Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tổng hợp câu hỏi và đáp án ôn thi môn Chính trị học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.81 KB, 27 trang )

Câu 1: Phân tích giá trị lịch sử tư
tưởng chính trị ở phương tây thời kỳ cổ
đại và cận đại. Những giá trị đó có tác
dụng gì với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền ở nước ta hiện nay.
Bài làm
Thời cổ đại ở phương Tây, với những
cuộc đấu tranh một mất một còn giữa chủ nô
dân chủ và chủ nô quý tộc mà biểu hiện của
nó là những cuộc cải cách dân chủ ở các
thành bang là đặc trưng cơ bản nổi bật của
hệ tư tưởng lúc bấy giờ. Thời trung cổ là sự
kết hợp và xuyên thấu lẫn nhau giữa thần
quyền và thế quyền để thống trị thần dân mà
biểu hiện cơ bản là sự thống trị của thiên
chúa giáo đối với tinh thần của nông nô. Sang
thời cận đại, đặc trưng cơ bản là sự phát triển
mạnh mẽ của triết học khai sáng và là thời kỳ
của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản với
sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân
dân lao động đấu tranh cho các quyền cơ bản
của con người. Đó là những nét tổng thể dệt
nên nội dung cơ bản của lịch sử phát triển tư
tưởng chính trị ở các nước phương Tây thời
kỳ trước Mác.
Việc làm rõ những giá trị phổ biến trong
sự phát triển chính trị của nhân loại qua sự
phát triển tư tưởng chính trị phương tây từ cổ
đại đến cận đại sẽ có ý nghĩa rất quan trọng
trong tổ chức thực thi quyền lực chính trị của
nhân dân lao động ở nước ta.


I. Giá trị lịch sử tư tưởng chính trị ở
phương tây thời kỳ cổ đại và cận đại
1. Thời cổ đại mà đặc trưng là các tư
tưởng và học thuyết chính trị Hy Lạp - La Mã.
Họ đề cập về những vấn đề như nguồn gốc,
bản chất của nhà nước, các hình thức xã hội,
thể chế nhà nước, thủ lĩnh chính trị
Trước nhất, bàn về thủ lĩnh chính trị, đã
có rất nhiều quan điểm, ý kiến của các học
giả về vấn đề này
SOCRAT cho rằng : thủ lĩnh chính trị
phải là người có đạo đức. Nhưng đạo đức
phụ thuộc vào trí tuệ. Tuy nhiên, do xuất thân
từ tầng lớp chủ nô quý tộc nên ông cho rằng
chỉ có thiểu số tầng lớp quý tộc mới là người
có trí tuệ, mới là những người sáng tạo đúng
đắn.
DEMOCRITE: yêu cầu thủ lĩnh chính
trị phải là người có tài năng, đạo đức và do
thuộc trường phái duy vật chủ nô dân chủ
nên cho rằng tầng lớp bình dân cũng có tài
năng, có thể làm được chính trị.
SENOPHONE : yêu cầu thủ lĩnh chính
trị phải có kỷ thuật giỏi, phải có sức thuyết
phục cao, người thủ lĩnh phải biết vì lợi ích
chung nghĩa là phải biết chăm sóc cho người
bị trị, biết hợp lại và nhân sức mạnh của mọi
người. Ông là người đầu tiên đặt ra yêu cầu
về thủ lĩnh chính trị khá toàn diện như : phải
có chuyên môn giỏi, có uy tín, vì dân…

PLATON: yêu cầu thủ lĩnh chính trị
phải thực sự có khoa học chính trị, có tính khí
phù hợp với nhiệm vụ đảm đương. Ông xem
tiêu chuẩn chính trị là tiêu chuẩn của mọi tiêu
chuẩn. Ông quan niệm người lãnh đạo trong
xã hội không được có quyền tư hữu (sở hữu
về tài sản) bởi vì tư hữu sẽ làm mất công
tâm. Lực lượng võ sĩ bảo vệ thì không được
có gia đình riêng vì có gia đình riêng thì sẽ
không thể chiến đấu dũng cảm được. Theo
ông, thủ lĩnh chính trị phải biết hy sinh lợi ích
cá nhân vì những giá trị chung. Tuy có những
quan điểm tiến bộ nhưng ông vẫn còn sai lầm
khi cho rằng một thủ lĩnh chính trị như vậy chỉ
có ở tầng lớp chủ nô quý tộc.
ARISTOTE: xem thủ lĩnh chính trị là
người sung túc, là người ở tầng lớp trung lưu
không phải giàu cũng không phải nghèo, họ
là người phải biết uốn mình theo lới khuyên
của các bên (vì quan điểm của ông theo nhị
nguyên luận).
CICÉRON: như là một sự tổng kết về
của những tư tưởng về người thủ lĩnh chính
trị trước đó. Oâng nêu ra rằng người thủ lĩnh
chính trị phải có sự thông thái, có trách
nhiệm, có sự cao thượng về phẩm hạnh, phải
thống nhất trong minh giữa tài năng và quyền
uy. Có uy thế tinh thần, có tinh thần cao
thượng, biết hy sinh vì lợi ích chung, bỏ qua
các lợi ích tiền bạc không chính đáng. Quan

niệm của ông đến ngày nay cũng khó có
người đạt được, đó là nhà chính trị phải có
chính trị, có đạo đức…
Thứ hai, bàn về nguồn gốc của quyền lực
nhà nước, một số quan điểm nổi bậc của các
học giả như sau :
HERACLIT: là người thuộc tầng lớp
chủ nô quý tộc, có lập trường duy tâm, ông
xem trạng thái tự nhiên của con người tự nó
đã hoàn hảo, không có vấn đề công bằng hay
không công bằng ở đó. Công bằng do con
người tạo ra xã hội con người là một trạng
thái tự nhiên, tự nó, không ai sinh ra, không ai
sắp đặt nó, tự nhiên sinh ra có kẻ trí và người
ngu cho nên kẻ trí thống trị người ngu là lẽ tự
nhiên, kẻ trí là người quí tộc, nô lệ là người
ngu. Ông cho rằng quyền lực là quy luật vĩnh
viễn. Không bao giờ trong xã hội lại không có
quyền lực. Pháp luật nhằm thực hiện tính tất
yếu của quyền lực, xã hội phải phục tùng ý
chí của một cá nhân là điều tất yếu cho sự
thống nhất. Theo ông bất bình đẳng là tự
nhiên, một quý tộc phải được trị giá bằng một
nghìn dân thường.
PLATON: xem quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước là quyền lực thống trị
của kẻ trí đối với người ngu. Đó là đặc tính
của trí tuệ. Chỉ có người có trí tuệ mới có
quyền lực. Trí tuệ chỉ có ở quý tộc.
ARISTOTE: quan niệm quyền lực của

xã hội cũng là một trạng thái tự nhiên. Nó
xuất phát từ gia đình, quyền của cha đối với
con, chồng đối với vợ, anh đối em; xuất phát
từ quyền lực đối với xã hội. Trong xã hội có
nhiều gia đình, gia đình này có sự xâm hại
đối với gia đình khác. Do đó mỗi gia đình phải
nhượng lại quyền lực của từng gia đình thành
quyền lực chung. Người nắm quyền lực
chung là nhà nước. Vì vậy, quyền lực nhà
nước là tự nhiên, pháp luật là những nguyên
tắc khách quan, vô tư, xuất phát vì lợi ích của
xã hội, của từng công dân.
CICÉRON cho rằng quyền lực nhà
nước hình thành trong quá trình lịch sử lâu
dài. Quyền lực bắt nguồn từ bản chất của con
người chạy trốn sự cô đơn, tìm cuộc sống
của cộng đồng. Cho nên quyền lực là của
chung chứ không riêng của một ai, dù đó là
người tài giỏi nhất cũng không sinh ra quyền
lực được.
Thứ ba, bàn về thể chế nhà nước, các
quan điểm lớn bao gồm :
HÉRODOT : là người đầu tiên trong
lịch sử nhân loại đã phân biệt và so sánh các
thể chế của nhà nước khác nhau. Theo ông
có 3 hình thức cơ bản:
+ Thể chế quân chủ: tức là thể chế
cầm quyền của một người-đó là vua. Thể chế
này có 2 mặt : Ưu điểm: là thể chế ra đời
thường là do những người có công khai quốc,

thường là vì lợi ích chung của nhân dân. Nó
là một bàn tay sắt cần thiết khi chế độ dân
chủ bị rối loạn. Nhược: thể chế này dễ rơi
vào sự độc tài, chuyên quyền, dễ bị xu nịnh,
luôn có xu hướng là lạm dụng quyền lực.
+ Thể chế quý tộc: thể chế của một
số ít người thông thái và tiêu biểu về phẩm
hạnh của quốc gia để cầm quyền. Ưu: đây
chính là chính quyền của những người có
trình độ cao nên mọi công việc, các quyết
sách chính trị đều được bàn bạc giữa những
người trí tuệ nên công việc có khoa học, ít sai
lầm. Nhược: giữa các nhà thông thái làm việc
bên nhau sớm muộn cũng sẽ tiêu diệt lẫn
nhau, vì không ai chịu thua ai, các nhà thông
thái đều muốn làm thầy của nhau.
+ Thể chế dân chủ: thể chế này là
của đông đảo nhân dân nắm quyền và nó
được thành lập bởi chế độ bỏ phiếu để bầu ra
các pháp quan. Ưu: các quyết định quyết
sách chính trị đều do tập thể bàn bạc một
cách dân chủ. Nó có xu hướng công bằng vì
lợi ích chung, chăm lo cho nhân dân. Nhược
: số đông người ít học cầm quyền thì khó có
khả năng chống độc tài, chuyên chế, dễ rơi
vào tiểu tiết mà quên đi tầm chiến lược,
thường thấy những chuyện trước mắt mà
không thấy trước những chuyện lâu dài. Dễ bị
kẻ xấu kích động lôi kéo. Từ đó ông kết luận
loại thể chế tốt nhất là thể chế hỗn hợp

những ưu của từng thể chế trên.
DEMOCRIT: ông ủng hộ chế độ dân
chủ cộng hoà chủ nô.
SOCRAT: ông là người ủng hộ chế độ
chuyên chế độc tài. Ông cho rằng dân chủ là
sai lầm. Dân chủ là chính quyền của người
ngu dốt, ông gọi đó là chính quyền “bình
dân”.
ARISTOTE: ông cho rằng thể chế nhà
nước dân chủ là thể chế người giàu, người
nghèo không bên nào số lượng tuyệt đối. Ông
cho rằng mọi thể chế đều có nguy cơ biến
chất, thay đổi bằng cuộc cách mạng. Ông là
người đầu tiên phân loại quyền lực nhà nước:
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Người đứng
đầu nhà nước là giai cấp trung lưu, ông đề
cao vai trò của pháp luật đối với việc ổn định
xã hội. Nhà nước có chức năng bảo đảm cho
xã hội được sống hạnh phúc. Ông quan niệm
công bằng rất tiến bộ, phân phối công bằng
có nghĩa là người đáng được hưởng nhiều
1
hơn thì được nhiều hơn, người đáng được
hưởng ít hơn thì được ít hơn. Ông cũng đề
cập đến vấn đề hài hòa giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội và cho rằng đạo đức phải
phục vụ cho pháp luật
POLYBE : kế thừa tư tưởng trước đó
vào thể chế nhà nước, ông cho rằng thể chế
nhà nước là phải kết hợp những ưu điểm các

thể chế chứ không theo một tiêu chí thuần túy
nào bởi vì trong thuần túy đã chức đựng mầm
mống sự yếu kém khi phát huy tối đa sẽ bộc
lộ yếu kém.
2. Thời trung cổ (thế kỷ thứ 10 đến thế
kỷ 15) xã hội phương Tây chìm đắm trong
xiềng xích nô lệ của hai thế lực thần quyền và
thế quyền, đó là Thiên chúa giáo và chế độ
phong kiến mà người ta gọi đêm trường
Trung cổ. Thiên chúa giáo lấn át cả chế độ
phong kiến và chi phối toàn bộ đời sống xã
hội bằng những luật lệ hà khắc và người
xuẩn. Chính vì vậy, thời kỳ này xã hội phương
Tây hầu như không phát triển được về mọi
mặt, kể cả hệ tư tưởng chính trị.
3. Thời cận đại là thời kỳ triết học khai
sáng, những tư tưởng chính trị phát triển rất
rực rỡ, phong phú và đa dạng, đặc biệt là ở
Pháp.
- DIDEROT: theo ông nguồn gốc nhà
nước ra đời do khế ước xã hội. Nhà nước
phải bảo đảm bình đẳng và tự do. Nhà nước
nào vi phạm điều đó thì không còn tư cách để
tồn tại.Về luật pháp: bản chất con người phải
phù hợp với trạng thái tự nhiên, luật pháp
quán triệt điều đó, chứ không phải ngược lại.
Người ta gọi ông là tác giả của tác phẩm
cộng sản tuyệt vời và của18 “bộ luật tự
nhiên”.Về tư cách lãnh đạo, ông cho rằng mọi
chức vụ của người cầm quyền phải được

thực hiện bằng thi cử. “dòng đầu tiên của một
bộ luật là hạn chế quyền lực của người cầm
quyền”. (Diderot). Về phương pháp thay đổi
chế độ xã hội, ông không tán thành phương
pháp cách mạng và cho tằng tiến bộ về lý trí
sẽ làm thay đổi xã hội. Ông phủ nhận vai trò
của tôn giáo: nhà thờ không thể dung hoà với
chân lý được.
- VOLTAIRE: ) là lãnh tụ của phong trào
khai sáng, ông chống chế độ chủ nô, đấu
tranh cho sự bình đẳng của công dân nước
Pháp. Ông phê phán nhà thờ và chuyên chế,
mọi tội ác trong xã hội là do nhà thờ mà ra.
Ông chủ trương tự do tín ngưỡng, báo chí,
ngôn luận và sở hữu. Ông kịch liệt chống
chiến tranh. Theo ông, chiến tranh còn kinh
khủng hơn dịch hạch và điên khùng. Theo
ông bất bình đẳng về tài sản là tất yếu.
- MONTESQUIEU: phê phán chế độ
chuyên chế phong kiến và cho rằng chuyên
chế về bản chất là đối lập với tự do. Theo ông
chế độ chuyên chế là bạo chúa, vua pháp là
một gã phù thuỷ. Bàn về nhà thờ, ông cho
rằng nhà thờ là nguồn gốc của tội lỗi, ông giải
thích sở dĩ La Mã cường thịnh là do ghét
chuyên chế và yêu tự do. Sở dĩ La mã bị huỷ
diệt cũng vì tự do bị huỷ diệt và đạo đức bị
suy đồi; song ông cũng giành cho tôn giáo
một vị trí nhất định trong việc duy trì đạo đức
xã hội. Về nguồn gốc của nhà nước, theo

