
chính nhà nước.
- Tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật kinh tế, bao gồm hệ
thống luật và văn bản pháp quy nhằm
tạo khuôn khổ pháp lý cho việc hình
thành đồng bộ các yếu tố thị trường
theo định hướng XHCN; đổi mới công
tác kế hoạch hóa đảm bảo phù hợp và
định hướng được nền kinh tế thị
trường đang trong bước sơ khai qua
nhiều biến động. Xây dựng và hoàn
chỉnh các chính sách kinh tế và XH,

trong đó quan trọng nhất là chính sách
tài chính – tiền tệ
- Cải cách một bước thủ tục hành
chính cả về quy chế và tổ chức thực
hiện, giảm đến mức tối đa các thủ tục,
quy chế và tình trạng quan liêu, sách
nhiễu và phiền hà đối với nhân dân và
các doanh nghiệp.
19
Page 20 of 38
- Sắp xếp lại và chấn chỉnh tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước về kinh tế, đảm
bảo cho bộ máy tinh gọn, đủ khả năng
quản lý và xử lý tốt các vấn đề nảy
sinh trong nền kinh tế thị trường, tập
trung vào chức năng quản lý kinh tế vĩ
mô, giảm dần đi tới xóa bỏ chế độ chủ
quản đối với doanh nghiệp nhà nước
5.4. Đẩy mạnh đấu tranh chống tệ
quan liêu tham nhũng.
Quan liêu và tham nhũng đi liền với
nhau, là căn bệnh vốn có của nhà nước
nói chung. Riêng ở nước ta đang trong
thời kỳ đổi mới, cơ chế quản lý tập
trung quan liêu bao cấp chưa hoàn
toàn xóa bỏ, cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước ra đời chưa đồng
bộ là điều kiện tốt cho tệ quan liêu,
tham nhũng phát triển, vừa cản trở sự
phát triển của đất nước, vừa làm mất

uy tín và làm suy yếu hiệu lực quản lý
của nhà nước. Do đó đấu tranh kiên
quyết xóa bỏ tệ quan liêu, tham nhũng
trở thành một nhiệm vụ cấp bách trước
mắt của toàn đảng, toàn dân.
Đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng cần trú trọng các biện pháp sau:
- Phát huy quyền làm chủ thực sự của
nhân dân trong hoạt động kinh tế và
tham gia quản lý kinh tế, trong việc
phát hiện, tố cáo, đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng.
- Bổ sung, hoàn thiện cơ chế và chính
sách quản lý kinh tế phù hợp với quy
luật của cơ chế thị trường theo định
hướng XHCN. Mọi thể chế, quy định
phải minh bạch rõ ràng, rễ hiểu công
khai cho mọi người có thể nắm bắt,
thực hiện, kiểm tra, kiểm soát.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, tiếp
tục sắp xếp lại bộ máy quản lý nhà
nước về kinh tế tinh gọn, xóa bỏ các
thủ tục phiền hà, nâng cao trách nhiệm
phục vụ của các cơ quan công quyền
và công chức nhà nước.
- Đề cao kỷ cương phép nước, xử lý
nghiêm các cán bộ, công chức phạm
tội tham nhũng, làm giàu bất chính,
đồng thời nghiêm trị những người vu
cáo, làm mất danh dự và uy tín của

cán bộ công chức quản lý nhà nước.
Tóm lại: Đối với nước ta phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là một tất yếu khách quan, là
một nội dung cơ bản của công cuộc
đổi mới đất nước; đổi mới có được
hay không phụ thuộc vai trò lãnh đạo
của Đảng và thực hiện chức năng
quản lý của Nhà nước. Do đó vai trò
quản lý Nhà nước về kinh tế cần phải
được tăng cường và cần phải được
thường xuyên đổi mới để phù hợp với
nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Nhà nước phải phát huy tốt
những ưu điểm và hạn chế những
khuyết điểm của cơ chế thị trường, xử
lý những bất trắc trong quá trình
quản lý. Thực hiện tốt vai trò và chức
năng trong quản lý kinh tế để phát
triển kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước./.
VII. NHÀ NƯỚC PHÁP LUẬT
Câu 8: Phân tích các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của Nhà nước
XHCN. Liên hệ thực tiễn.
Trả lời:
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước XHCN là những
tư tưởng chỉ đạo chi phối tổ chức và
hoạt động của Nhà nước. Đó là những

yêu cầu khách quan thể hiện bản chất
và bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của Nhà nước XHCN, được thể
chế hóa thành các quy định cụ thể về
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước.
1. Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân; nhân dân
tham gia xây dựng nhà nước, tham
gia quản lý và XH
Nhà nước XHCN là tổ chức để nhân
dân lao động thực hiện quyền làm chủ
của mình, là nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Đó là bản chất, là nguồn
gốc sức mạnh và hiệu lực quản lý của
nhà nước kiểu mới. Vì vậy, việc phát
huy và bảo đảm quyền lực của nhân
dân trong tổ chức và hoạt động của
nhà nước XHCN là vấn đề có tính quy
luật, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại
và phát triển của nhà nước XHCN, ảnh
hưởng đến quá trình xây dựng và sự
bền vững của chế độ XHCN. Điều 2
Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001)
khẳng định “Nhà nước CHXHCN Việt
Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp

nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp, ”
Thực hiện nguyên tắc tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân trong
tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà
nước thực chất là bảo đảm quyền lực
của nhân dân trong quản lý nhà nước
và XH. Nhân dân là người chủ thực sự
của đất nước. Các cơ quan và cán bộ,
nhân viên nhà nước thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình
chính là thực hiện quyền lực của nhân
dân giao phó.
Nhân dân lao động thực hiện quyền
lực của mình thông qua Quốc hội và
hội đồng nhân dân các cấp. Đồng thời,
quyền lực của nhân dân trong tổ chức,
hoạt động của bộ máy nhà nước thể
hiện trên nhiều mặt; nhân dân trực tiếp
tham gia xây dựng nhà nước và tham
gia quản lý nhà nước, quản lý XH;
tham gia thảo luận và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước
và địa phương, cơ sở (về chính trị,
kinh tế, văn hóa – XH, an ninh – quốc
phòng, đối ngoại, ); nhân dân kiểm