ông, nhà nước xuất hiện trong một quá trình
lịch sử lâu dài khi mà trong xã hội xuất hiện
tình trạng mâu thuẫn không thể điều hoà nếu
không có một cơ quan có quyền lực đủ mạnh
để giữ gìn sự bình ổn của xã hội. Ông là
người đã xây dựng học thuyết nhân quyền
với mục đích tạo dựng các thể chế chính trị
bảo đảm tự do chính trị cho các công dân. Tự
do chính trị của công dân là quyền làm mọi
cái mà pháp luật không cấm. Do vậy tự do
chính trị chỉ có được ở các quốc gia mà tất cả
các quan hệ đều được điều chỉnh bằng luật
pháp. Pháp luật trở thành thước đo của tự do,
mặt khác ông lại cho rằng kinh nghiệm lịch sử
bao đời cho thấy người nắm quyền lực
thường có khuynh hướng lạm quyền. Do vậy
cách tốt nhất để chống lạm quyền là phải
chống độc quyền, là phải phân chia sao cho
quyền lực kiềm chế quyền lực, từ đó ông đưa
ra học thuyết tam quyền phân lập một cách
có hệ thống (lập pháp hành pháp và tư
pháp) và là đối thủ đáng sợ nhất của chế độ
chuyên chế phong kiến. Đặt vấn đề xây dựng
đạo đức chính trị: ông cho rằng đạo đức
chính trị là phải đặt lợi ích công cộng cao hơn
lợi ích cá nhân người cầm quyền. Ông đề ra
thuyết địa lý: cho rằng cái đạo đức, cái tính
cách của một dân tộc chịu sự chi phối bởi
những điều kiện địa lí nhất định (địa hình, khí
hậu…) nhà cầm quyền khi ban hành chính

sách pháp luật phải xét đến những điều kiện
địa lí cụ thể đó. Về thể chế nhà nước: ông
phân ra bản chất và nguyên tắc hoạt động
của các loại chính phủ đó là chính phủ cộng
hoà dân chủ, cộng hoà quý tộc, quân chủ.
- ROUSSEAU: là đại biểu của tầng lớp
dân chủ thị dân, ông phê phán gay gắt quan
hệ đẳng cấp phong kiến và chế độ chuyên
chế. Về chính trị: quan điềm về chính trị của
ông cấp tiến hơn Montesquieu (vì
Montesquieu bảo vệ tư tưởng quân chủ lập
hiến), quan điểm của ông tiến xa hơn ở chỗ
đề cao tư tưởng chủ quyền nhân dân, ông
không chỉ phê phán chế độ phong kiến mà
đòi bác bỏ hoàn toàn chế độ đó. Ông cho
rằng trong xã hội mọi người phải được tự do
bình đẳng đó là trạng thái tự nhiên vốn có, là
phúc lợi cao nhất của con người, quyền lực
trong xã hội phải thuộc về nhân dân. Nhà
nước lập ra qua các khế ước xã hội phải thể
hiện ý chí quyền lực của nhân dân nếu không
thể hiện được điều đó thì bộ phận cầm quyền
phải bị đào thải, thay thế. Ông chủ trương
quyền lực phải tập trung cao nhất, ông chống
lại tư tưởng phân quyền của Montesquieu,
theo ông nếu quyền lực phân chia ra các cơ
quan nắm giữ các nhiệm vụ khác nhau thì
phải coi các cơ quan đó là công cụ của chủ
thể nhân dân và lệ thuộc vào chủ quyền nhân
dân. Ông cho rằng ý chí chung phải được rút

ra từ đa số và chính trị là chính trị của đa số,
được xây dựng trên nguyên tắc đa số, chỉ
qua quyết định của đa số thì chính trị mới
không phạm sai lầm.
- LỐC CƠ: Ông cho rằng bản chất
của con người là tự do, xã hội loài người là tự
do, cho nên tự do là giá trị cao quý nhất của
xã hội, của con người. Nhà nước phải bảo
đảm sự tự do của con người, mới bảo đảm
tồn tại sự hợp lí của nhà nước. Luật của tư
nhiên bắt buộc phải tự do nên con người phải
tự do. Ông đã luận giải về nguồn gốc và bản
chất của nhà nước xuất phát từ quyền lực tự
nhiên của con người là tối cao và bất khả
xâm phạm. Do quy luật tự nhiên của xã hội
mà nảy sinh ra bất công về kinh tế xã hội, mất
an ninh và quyền tự nhiên của con người bị
xâm phạm. Để bảo vệ quyền tự nhiên của
con người thì mọi thành viên trong xã hội mới
“ký kết”, hình thành một chính quyền có
quyền lực chung. Như vậy quyền lực xuất
hiện từ các thành viên của xã hội. Từ đó ông
đưa ra 3 kết luận quan trọng như sau :
- Quyền lực nhà nước về bản chất là
quyền lực của dân. Quyền lực của dân là cơ
sở, nguồn gốc, nền tảng của quyền lực nhà
nước. Trong quan hệ với dân, nhà nước
không có quyền mà chỉ thực hiện sự ủy
quyền của nhân dân . Nhà nước có quyền
trong “khế ước xã hội”, đó là hiến pháp những

đạo luật cơ bản…
- Nhà nước thực chất là khế ước của
xã hội, trong đó công dân nhường một phần
quyền của mình mà hình thành quyền lực
chung, quyền lực nhà nước điều hành và
quản lý XH để bảo vệ quyền tự nhiên của con
người.
- Bảo toàn quyền tự nhiên của mỗi cá
nhân con người, đó cũng là tiêu chí căn bản
nhất để xem xét tính hợp lý hay không hợp lý
của nhà nước, đó là giới hạn căn bản của
nhà nước. Đi quá giới hạn này, chính quyền
sẽ là chuyên chế , thành kẻ thù của quyền lực
tự nhiên và là đối tượng cách mạng.
Ba kết luận trên đặt nền móng cho chế
độ dân chủ hiện đại. Lốccơ chia nhà nước
làm 3 cơ quan với 3 quyền khác nhau:
- Quyền lập pháp : là sự biểu hiện ý
chí chung của quốc gia và thuộc về toàn dân.
Nếu những quốc gia lớn thì cử ra đại biểu
nhân dân (nghị viện) do nhân dân bầu ra và
phải là những người hiểu rõ về luật.
- Quyền hành pháp : là quyền thực
hiện pháp luật đã được lập ra bởi cơ quan lập
pháp, phải có cơ cơ quan riêng và tách ra
khỏi quốc hội.
- Quyền tư pháp : là quyền xét xử tội
phạm và giải quyết tranh chấp giữa cá nhân
được thực hiện bởi thẩm phán do nhân dân
bầu ra.

Theo ông, phân quyền là một tất yếu kĩ
thuật, là một tiêu chuẩn không thể thiếu được
của một xã hội dân chủ. Yêu cầu phân quyền
sao cho cân bằng, công bằng nghĩa là dùng
quyền lực này để chế ngự quyền lực khác.
Như vậy, tư tưởng chính trị ở phương
tây thường gắn liền với pháp luật trong khi tư
tưởng chính trị phương đông thường gắn liền
với đạo đức. Tư tưởng chính trị phương tây
thường xuất phát từ “trạng thái tự nhiên” của
con người thường đề cao động lực “quyền
lợi” của con người. Chính trị học của giai cấp
tư sản phương tây thường dựa trên cơ sở
của chủ nghĩa cá nhân, tuyết đối hoá quyền
2
lợi cá nhân. Tư tưởng chính trị của giai cấp tư
sản so với tư tưởng chính trị của giai cấp
phong kiến là một bước tiến bộ trong việc giải
phóng con người nhưng vẫn chưa đặt con
người như là mục đích, tức là vẫn chưa thể
giải phóng đại đa số nhân dân lao động.
Sự ra đời của tư tưởng chính trị Macxit là
một cuộc cách mạng vĩ đại, lần đầu tiên trong
lịch sử xã hội loài người, một giai cấp bị áp
bức bóc lột, giai cấp công nhân đã có một hệ
tư tưởng cách mạng và khoa học là kim chỉ
nam cho hành động của mình. Trên thực tế
Mác-Ănggghen đã xây dựng tư tưởng chính
trị của mình khác về chất so với những tư
tưởng chính trị duy tâm trước đó. Sự ra đời

của tư tưởng chính trị của 2 ông là bước
ngoặc cách mạng trong lịch sử tư tưởng
chính trị nhân loại. Với 2 ông chính trị lớn
nhất là giải phóng con người mà muốn giải
phóng con người thì phải giải quyết vấn đề
giai cấp, phải giành lấy các nguồn lực chính
trị, đó là con đường giải phóng một cách khoa
học và như vậy chủ nghĩa Mác chính là chủ
nghĩa nhân đạo hiện thực chứ không phải là
chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng chỉ dựa vào
đạo đức và lòng thương người. Trong quá
trình đấu tranh, giai cấp công nhân và nông
dân, các dân tộc bị áp bức, tư tưởng chính trị
Macxit đã trở thành ngọn cờ chủ đạo.
Ngày nay, CNXH đang đứng trước những
thử thách to lớn nhưng chúng ta tin vào bản
chất cách mạng và khoa học vốn có của nó,
CNXH khoa học nói riêng và tư tưởng chính
trị Macxit nói chung sẽ tiếp thu được những
tri thức mới của thời đại, tiếp tục làm kim chỉ
nam cho phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động trên thế
giới.
II. Giá trị của nó đối với việc xây dựng nhà
nước pháp quyền ở nước ta hiện nay:
Khi nghiên cứu tư tưởng chính trị của các
thời đại lịch sử Tây, chúng ta không được
quên tính giai cấp của nó, mặt khác không vì
thế mà phủ nhận toàn bộ nội dung, tri thức
khách quan trong các học thuyết chính trị mà

phải biết chọn lọc, rút ra những cái giá trị để
kế thừa, làm giàu tri thức của mình, kể cả đối
với tư tưởng chính trị tư sản hiện đại.
Qua những giá trị tư tưởng chính trị
Phương Tây đã trình bày, chúng ta nhận thấy
rằng bất cứ hệ thống chính trị nào, nhà nước
cũng mang bản chất giai cấp, nhưng đồng
thời phải thực hiện chức năng xã hội. Mặt
khác, hệ thống chính trị nào, nhà nước nào
mà quyền lực thuộc về nhân dân lao động thì
đó là xu hướng tiến bộ. Nhà nước pháp
quyền là một thành tựu của văn minh chính trị
cần phải được ứng dụng. Hệ thống chính trị
cần phải có cơ chế tự điều chỉnh và cơ chế
cân bằng kiểm soát quyền lực để thích ứng
với điều kiện thay đổi và cần phát huy sáng
tạo cá nhân.
Trên đây là những vấn đề cơ bản của các
học thuyết chính trị thường đề cập đến và
cũng là những bài học kinh nghiệm mà chúng
ta cần xét đến trong quá trình xây dựng hệ
thống chính trị của đất nước hiện nay
Ở Việt Nam ta, do chịu ảnh hưởng của tư
tưởng chính trị phương Đông nên gắn liền với
đạo đức (Nho giáo, Phật giáo), ý thức tuân
thủ pháp luật của công dân chưa cao. Việc
vận dụng những tri thức về xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội công dân vào công
tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật của nhà nước pháp quyền XHCN là rất

cần thiết và bổ ích. Đó chính là quan điểm kết
hợp hài hoà những giá trị đạo đức tiến bộ của
nhân loại với giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc.
- Trong công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay, để tiếp tục hoàn thiện nhà nước,
phát huy dân chủ và tăng cường pháp chế
XHCN, phải xây dựng nhà nước CH XHCN
VN thực sự là trụ cột của hệ thống chính trị
và là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân. Đó là nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân, nhà nước
ta dưa trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn
dân thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của
nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp (không phân
quyền). Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công
chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành
hiến pháp và pháp luật. Cán bộ, công chức
nhà nước phải là đầy tớ trung thành của dân,
tận tuỵ phục vụ nhân dân.
- Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà
nước thể hiện ở việc đề ra đường lối, chủ
trương và các chính sách định hướng cho sự
phát triển trong từng thời kì, lãnh đạo nhà
nước định ra và thực thi hiến pháp và pháp
luật. Các cơ quan nhà nước phải liên hệ chặt

chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý
kiến nhân dân; phát huy vai trò và trách
nhiệm của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể,
các tổ chức xã hội và nhân dân trong việc
tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát và bảo
vệ nhà nước.
- Quyền làm chủ của nhân dân được
thể hiện trên mọi lĩnh vực và được thể chế
hoá bằng pháp luật, được hòan thiện trong
quá trình phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao
dân trí. Nhà nước tạo điều kiện để nhân dân
thực sự tham gia quản lí xã hội thảo luận và
quyết định những vấn đề quan trọng, liên
quan đến lợi ích đông đảo của nhân dân.
Phát huy dân chủ kết hợp chặt chẽ với tăng
cường pháp chế, thực hiện quản lí xã hội
bằng pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật cho toàn dân tuyên tuyền, giáo dục
pháp luật gắn với trách nhiệm, lợi ích và
nghĩa vụ của công dân, tôn trọng và giữ vững
kỷ luật, kỉ cương, trật tự xã hội.
- Những nhà thủ lĩnh chính trị hoặc
Cán bộ Đảng viên, ở bất cứ cương vị nào
đều phải chấp hành nghiêm chỉnh cương lĩnh,
điều lệ, nghị quyết của Đảng và pháp luật của
nhà nước. Kiên quyết đấu tranh với những
biểu hiện coi thường và buông lỏng kỷ luật.
Xây dựng đội ngũ cán bộ trước hết là cán bộ
lãnh đạo và quản lí ở các cấp thật sự vững
vàng và kiên định về chính trị gương mẫu về

đạo đức, trong sạch về lói sống, có trí tuệ
kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn
sáng tạo, gắn bó với nhân dân. Đảng và nhà
nước có cơ chế và chính sách phát hiện
tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, đào tạo và
bồi dưỡng, trọng dụng những người có đức,
có tài ở trong và ngoài Đảng.
Tóm lại: việc xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCNVN thực sự vững mạnh đồng
thời nâng cao hiệu quả và chất lượng lãnh
đạo của Đảng đối với nhà nước đã trở một
đòi hỏi bức thiết của cuộc sống, của sự
nghiệp đổi mới, sự nghiệp cách mạng của
dân tộc ta vì chỉ có xây dựng nhà nước pháp
quyền đủ mạnh mới có thể bảo vệ và phát
huy những thành quả trong quá trình đổi mới
về mọi mặt (chính trị, kinh tế,văn hoá, quan
hệ quốc tế…), mới có đủ khả năng giải quyết
vấn đề mới nảy sinh do mặt trái của cơ chế
thị trường, của kinh tế nhiều thành phần
mang lại, và mới có khả năng đương đầu và
đập tan chiến lược “diễn biến hoà bình” mà
các thế lực chống đối đang ráo riết tiến hành .
Để làm được điều đó nhà nước phải thực
hiện đồng thời các giải pháp sau :
- Tiến hành cải cách, hoàn thiện các
cơ quan lập pháp, hành pháp vàtư pháp mà
trước mắt là cải cách một bước nền hành
chính.
- Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện

pháp luật để đáp ứng đòi hỏi quản lí đất nước
với kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường và mở rộng giao lưu quốc
tế.
- Thể chế hoá nền dân chủ của nhân
dân thành pháp luật, thành cơ chế, thành
chính sách, làm cho dân chủ đi liền với kỷ
cương trật tự, dân chủ và chuyên chính
không tách rời nhau.
Nếu quán triệt đầy đủ và thực hiện tốt
những phương hướng nêu trên nhà nước
pháp quyền XHCNVN sẽ được thiết định
vững chắc và ngày càng ph
át triển.
3
Vấn đề 2: Vận dụng lý luận về quyền
lực chính trị và thực tiễn đổi mới ở nước
ta hiện nay để phân tích và chứng minh :
quyền lực chính trị trong chủ nghĩa xã hội
là thuộc về nhân dân lao động.
Bài làm
Chính trị học là khoa học đấu tranh cho
quyền lực chính trị và khoa học về giành, giữ
và thực thi quyền lực chính trị. Quyền lực
chính trị trở thành trung tâm xuất phát của
chính trị học. Song quyền lực chính trị chỉ
xuất hiện và tồn tại khi XH có sự phân chia
giai cấp, còn quyền lực đã xuất hiện cùng với
loài người được tổ chức thành XH và sẽ tồn
tại cùng với đời sống XH. Theo quan điểm

của CN Mác-Lênin “quyền lực chính trị theo
đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của
một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác”.
Với khái niệm này, ta thấy rằng quyền lực
chính trị luôn gắn liền với giai cấp, gắn liền
với bản chất nhà nước. “Quyền lực chính trị
trong CNXH cơ bản thuộc về nhân dân lao
động”. Bằng lý luận về quyền lực chính trị và
thực tiễn cách mạng ở nước ta, chúng ta phải
phân tích làm rõ luận điểm trên.
1. Khái niệm và đặc trưng của quyền lực
chính trị :
a. Khái niệm :
Trong XH có giai cấp, các giai cấp thể hiện
ý chí của giai cấp mình đối với XH. Ý chí đó
chỉ thực sự có hiệu lực khi giai cấp nắm lấy
được quyền điều hành quyền lực công, họ sử
dụng quyền lực công cho mục đích giai cấp,
biến quyền lực công thành quyền lực giai
cấp, đồng thời biến ý chí của giai cấp thành
quyền lực công. Cả 2 quyền lực ấy hợp thành
một chỉnh thể quyền lực chính trị của giai cấp
cầm quyền để trấn áp giai cấp đối lập. Vậy,
“Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó
là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn
áp một giai cấp khác”.
Kế thừa và phát huy khái niệm về quyền
lực chính trị như trên, Hồ Chí Minh khẳng
định “nhân dân ta phải giành lấy chính quyền,
là vấn đề tiên quyết, là phải xây dựng một