tra, giám sát hoạt động của các cơ
quan và cán bộ, nhân viên nhà nước.
Nhà nước phải xây dựng thiết chế bảo
đảm cho nhân dân trực tiếp thực hiện
quyền lực đó.
Để đảm bảo cho nhân dân thực hiện
quyền lực của mình, bảo đảm tất cả
quyền lực của nhà nước thuộc về nhân
dân, cần trú trọng những vấn đề sau:
- Bảo đảm cho Quốc hội và HĐND
các cấp thực sự là cơ quan đại diện
cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân, có thực quyền và nưng lực thực
hiện các chức năng của cơ quan quyền
lực như Hiến pháp đã quy định.
- Nhà nước phải thể chế hóa các
quyền tự do, dân chủ của nhân dân,
quy định chặt chẽ cơ chế bảo đảm thực
hiện các quyền đó.
- Nhà nước phải quy định chế độ
trách nhiệm phục vụ nhân dân của các
cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước,
đồng thời ngăn ngừa và xử lý nghiêm
minh những biểu hiện quan liêu, vô
trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền và
các biểu hiện vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân. Điều 8, Hiến pháp 1992
quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán
bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng
nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân,

liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe ý kiến và chịu sự giám sát của
nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện
quan liêu, hách dịch, cửa quyền”.
2. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là
nguyên tắc quan trọng trong hệ thống
các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của
bộ máy nhà nước XHCN. Vị trí quan
trọng của nguyên tắc này thể hiện ở
chỗ nó là nguyên tắc cơ bản quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức
trong bộ máy nhà nước; quy định mối
quan hệ giữa cơ quan TW với các cơ
quan nhà nước địa phương, giữa cấp
trên với cấp dưới, giữa thủ trưởng cơ
quan, đơn vị với cán bộ, nhân viên
trong cơ quan; quy định cơ chế chuẩn
bị, thảo luận thông qua Hiến pháp, các
văn bản pháp luật, các chủ trương,
chính sách, các quyết định trong hoạt
động quản lý của Nhà nước; quy định
lề lối làm việc, quan hệ lãnh đạo, giám
sát, kiểm tra và xử lý công việc trong
hoạt động của bộ máy nhà nước
Điều 6 Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001)
quy định: “Quốc hội, HĐND và các cơ
quan khác của nhà nước đều tổ chức

20
Page 21 of 38
và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ”.
Để bảo đảm thực hiện các yêu cầu
của nguyên tắc tập trung dân chủ trong
tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà
nước cần phải giải quyết các vấn đề
sau:
- Phân định rõ những vấn đề, lĩnh
vực, quy mô loại công việc thuộc
quyền quyết định của mỗi cấp từ TW
đến cơ sở.
- Phân định rõ trách nhiệm của tập
thể cơ quan, tổ chức nhà nước và có
trách nhiệm cá nhân của từng chức
danh trong bộ máy nhà nước.
- Quy định chặt chẽ chế độ kỷ luật
nhà nước: cấp dưới phải phục tùng cấp
trên, địa phương phải phục tùng TW,
các quyết định của cấp trên, của TW
có giá trị bắt buộc đối với cấp dưới,
với địa phương; cán bộ, nhân viên
phải phục tùng thủ trưởng.
- Xây dựng cơ chế làm việc dân chủ
ở các cơ quan nhà nước, đặc biệt ở
Quốc hội và HĐND các cấp. Cần quy
định chặt chẽ cơ chế chuẩn bị, thảo
luận và thông qua dự thảo các văn bản
pháp luật, các chủ trương, chính sách,

kế hoạch, các quyết định quản lý.
Thảo luận, lấy ý kiến rộng rãi nhưng
khi quyết định thông qua phải theo
nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số.
- Quy định và thực hiện chế độ
kiểm tra, báo cáo, thông tin: các cơ
quan quyền lực thực hiện chức năng
giám sát hoạt động của tất cả các cơ
quan nhà nước khác; cấp trên, thủ
trưởng cơ quan kiểm tra hoạt động của
cấp dưới, của cán bộ, nhân viên nhà
nước, các cơ quan nhà nước phải thực
hiện thông tin, báo cáo với cấp trên,
với cơ quan quyền lực, Quốc hội và
HĐND. Đại biểu QH và HĐND phải
báo cáo cho nhân dân về tình hình đất
nước và hoạt động của nhà nước
- Có biện pháp bảo đảm xử lý
nghiêm minh kịp thời mọi hành vi vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước.
Cần đề phòng hai khuynh hướng:
một là, chỉ nhấn mạnh tập trung mà
làm ảnh hưởng đến quyền tự chủ, sáng
tạo của cấp dưới, của địa phương, cơ
sở và quyền làm chủ của nhân dân lao
động. Hai là, tuyệt đối hóa quyền tự
chủ của cấp dưới, của địa phương, đơn
vị cơ sở mà hạ thấp vai trò chỉ đạo tập

trung thống nhất cần thiết của cấp trên,
của TW và người thủ trưởng.
3. Nguyên tắc tập trung thống nhất
quyền lực nhưng cả sự phân công,
phân cấp phối hợp và kiểm soát việc
thực hiện quyền lực nhà nước về
mặt lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, quyền lực nhà nước
được thực hiện trên 3 chức năng, lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Các chức
năng đó bao trùm mọi lĩnh vực đời
sống XH và trên toàn bộ lãnh thổ đất
nước; vấn đề đặt ra là tổ chức thực
hiện quyền lực nhà nước đó như thế
nào để bảo đảm tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân và bảo đảm
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH đã chỉ rõ: “tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước theo
nguyên tắc tập trung, dân chủ, thống
nhất quyền lực, có sự phân công phân
cấp, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo
thống nhất của TW”.
Quyền lực nhà nước thống nhất,
duy nhất, không thể phân chia vì bản
chất quyền lực đó là quyền lực của

nhân dân. Bộ máy nhà nước có nhiều
hệ thống cơ quan tương ứng thực hiện
các chức năng của quyền lực nhà nước
nhưng đều nhằm tổ chức thực hiện
quyền lực của nhân dân, vì lợi ích của
nhân dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất
không thể phân chia nhưng được phân
công rành mạch giữa quyền lập pháp
hành pháp; phân cấp rành mạnh giữa
nhà nước TW với chính quyền địa
phương và cơ sở.
Nguyên tắc thống nhất quyền lực
nhưng có sự phân công, phân cấp,
phối hợp và kiểm soát việc thực hiện
quyền lực của nhà nước về mặt lập
pháp, hành pháp và tư pháp được cụ
thể hóa thành chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn trách nhiệm và mối quan hệ
giữa các cơ quan nhà nước.
4. Nguyên tắc có kế hoạch
Nguyên tắc có kế hoạch yêu cầu
khách quan trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước XHCN. Trong
chế độ XHCN, nhà nước là một công
cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân lao động, là người đại diện cho sở
hữu toàn dân đối với TLSX chủ yếu,
nên nhà nước có đủ điều kiện quản lý
quá trình pháp triển kinh tế, văn hóa,

giáo dục, khoa học và các lĩnh vực
khác của đời sống XH một cách có kế
hoạch. Mặt khác, nhà nước bảo đảm
sử dụng và phát huy có hiệu quả mọi
tiềm năng, nguồn lực, vật chất và con
người để phát triển mọi mặt đời sống
của XH, đồng thời đáp ứng nhu cầu
vật chất tinh thần ngày càng cao cho
mọi thành viên trong XH.
Thực hiện nguyên tắc có kế hoạch
có nghĩa là toàn bộ tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước phải có kế
hoạch dựa trên cơ sở khoa học nhằm
thực hiện những mục tiêu đã dự kiến
trước.
Kế hoạch nhà nước là trung tâm cho
mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước. Vì thế, bộ máy nhà nước
phải có tổ chức thích hợp nhằm thực
hiện có hiệu quả những nhiệm vụ, mục
tiêu đặt ra trong kế hoạch và mọi hoạt
động của bộ máy nhà nước phải hướng
đến việc thực hiện kế hoạch chung đã
vạch ra.
Kế hoạch nhà nước là một trong
những công cụ chủ yếu để quản lý
kinh tế, văn hóa, XH, nhưng không có
nghĩa là nhà nước vạch ra một kế
hoạch phát triển KT-XH chi tiết cụ thể
cho tất cả các cấp, các ngành, các địa

phương.
5. Nguyên tắc pháp chế XHCN
Thực hiện mọi nguyên tắc pháp chế
XHCN trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước XHCN có nghĩa là
mọi tổ chức, mọi cán bộ, nhân viên
nhà nước đều phải nghiêm chỉnh và
triệt để tuân thủ pháp luật khi thi hành
quyền hạn và nhiệm vụ của mình.
Đồng thời, bộ máy nhà nước phải thực
hiện được việc quản lý XH bằng pháp
luật, bảo đảm cho pháp luật được tôn
trọng và thi hành nghiêm minh.
Thực hiện đúng đắn nguyên tắc
pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước XHCN là
bảo đảm sự thống nhất về kỷ cương
trật tự, hiệu lực quản lý trong hoạt
động của bộ máy nhà nước, bảo đảm
dân chủ và công bằng XH; đồng thời
tránh khuynh hướng cục bộ, tùy tiện,
vô chính phủ, đấu tranh có hiệu quả để
ngăn chặn tệ quan liêu, tham nhũng và
các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ
máy nhà nước. Điều 12 Hiến pháp
1992 (sửa đổi 2001) quy định: “Nhà
nước quản lý XH bằng pháp luật,
không ngừng tăng cường pháp chế
XHCN”. Tất cả các cơ quan nhà nước,
tổ chức XH, nhân viên nhà nước, nhân

viên các tổ chức XH và mọi công dân
đều phải nghiêm chỉnh chấp hành hiến
pháp và pháp luật, kiên quyết đấu
tranh nhằm phòng và chống các tội
phạm các việc làm vi phạm hiến pháp
và pháp luật.
Để đảm bảo thực hiện được nguyên
tắc pháp chế XHCN trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước, trước
hết, nhà nước phải xây dựng được hệ
thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng
bộ, có chất lượng cao và ổn định
tương đối tạo tiền đề vững chắc cho
việc thực thi pháp luật.
6. Nguyên tắc công khai, minh
bạch, lắng nghe ý kiến nhân dân
Thực hiện nguyên tắc công khai,
minh bạch, lắng nghe ý kiến nhân dân
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước XHCN là một trong những
nội dung cơ bản nhằm dân chủ hóa tổ
chức hoạt động của nhà nước, bảo
đảm nhà nước thực sự là của dân, do
dân, vì dân.
Thực hiện tốt nguyên tắc này đòi
hỏi mọi hoạt động của bộ máy nhà
nước phải công khai, minh bạch để
dân biết, đồng thời, trong quá trình tổ
chức thực hiện các chủ trương, chính
sách, pháp luật, kế hoạch các quyết

định của cơ quan nhà nước, phải lắng
nghe, tiếp thu và giải quyết ý kiến,
nguyện vọng và những nhận xét, đánh
giá của quần chúng nhân dân. Cần sử
dụng các biện pháp điều tra, thăm dò
dư luận XH về những quyết định của
nhà nước.
Thực hiện công khai hóa tổ chức,
hoạt động của các cơ quan nhà nước là
bảo đảm cho nhân dân lao động có
điều kiện hiểu biết, nhận thức và phân
21
Page 22 of 38
tích các hoạt động của bộ máy nhà
nước họ có thể bầy tỏ ý kiến, thảo luận
và đánh giá các hoạt động đó, phát
huy quyền làm chủ của mình trong
xây dựng nhà nước và tham gia quản
lý nhà nước. Ngược lại các cơ quan
nhà nước, cán bộ, nhân viên nhà nước
phải gần dân, trọng dân, lắng nghe ý
kiến của nhân dân chính là để kiểm
tra, đánh giá lại chủ trương, chính sách
và các hoạt động của mình. Có như
vậy mới kịp thời sửa đổi, bổ sung, uốn
nắn những chủ trương, chính sách và
hoạt động đó cho phù hợp. “Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải
trở thành phương châm hoạt động của
tất cả các cơ quan nhà nước, đó cũng

chính là nguồn gốc sức mạnh và hiệu
lực của bộ máy nhà nước XHCN.
7. Nguyên tắc bình đẳng giữa các
dân tộc
Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn
nhau giữa các dân tộc cùng xây dựng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng
thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt
đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất
quán giữa các dân tộc tạo nên sự đoàn
kết, nhất trí, tin tưởng lẫn nhau, cùng
nhau xây dựng XH mới. Đồng thời,
thực hiện tốt nguyên tắc đó sẽ ngăn
chặn và đập tan mọi sự xuyên tạc, mọi
âm mưu thâm độc của kẻ thù hòng
chia rẽ, gây mất ổn định trong quan hệ
giữa các dân tộc và chống phá chủ
nghĩa XH.
Thực hiện nguyên tắc này là đảm
bảo cho các dân tộc có quyền bình
đẳng trong xây dựng nhà nước, tham
gia quản lý nhà nước, được hưởng
quyền và nghĩa vụ như nhau. Điều 5,
Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001)
khẳng định: “Nhà nước CHXHCNVN
là Nhà nước thống nhất của các dân
tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt
Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình
đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân

tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị,
chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng
nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc
và phát huy những phong tục, tập
quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp
của mình.
Nhà nước thực hiện chính sách phát
triển về mọi mặt, từng bước nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào dân tộc thiểu số”.
8. Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước.
Nhà nước XHCN là một tổ chức,
thông qua đó Đảng Cộng sản thực hiện
sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình
phát triển của XH. Sự lãnh đạo của
Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo
sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà
nước kiểu mới. Vì vậy, bảo đảm và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là
yêu cầu khách quan trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước. Sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
bảo đảm cho nhà nước có đường lối,
phương hướng đúng xây dựng Nhà
nước kiểu mới, có đủ năng lực tổ
chức, xây dựng XH mới, bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà

nước thể hiện trên những mặt cơ bản:
Đảng vạch ra cương lĩnh, đường lối
chiến lược và những chủ trương lớn
làm cơ sở cho Nhà nước hoạch định
chiến lược, kế hoạch phát triển KT-
XH, các chính sách và quyết định
trong quản lý, Đảng vạch ra các chủ
trương quan trọng về tổ chức bộ máy
và chính sách cán bộ; Đảng lãnh đạo
nhà nước bằng phương pháp dân chủ,
thuyết phục, bằng công tác tư tưởng và
tổ chức, bằng vai trò gương mẫu của
đảng viên và tổ chức Đảng; Đảng giới
thiệu cán bộ có phẩm chất và năng lực
vào cương vị lãnh đạo chủ chốt của bộ
máy nhà nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng
không phải là bao biện, làm thay hoặc
khoán trắng cho Nhà nước. Tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước phải
vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
trên những mặt nêu trên, vừa bảo đảm
phát huy vai trò chủ động của Nhà
nước trong việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình.
Đảng ta chỉ rõ: để bảo đảm và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ
chức hoạt động của Nhà nước, vấn đề
bao chùm nhất là Đảng phải tự đổi
mới và chỉnh đốn, có kiến thức, năng

lực và sức chiến đấu mới. Đảng phải
khắc phục có hiệu quả các mặt yếu
kém, khôi phục và nâng cao uy tín của
Đảng trong nhân dân và XH. Đảng
phải được xây dựng vững mạnh cả về
chính trị, cả về tư tưởng, tổ chức, thực
sự là đội tiền phong chính trị có trọng
trách lãnh đạo. Nhà nước và nhân dân
xây dựng thành công chủ nghĩa XH.
Liên hệ thực tiễn:
Thời gian gần đây, lợi dụng việc góp ý
kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
năm 1992, một số người đã cổ súy cho
việc thực hiện cái gọi là “tam quyền
phân lập”, đòi tách biệt quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp để “kiềm
chế”, “đối trọng” giữa ba quyền này
theo mô hình nhà nước tư sản và đưa
ra các luận điệu “để xây dựng cơ chế
tam quyền phân lập trong tổ chức bộ
máy nhà nước, điều kiện đầu tiên là
áp dụng hệ thống chính trị đa nguyên,
đa đảng”; “điều kiện khác của việc áp
dụng chế độ tam quyền phân lập là
phải trung lập hóa, phi chính trị hóa
lực lượng quân đội và cảnh sát”(?!).
Đây là những luận điệu không mới và
đã được các thế lực thù địch, phản
động ra sức tuyên truyền, kích động
nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của

Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Cần khẳng định “tam quyền phân
lập” có thể phù hợp ở các mức độ
khác nhau với một số nước trên thế
giới, nhưng không phù hợp với thể chế
chính trị nước ta, bởi lẽ việc thực hiện
quyền lực nhà nước theo phương thức
nào là phụ thuộc vào thể chế chính trị
của mỗi quốc gia. Ở nước ta, nhân
dân là chủ nhân của quyền lực chính
trị, quyền lực nhân dân là cội nguồn
của quyền lực nhà nước, quyền lực đó
chỉ có thể thực hiện một cách thống
nhất dưới sự giám sát của nhân dân,
chứ không thể phân chia, chia cắt,
phân rã. Nguyên tắc tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân được bảo
đảm thực hiện bởi sự kết hợp hài hòa
giữa dân chủ trực tiếp (tức là nhân
dân trực tiếp tham gia quản lý nhà
nước và xã hội, giám sát hoạt động
của Nhà nước) và dân chủ đại diện
(tức là nhân dân phân công và ủy
quyền cho các cơ quan nhà nước thực
hiện quyền lực nhà nước).
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội với chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ

chính trị, xã hội, pháp lý của mình đều
hướng tới phục vụ nhân dân, thực
hiện “tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân”, không để lập pháp vị
lập pháp, hành pháp vị hành pháp, tư
pháp vị tư pháp như các thể chế “tam
quyền phân lập”. Quyền lực nhà nước
là thống nhất do tất cả quyền lực nhà
nước thuộc nhân dân và thống nhất về
mục tiêu chính trị: dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
quyền lực nhà nước là thống nhất,
nhưng có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát quyền giữa các cơ quan
trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Sự phân công
rành mạch giữa các cơ quan nhà nước
là tiền đề quan trọng để kiểm soát
quyền lực nhà nước, bảo đảm nguyên
tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Mặt khác, sự phân công đó cũng
rất cần thiết để xây dựng một nền
hành chính quốc gia ổn định, thống
nhất từ Trung ương đến cơ sở. Yếu tố
kiểm soát ở đây không phải là sự
“kiềm chế”, “đối trọng”, mà là để
tăng sự giám sát giữa các cơ quan
thực hiện quyền lực nhà nước.
22
Page 23 of 38

Câu 9. Khái niệm và phân tích các
vai trò của pháp luật XHCN. Liên
hệ thực tiễn.
Trả lời:
1. Khái niệm pháp luật XH chủ
nghĩa:
Pháp luật XHCN là hệ thống các
quy tắc xử sự do nhà nước XHCN ban
hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý
chí của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, là yếu tố điều chỉnh các
quan hệ XH nhằm mục đích xây dựng
một XH XH chủ nghĩa ổn định và phát
triển.
2. Vai trò của pháp luật XHCN
Với tư cách là yếu tố điều chỉnh
các quan hệ XH, pháp luật có vai trò
quan trọng trong việc bảo đảm sự ổn
định và phát triển XH. Trong công
cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt nam hiện nay, vai trò
quan trọng của pháp luật lại càng được
nhấn mạnh. Điều 12 hiến pháp 1992
sửa đổi ghi nhận: “Nhà nước quản lý
XH bằng pháp luật và không ngừng
tăng cường pháp chế XHCN”. Vai trò
của pháp luật được thể hiện ở những
khía cạnh sau:
2. 1. Vai trò của pháp luật XHCN đối
với kinh tế:

Pháp luật là yếu tố của kiến trúc
thượng tầng XH. Do đó, trước hết
được ra đời trên cơ sở hạ tầng và được
quy định bởi quy định cơ sở hạ tầng.
Trong mối quan hệ giữa pháp luật và
kinh tế, các điều kiện kinh tế không
chỉ là nguyên nhân trực tiếp quy định
sự ra đời của pháp luật mà còn quyết
định toàn bộ nội dung và sự phát triển
của nó. Tuy nhiên, mặc dù ra đời từ
các điều kiện và tiền đề kinh tế nhưng
pháp luật không phản ánh một cách
thụ động các quan hệ kinh tế, mà còn
có tính độc lập tương đối và tác động
trở lại đối với kinh tế. Điều đó thể hiện
ở chỗ, nếu pháp luật được xây dựng
phù hợp với các quy luật KT-XH thì
có vai trò tích cực đối với sự phát triển
kinh tế. Nếu pháp luật được xây dựng
không phù hợp với các quy luật KT-
XH thì nó kìm hãm sự phát triển của
kinh tế. Cụ thể, vai trò của pháp luật
đối với kinh tế thể hiện:
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện
tạo lập cơ sở pháp lý để các chủ thể
kinh tế tiến hành sản xuất kinh doanh
trong khuôn khổ pháp luật. Có nghĩa,
nhờ có các quy định của pháp luật các
chủ thể kinh tế có thể trở thành các
chủ thể quan hệ pháp luật kinh tế với

những quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ
thể. Từ đó các nhà sản xuất, kinh
doanh hoàn toàn có thể yên tâm sản
xuất kinh doanh theo những ngành
nghề mình đã lựa chọn, miễn là thực
hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo
quy định của pháp luật.
Thứ hai, pháp luật là phương tiện để
nhà nước thực hiện chức năng quản lý
của mình đối với nền kinh tế. Do tính
chất phức tạp “nhiều vấn đề, nhiều
quan hệ cần giải quyết” và phạm vi
rộng của chức năng quản lý kinh tế,
nhà nước không thể trực tiếp tham gia
vào các hoạt động kinh tế cụ thể mà
chỉ thực hiện quản lý hành chính –
kinh tế. Quá trình đó không thể hiện
được nếu không dựa vào pháp luật.
Chỉ có pháp luật với những tính chất
đặc thù của nó mới là cơ sở để đảm
bảo cho nhà nước hoàn thành chức
năng quản lý kinh tế của mình.
Thứ ba, pháp luật là phương tiện
bảo vệ lợi ích kinh tế chính đáng cho
các chủ thể kinh tế, trong nền kinh tế
thị trường, tranh chấp kinh tế, vi phạm
hợp đồng kinh tế là những hiện tượng
hay sảy ra. Trong những trường hợp
như vậy pháp luật là phương tiện để
các cơ quan chức năng giải quyết

tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng
của các bên tham gia quan hệ kinh tế.
Thứ tư, pháp luật là một phương
tiện giải quyết những vấn đề XH nảy
sinh trong nền kinh tế thị trường: mặt
trái của nền kinh tế thị trường dễ gây
ra vấn đề mất cân bằng XH, phân hóa
giàu nghèo, thất nghiệp chính trong
những trường hợp ấy pháp luật là
phương tiện điều tiết XH, giải quyết
các vấn đề XH nảy sinh như bảo vệ lợi
ích người tiêu dùng, bảo vệ môi
trường sinh thái, quy định các chính
sách đối với người về hưu, người thất
nghiệp, người già cô đơn, cũng như
bất kỳ một chính sách nào khác, chính
sách XH chỉ có thể được thực thi một
cách có hiệu lực, hiệu quả khi nó được
xác lập dưới những hình thức pháp lý
nhất định và được bảo đảm thực thi
bởi một cơ chế pháp lý thích hợp.
2.2. Vai trò của pháp luật đối với XH
Pháp luật và XH có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Mỗi bước phát
triển lớn của XH, của đất nước đều
kéo theo những thay đổi lớn trong
pháp luật. Sự hình thành pháp luật là
kết quả của sự tác động khách quan,
tất yếu lẫn nhau của những nhân tố
XH, của những biến đổi XH. Các nhân

tố XH ở nghĩa rộng nhất bao gồm các
nhân tố kinh tế, XH. Chính trị, văn
hóa, truyền thống, đạo đức, khoa học
và công nghệ và những biến đổi của
các nhân tố đó, các tiền đề XH tạo
thành cơ sở cho việc hình thành và ra
đời của pháp luật. Mặc dù nội dung
của những nhân tố XH quyết định sự
hình thành pháp luật, nhưng ngược lại
pháp luật có tác động trở lại, có vai trò
quan trọng đối với XH. Vai trò của
pháp luật đối với XH thể hiện:
Thứ nhất, pháp luật bảo vệ lợi ích
chính đáng của con người của công
dân. Pháp luật XHCN thể chế hóa
quyền con người, quyền công dân và
bảo đảm về mặt pháp lý cho các quyền
đó được thực hiện trên thực tế. Mặt
khác, pháp luật là phương tiện để các
thành viên của XH các quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
Thứ hai, pháp luật XHCN là
phương tiện bảo đảm thực hiện nền
dân chủ XHCN. Dưới chủ nghĩa XH,
các quyền dân chủ của nhân dân được
pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực
hiện. Chẳng hạn ở Việt Nam các
quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở
đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận
và bảo đảm thực hiện bằng văn bản có

tính pháp lý là Pháp lệnh về dân chủ ở
cơ sở - đây là một văn bản pháp luật
của Nhà nước, là cơ sở pháp lý quy
định việc thực hiện dân chủ đối với
cấp cơ sở trong cả nước.
Thứ ba, pháp luật là phương tiện để
giữ gìn trật tự an toàn XH. Pháp luật
XHCN, với tư cách là phương tiện
điều chỉnh các quan hệ XH, có vai trò
quan trọng trong việc bảo đảm sự ổn
định, trật tự an toàn XH. Trong hệ
thống quy phạm pháp luật được đặt ra
để điều chỉnh, ngoài các qui phạm cho
phép, bắt buộc, pháp luật còn chứa
đựng các qui phạm cấm mọi hành vi
gây mất ổn định và trật tự an toàn XH,
xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tập
thể và công dân. Những biện pháp
được pháp luật qui định để áp dụng
trong những trường hợp có vi phạm
pháp luật (của cá nhân hay một tổ
chức) thể hiện sức mạnh Nhà nước
một cách công khai, có ý nghĩa rất lớn
để răn đe, phòng ngừa, đồng thời là cơ
sở để xử lý và trừng trị nghiêm khắc
những hành vi nguy hiểm cho XH.
Trong lĩnh vực này, pháp luật là công
cụ sắc bén nhất bởi vì nó thể hiện sức
mạnh của nhà nước trong việc giữ
vững an ninh, trật tự an toàn XH.