Đảng cách mạnh để lãnh đạo nhân dân đấu
tranh giành lấy chính quyền.” Việc đấu tranh
giành chính quyền, gìn giữ và củng cố chính
quyền ấy là điều quan trọng, có ý nghĩa cốt tử
nhất.
b. Đặc trưng :
Quyền lực chính trị ra đời gắn liền với sự
xuất hiện của các giai cấp trong xã hội,
nhưng các chế độ xã hội có bản chất khác
nhau thì quyền lực chính trị cũng sẽ hiểu
khác nhau. Song, dù chế độ xã hội nào thì
quyền lực chính trị cũng biểu hiện trên các
đặc điểm cơ bản sau : Một là quyền lực chính
trị bao giờ cũng mang tính giai cấp. Hình thức
tổ chức quyền lực chính trị có thể là thế chế
chính trị chỉ một giai cấp hoặc của sự liên
minh giữa các giai cấp hay của nhân dân.
Nhưng thực chất của quyền lực đó bao giờ
cũng thuộc về một giai cấp nhất định, giai cấp
thực thụ cầm quyền (đây là đặc điểm hết sức
khác nhau giữa quyền lực chính trị và quyền
lực xã hội); Hai là quyền lực chính trị biểu
hiện ra bên ngoài là thống nhất nhưng trong
quan hệ nội tại thường hàm chứa sự khác
biệt và thậm chí chứa đựng mâu thuẫn đối
kháng; Ba là sức mạnh của quyền lực chính
trị là sức mạnh của giai cấp.
c. Quyền lực nhà nước và chức năng của
nhà nước
Quyền lực chính trị tiêu biểu tập trung ở

quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là
quyền lực của giai cấp thống trị (giai cấp cầm
quyền). Là một bộ phận quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước cũng mang đầy đủ tính
chất và đặc trưng của quyền lực chính trị.
Nhà nước không chỉ biểu hiện tập trung và
mạnh mẽ nhất, quyền lực của giai cấp cầm
quyền mà còn nhân danh quyền lực công,
quyền lực XH đối với mọi giai cấp và tầng lớp
khác Ngoài ra, quyền lực nhà nước cũng có
tính đặc thù riêng. Điểm khác nhau căn bản
giữa quyền lực nhà nước với quyền lực chính
trị là quyền lực nhà nước có khả năng vận
dụng các công cụ, các lực lượng, các
phương tiện nhà nước để buộc các giai cấp,
các tầng lớp phải phục tùng ý chí của giai cấp
thống trị. Còn quyền lực chính trị không chỉ là
quyền lực nhà nước mà còn bao gồm các
yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng chính
trị như : quyền lực của Đảng cầm quyền, của
các tổ chức chính trị nhân dân phi nhà nước
Quyền lực của nhà nước có 2 chức
năng :
- Chức năng thống trị giai cấp để đảm
bảo sự thống trị về mặt chính trị của giai cấp
cầm quyền đối với các giai cấp và các tầng
lớp khác trong xã hội nhằm bảo vệ và phát
triển nền kinh tế mà giai cấp cầm quyền là
người đại diện cho quan hệ sản xuất thống
trị; bảo đảm sự xác lập hệ tư tưởng cùa giai

cấp cần quyền trong toàn bộ nền văn hoá xã
hội; chống lại mọi lực lượng thù địch từ bên
trong hay từ bên ngoài để giữ vững toàn bộ
quyền lực chính trị trong tay giai cấp cầm
quyền.
- Chức năng xã hội để thực hiện nghĩa
vụ công quyền nhằm bảo đảm cho nhà nước
quản lý xã hội trên mọi lĩnh vực, làm cho xã
hội tồn tại và phát triển ổn định trong trật tự;
làm dịu sự xung đột giai cấp bằng điều hoà
lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp… trong
xã hội; đảm đương trách nhiệm xây dựng
những công trình công cộng , cơ sở vật chất
kỹ thuật cho sự phát triển chung của xã hội;
hình thành môi trường ổn định cho sự phát
triển mọi mặt của đất nước; thực hiện sự
bang giao quốc tế, thay mặt cho quốc gia,
dân tộc trong mọi quan hệ đối ngoại ở cấp
nhà nước.
Xét trên ý nghĩa cơ bản, chức năng
thống trị của giai cấp được thực hiện thông
qua nghĩa vụ công quyền và những vấn đề
thuộc chức năng xã hội cũng chỉ để củng cố
chức năng giai cấp; trong đó, thống trị giai
cấp thuộc về bản chất của mọi quyền lực
chính trị được thực hiện bằng nhà nước.
Khi giai cấp cách mạng nắm chính
quyền thì 2 chức năng ấy thống nhất ở sự
nhất trí về cơ bản giữa lợi ích của giai cấp
cầm quyền và lợi ích quốc gia dân tộc và

ngược lại.
2. Hình thức của quyền lực chính trị:
Điều kiện kinh tế chính trị xã hội khác nhau
luôn qui định hình thức biểu hiện của quyền
lực chính trị khác nhau. Ở thời cổ đại, theo
ông Arixtốt quyền lực chính trị phải được tổ
chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất; ở
thời cận đại theo ông Môngtexkiơ, quyền lực
chính trị được tổ chức theo kiểu phân lập
quyền lực, mà cụ thể thành 3 quyền chính:
quyền lập pháp, quyền tư pháp, quyền hành
pháp. Ở cuối thế kỷ 18, Rútxô lại nêu lên hình
thức biểu hiện của quyền lực chính trị là tập
trung thống nhất. Ngày nay hình thức biểu
hiện của quyền lực chính trị được thể hiện 2
hình thức sau: Một là : Tuyệt đại bộ phận của
các nước tư bản, hình thức biểu hiện của
quyền lực chính trị được tổ chức theo 2 kiểu
phân lập quyền lực, gắn liền với chế độ đang
đảng đối lập, đa nguyên chính trị. Hai là : Các
nhà nước XHCN và một số nước tư bản hình
thức biểu hiện của quyền lực chính trị lại
được tổ chức theo kiểu tập trung thống nhất,
gắn liền với chế độ nhất nguyên chính trị.
Dù quyền lực nhà nước tổ chức dưới
hình thức “tập quyền”, “tản quyền” hay “phân
quyền” hay hỗn hợp các hình thức ấy thì
quyền lực nhà nước vẫn mang bản chất của
giai cấp cầm quyền và là sự thống trị của giai
cấp đối với toàn xã hội.

3. Cơ chế thực thi quyền lực chính trị :
Quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền được thực hiện trong một cơ chế gồm
2 mặt : “Mặt nội dung” với trật tự của cương
lĩnh-đường lối, hệ thống pháp luật, hệ thống
những nguyên tắc tổ chứcvà vận hành của hệ
thống chính trị; được thực hiện và thể hiện
qua “Mặt thực thể” với những thành tố tương
ứng như: Đảng chính trị, nhà nước, các tổ
chức chính trị-xã hội của quần chúng. Hiệu
quả thực thi quyền lực phụ thuộc vào mức độ
chuẩn xác và vận hành có hiệu quả của các
nhân tố cấu thành 2 mặt của cơ chế. Hai mặt
của cơ chế thực chất là hệ thống chính trị của
giai cấp thống trị cầm quyền
4. Nội dung của quyền lực chính trị ở các
chế độ XH:
Trong các chế độ có bản chất chính
trị - xã hội khác nhau thì nội dung quyền lực
chính trị cũng biểu hiện khác nhau vì cơ sở
xuất phát của quyền lực chính trị là xuất phát
từ nền tảng chế độ kinh tế-xã hội và xuất phát
từ lợi ích giai cấp và bảo vệ giai cấp.
Trong chế độ TBCN, sau khi lật đổ
chế độ phong kiến thiết lập nên nhà nước tư
sản của giai cấp tư sản. Về phương thức sản
xuất có tiến bộ hơn trước tuy nhiên phương
thức sản xuất TBCN là bóc lột giá trị thặng
dư do quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở chiếm
hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất (tức là

giai cấp tư sản nắm giữ tư liệu sản xuất chủ
yếu). Do giai cấp tư sản chiếm giữ tư liệu sản
xuất nên giai cấp tư sản nắm quyền lực
chính trị. Vì thế trong chế độ TBCN quyền lực
chính trị không thuộc về nhân dân lao động.
4
Đặc biệt để duy trì bản chất bóc lột, CNTB sử
dụng quyền lực chính trị bảo vệ giai cấp tư
sản là thiểu số và trấn áp đa số nhân dân lao
động. Vậy trong chủ nghĩa TB quyền lực
chính trị thuộc vê một số ít người (giai cấp tư
sản) chứ không thuộc về đa số nhân dân lao
động. Quan niệm quyền lực chính trị ”thuộc
về nhân dân lao động “ đã xuất hiện từ thời
cổ đại và được tuyên bố, ghi nhận một cách
phổ biến trong hiến pháp của các nước cộng
hoà dân chủ tư sản nhưng trên thực tế cũng
chỉ là hình thức rất hạn chế.
Xét chung cho các chế độ XH có giai
cấp đối kháng thì giai cấp bóc lột không
ngừng củng cố và xây dựng quyền lực nhà
nước để quyền lực nhà nước có đầy đủ sức
mạnh trấn áp các giai cấp khác. Do vậy, trong
các chế độ xã hội có giai cấp đối kháng,
quyền lực chính trị cơ bản thuộc về giai cấp
bóc lột, còn nhân dân lao động về cơ bản
không nắm được quyền lực chính trị.
Khác với các chế độ XH nói trên,
trong CHXH xét về mặt lợi ích thì quyền lực
chính trị cơ bản thuộc về giai cấp công nhân,

giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức (hay nói
khái quát là thuộc về nhân dân lao động) vì
nó xuất phát từ 2 cơ sở : Một là xuất phát từ
bản thân của chế độ XHCN mà nét đặc trưng
nhất là chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất,nhân dân lao động là người nắm giữ
TLSX chủ yếu nên nắm quyền lực kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội từ đó nắm được
quyền lực nhà nước làm công cụ xây dựng
xã hội mới; Hai là xuất phát từ lợi ích của giai
cấp cầm quyền. Giai cấp công nhân là giai
cấp cầm quyền; lợi ích của giai cấp công
nhân trong chế độ XHCN là cơ bản thống
nhất với lợi ích của nhân dân lao động
Tóm lại, quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân lao động, chỉ thực sự có được
khi xuất hiện cơ sở khách quan cho sự thống
nhất giữa tính giai cấp và tính nhân dân. Nhà
nước trong các chế độ bóc lột dựa trên sự
thống trị của chế độ sở hữu tư nhân, giai cấp
cầm quyền bao giờ cũng là giai cấp bóc lột,
một giai cấp có lợi ích căn bản đối lập với lợi
ích của nhân dân lao động. Hơn nữa trong xã
hội dựa trên chế độ sở hữu tư nhân không có
sự bình đẳng về kinh tế do đó không thể có
sự bình đẳng về chính trị-xã hội. Đặc biệt
trong xã hội TBCN ngày nay, giai cấp tư sản
nắm toàn bộ tư liệu sản xuất hình nên những
công ty độc quyền, đa quốc gia, xuyên quốc
gia chi phối nền kinh tế thế giới thì càng

chứng minh rõ ràng quyền lực chính trị thuộc
về giai cấp tư sản chứ không phải thuộc về
nhân dân lao động
5. Quyền lực chính trị của nhân dân lao
động ở nước ta:
- Ở nước ta, quyền lực chính trị của nhân
dân mang tính đặc trưng được bắt nguồn từ
tính lịch sử. Nhân dân là tập hợp động đảo
những bộ phận người thuộc các giai cấp,
tầng lớp XH khác nhau, chủ yếu là những
người lao động. Những biểu hiện cụ thể về
nội dung thực hiện quyền lực chính trị của
nhân dân lao động ở nước ta hiện nay có 4
biểu hiện sau đây:
+ Mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật.
+ Mọi công dân có quyền tự do
ứng củ, bầu cử vào cơ quan lãnh đạo nhà
nước các cấp (đối với Đảng viên phải chấp
hành theo điều lệ Đảng).
+ Mọi công dân có quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí nhưng phải trong
khuôn khổ của của pháp luật hiện hành.
+ Mọi công dân có nghĩa vụ và
quyền lợi trong việc xây dựng và bảo vệ tổ
quốc
- Nhân dân thực hiện quyền lực chính trị
của mình cũng như quyền làm chủ không
phải với tư cách riêng lẻ, từng nhóm rời rạc
mà là trong các tổ chức chính trị, cao nhất là

Đảng Cộng sản, nhà nước CHXHCN VN, Mặt
trận tổ quốc VN và các tổ chức chính trị xã
hội. Hệ thống chính trị xã hội ở nước ta
mang bản chất của giai cấp công nhân, mà
toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, chuyên
chính với bất lỳ ai xâm phạm đến quyền lực
của nhân dân. lợi ích quốc gia, dân tộc và chế
độ XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng, có
sứ mệnh lãnh đạo, tổ chức và động viên nhân
dân nổ lực xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh
phúc theo định hướng XHCN, là công cụ thực
hiện quyền lực chính trị, lợi ích của nhân dân.
Trong hệ thống đó, Đảng cộng sản VN là hạt
nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống và XH, nhà
nước pháp quyền XHCN VN “của dân, do
dân, vì dân” – là trung tâm của toàn bộ hệ
thống – cơ quan quyền lực của nhân dân,
các tổ chức chính trị - xã hội của quần chúng
là cơ sở chính trị xã hội của Đảng, của nhà
nước mà mỗi tổ chức là một tổ chức trực tiếp
thể hiện và thực hiện quyền lực và quyền tự
do dân chủ của nhân dân.
- Đảng lãnh đạo là nhằm xây dựng một
nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Đảng
không thể trao quyền lực nhà nước cho bất
cứ lực lượng nào khác đã không cùng nhân
dân đấu tranh để giành chính quyền và xây
dựng CNXH. Sự lãnh đạo của Đảng – theo
Bác – có nghĩa là làm đầy tớ cho nhân dân.
- Nói quyền lực chính trị của nhân dân

trước hết là nói quyền lực của Nhà nước
thuộc về toàn dân mà nòng cốt là bộ phận
nhân dân trung tâm. Việc xây dựng bộ máy
đến cơ chế hoạt động, việc ban hành hiến
pháp, pháp luật đến các kế hoạch phát triển
KT-XH, văn hóa, giáo dục, các chủ trương,
chính sách đều phải nhằm đem lại lợi ích cho
nhân dân. Nói về vấn đề quyền lực trong chế
độ mới, Bác đã nhiều lần khẳng định : “Tất
cả quyền lực trong nhà nước Việt Nam dân
chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân.” “Nhà
nước là nhà nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân, vì dân là chủ”. Hiến pháp năm 1946 đã
ghi rõ nhà nước ta “Nhà nước là nhà nước
dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao
nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền
từ xã đến chính phủ, trung ương đều do dân
bầu ra”. Trung thành với tư tưởng đó, Đảng ta
luôn coi Nhà nước ta là của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Hiến pháp 1992
xác định : Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc
về nhân dân. Cơ quan nhà nước, các cấp chỉ
là người chấp hành mệnh lệnh của quốc dân,
chấp hành ý chí của nhân dân. Bộ máy chính
quyền nhà nước là do nhân dân bầu ra, vì
vậy phải do nhân dân kiểm soát. Cũng như
Lênin, Chủ tịch HCM khẳng định “Nhà nước
phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung
dân chủ thì nhân dân mới làm chủ được
quyền lực của mình”. Bên cạnh bản chất vừa

nêu trên ta còn thấy rằng nhà nước
CHXHCNVN không chỉ đơn thuần là công cụ
chuyên chính đối với kẻ thù của CNXH mà
còn vừa là phương tiện để nhằm tổ chức và
xây dựng các mục tiêu xã hội. Điều này còn
chứng minh thêm nhà nước ta là nhà nước
của chế độ nhân dân lao động làm chủ xã
hội, làm chủ quyền lực chính trị nhà nước
thông qua nhà nước của mình. Trong chế độ
ta, quyền lực nhà nước do khối đại đoàn kết
toàn dân quyết định mà nòng cốt là khối liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh
đạo của Đảng. .
- Mặt trận tổ quốc VN và các đoàn thể
nhân dân là thành tố của thiết chế dân chủ có
vai trò trong xây dựng hệ thống chính trị, phát
huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân
của mỗi hội viên, đoàn viên, bênh vực quyền
lợi của dân, góp phần giữ gìn kỷ cương phép
nước, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân
với Đảng và nhà nước. Thông qua mặt trận
và các đoàn thể, nhân dân thực hiện quyền
làm chủ của mình. Là cơ sở chính trị của nhà
nước dân chủ, mặt trận và các tổ chức thành
viên là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng của
nhân dân, nơi nhân dân phát huy quyền làm
chủ, thực hiện vai trò tư vấn và phản biện,
góp phần xây dựng chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của nhà

nước và bầu ra các cơ quan nhà nước. Mặt
trận và các đoàn thể tham gia xây dựng chỉnh
đốn Đảng. Thực hiện giám sát xã hội đối với
sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động của nhà
nước, giám sát đối với công tác, đạo đức, lối
sống của cán bộ, công chức đại biểu dân cử
và các cơ quan nhà nước, đồng thời giải
quyết những mâu thuẩn trong nội bộ nhân
dân.
Tóm lại, trong chế độ xã hội chủ nghĩa,
bằng những cơ sở kinh tế – chính trị - xã hội
và việc bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân
với những dẫn chứng thực tiễn ở các nước
và cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng
chỉ có chủ nghĩa xã hội thì quyền lực chính trị
mới thuộc về nhân dân lao động.
* Thực trạng việc thực thi quyền lực
chính trị ở nước ta :
Trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện
quyền lực chính trị của nhân dân thông qua
cơ chế và hệ thống chính trị ở nước ta đã đạt
được một số thành tựu như : đã từng bước
xây dựng mối khối đại đoàn kết dân tộc, xóa
bỏ dần những mặc cảm do chiến tranh để lại,
giữ vững chính quyền nhân dân trên cơ sở
đổi mới, bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất
của Đảng, dân chủ hóa một bước trong đời
sống xã hội. Bên cạnh đó, việc thực hiện cơ
chế quyền lực chính trị cũng còn một số hạn
chế về năng lực và hiệu quả lãnh đạo của

5
Đảng, hiệu lực quản lỳ và điều hành của Nhà
nước, kết quả hoạt động của các tổ chức
chính trị xã hội chưa ngang tầm với tình hình
nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng,Nhà nước và
đoàn thể còn chậm sắp xếp, còn có các biểu
hiện quan liêu, tham nhũng, vi phạm quyền
dân chủ
* Các giải pháp để tăng cường và phát
huy quyền lực chính trị
Hiện nay, để phát huy quyền lực chính trị
thuộc về nhân dân lao động, đảng ta luôn đề
ra đường lối, chủ trương đổi mới nhằm củng
cố bộ máy nhà nước thật sự vững chắc phục
vụ cho lợi ích thiết thực của nhân dân. Do đó,
các nghị quyết của Đảng trong suốt thời kỳ
đổi mới đều nhấn mạnh việc thực thi quá
trình cải cách, đổi mới hệ thống chính trị thể
hiện trên các lĩnh vực.
- Về Đảng, phải trở thành vị trí của người
lãnh đạo chính trị của toàn xã hội, phải đưa
ra được cương lĩnh, đường lối định hướng
trong các chủ trương công tác lớn. Chủ
trương, đường lối của Đảng đưa vào quần
chúng bằng phương pháp đặc thù: nêu
gương tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục,
kiểm tra và đào tạo cán bộ Đảng phải được
tổ chức hoạt động trong khuôn khổ của pháp
luật, đồng thời Đảng là người lãnh đạo hiến
pháp, pháp luật, quan hệ giữa Đảng và nhà

nước là quan hệ qua lại trên cơ sở khoa học.
- Về Nhà nước, phải quản lý mọi mặt xã
hội bằng pháp luật, đưa pháp luật trở thành
công cụ chủ yếu để điều hành các quan hệ xã
hội, nhà nước phải thể chế hoá quyền công
dân và quyền con người.
- Về các tổ chức chính trị - xã hội của công
dân, phải đa dạng hoá hơn nữa các hình thức
tổ chức để làm cho mọi nhân tố xã hội đều có
tổ chức đại diện cho mình. Đổi mới nhận
thức, xác định rõ chức năng của các tổ chức
chính trị xã hội của nhân dân. Phải xem chức
năng bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành
viên trong tổ chức mình là một trong những
chức năng quan trọng nhất.
Đổi mới hệ thống chính trị trong giai đoạn
hiện nay là điều kiện để thực hiện quyền lực
chính trị của nhân dân lao động. Mặt khác,
quyền lực chính trị của nhân dân lao động
từng bước phát huy là cơ sở đảm bảo vững
chắc cho việc củng cố và đổi mới hệ thống
chính trị, đó cũng là mối quan hệ phổ biến
giữa việc củng cố tăng cường cơ chế thực
hiện, nhằm thực thi quyền lực chính trị của
giai cấp cầm quyền trong chế độ XHCN.
* Phương hướng đổi mới hoàn thiện
các nhân tố trong hệ thống chính trị của
Đảng ta bao gồm 3 yếu tố sau:
Một là : Đảng phải đổi mới Đảng theo
những nội dung sau :

- Giữ vững và tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của Đảng. Đây là nhiệm vụ có
ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với Đảng ta
trong giai đoạn hiện nay.
- Nâng cao bản chất chính trị, phẩm chất
năng lực cán bộ đảng viên. Mọi các bộ đảng
viên trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt
phải có kế hoạch thường xuyên học tập nâng
cao trình động lý luận chính trị, kiến thức và
năng lực hoạt động thực tiễn.
- Củng cố đảng về tổ chức thực hiện
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Chăm lo xây dựng đội ngủ cán bộ. Đảng
phải là nơi đào tạo cán bộ cho cả hệ thống
chính trị, trên tất cả các lĩnh vực.
- Nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức
cơ sở Đảng.
Xây dựng chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ
thường xuyên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đại
hội đại biểu lần thứ IX của Đảng đã khẳng
định “trong những năm tới toàn Đảng tiếp tục
thực hiên nghị các quyết về xây dựng Đảng,
nhất là nghị quyết TW 6 (lần2) khoá 8”. Đảng
ta cần tập trunglàm tốt những công tác quan
trọng sau : Giáo dục tư tưởng chính trị, rèn
luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa
cá nhân, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây
dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng. Kiện
toàn tổ chức đổi mới phương thức lãnh đạo

của Đảng.
Hai là: Về nhà nước phải quán triệt các
quan điểm sau:
- Xây dựng nước XHCN của dân, do dân
và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nha,
nông dân, tầng lớp trí thức là nền tảng, do
Đảng cộng sản lãnh đạo.
- Quyền lực nhà nước thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức và hoạt của nhà nước.
- Tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng
nhà nước pháp quyền VN. Quản lý XH bằng
pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục và
nâng cao đạo đức.
- Tăng cường vai trò lãng đạo của Đảng
đối với nhà nươc.
Từ những quan điểm trên đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu lên 5 nội
dung cải cách chức năng và hoạt động của
nhà nước trong tình hình hiện nay là:. Xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự
lãng đạo của Đảng; Cải cách thể chế và
phướng thức hoạt động của nhà nước; Phát
huy dân chủ giữ vững kỷ luật kỷ cương tăng
cường pháp chế, xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức có năng lực; . Đấu tranh chống
tham nhũng.

Ba là : Đổi mới hoàn thiện các tổ chức
chính trị XH, phải thực hiện 2 nội dung cơ bản
sau:
- Phải xác định rõ chức năng nhiệm vụ của
từng tổ chức chính trị XH, trong điều kiện
thực hiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay. Tứ đó đưa ra được phương thức hoạt
động phù hợp.
- Xây dựng các tổ chức chính trị XH phải
tuân thủ theo nguyên tắc: một mặt, bản thân
từng thành viên phải chăm lo xây dựng các tổ
chức của mình; mặt khác, các tổ chức phải
chăm lo lợi ích chính đáng của từng thành
viên.
Tóm lại, chúng ta đã và đang sống trong
chế độ xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ của chúng
ta là phát huy quyền lực chính trị của nhân
dân lao động, để đảm bảo vững chắc cho
việc củng cố và đổi mới hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay. Muốn vậy chúng ta cần ra
sức quán triệt tinh thần nghị quyết Đại hội
Đảng và thực hiện có hiệu quả di huấn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh : “Nước ta là nước dân
chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân”.
Vấn đề 3 : Vận dụng lý luận về mối
quan hệ giữa chính trị với kinh tế để phân
tích bài học : “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng
bước đổi mới chính trị” (trang 71, NQĐH VIII).

BÀI LÀM
Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi
mới toàn diện (1986-1996) , đất nước ta đã vượt
qua một giai đoạn thử thách, gay go, khủng
hoảng trầm trọng về kinh tế xã hội. Trong những
hoàn cảnh hết sức khó khăn phức tạp đó, nhân
dân ta không những đứng vững, kiên trì tiến lên
CNXH mà còn vươn lên đạt thắng lợi nổi bật
trên nhiều mặt. Để tổng kết chặng đường đổi
mới những năm qua, trong văn kiện ĐH Đảng
lần VIII đã đánh giá và rút ra một số bài học chủ
yếu. Một trong những bài học đó là: “kết hợp
chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Để nắm
vững mối quan hệ biện chứng giữa chính trị với
kinh tế theo quan điểm CN Mác-Lênin và hiểu rõ
sự vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa chính
trị với chính trị của Đảng ta trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay, góp phần đấu trung thực
phê phán những quan điểm tư tưởng và hành
động lệch lạc như : tuyệt đối hoá sức mạnh
chính trị, hoặc khuynh hướng tuyệt đối hoá tự
do kinh tế, buông lỏng, xem nhẹ sự lãnh đạo
của đảng và sự quản lý của nhà nước đối với
quá trình xây dựng và phát triển kinh tế; chúng
ta hãy phân tích làm rõ mối quan hệ giữa chính
trị với kinh tế .
1. Khái niệm chính trị, kinh tế:
Chính trị là những công việc nhà nước hay

xã hội. Phạm vi hoạt động gắn với những quan
hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc và các
nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là
vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà
nước. Về thực chất, chính trị là quan hệ về lợi
ích (trước hết và cơ bản là lợi ích kinh tế) giữa
các giai cấp, các lực lượng XH, các quốc gia,
dân tộc mà việc thực hiện lợi ích đó phải thông
qua quyền lực nhà nước. Trong chính trị, vấn đề
quyền lực chính trị (mà trọng tâm là quyền lực
nhà nước) luôn là mục tiêu của các giai cấp. Khi
nắm được quyền lực chính trị, quyền lực nhà
nước tức là nắm được công cụ cơ bản nhất để
giải quyết các vấn đề lợi ích của các giai cấp.
Do vậy, xét từ góc độ quan hệ với kinh tế thì vấn
đề chính trị thực chất cũng chính là vấn đề kinh
tế bởi vì giải quyết vấn đề quyền lực chính trị sẽ
trực tiếp tác động đến động lực của sự phát
triển kinh tế. Mác Lênin đã rút ra kết luận : quan
hệ chính trị xét về bản chất là do quan hệ kinh
tế, chính sự ra đời và tồn tại của giai cấp, chính
nhu cầu của các giai cấp quyết định nội dung
của các lợi ích chính trị. .
6
Kinh tế được hiểu là toàn bộ các lĩnh vực,
các ngành khác nhau của một nền kinh tế quốc
dân, mà cơ sở của nó là các quan hệ cơ bản :
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ
chức và quản lý lao động XH, quan hệ phân
phối sản phẩm làm ra. Phạm vi kinh tế là cơ sở