2.3.Vai trò của pháp luật đối với sự
lãnh đạo của Đảng
Bất kỳ giai cấp thống trị nào cũng
dựa vào pháp luật để thể hiện ý chí và
thực hiện đường lối chính trị của
mình. Pháp luật trở thành hình thức
ghi nhận đường lối chính trị của giai
cấp thống trị, là công cụ thực hiện hiệu
quả nhất những yêu cầu, mục đích, nội
dung chính trị của giai cấp cầm quyền.
Mối liên hệ giữa pháp luật và chính trị
thể hiện ở mối liên hệ giữa đường lối,
chính sách của Đảng cầm quyền với
pháp luật của nhà nước. Đường lối
chính trị của Đảng cầm quyền có ý
nghĩa chỉ đạo việc xây dựng, tuyên
truyền, giáo dục pháp luật. Vai trò của
pháp luật đối với sự lãnh đạo của
Đảng thể hiện:
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện
thể chế hóa đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, làm cho đường
lối đó có hiệu lực thực thi bắt buộc
chung trên qui mô toàn XH. Chủ
chương đường lối của Đảng được thể
chế hóa thành các qui phạm pháp luật
và được áp dụng trong thực tiễn cuộc
sống.
Thứ hai, pháp luật là phương tiện để
Đảng kiểm nghiệm đường lối của

mình trong thực tiễn. Các quy phạm
pháp luật được áp dụng trong thực tiễn
cuộc sống và phát huy hiệu quả điều
chỉnh các quan hệ XH thì nó khẳng
định tính đúng đắn, phù hợp của
những tư tưởng trong đường lối chủ
trương của Đảng mà nó thể hiện.
Ngược lại, nếu các qui phạm pháp luật
23
Page 24 of 38
không phát huy được hiệu quả điều
chỉnh các quan hệ XH thì nó phủ định
tính đúng đắn và phù hợp trong đường
lối chủ trương của Đảng đã dược thể
hiện trong pháp luật. Chẳng hạn, từ
sau đổi mới Đảng cộng sản Việt Nam
đã có chủ trương phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XH chủ nghĩa ở
Việt Nam. Chủ trương đó đã được thể
chế hóa thành pháp luật, cụ thể đã
được ghi nhận trong Hiến pháp năm
1992. Sau khi được thể chế hóa thành
pháp luật, chủ trương đó đã được áp
dụng trong thực tế. Qua các kỳ đại hội
Đảng ta đã đánh giá, kiểm nghiệm chủ
trương đó và khẳng định đây là chủ
trương đúng đắn, phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế-XH ở Việt
Nam. Đến đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, chủ trương của Đảng về vấn

đề phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XH chủ nghĩa ở Việt Nam
vẫn tiếp tục được thể chế hóa thành
các qui phạm pháp luật.
Thứ ba, pháp luật là phương tiện
phân định rõ chức năng lãnh đạo của
Đảng bằng đường lối chính trị với
chức năng tổ chức, quản lý, điều hành
mọi hoạt động XH của nhà nước bằng
pháp luật và theo pháp luật. Đảng lãnh
đạo bằng chủ trương, đường lối và
được cụ thể hóa bằng các nghị quyết,
chỉ thị Nhà nước quản lý và điều
hành các hoạt động của XH bằng pháp
luật và theo pháp luật. Pháp luật là
phương tiện khắc phục những khiếm
khuyết trong thực tiễn như hiện tượng
bao biện, làm thay của Đảng đối với
sự quản lý, điều hành của Nhà nước.
Cụ thể, chỉ có nhà nước mới có chức
năng ban hành pháp luật và sử dụng
pháp luật để quản lý XH (luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật chỉ
có Quốc hội mới có quyền ban hành
Hiến pháp và luật chỉ có Chính phủ
mới có thẩm quyền ban hành Nghị
định và Bộ ban hành Thông tư, ) .
2.4. Vai trò của pháp luật đối với
Nhà nước
Pháp luật và nhà nước là hai bộ

phận của kiến trúc thượng tầng, luôn
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cả
hai hiện tượng này đều có chung
nguồn gốc ra đời và phát triển. Trong
mối quan hệ này, nhà nước là tổ chức
đặc biệt của quyền lực chính trị,
nhưng quyền lực đó chỉ có thể được
thực hiện và có hiệu lực trên cơ sở của
pháp luật. Còn pháp luật là hệ thống
những qui tắc xử sự do nhà nước ban
hành và luôn phản ánh quan điểm,
đường lối chính trị của lực lượng nắm
quyền lực nhà nước, bảo đảm cho
quyền lực đó được thực hiện trong
XH. Với ý nghĩa đó, nhà nước không
thể tồn tại và phát huy quyền lực nếu
thiếu pháp luật. Ngược lại, pháp luật
chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi
dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực
nhà nước. Vai trò của pháp luật đối
với nhà nước được thể hiện cụ thể:
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện
để Nhà nước quản lý XH. Để quản lý
XH, Nhà nước dùng nhiều phương
tiện, biện pháp (qui phạm đạo đức, dư
luận XH, qui phạm pháp luật) nhưng
pháp luật là phương tiện quan trọng
nhất. Pháp luật có khả năng đưa chủ
trương, chính sách của Nhà nước vào
cuộc sống nhanh nhất, có hiệu quả

nhất.
Thứ hai, pháp luật là phương tiện
ghi nhận trách nhiệm của Nhà nước
đối với toàn XH và mọi công dân, là
cơ sở pháp lý để Nhà nước kiểm tra,
giám sát hoạt động của các tổ chức, cơ
quan, nhân viên Nhà nước và mọi
công dân.
Thứ ba, pháp luật là phương tiện để
Nhà nước tự hoàn thiện chính bản thân
Nhà nước. Thông qua các qui định
pháp luật về hình thức chính thể, cơ
cấu tổ chức bộ máy nhà nước, nguyên
tắc tổ chức và hoạt động, qui chế công
chức, viên chức nhà nước, chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan quản lý Nhà
nước, mà Nhà nước tự hoàn thiện tổ
chức và bộ máy của mình. Cụ thể, thời
gian gần đây, Nhà nước Việt Nam đã
ban hành hàng loạt các văn bản qui
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
XH trong lĩnh vực tổ chức và hoạt
dộng của các cơ quan quản lý Nhà
nước như Pháp lệnh cán bộ công chức
năm 2003, luật tổ chức Quốc hội, Luật
tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
năm 2003, Luật phòng chống tham
nhũng,
2.5. Vai trò của pháp luật đối với các