cần thiết và sâu xa nhất của xã hội loài người,
gần như toàn bộ các mối quan hệ khác trong xã
hội đều được quy định bởi lĩnh vực kinh tế, vì
vậy nó quyết định chế độ chính trị và quyết định
quyền lực nhà nước.
2. Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế :
a. Vai trò của kinh tế với chính trị :
Quan hệ chính trị với kinh tế là mối quan hệ
biện chứng luôn có sự tác động qua lại lẫn
nhau. Trong quá trình đổi mới đất nước, khi xác
định đường lối phát triển giữa chính trị và kinh
tế, Đảng ta khẳng định “lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm”. Điều này xuất phát từ quan điểm
kinh tế là nền tảng của chính trị, kinh tế bao giờ
cũng quyết định chính trị và điều này được
khẳng định hoàn toàn trong lý luận cũng như
trong thực tiễn.
Về mặt lý luận, theo chủ nghĩa Mác - Lênin
thì cơ sở hạ tầng quy định cấu trúc, tính chất
của kiến trúc thượng tầng và tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội. Kinh tế là nhân tố cơ bản
thuộc cơ sở hạ tầng, trong khi chính trị là nhân
tố chủ yếu của kiến trúc thượng tầng, vì vậy các
quan hệ kinh tế là quy định các quan hệ chính
trị. Về mặt thực tiễn: ở hình thái kinh tế xã hội
chiếm hữu nô lệ thì với quan hệ sản xuất của
chế độ chiếm hữu nô lệ, thể chế chính trị thuộc
về giai cấp chủ nô, ở hình thái kinh tế xã hội
TBCN thì với quan hệ sản xuất của chế độ tư
bản chủ nghĩa, thể chế chính trị thuộc về giai

cấp tư sản và ở CNXH thì thể chế chính trị thuộc
về giai cấp công nhân
Có thể khẳng định rằng kinh tế luôn quyết
định chính trị mà trước hết, nhân tố kinh tế có
tính quyết định nhất, tác động đến đời sống
chính trị chính là hệ thống các quan hệ sở hữu.
Nếu quan hệ sở hữu thay đổi về căn bản và
cùng với nó là sự thay đổi các quan hệ kinh tế
khác mà trước hết nó làm biến đổi bản chất của
hệ thống các quan hệ sản xuất. Hệ thống các
quan hệ SX khi đã thay đổi về căn bản sẽ dẫn
đến thay đổi căn bản chế độ chính trị, mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Kinh
tế thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của chính trị,
thậm chí một vấn đề kinh tế không lớn nhưng có
thể trở thành một vấn đề chính trị phức tạp, có
thể làm đảo lộn đời sống chính trị, xã hội. Lực
lượng nào, giai cấp nào nắm kinh tế thì lực
lượng đó, giai cấp đó nắm quyền lực chính trị,
chi phối đời sống xã hội. Ngược lại, nếu một giai
cấp, lực lượng XH đã làm chủ về quyền lực
chính trị mà không xây dựng và giữ được địa vị
chủ đạo về kinh tế thì sớm muộn cũng sẽ không
thể duy trì được quyền lực chính trị. Chính vì
vậy, Lênin viết “Chính trị là sự biểu hiện tập
trung của kinh tế”. Đằng sau các quan hệ chính
trị là các quan hệ kinh tế, các quan hệ lợi ích
kinh tế.
- “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh
tế” xuất phát từ sự hình thành, tồn tại, phát triển

và các hình thức, hoạt động chính trị là kết quả
tất yếu của sự vận động của kinh tế và chính trị
phải mang trong nó những quy luật kinh tế
khách quan. Điều đó có nghĩa là : nó phải phản
ánh được lợi ích kinh tế của giai cấp và phản
ánh được bản chất của một chế độ kinh tế, nó
phản ánh cái cốt lõi (cơ bản), bền vững trong
kinh tế. Bên cạnh đó chính trị phải phản ánh
một cách khái quát tất cả các khuynh hướng
kinh tế nhưng nó phải làm nổi bật khuynh
hướng chủ đạo. Đồng thời chính trị cũng phải
phản ánh được ý chí sức mạnh, sự đoàn kết
của một giai cấp để thực hiện được lợi ích kinh
tế của chính giai cấp mình.
- “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh
tế”, điều đó đòi hỏi chính trị và hệ thống chính trị
phải mang trong mình nó những quy định kinh tế
khách quan, có nghĩa là chính trị phản ánh
những yêu cầu, điều kiện của kinh tế khách
quan, sự phản ánh đó thể hiện trong cấu trúc hệ
thống chính trị, trong phương thức hoạt động
của các thành tố hệ thống chính trị, trong các
quyết sách chính trị.
Kinh tế là gốc của chính trị, ở góc độ nào đó
nó là sự thể hiện tính ưu việt của chính trị cũng
như sự phù hợp của chính trị với kinh tế. Với ý
nghĩa đó, ở mọi thời đại, nếu không giải quyết
thỏa đáng các quan hệ kinh tế, lợi ích kinh tế,
không phát triển được kinh tế thì sự vận động
của chính trị có thể sẽ gặp trở ngại, thậm chí đi

đến thất bại. Thực tiễn cách mạng thế giới cho
thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự
sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước
XHCN Đông Âu chính là do suy thoái, khủng
hoảng kinh tế trầm trọng dẫn đến những biến
động lớn về chính trị, làm tan rã chế độ XHCN
tại các nước này.
b. Vai trò của chính trị với kinh tế :
Trong quá trình đổi mới, song song với việc
lấy “đổi mới kinh tế làm trọng tâm”, Đảng xác
định phải từng “đồng thời từng bước đổi mới
chính trị”. Quan điểm này xuất phát từ chính trị
mặc dù bị kinh tế quyết định nhưng chính trị lại
có tính độc lập tương đối và có sự tác động trở
lại kinh tế rất mạnh mẽ sự tác động độc lập của
chính trị đến kinh tế.
Về mặt lý luận : khi nhấn mạnh vai trò của
cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng,
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng khẳng
định rằng kiến trúc thượng tầng (chính trị) có
tính độc lập tương đối và có sự tác động trở lại
rất mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng (kinh tế). Về
mặt thực tiễn: do nhận thức được quy luật kinh
tế khách quan, kiến trúc thượng tầng (chính trị)
có vai trò định hướng cho quy luật kinh tế, mang
lại phương án tối ưu cho phát triển kinh tế và
phục vụ vì lợi ích của giai cấp. Với ý nghĩa đó,
chính trị ra đời tồn tại và phát triển trên cơ sở nó
có vai trò to lớn tác động đến kinh tế theo những
quy luật kinh tế khách quan

Biểu hiện sự tác động của chính trị đối với
kinh tế : Một là chính trị định hướng cho kinh tế
phát triển dựa trên quy luật khách quan, lựa
chọn mô hình chiến lược phát triển kinh tế, tham
gia vào việc điều tiết, lựa chọn tốc độ phát triển
kinh tế. Hai là vai trò tác động của chính trị tác
động đến các chủ thể kinh tế : mỗi chủ thể kinh
tế có vai trò, địa vị, lợi ích riêng, vì vậy, chính trị
phải có sự kiểm soát, tạo điều kiện tác động cho
các chủ thể kinh tế phát triển và tạo điều kiện
cho họ góp phần vào việc thực hiện lợi ích
chung. Ba là vai trò của cơ cấu tổ chức và
phương thức tổ chức, quản lý con người-xã hội
đối với kinh tế để phát huy được vai trò của
nhân tố con người
Từ những tác động trên của chính trị đến
kinh tế, Lênin cho rằng “Chính trị không thể
không giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế”. Luận
điểm này khẳng định tính ưu tiên cho chính trị so
với kinh tế, tức là kết quả đạt được về phát triển
kinh tế phải tính đến việc bảo vệ củng cố và
phát triển thành quả chính trị đạt được (củng cố
và phát triển hệ thống chính trị). Khi giải quyết
các vấn đề kinh tế thì phải góp phần duy trì củng
cố quyền lực chính trị. Mặt khác, trong kinh tế dù
cải tổ hay đổi mới như thế nào cũng phải luôn
giữ vững hệ tư tưởng chính trị vì hệ tư tưởng
chính trị quy định phương hướng mục tiêu, bản
chất của chế độ xã hội. Trong điều kiện cách
mạng XHCN, sự ưu tiên của chính trị so với kinh

tế là tất yếu để xây dựng CNXH : đó chính là
giành, giữ và sử dụng quyền lực chính trị và xây
dựng nền kinh tê mới. Luận điểm này cũng cho
thấy phải có quan điểm chính trị khi giải quyết
các vấn đề kinh tế và phải bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của nhà nước đối với
phát triển kinh tế là tất yếu khách quan. Chính trị
phải được ưu tiên và giữ hàng đầu so với kinh
tế vì chính trị có khả năng can thiệp một cách tự
giác vào quá trình kinh tế khách quan.
Sự tác động của chính trị đối với kinh tế có
thể theo hai hướng : một là nếu chính trị tác
động cùng chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó
chính trị có vai trò tích cực, thúc đẩy phát triển
lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội theo hướng chuyên môn hóa, hợp tác hóa.
Hai là nếu chính trị tác động ngược chiều với sự
phát triển kinh tế, khi đó chính trị là vật cản đối
với sự phát triển kinh tế.
Vai trò tác động của chính trị đối với kinh tế
không chỉ dừng lại ở đó. Trong nhiều trường
hợp dù đã có quyết sách chính trị đúng đắn
(phản ánh đúng thực trạng và qui luật khách
quan của kinh tế), nhưng trình độ năng lực tổ
chức chỉ đạo thực tiễn phương thức hoạt động
của hệ thống chính trị không vươn tới ngang
tầm với nhiệm vụ chính trị đề ra, thì chính trị vẫn
có thể cản trở kinh tế hoặc để cho kinh tế phát
triển chệch hướng, trái với đường lối chính trị đã
lựa chọn. Vì thế chính trị cũng phải tự đổi mới,

phải có cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động,
thiết chế vận hành phù hợp với cơ sở kinh tế.
3. Vận dụng của Đảng ta :
Nhìn lại quá trình Đảng lãnh đạo đất nước từ
trước năm 1986, chúng ta thấy rằng tình hình
nước ta nói riêng và các nước XHCN nói chung
đã có thời gian khá dài do tuyệt đối hóa vai trò
của đường lối chính trị, duy trì quá lâu cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn đến sự kiềm
hãm sự phát triển kinh tế và dẫn đến khủng
hoảng trầm trọng. Chúng ta đã hành động trái
quy luật “kinh tế quyết định chính trị” khi cho
rằng mâu thuẫn nổi lên ở đầu thời kỳ quá độ là
mâu thuẫn giữa chế độ chính trị tiên tiến với
quan hệ sản xuất lạc hậu, do đó phải đẩy mạnh
cải tạo quan hệ sản xuất (mà trong đó chủ yếu
là cải tạo xóa bỏ các thành phần kinh tế phi
XHCN) nhằm làm cho quan hệ sản xuất phù
hợp với chế độ chính trị tiên tiến. Từ đó nảy sinh
ra mâu thuẩn chủ yếu giữa quan hệ sản xuất với
lực lượng sản xuất , nhiệm vụ công nghiệp hóa
được đẩy lên một cách duy ý chí trong khi chưa
có đủ các tiền đề cần thiết. Từ những sai lầm về
đường lối chỉ đạo này, dẫn đến nền kinh tế chậm
phát triển, xã hội rơi vào khủng hoảng.
Rút kinh nghiệm từ những thất bại ấy, bắt
đầu từ Đại hội Đảng lần VI, Đảng ta đã vận dụng
7
sáng tạo hài hòa giữa 2 khuynh hướng tác động
của chính trị với kinh tế để đề ra công cuộc đổi

mới đất nước toàn diện trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Thực hiện đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị, Đảng ta khẳng định phải
“Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế
với đổi mới chính trị” xuất phát từ quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin : giữa kinh tế và chính trị
có mối quan hệ biện chứng, phải giải quyết tốt
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị. Đổi mới kinh tế nhằm giải phóng lực
lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng trong xã
hội để tạo ra năng suất cao, hàng hóa nhiều đáp
ứng nhu cầu cần thiết của nhân dân, tạo ra cơ
sở vững chắc để đổi mới chính trị. Ngược lại đổi
mới chính trị sẽ củng cố và phát huy những
thành tựu của đổi mới về kinh tế, tuy bước đi
của từng lĩnh vực có khác nhau nhưng trong bất
kỳ trường hợp nào cũng phải đảm bảo sự ổn
định về chính trị, tránh tình trạng hỗn loạn như
đã xảy ra ở một số nước trong thời gian qua.
Đổi mới kinh tế và chính trị, đây là hai mặt
cơ bản nhất của xã hội, là sự nghiệp đầy khó
khăn và phức tạp, là quá trình vừa làm, vừa tìm
tòi sáng tạo. Do vậy, phải thấy rõ mối quan hệ
giữa hai lĩnh vực đó để có những bước đi thích
hợp, tác động hỗ trợ lẫn nhau.
1. Khi xác định “đối mới kinh tế là trọng
tâm”, trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc
đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định
đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại,
không có sự đổi mới này thì không có mọi sự

đổi mới khác. Song Đảng ta đã đúng khi tập
trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng
hoảng kinh tế xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật
chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị,
xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo
thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống
xã hội. Bởi vì do tính chất kinh tế quy định chính
trị nên xây dựng và duy trì quyền lực chính trị
của Đảng, chế độ XHCN trước hết phải xây
dựng từ cơ sở nền tảng của nó, tức là xây dựng
một chế độ kinh tế XHCN vững mạnh.
Để chính trị phản ánh tập trung kinh tế,
Đảng và nhà nước ta đã xác định phải nhận
thức một cách khoa học thực trạng kinh tế và
những quy luật kinh tế, lựa chọn hình thức tổ
chức, chính sách phù hợp bảo đảm phát huy tối
ưu tác dụng của các quy luật kinh tế và đang tập
trung xây dựng tri thức khoa học để giác ngộ
quần chúng hành động phù hợp quy luật. Với
luận điểm đó, Đảng ta đã xác định lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm và tuỳ theo yêu cầu đổi
mới kinh tế mà từng bước đổi mới về chính trị.
Chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng trong
suốt thời kỳ quá độ là một bước đột phá về đổi
mới cơ cấu sở hữu từ một thành phần kinh tế,
một chế độ sở hữu sang nhiều thành phần kinh

tế, đa thành phần sở hữu. Sự đổi mới này là
hợp lý, phù hợp với quy luật khách quan, cho
phép giải phóng được tối đa mọi năng lực sản
xuất, có được một nền kinh tế phát triển năng
động, giàu sức sống và hiệu quả cao, mang lại
hạnh phúc ấm no cho mọi tầng lớp nhân dân.
Thực tế đã chứng minh định hướng về đường
lối kinh tế trên của Đảng là đúng đắn và tạo
động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế.
Do tính quyết định của kinh tế đối với chính
trị, Đảng đã nhận thức rõ rằng khi nền kinh tế
nhiều thành phần tồn tại suốt thời kỳ quá độ,
trong đó có cả thành phần kinh tế XHCN lẫn
TBCN thì kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể phải
giữa vai trò chủ đạo; nếu như trong nền kinh tế
nhiều thành phần đó chúng ta không củng cố,
xây dựng thành phần kinh tế XHCN trở thành
một thành phần kinh tế mạnh, chủ đạo, có khả
năng chi phối các thành phần kinh tế khác thì
khó đảm bảo được định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây cũng là vấn đề nguyên tắc trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay cũng như
trong suốt thời kỳ quá độ, bởi vì thành phần kinh
tế XHCN đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
sẽ là cơ sở cho tồn tại vững chắc của hệ thống
chính trị XHCN.
Mặt khác, để đảm bảo sự phát triển kinh tế
đúng định hướng, vai trò lãnh đạo của Đảng
phải được giữ vững. Đảng ta không chấp nhận
đa nguyên, đa đảng là hoàn toàn phù hợp với

mục tiêu XHCN, vì mục tiêu ấy chỉ có thể thực
hiện trên cơ sở sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Nước ta hiện nay sự lãnh đạo duy nhất của
Đảng ta là hoàn toàn hợp lý. Một Đảng, nhất
nguyên chính trị là điều kiện đảm bảo sự ổn định
chính trị để phát triển kinh tế. Song, để lãnh đạo
tốt kinh tế cũng như các lĩnh vực khác của đời
sống XH, Đảng phải tự đổi mới vươn lên ngang
tầm nhiệm vụ. NQ TW6 (lần 2) khoá VIII chủ
trương tăng cường công tác phê bình, tự phê
bình, chỉnh đốn Đảng là nhằm làm trong sạch
phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, Đảng
viên để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của
Đảng. Đây là yêu cầu bắt buộc của Đảng trong
tình hình mới hiện nay
Từ chính sách phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, đã có ý kiến cho rằng : kinh tế nhiều
thành phần có đối lập, đối kháng thì chính trị với
tư cách là sự phản ánh của kinh tế thì chính trị
cũng phải đa nguyên, đa đảng. Thực tế đây là
một quan điểm không đúng bởi 2 lý do : một là
nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ có ở
nước ta (một nước đang theo chế độ nhất
nguyên) mà nó còn tồn tại phổ biến ở nhiều
nước với nhiều chế độ chính trị khác nhau (nhất
nguyên chính trị như Xingapo, Trung quốc, đa
nguyên chính trị như Mỹ), như vậy việc đa
nguyên về kinh tế không nhất thiết phải đa
nguyên về chính trị. Hơn nữa, ở một nước có rất
nhiều Đảng phái chính trị như Mỹ thì mặc dù

đường lối, chủ trương, tổ chức của các Đảng có
khác nhau nhưng thực chất các đảng này đều
do giai cấp tư sản nắm quyền, vì vậy xét cho
cùng ở các nước này cũng là nhất nguyên về
chính trị. Hai trong kinh tế có đối kháng giữa các
thành phần kinh tế nhưng nếu có một thành
phần kinh tế chủ đạo, đủ mạnh chi phối các
thành phần kinh tế khác thì sự đối kháng đối lập
về kinh tế - xã hội sẽ không trở thành sự đối
kháng ở quy mô giai cấp. Ở nước ta, mặc dù
kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh tế nhà
nước là chủ đạo thì sẽ không dẫn đến đối kháng
giai cấp
Sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường còn
đòi hỏi có sự quản lý của nhà nước. Kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần bao giờ cũng có hai
mặt: tích cực và tiêu cực. Để giữ vững định
hướng XHCN, phải có nhà nước mạnh mới có
thể làm hạn chế những khuyết tật vốn có của
nền kinh tế thị trường. Muốn đạt hiệu quả cao
trong quá trình tác động phải xuất phát từ thực
trạng kinh tế của đất nước và nhận thức đúng,
đầy đủ các quy luật khách quan của kinh tế. Nhà
nước tác động vào kinh tế còn phải thể hiện rõ
vai trò của mình trong việc tạo môi trường, điều
tiết chính sách XH, quản lý, phân phối nguồn tài
nguyên quốc gia. Đồng thời, các chính sách nhà
nước đề ra phải hạn chế đến mức tối thiểu sự
phân hóa xã hội, phải rút ngắn khoảng cách thu

nhập giữa các tầng lớp, trước hết là thu nhập
kinh tế, phải làm cho mọi người hiểu hết nến
kinh tế thị trường
2. Khi xác định chủ trương “từng bước
đổi mới về chính trị”, Đảng đã nhận thức rõ :
chính trị có ổn định thì kinh tế mới phát triển, hệ
thống chính trị phải phù hợp đổi mới kinh tế .
Mọi chủ trương phát triển kinh tế của đảng và
nhà nước ngoài việc thúc đẩy kinh tế xã hội phát
triển còn phải góp phần bảo vệ thành quả cách
mạng đã đạt được như : độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ và những thành quả đổi mới
của nước ta. Mặt khác sự đổi mới về chính trị là
cần thiết bởi vì phải có quan điểm chính trị đúng
đắn và phù hợp với thời đại khi xử lý các vấn đề
kinh tế như : vấn đề dân tộc và giai cấp, quan hệ
làm ăn với nước ngoài phải vì lợi ích của dân
tộc.
Để đảm bảo chính trị là động lực, là mở
đường cho kinh tế phát triển, thì hệ thống chính
trị phải tiến hành đổi mới. Không làm được điều
đó hệ thống chính trị sẽ không thể định hướng
cho kinh tế và như thế nguy cơ chệch hướng
kinh tế hoàn toàn có thể xảy ra. Nghị quyết Đại
hội VII đã chỉ rõ nguy cơ chệch hướng kinh tế có
thể bắt đều từ chính hình thái chính trị, bắt đầu
bằng chính những sa sút về đạo đức, yếu kém
về năng lực của cán bộ trong bộ máy chính trị,
bằng nạn quan liêu, tham nhũng, trì trệ trong hệ
thống chính trị. Vì vậy, đổi mới nâng cao hiệu

lực hoạt động của hệ thống chính trị là điều kiện
cần thiết và cấp bách, nó chính là yếu tố quyết
định đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở
nước ta. Đổi mới hệ thống chính trị bao gồm:
- Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, tăng cường
và nâng cao hiệu lực của các tổ chức cơ sở
Đảng và Đảng viên; đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với toàn bộ đời sống kinh tế-
xã hội phù hợp với yêu cầu và quy luật khách
quan của nền kinh tế.
- Đổi mới bộ máy nhà nước và hướng
tới là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN,
nghĩa là nhà nước quản lý điều hành xã hội
bằng pháp luật, là làm cho bộ máy nhà nước
trong sạch, đủ mạnh để lãnh đạo toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Nhà nước đủ mạnh thì đủ sức
điều khiển bánh xe kinh tế thị trường theo quỹ
đạo XHCN và tiến lên CNXH, CNCS mang lại
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho toàn dân tộc.
- Đổi mới các đoàn thể quần chúng
nhân dân là làm cho các tổ chức này với tư cách
là đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động.
Làm được điều đó có nghĩa là góp phần tạo ra
động lực cho quá trình đổi mới, xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ XHCN.
Đổi mới hệ thống chính trị và từng bước xây
dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN có quan
hệ biện chứng với nhau. Thực chất đổi mới và
kiện toàn hệ thống chính trị ở nước ta là xây
8

dựng nền dân chủ XHCN. Dân chủ là quy luật
hình thành, phát triển và tự hoàn thiện hệ thống
chính trị XHCN. Làm tốt việc này chính là góp
phần tạo ra động lực tổng hợp cho sự nghiệp
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ ở nước
ta
Tóm lại, nắm vững mối quan hệ biện chứng
giữa chính trị với kinh tế và vận dụng đúng đắn
mối quan hệ đó là một trong những vấn đề có ý
nghĩa quan trọng trong công cuộc đổi mới của
nước ta hiện nay. Từ những phân tích trên ta
thấy rằng bài học do Đảng ta nêu “Kết hợp chặt
chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng
thời từng bước đổi mới chính trị” đó chính là
nắm vững và vận dụng đúng đắn mối quan hệ
biện chứng giữa chính trị với kinh tế theo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào trong thực tiễn.Chính từ
sự định hướng đúng đắn ấy cho nên sau hơn 15
năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành
tựu to lớn và giữ vững sự ổn định chính trị, tạo
đà cho kinh tế phát triển nhanh, đúng hơn
Câu 4: Vận dụng quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ chính trị với
kinh tế để phân tích luận điểm sau: “không
có lập trường chính trị đúng đắn thì một giai
cấp nhất định nào đó không thể giữ được sự
thống trị của mình và do đó cũng không thể
hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong
lĩnh vực sản xuất”.

BÀI LÀM
Chính trị và kinh tế là 2 lĩnh vực quan trọng
trong đời sống xã hội. Mối quan hệ của chúng là
mối quan hệ biện chứng và có tác động trực tiếp
đến quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài
người từ khi có sự phân chia giai cấp nói chung
cũng như của từng quốc gia, dân tộc nói riêng.
Trong mối quan hệ đó, kinh tế là nhân tố quyết
định toàn bộ lịch sử vận động của đời sống
chính trị nhưng vai trò của chính trị lại có tác
động mạnh mẽ đối với kinh tế và ảnh hưởng
đến sự tồn vong cả chế độ xã hội. Nói đến sự
tác động của chính trị đến kinh tế, Lênin cho
rằng : “không có lập trường chính trị đúng đắn
thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ
được sự thống trị của mình và do đó cũng không
thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong
lĩnh vực sản xuất”. Để có quan điểm đúng đắn,
xử lý tốt mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế
trong quá trình xây dựng đất nước, giữ vững
định hướng XHCN trong quá trình phát triển kinh
tế, chúng ta hãy phân tích làm rõ luận điểm
trên.
1. Khái niệm chính trị, kinh tế:
Chính trị là những công việc nhà nước hay
xã hội. Phạm vi hoạt động gắn với những quan
hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc và các
nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là
vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà
nước. Về thực chất, chính trị là quan hệ về lợi

ích (trước hết và cơ bản là lợi ích kinh tế) giữa
các giai cấp, các lực lượng XH, các quốc gia,
dân tộc mà việc thực hiện lợi ích đó phải thông
qua quyền lực nhà nước. Trong chính trị, vấn đề
quyền lực chính trị (mà trọng tâm là quyền lực
nhà nước) luôn là mục tiêu của các giai cấp. Khi
nắm được quyền lực chính trị, quyền lực nhà
nước tức là nắm được công cụ cơ bản nhất để
giải quyết các vấn đề lợi ích của các giai cấp.
Do vậy, xét từ góc độ quan hệ với kinh tế thì vấn
đề chính trị thực chất cũng chính là vấn đề kinh
tế bởi vì giải quyết vấn đề quyền lực chính trị sẽ
trực tiếp tác động đến động lực của sự phát
triển kinh tế. Mác Lênin đã rút ra kết luận : quan
hệ chính trị xét về bản chất là do quan hệ kinh
tế, chính sự ra đời và tồn tại của giai cấp, chính
nhu cầu của các giai cấp quyết định nội dung
của các lợi ích chính trị.
Kinh tế được hiểu là toàn bộ các lĩnh vực,
các ngành khác nhau của một nền kinh tế quốc
dân, mà cơ sở của nó là các quan hệ cơ bản :
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ
chức và quản lý lao động XH, quan hệ phân
phối sản phẩm làm ra. Phạm vi kinh tế là cơ sở
cần thiết và sâu xa nhất của xã hội loài người,
gần như toàn bộ các mối quan hệ khác trong xã
hội đều được quy định bởi lĩnh vực kinh tế, vì
vậy nó quyết định chế độ chính trị và quyết định
quyền lực nhà nước
2. Mối quan hệ chính trị với kinh tế:

Quan hệ giữa chính trị với kinh tế là mối
quan hệ biện chứng luôn có sự tác động qua lại
lẫn nhau.
a. Vai trò kinh tế đối với chính trị:
Kinh tế là nền tảng của chính trị, kinh tế bao
giờ cũng quyết định chính trị và điều này được
khẳng định hoàn toàn trong lý luận cũng như
trong thực tiễn. Về mặt lý luận, theo chủ nghĩa
Mác - Lênin thì cơ sở hạ tầng quy định cấu trúc,
tính chất của kiến trúc thượng tầng và tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội. Kinh tế là nhân tố
cơ bản thuộc cơ sở hạ tầng, trong khi chính trị là
nhân tố chủ yếu của kiến trúc thượng tầng, vì
vậy các quan hệ kinh tế quy định các quan hệ
chính trị. Về mặt thực tiễn: ở hình thái kinh tế xã
hội chiếm hữu nô lệ thì với quan hệ sản xuất
của chế độ chiếm hữu nô lệ, thể chế chính trị
thuộc về giai cấp chủ nô, ở hình thái kinh tế xã
hội TBCN thì với quan hệ sản xuất của chế độ
tư bản chủ nghĩa, thể chế chính trị thuộc về giai
cấp tư sản và ở CNXH thì thể chế chính trị thuộc
về giai cấp công nhân
Kinh tế thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của
chính trị, thậm chí một vấn đề kinh tế không lớn
nhưng có thể trở thành một vấn đề chính trị
phức tạp, có thể làm đảo lộn đời sống chính trị,
xã hội. Lực lượng nào, giai cấp nào nắm kinh tế
thì lực lượng đó, giai cấp đó nắm quyền lực
chính trị, chi phối đời sống xã hội. Ngược lại,
nếu một giai cấp, lực lượng XH đã làm chủ về

quyền lực chính trị mà không xây dựng và giữ
được địa vị chủ đạo về kinh tế thì sớm muộn
cũng sẽ không thể duy trì được quyền lực chính
trị. Chính vì vậy, Lênin viết “Chính trị là sự biểu
hiện tập trung của kinh tế”. Luận điểm này chỉ rõ
nguồn gốc chính trị là từ kinh tế, chính trị chỉ
hình thành tồn tại và phát triển trên cơ sở đòi hỏi
khách quan bởi sự phát triển kinh tế. Từ thực
trạng kinh tế, kết cấu giai cấp xã hội, mà hình
thành nên một chế độ tương ứng. Nền chính trị
của một nước bao giờ cũng là sản phẩm trực
tiếp của khuynh hướng kinh tế chủ đạo , quan
hệ sản xuất thống trị. Tính quy định của kinh tế
đối với chính trị còn thể hiện ở chỗ nền chính trị
của một nước tuy là phản ánh tổng thể các xu
hướng kinh tế nhưng bao giờ cũng là sản phẩm
trực tiếp của xu hướng kinh tế chủ đạo.
Khẳng định tính quyết định của kinh tế đối
với chính trị, chúng ta càng nhận thức rõ rằng
trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay đang
tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần, trong
đó có cả thành phần kinh tế XHCN lẫn TBCN và
nền kinh tế này sẽ duy trì suốt thời kỳ quá độ;
nếu như trong nền kinh tế nhiều thành phần đó
chúng ta không củng cố, xây dựng thành phần
kinh tế XHCN trở thành một thành phần kinh tế
mạnh, chủ đạo, có khả năng chi phối các thành
phần kinh tế khác thì khó đảm bảo được định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là vấn đề
nguyên tắc trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta

hiện nay cũng như trong suốt thời kỳ quá độ, bởi
vì thành phần kinh tế XHCN đóng vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế sẽ là cơ sở cho tồn tại
vững chắc của hệ thống chính trị XHCN.
b. Vai trò chính trị đối với kinh tế:
Kinh tế của vai trò quyết định đến chính trị,
tuy nhiên chính trị luôn mang tính độc lập của nó
và có tác động trở lại đến kinh tế một cách toàn
diện. Chính trị thực hiện khả năng nhận thức
các qui luật kinh tế khách quan, nhận thức được
thực trạng kinh tế của đất nước và từ đó định
hướng các qui luật vận động, phát triển nhằm
đạt đến mục đích lợi ích giai cấp.
Chính trị với kinh tế là một khái niệm chỉ sự
tác động của quyền lực chính trị mà trước hết và
trực tiếp là quyền lực nhà nước đến các quá
trình kinh tế xã hội. Sự tác động này thực hiện
bằng đường lối kinh tế, thể chế chính trị với kinh
tế, các chủ thể chính trị với kinh tế. Nó tác động
đến mục đích phát triển kinh tế, cơ cấu và cơ
chế kinh tế, hiệu quả kinh tế XH, phương thức
vận hành và phân phối sản phẩm. Phạm vi tác
động trên toàn bộ nền kinh tế, các lĩnh vực kinh
tế cơ bản, các đơn vị kinh tế, các kỹ thuật kinh
tế-XH, các chủ thể kinh tế; từ quan hệ của các
lĩnh vực cơ bản chính trị như: đường lối, chính
sách, tổ chức, thiết chế chính trị đến toàn bộ
nền kinh tế nói chung hoặc tác động đến các
lĩnh vực kinh tế cơ bản của nền kinh tế quốc
dân. Biểu hiện của sự tác động của chính trị với