tổ chức chính trị -XH
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện
qui định về tổ chức và hoạt động của
các tổ chức chính trị-XH. Các tổ chức
chính trị-XH chỉ có thể được thành lập
và hoạt động theo các qui định của
pháp luật. Chẳng hạn, Mặt Trận tổ
quốc được tổ chức và hoạt động theo
Luật Mặt trận tổ quốc,
Thứ hai, pháp luật tạo cơ sở pháp lý
để các tổ chức chính trị-XH, nhân dân
đấu tranh chống lại những hành vi vi
phạm pháp luật của các cơ quan nhà
nước, nhân viên nhà nước, mọi công
dân. Các tổ chức chính trị XH như Hội
phụ nữ, Đoàn thanh niên, không thể
đưa ra các kiến nghị cụ thể đối với các
cơ quan chức năng để bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của các hội
viên của mình nếu không dựa trên các
qui định cụ thể của pháp luật.
2.6. Vai trò của pháp luật đối với đạo
đức và tư tưởng
Vai trò của pháp luật đối với đạo đức
Pháp luật XHCN có mối liên hệ
chặt chẽ với đạo đức XHCN. Chúng
bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau trong việc
điều chỉnh các quan hệ XH. Bất kỳ
kiểu pháp luật nào cũng dựa trên một
nền tảng đạo đức nhất định và là

phương tiện khẳng định, duy trì đạo
đức đó. Dưới CNXH, các nguyên tắc
cơ bản của đạo đức mới được Nhà
nước thể chế hóa thành các qui phạm
pháp luật. Pháp luật XHCN là phương
tiện khẳng định, bảo vệ các giá trị đạo
đức XHCN như tính công bằng, chủ
nghĩa nhân đạo, cái thiện, lương tâm,
của con người.
Vai trò của pháp luật đối với tư tưởng
Thứ nhất, pháp luật XHCN ghi
nhận và khuyến khích sự phát triển
của một hay nhiều hệ tư tưởng nào đó.
Pháp luật XHCN là phương tiện thừa
nhận và đăng tải thế giới quan khoa
học, các giá trị và tư tưởng của loài
người tiến bộ và có khả năng tác động
lên sự hình thành, phát triển và biến
đổi tư tưởng. Chẳng hạn, chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
được ghi nhận trong Điều 4, Hiến
pháp 1992 (sửa đổi 2001) của Nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Thứ hai, pháp luật XHCN phủ nhận,
cấm sự tồn tại hoặc hạn chế sự phát
triển của những hệ tư tưởng không phù
hợp với hệ tư tưởng giữ địa vị thống
trị trong XH. Chẳng hạn, pháp luật
Việt Nam không thừa nhận những tư
tưởng kỳ thị dân tộc, chống CNXH,

mê tín dị đoan, trong điều 5,13,30
Hiến pháp 1992 sửa đổi.
2.7. Vai trò của pháp luật đối với
quan hệ quốc tế
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện
thể chế hóa quan điểm của Đảng về
quan hệ đối ngoại. Các quan điểm,
đường lối của Đảng về vấn đề quan hệ
quốc tế trong từng thời kỳ phát triển
của đất nước được cụ thể hóa trong
các văn bản qui phạm pháp luật do nhà
nước ban hành.
Thứ hai, pháp luật tạo cơ sở pháp lý
để Nhà nước hội nhập nền kinh tế
quốc tế. Dựa trên các qui định của
pháp luật, Nhà nước ký kết các điều
ước quốc tế song phương và đa
phương và tham gia vào các mối quan
hệ quốc tế.
3. Liên hệ thực tiễn
Để phát huy vai trò của pháp luật
trong quản lý nhà nước và xã hội, cần
phải thực hiện đồng bộ các giải pháp
sau đây :
1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật :
a) Thực trạng hệ thống pháp luật Việt
nam:
Sau đổi mới, việc không ngừng
hoàn thiện hệ thống pháp luật là một

trong những chủ trương quan trọng,
thường xuyên của Đảng và Nhà nước
Việt Nam. Chủ trương về hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam, phải
quản lý đất nước bằng pháp luật chứ
không chỉ bằng đường lối, bằng tuyên
truyền, bằng đạo lý đã được ghi nhận
trong hầu hết các văn kiện của Đảng,
đặc biệt là nghị quyết Hội nghị trung
ương 8 (Khoá VIII), nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, nghị
quyết Hội nghị Trung ương 3 (Khoá
VIII) và nghị quyết Đại Hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX.
Từ năm 1992 đến nay là thời kỳ hệ
thống pháp luật Việt nam có bước tiến
mới về số lượng. Chỉ tính từ khi Hiến
pháp 1992 được thông qua cho đến
ngày 14/6/2005, Quốc Hội các khoá
24
Page 25 of 38
đã thông qua được 125 luật - chiếm
68% tổng số luật được thông qua từ
năm 1945 đến nay
Riêng trong giai đoạn 2005-2009,
Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội ban hành 117
luật, pháp lệnh (hoàn thành khoảng
70% kế hoạch số 900/UBTVQH11 đề
ra cho giai đoạn 2005-2012). Chính

phủ đã ban hành 769 nghị định; các
bộ, ngành đã ban hành 1769 thông tư,
461 thông tư liên tịch.
Tuy đạt được một số thành tựu nhất
định nhưng hệ thống pháp luật Việt
Nam cũng bộc lộ một số yếu kém và
bất cập. Cụ thể, hệ thống pháp luật
chưa có tính toàn diện, đồng bộ, cân
đối, hệ thống và khả thi. Hệ thống văn
bản qui phạm pháp luật còn thiếu toàn
diện, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu
quản lý đất nước bằng pháp luật.
Nhiều lĩnh vực bức xúc của đời sống
xã hội vẫn chưa có luật điều chỉnh. Hệ
thống pháp luật chưa có sự phát triển
cân đối giữa các lĩnh vực, các ngành
luật. Chất lượng xây dựng và ban
hành văn bản qui phạm pháp luật
chưa cao. Nhiều qui định của pháp
luật không rõ ràng nên có thể hiểu
theo nhiều nghĩa khác nhau. Tình
trạng thi hành luật phải chờ nghị
định, thông tư hướng dẫn vẫn còn phổ
biến.
Tính công khai, minh bạch của hệ
thống pháp luật còn hạn chế. Uỷ ban
thường vụ Quốc Hội chưa thường
xuyên thực hiện việc giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh. Mặt khác, chưa
phân định rõ phạm vi, ranh giới giữa