kinh tế có thể khái quát một số nội dung sau:
Thứ nhất: Chính trị định hướng cho kinh tế
phát triển dựa trên quy luật khách quan, nhận
thức được quy luật khách quan. Bất cứ một nền
kinh tế nào cũng đều có sự định hướng chính trị,
bởi nếu không định hướng thì mục tiêu kinh tế,
lợi ích kinh tế của giai cấp sẽ không được thực
hiện, cũng như kinh tế sẽ phát triển tự do, vô tổ
chức sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã
hội. Do đó, bất cứ chính trị của giai cấp cầm
quyền nào cũng phải làm nhiệm vụ định hướng
kinh tế.Tuy nhiên, muốn định hướng thì chủ thể
chính trị phải có kiến thức, tri thức, trình độ nhất
định để nhận thức đúng quy luật, để định hướng
đạt mục tiêu kinh tế phục vụ cho giai cấp
Thứ hai: Chính trị lựa chọn mô hình phát
triển kinh tế. Một mô hình kinh tế được xác định
đúng, phù hợp là điều kiện hết sức quan trọng
cho sự phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế,
phù hợp với lợi ích của giai cấp. Chính trị có khả
năng nhận thức đầy đủ điều kiện thực trạng kinh
tế, tài nguyên, con người lao động và các điều
kiện chính trị, xã hội, lịch sử có khả năng xây
dựng một mô hình kinh tế thích hợp.
Thứ ba: Chính trị điều tiết tốc độ phát triển
kinh tế : Tốc độ phát triển kinh tế phù hợp là
điều hết sức cần thiết cho sự phát triển chung
của một chế độ XH. Nếu kinh tế trì trệ, chậm
phát triển, chính trị phải tác động thông qua
9

đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế hoặc
các biện pháp kích cầu khác để kinh tế có độ
tăng trưởng hợp lý. Trong trường hợp kinh tế
tăng trưởng quá nhanh không phù hợp với sự
phát triển XH thì chính trị phải có sự điều tiết ,
sự phát triển không phù hợp giữa kinh tế với XH
thường dẫn đến sự bất ổn về chính trị. Vì vậy,
chính trị can thiệp vào kinh tế là tốc độ phát triển
hết sức cần thiết.
Thứ tư: Vai trò của chính trị tác động đến các
chủ thể kinh tế: chính trị của giai cấp cầm quyền
không thể không tác động đến chủ thể kinh tế.
Bởi sự tác động này sẽ tạo điều kiện cho các
chủ thể kinh tế phát triển và trong đó sẽ góp
phần mang lại lợi ích nhất cho giai cấp cầm
quyền. Hiện nay, mỗi thành phần kinh tế được
coi là chủ thể kinh tế. Vậy chính trị phải tác động
lên các chủ thể, để đảm bảo tất cả các chủ thể
này đều phát triển tốt, trên cơ sở phát huy mặt
tích cực và hạn chế của từng chủ thể kinh tế.
Tạo điều kiện cho chủ thể thực hiện lợi ích
riêng, đồng thời góp phần thực hiện lợi ích
chung của quốc gia, dân tộc trên cơ sở định
hướng chính trị, vì vậy không thể không có sự
tác động của chính trị vào các chủ thể kinh tế.
Thứ năm: Vai trò của chính trị trong việc
quản lý chính trị-XH, con người trong các cơ sở
sản xuất: Nói đến vấn đề quản lý sản xuất, quản
lý kinh tế tức là là quản lý con người, quản lý xã
hội, chính trị. Quản lý này nhằm đem lại điều

kiện tốt nhất để kinh tế phát triển. Đặc biệt, đối
với nền kinh tế nhiều thành phần trong điều kiện
đổi mới ở nước ta hiện nay, mà hệ thống chính
trị của chúng ta không thể không chi phối, kiểm
soát đến tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt
là các thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Vì vậy,
để quản lý xã hội, quản lý con người của nước
ta hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước hoặc
doanh nghiệp tư nhân phải có tổ chức Đảng,
các tổ chức quần chúng trong các doanh nghiệp
để phát huy được vai trò của nhân tố con người.
Sự tác động của chính trị đối với kinh tế có
thể theo hai hướng : một là nếu chính trị tác
động cùng chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó
chính trị có vai trò tích cực, thúc đẩy phát triển
lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội theo hướng chuyên môn hóa, hợp tác hóa.
Hai là nếu chính trị tác động ngược chiều với sự
phát triển kinh tế, khi đó chính trị là vật cản đối
với sự phát triển kinh tế
Từ những tác động trên của chính trị đến
kinh tế, Lênin cho rằng “Chính trị không thể
không giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế”. Luận
điểm này khẳng định tính ưu tiên cho chính trị so
với kinh tế, là hợp lý vì ưu tiên cho chính trị là
ưu tiên cho vấn đề cơ bản nhất, quyết định đến
sự phát triển của bản thân kinh tế. Theo luận
điểm này, kết quả đạt được về phát triển kinh tế
phải tính đến việc bảo vệ củng cố và phát triển
thành quả chính trị đạt được (củng cố và phát

triển hệ thống chính trị) bởi vì có ổn định chính
trị thì kinh tế mối phát triển. Luận điểm này cũng
cho thấy phải có quan điểm chính trị khi giải
quyết các vấn đề kinh tế và phải bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước
đối với phát triển kinh tế là tất yếu khách quan.
Chính trị phải được ưu tiên và giữ hàng đầu so
với kinh tế vì chính trị có khả năng can thiệp một
cách tự giác vào quá trình kinh tế khách quan.
Ưu tiên cho chính trị thì vấn đề đặt ra là khi giải
quyết các vấn đề kinh tế cụ thể phải đứng trên
quan điểm, lập trường chính trị đúng đắn, tức là
phải trả lời cho câu hỏi : xuất phát từ lợi ích của
ai ? phải thấy rằng việc giải quyết các vấn đề
kinh tế phải góp phần duy trì và củng cố quyền
lực chính trị của chủ thể trong quá trình phát
triển kinh tế. Đối với điều kiện nước ta thì việc
giải quyết xử lý các vấn đề kinh tế cụ thể phải
xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân và
đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Chính
điều đó đảm bảo tính định hướng chính trị trong
quá trình phát triển kinh tế. Thiếu quan điểm
chính trị trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế
thì kinh tế có thể vẫn tăng trưởng cao nhưng lúc
đó trung tâm quyền lực chính trị có thể không
còn nằm trong tay giai cấp thống trị đương thời
mà sẽ nằm trong tay thành phần kinh tế đang
đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Như vậy,
ưu tiên cho chính trị ở đây chính là ưu tiên cho
vấn đề quyền lực chính trị của một giai cấp.

Lênin viết ““Không có lập trường chính trị đúng
đắn thì một giai cấp nhất định nào đó không thể
giữ được sự thống trị của mình và do đó cũng
không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình
trong lĩnh vực sản xuất”. Mặt khác, trong kinh tế
dù cải tổ hay đổi mới như thế nào cũng phải
luôn giữ vững hệ tư tưởng chính trị vì hệ tư
tưởng chính trị quy định phương hướng mục
tiêu, bản chất của chế độ xã hội. Trong điều kiện
cách mạng XHCN, sự ưu tiên của chính trị so
với kinh tế là tất yếu để xây dựng CNXH : đó
chính là giành, giữ và sử dụng quyền lực chính
trị và xây dựng nền kinh tê mới.
Cần lưu ý rằng trong mối quan hệ chính trị
với kinh tế, nhiều trường hợp đã có chính sách
chính trị đúng đắn nhưng trình độ năng lực, tổ
chức, chỉ đạo thực tiễn, phương thức hoạt động
hệ thống chính trị không vươn tới ngang tầm
nhiệm vụ chính trị đề ra, thì chính trị vẫn có thể
cản trở kinh tế hoặc để kinh tế phát triển chệch
hướng, trái với đường lối chính trị đã lựa chọn.
Vì thế chính trị phải tự đổi mới, phải có cơ cấu
tổ chức, phương thức hoạt động, thiết chế vận
hành phù hợp với cơ sở kinh tế. Từ những phân
tích trên cho thấy rằng các Đảng chính trị không
thể sai lầm về đường lối chính trị. Trong những
điều kiện nhất định, có thể hy sinh kinh tế cục bộ
để đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững lâu
dài theo sự định hướng của chính trị.
3. Chính trị với kinh tế trong công cuộc

đổi mới ở nước ta hiện nay:
Thực tế ở nước ta đã khẳng định rằng
những thay đổi lớn kinh tế, thường bắt đầu từ
những quyết sách chính trị mang tính bước
ngoặc.
Nhìn lại quá trình Đảng lãnh đạo đất nước
từ trước năm 1986, chúng ta thấy rằng tình hình
nước ta nói riêng và các nước XHCN nói chung
đã có thời gian khá dài do tuyệt đối hóa vai trò
của đường lối chính trị, duy trì quá lâu cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn đến sự kiềm
hãm sự phát triển kinh tế và dẫn đến khủng
hoảng trầm trọng. Chúng ta đã hành động trái
quy luật “kinh tế quyết định chính trị” khi cho
rằng mâu thuẫn nổi lên ở đầu thời kỳ quá độ là
mâu thuẫn giữa chế độ chính trị tiên tiến với
quan hệ sản xuất lạc hậu, do đó phải đẩy mạnh
cải tạo quan hệ sản xuất (mà trong đó chủ yếu
là cải tạo xóa bỏ các thành phần kinh tế phi
XHCN) nhằm làm cho quan hệ sản xuất phù
hợp với chế độ chính trị tiên tiến. Từ đó nảy sinh
ra mâu thuẩn chủ yếu giữa quan hệ sản xuất với
lực lượng sản xuất , nhiệm vụ công nghiệp hóa
được đẩy lên một cách duy ý chí trong khi chưa
có đủ các tiền đề cần thiết. Từ những sai lầm về
đường lối chỉ đạo này, dẫn đến nền kinh tế
chậm phát triển, xã hội rơi vào khủng hoảng
Trên cơ sở đánh giá đúng những nguyên
nhân sai lầm trên, Đảng và Nhà nước ta đã có
những quyết sách quan trọng để cải cách đổi

mới toàn diện tất cả các lãnh vực của đời sống
KT-XH, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng và
phát triển ngày càng vững chắc. Để tiếp tục đưa
công cuộc đổi mới tiến lên, làm cho đất nước ta
phát triển nhanh, vững bền theo định hướng
XHCN trong thời kỳ đổi mới đòi hỏi phải nâng
cao hơn nữa tính tự giác trong sự lãng đạo
chính trị đối với kinh tế. Xử lý mối quan hệ chính
trị với kinh tế trong công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay, cần chú ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất : Xác định mối quan tương
quan giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị. Chủ trương của Đảng là lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm. Thực hiện quan điểm đó, chúng
ta chuyển từng bước nền kinh tế tự nhiên sang
nền kinh tế tự cấp, tự túc, ưu tiên công ngiệp
nặng sang nền kinh tế hàng hoá và hình thành
một hệ thống kinh tế mở. Trên cơ sở của những
thành tựu mà Đảng ta thực hiện từng bước đổi
mới về chính trị, để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo;
Nhà nước đổi mới để đảm bảo vai trò quản lý
nền kinh tế có hiệu quả nhất. Các tổ chức chính
trị-xã hội của quần chúng nhân dân từng bước
hoàn thiện để góp phần tích cực vào công việc
quản lý Nhà nước, quản lý XH,
Thứ hai : Định hướng XHCN với nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần. Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ “Đảng và Nhà
nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều

thành phần vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN, đó là nền kinh tế thị trường XHCN. Đó là
mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời
kỳ quá độ lên CNXH”. Phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần như Đảng ta khẳng định
là hoàn toàn phù hợp với quy luật vận động
khách quan của lịch sử, phù hợp với thực trạng
và trình độ của nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
Thứ ba : Kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng
CSVN. Đảng ta không chấp nhận đa nguyên, đa
đảng. Cũng đã có ý kiến cho rằng : kinh tế nhiều
thành phần có đối lập, đối kháng thì chính trị với
tư cách là sự phản ánh của kinh tế thì chính trị
cũng phải đa nguyên, đa đảng. Thực tế đây là
một quan điểm không đúng bởi 2 lý do : một là
nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ có ở
nước ta (một nước đang theo chế độ nhất
nguyên) mà nó còn tồn tại phổ biến ở nhiều
nước với nhiều chế độ chính trị khác nhau (nhất
nguyên chính trị như Xingapo, Trung quốc, đa
nguyên chính trị như Mỹ), như vậy việc đa
nguyên về kinh tế không nhất thiết phải đa
nguyên về chính trị. Hơn nữa, ở một nước có rất
nhiều Đảng phái chính trị như Mỹ thì mặc dù
đường lối, chủ trương, tổ chức của các Đảng có
khác nhau nhưng thực chất các đảng này đều
do giai cấp tư sản nắm quyền, vì vậy xét cho
cùng ở các nước này cũng là nhất nguyên về

chính trị. Hai trong kinh tế có đối kháng giữa các
thành phần kinh tế nhưng nếu có một thành
phần kinh tế chủ đạo, đủ mạnh chi phối các
thành phần kinh tế khác thì sự đối kháng đối lập
về kinh tế - xã hội sẽ không trở thành sự đối
kháng ở quy mô giai cấp. Ở nước ta, mặc dù
10
kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh tế nhà
nước là chủ đạo thì sẽ không dẫn đến đối kháng
giai cấp. Như vậy, vịêc duy trì một Đảng, nhất
nguyên chính trị là tất yếu khách quan, là điều
kiện đảm bảo sự ổn định chính trị để phát triển
kinh tế. Song, để lãnh đạo tốt kinh tế cũng như
các lĩnh vực khác của đời sống XH, Đảng phải
tự đổi mới vươn lên ngang tầm nhiệm vụ. NQ
TW6 (lần 2) khoá VIII chủ trương tăng cường
công tác phê bình, tự phê bình, chỉnh đốn Đảng
là nhằm làm trong sạch phẩm chất, đạo đức, lối
sống của cán bộ, Đảng viên để nâng cao năng
lực và sức chiến đấu của Đảng. Đây là yêu cầu
bắt buộc của Đảng trong tình hình mới hiện nay.
Thứ tư: Kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước. Kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần bao giờ cũng có hai mặt: tích cực và
tiêu cực. Mặt trái của cơ chế thị trường là
khoảng cách giàu nghèo trong nội bộ nhân dân
có xu hướng ngày càng lớn, tình trạng thất
nghiệp khá lớn, tính chất bóc lột theo kiểu TBCN
đang có xu hướng trở thành phổ biến trong các