việc giải thích luật, pháp lệnh thuộc
thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ
Quốc Hội với việc ban hành văn bản
hướng dẫn của Chính phủ và các cơ
quan có thẩm quyền khác và với việc
Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn
áp dụng thống nhất pháp luật trong
hoạt động xét xử ; Hoạt động rà soát,
hệ thống hoá văn bản qui phạm pháp
luật chưa được tiến hành thường
xuyên đã làm tăng thêm tính thiếu
minh bạch, rõ ràng của một số qui
định của pháp luật.
b) Nguyên nhân của những yếu kém,
bất cập của hệ thống pháp luật :
Những yếu kém và bất cập nói trên
của hệ thống pháp luật hiện hành do
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách
quan khác nhau. Trong đó có những
nguyên nhân chủ quan chính sau:
Thứ nhất, nhiều vấn đề lý luận về
pháp luật, về hệ thống pháp luật nói
chung và về các bộ phận, yếu tố hợp
thành hệ thống pháp luật nói riêng
chưa được nghiên cứu một cách cơ
bản, có hệ thống. Việc đánh giá, tổng
kết thực tiễn về hệ thống pháp luật
chưa được tiến hành đầy đủ. Chính vì
vậy, việc đổi mới và hoàn thiện hệ
thống pháp luật nước ta trong thời

gian qua chưa có cơ sở vững chắc về
lý luận và thực tiễn.
Thứ hai, các giải pháp xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật chưa
đồng bộ, còn mang tính giải pháp tình
thế, thiếu tính định hướng tổng thể.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ pháp luật
nói chung, đặc biệt là đội ngũ cán bộ
tham gia xây dựng pháp luật chưa đáp
ứng yêu cầu cả về số lượng và chất
lượng so với yêu cầu của hoạt động
xây dựng pháp luật.
Ngoài những nguyên nhân chủ quan
nói trên, còn có các nguyên nhân
khách quan là xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật là công việc khó
khăn, lâu dài, đòi hỏi phải có quá
trình đúc kết kinh nghiệm trong nước
và ngoài nước; nhất là đối với Việt
nam là một nước châu Á có truyền
thống coi trọng các giá trị đạo lý. Hơn
nữa, việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật hiện nay ở nước ta
được tiến hành để đáp ứng điều kiện
chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung
bao cấp sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa nên có
những khó khăn khách quan nhất
định.
c. Các giải pháp tiếp tục xây dựng

và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam :
Thứ nhất, xác định các lĩnh vực
trọng điểm để ưu tiên đầu tư để xây
dựng và hoàn thiện pháp luật.
Thứ hai, đổi mới cơ bản qui trình,
thủ tục xây dựng pháp luật từ sáng
kiến pháp luật đến thông qua luật
nhằm đẩy nhanh quá trình soạn thảo,
ban hành luật. Nâng cao chất lượng
văn bản qui phạm pháp luật.
Thứ ba, nâng cao trình độ và năng
lực làm luật của Quốc hội. Tăng hợp
lý tỉ lệ đại biểu chuyên trách, có trình
độ, hiểu biết về pháp luật.
Thứ tư, tăng cường vai trò, trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức
nghiên cứu chuyên ngành trong hoạt
động xây dựng pháp luật.
Thứ năm, hiện đại hoá phương thức
và phương tiện xây dựng pháp luật.
Thứ sáu, hoàn thiện pháp luật về
công báo, bảo đảm tất cả các văn bản
qui phạm pháp luật, các điều ước
quốc tế mà Việt nam là thành viên,
văn bản hành chính có hiệu lực áp
dụng chung đều được công bố trên
Công báo một cách đầy đủ, kịp thời và
chính xác.
Thứ bảy, nghiên cứu về khả năng

khai thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể
cả tập quán, thông lệ thương mại quốc
tế) và qui tắc của các hiệp hội nghề
nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn
thiện hệ thống pháp luật.
2. Tổ chức thực hiện pháp luật :
Thứ nhất, tăng cường phổ biến,
tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Để
đưa pháp luật vào cuộc sống thì biện
pháp quan trọng hàng đầu là phải
tăng cường phổ biến, tuyên truyền,
giáo dục pháp luật; góp phần nâng
cao ý thức pháp luật cho nhân dân.
Thứ hai, xác định trách nhiệm của
các cấp, các ngành trong việc triển
khai, thực hiện các văn bản qui phạm
pháp luật. Thực tế đã chứng minh,
nhiều văn bản qui phạm pháp luật
chưa được triển khai, thực hiện
nghiêm trong thực tiễn cuộc sống là
do chưa xác định rõ trách nhiệm của
từng cơ quan, từng cấp và từng ngành
trong việc triển khai các văn bản đó.
Thứ ba, xử lý nghiêm đối với những
hành vi vi phạm pháp luật. Pháp luật
chỉ phát huy được hiệu quả điều chỉnh
các quan hệ xã hội khi tất cả các hành
vi vi phạm pháp luật đều được phát
hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh.
Xử lý nghiêm đối với những hành vi vi

phạm pháp luật còn có ý nghĩa răn đe,
góp phần tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
Câu 10. Khái niệm pháp chế, phân
tích các nguyên tắc các biện pháp
tăng cường pháp chế XHCN ở Việt
Nam.
Trả lời:
1. Khái niệm pháp chế
Nhà nước ta là: “Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân” (Điều 2, Hiến pháp
1992). Đặc trưng cơ bản của Nhà nước
pháp quyền là: “Nhà nước quản lý
XH bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế XHCN” (Điều 12,
Hiến pháp 1992). Pháp chế thường
được hiểu là “Chế độ trong đó đời
sống và hoạt động XH được bảo đảm
bằng pháp luật”. Pháp chế còn được
hiểu là “Chế độ chính trị của một nước
trong đó việc quản lý Nhà nước, quản
lý XH và điều hành các quan hệ XH
đều căn cứ vào pháp luật. Pháp luật và
pháp chế là hai hiện tượng pháp lý
khác nhau, độc lập tương đối với nhau
nhưng có mối quan hệ phổ biến, mật
thiết với nhau: pháp luật là hệ thống
quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành
thể hiện ý chí của giai cấp thống trị;

được Nhà nước bảo đảm thực hiện
bằng sức mạnh cưỡng chế; là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ XH. Như vậy
pháp luật được biểu hiện chủ yếu
trong hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật: hiến pháp, bộ luật, luật,
pháp luật, nghị quyết, lệnh, nghị
định, Pháp luật đó mới tạo ra khả
năng có thể được thực hiện.
2. Các nguyên tắc của pháp chế
pháp chế XHCN
Nguyên tắc pháp chế XHCN là
những tư tưởng chủ đạo, cơ bản thể
hiện bản chất và đặc điểm của pháp
chế XHCN.
25

×