đơn vị kinh tế tư nhân, TB nhà nước, TB nước
ngoài, lối sống phi vănhóa đang gia tăng trong
một bộ phận dân cư, thậm chí xâm nhập vào
các cơ quan nhà nước. Do đó nguy cơ chệch
hướng XHCN vẫn còn. Để đạt được hiệu quả
cao trong quá trình tác động phải xuất phát từ
thực trạng kinh tế của đất nước và nhận thức
đúng, đầy đủ các quy luật khách quan của kinh
tế. Nhà nước tác động vào kinh tế còn phải thể
hiện rõ vai trò của mình trong việc tạo môi
trường, điều tiết chính sách XH, quản lý, phân
phối nguồn tài nguyên quốc gia.
Hiện nay, sự quản lý nhà nước đối với kinh
tế vẫn còn nhiều hạn chế. Đó là sự thiếu đồng
bộ của cơ chế và chính sách kinh tế, mặc dù
chuyển từ kinh tế quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường nhưng vẫn còn 1 số chính
sách quay lại chính sách kinh tế thời bao cấp,
nhiều hoạt động SX-KD chưa có cơ chế thích
hợp, nhiều lĩnh vực kinh tế thiếu khung pháp lý,
việc ban hành các văn bản và hướng dẫn thực
hiện nhiều khi không khớp nhau và chậm. Sự
yếu kém của cán bộ trực tiếp quản lý kinh tế,
kém về trình độ năng lực, sa sút về đạo đức,
bản lĩnh yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại,
nhiều cán bộ do thiếu bản lĩnh nên bị mắc lừa.
Việc thực hiện đường lối chủ trương của Đảng
và pháp luật của nhà nước về kinh tế chưa
nghiêm, tình trạng tự do, tuỳ tiện, bất chấp pháp
luật, tự đặt ra quy định mà chỉ có lợi cho việc

quản lý , còn không quan tâm đời sống của
nhân dân như thế nào. Tình trạng trên nói dưới
không nghe, hiện tượng làm láu báo cáo hay,
hiện tượng quên lãng nghị quyết, quên lãng
pháp luật. Việc cải cách hành chính mà nhất là
hành chính về kinh tế còn chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển nền kinh tế. Vì vậy, tăng cường
sự lãnh đạo chính trị đối với nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN ngày càng trở
nên vấn đề trọng yếu trong sự nghiệp CNH-HĐH
đất nước
Thứ năm: Đổi mới hệ thống chính trị cho
phù hợp với đổi mới kinh tế. Trong thời kỳ quá
độ tiến lên CNXH ở nước ta hệ thống chính trị
XHCN do ĐCS VN lãnh đạo. Để đảm bảo chính
trị là động lực, là mở đường cho kinh tế phát
triển, thì hệ thống chính trị phải tiến hành đổi
mới,. Không làm được điều đó hệ thống chính trị
sẽ không thể định hướng cho kinh tế và như thế
nguy cơ chệch hướng kinh tế hoàn toàn có thể
xảy ra. Nghị quyết Đại hội VII đã chỉ rõ nguy cơ
chệch hướng kinh tế có thể bắt đều từ chính
hình thái chính trị. Đổi mới nâng cao hiệu lực
hoạt động của hệ thống chính trị. Chính là yếu tố
quyết định đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp đổi
mới ở nước ta. Đổi mới hệ thống chính trị và
từng bước xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ
XHCN có quan hệ biện chứng với nhau. Thực
chất đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở
nước ta là xây dựng nền dân chủ XHCN. Dân

chủ là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn
thiện hệ thống chính trị XHCN. Làm tốt việc này
chính là góp phần tạo ra động lực tổng hợp cho
sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ ở nước ta
Để nền kinh tế thị trường ở nước ta ngày
càng thật sự là phương thức thực hiện sự
nghiệp “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh”, sự lãnh đạo của
chính trị phải giải quyết tốt những vấn đề sau :
Một là sự lãnh đạo về chính trị phải đảm bảo
lợi ích của giai cấp và dân tộc trong sự phát
triển của kinh tế. Chính trị phải tập trung lãnh
đạo việc xây dựng quan hệ sản xuất XHCN, xác
lập cho được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh
tế quốc dân, phải làm cho hình thức quản lý tập
thể trở thành phổ biến, phải làm cho hình thức
phân phối theo lao động là chính. Chính trị phải
lãnh đạo giải quyết tốt những mâu thuẩn phổ
biến khi phát triển kinh tế thị trường (mâu thuẫn
giữa phát triển kinh tế với công ăn việc làm,
phân hóa giàu nghèo, giữa sự phát triển kinh tế
trước mắt với sự phát triển kinh tế lâu dài của
đất nước, giữa phát triển kinh tế với công bằng
xã hội. Chính trị phải giải quyết tốt mối quan hệ
giữa hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế
: vừa tranh thủ được vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm
tiên tiến của thế giới, đồng thời chống chủ nghĩa
thực dân kinh tế của các đế quốc dưới mọi hình

thức, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
Hai là chính trị phải làm cho kinh tế nâng
cao hiệu quả KTXH : chính trị phải đảm bảo tốt
phát triển KT với phát triển XH, phải là cho sự
phát triển kinh tế đem lại lợi ích cho mọi người,
làm cho sự phát triển đồng đều giữa các vùng,
các miền trong địa phương cả nước. Chính trị
phải lãnh đạo việc đổi mới quan hệ, phải đảm
bảo công nghệ hiện đại phù hợp với điều kiện
Việt Nam, công nghệ phải đảm bảo khôi phục
tính chỉnh thể của môi trường, chỉnh thể của
người lao động. Phải lãnh đạo tốt việc phát triển
kinh tế gắn liền với bảo vệ tổ quốc, chiến lược
kinh tế gắn liền với chiến lược an ninh quốc
phòng và phòng thủ quốc gia
Ba là sự lãnh đạo của chính trị nhằm thúc
đẩy nhanh tiến trình khách quan thúc đẩy sự
phát triển của kinh tế. Chính trị phải tạo ra môi
trường cho các quy luật kinh tế phát huy tác
dụng, phải vận dụng những quy luật nhân tố
ngoài kinh tế tác động vào KT. Chính trị phải chủ
động tạo ra sự gần gũi giữa các chủ thể chính trị
với các chủ thể KT, làm cho kinh tế quán triệt
ngày càng đầy đủ hơn quan niệm, đường lối của
Đảng về kinh tế chính trị. Ngược lại các nhà
chính trị nắm vững hơn thực trạng xu hướng
phát triển của đất nước.
Bốn là chính trị phải hạn chế đến mức tối
thiểu mặt trái của kinh tế thị trường : chính trị
phải giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, phải trong

sạch hóa đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ
năng lực, nâng cao bản lĩnh và đạo đức. Chính
trị phải đấu tranh có hiệu quả với hoạt động kinh
tế bất chính, đồng thời trừng trị nghiêm những
hoạt động kinh tế phi pháp, phê phán mạnh mẽ
những hoạt động kinh tế bất chính. Hạn chế đến
mức tối thiểu sự phân hóa xã hội, phải rút ngắn
khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp, trước
hết là thu nhập kinh tế, phải làm cho mọi người
hiểu hết nến kinh tế thị trường.
Tóm lại: Chính trị với kinh tế là những lĩnh
vực cơ bản trong đời sống XH, vì vậy giải quyết
đúng đắn mối quan hệ chính trị-kinh tế sẽ tạo ra
những động lực lớn quyết định đến quá trình
phát triển của chế độ XH. Đối với nước ta hiện
nay, việc nắm vững mối quan hệ biện chứng
giữa chính trị với kinh tế và vận dụng đúng đắn
mối quan hệ giữa chúng trong thực tiễn sẽ là
động lực quan trọng để thực hiện định hướng
XHCN với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, XH
công bằng, dân chủ văn minh”. Đồng thời sẽ
góp phần trong việc thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế-XH mà Đại hội toàn quốc lần thứ IX
đã khẳng định “Đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ, đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp, ưu tiên phát triển LLSX, đồng thời xây
dựng QHSX phù hợp theo định hướng XHCN;
phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh

tế quốc tế, phát triển nhanh có hiệu quả và bền
vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển
văn hoá, từng bước cải thệin đời sống vật chất
và tinh thấn của nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng XH, bảo vệ và cải thiện môi trường;
kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường
quốc phòng an ninh”./.
Vấn đề 5: Phân tích những đặc trưng cơ bản
của VH chính trị ở Việt Nam. Liên hệ việc nâng
cao trình độ VH chính trị cho cán bộ và quần
chúng ở địa phương mình.
Bài làm
Trong đời sống chính trị hiện đại, văn hóa
chính trị là một nhân tố hết sức quan trọng góp
phần thúc đẩy hoạt động chính trị của mọi công
dân. Sự phát triển của xã hội hiện đại cũng ngày
càng minh chứng văn hóa chính trị là mặt quan
trọng của văn hóa nói chung. Điều này xuất phát từ
ý nghĩa của vấn đề chính trị. Bởi lẽ, chính trị là mối
quan hệ giữa các giai cấp và giữa các cộng đồng
quốc gia; là sự tham gia của nhân dân vào các
công việc của nhà nước và XH; là tổng hợp những
phương hướng, những mục tiêu gắn liền với lợi ích
cơ bản của giai cấp, đảng phái, quốc gia, dân tộc;
là hoạt động thực tiễn chính trị để thực hiện mục
tiêu, đường lối chính trị của từng cá nhân, tổ chức
chính trị. Đất nước ta đang tiến vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bên cạnh thời
cơ và thuận lợi chúng ta cũng đang đứng trước
nhiều nguy cơ thử thách. Đặc biệt qua 15 năm đổi

mới, đất nước đang đi vào chiều sâu của quá trình
cải cách chính trị, của dân chủ hoá đời sống chính
trị thì văn hóa chính trị thật sự trở thành một yêu
cầu bức xúc và có ý nghĩa hết sức quan trọng ảnh
hưởng và quyết định đến thắng lợi của cách mạng.
Để khẳng định điều này chúng ta hãy cùng nhau
phân tích những đặc trưng cơ bản về văn hóa
chính trị ở Việt Nam trong việc nâng cao trình độ
văn hóa chính trị cho cán bộ và nhân dân trong giai
đoạn hiện nay.
11
1. Khái niệm văn hóa chính trị:
Văn hóa chính trị là một bộ phận, một phương
diện trong XH có giai cấp. Văn hóa chính trị là sự
thẩm thấu, xâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn
nhau giữa văn hóa với chính trị, giữa chính trị với
văn hóa. Việc nghiên cứu VH chính trị trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta dựa trên cơ sở kế thừa
những tư tưởng VH chính trị trước đây, các quan
niệm VH chính trị hiện nay trên thế giới và vận
dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Tiếp cận từ quan điểm Mácxít cho thấy rằng:
“VH chính trị là chất lượng tổng hợp của tri thức và
kinh nghiệm hoạt động chính trị, là tình cảm và
niềm tin chính trị của mỗi cá nhân tạo thành ý thức
chính trị của mỗi công dân, thúc đẩy họ tới những
hành động tích cực, phù hợp với lý tưởng chính trị
XH”.
Nếu xem xét văn hóa chính trị từ góc độ rộng

hơn của KH chính trị thì “Văn hóa chính trị là một
phương diện vănhóa trong xã hội có giai cấp, nói
lên tri thức, năng lực sáng tạo trong hoạt động
chính trị hiện thực cùng những thiết chế chính trị
tiến bộ được lập ra để thực hiện lợi ích chính trị cơ
bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp với sự
phát triển của lịch sử. Văn hóa chính trị nói lên
phẩm chất và hình thức hoạt động chính trị của con
người cùng những thiết chế chính trị mà họ lập ra
để thực hiện lợi ích giai cấp cơ bản của chủ thể
tương ứng”.
Từ những quan niệm trên cho thấy con đường
hình thành và phát triển VH chính trị trong XH nhất
định là sự hoàn thiện chế độ XH cùng các tổ chức
thiết chế chính trị và việc nâng cao năng lực chính
trị của XH. Việc kế thừa và phát triển những giá trị
vật chất, giá trị tinh thần do hoạt động chính trị
sáng tạo ra của nhân loại, của dân tộc là yêu cầu
tất yếu trong quá trình phát triển VH chính trị ở
nước ta hiện nay.
2. Đặc trưng văn hóa chính trị.
- VH chính trị bao giờ cũng mang tính giai
cấp.
Văn hóa chính trị hình thành trong thực tiễn
đấu tranh giai cấp vì vậy nó luôn bị chi phối bởi thế
giới quan, hệ tư tưởng, những quan điểm chính trị
của giai cấp nhất định và phục vụ cho lợi ích của
mỗi giai cấp. Tuy rất quan trọng nhưng tính giai cấp
không phải là thuộc tính duy nhất của VH chính trị.
Tính dân tộc và tính nhân loại luôn tồn tại trong VH

chính trị của từng giai cấp. Đặc biệt trong bối cảnh
của thế giới hiện đại, mối quan hệ giữa tính giai
cấp, tính dân tộc và tính nhân loại càng gắn bó chặt
chẽ hữu cơ hơn bao giờ hết. VH trước hết là vấn
đề tồn tại và phát triển của một cộng đồng người
nhất định, cộng đồng trở nên bền vững khi nó trở
thành dân tộc. Tính dân tộc luôn gắn liền tính nhân
loạl, tính giai cấp.
- VH chính trị phản ánh quan hệ quyền lực
chính trị.
Các giá trị của VH chính trị thể hiện mối quan
hệ quyền lực giữa giai cấp và chính Đảng, tổ chức
và thành viên trong nội bộ giai cấp; quan hệ giữa
các giai cấp và nhà nước, nhà nước và công dân ;
quan hệ giữa các nhà nước, các quốc gia dân tộc,
các tổ chức chính trị quốc tế mà ở đó, tất cả điều
thể hiện quyền lực chính trị của người này đối với
người khác và ngược lại. Các giá trị này gắn liền
với những chuẩn tắc, cơ chế và thể lệ tổ chức và
hoạt động chính trị, những chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm cùng với mối quan hệ xác
định đã được các cơ quan quyền lực qui định mà
không thể làm khác được. Biểu hiện tập trung nhất
tính quyền lực của văn hóa chính trị là ở luật pháp
của Nhà nước.
- VH chính trị mang tính lịch sử cụ thể.
VH chính trị được qui định bởi những điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Hai nhân tố
này có nội dung, tính chất và phương thức qui định
khác nhau trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, điều

đó qui định tính lịch sử của VH chính trị. Tính cụ thể
của VH chính trị dựa trên cơ sở lý tưởng chính trị,
lập trường và hành vi , cũng như trên cơ sở yếu tố
tâm lý XH. Tính lịch sử của VH chính trị thể hiện ở
trong các điều kiện lịch sử khác nhau. Mặt khác,
các giá trị VH chíng trị không phải là cái gì bất biến
mà luôn có sự vận động và phát triển.
- VH chính trị mang tính kế thừa .
Hệ tư tưởng là nhân tố cốt lõi nhất của VH
chính trị. Nhưng trong mỗi hình thái kinh tế nhất
định, kết cấu giai cấp rất phức tạp và không thuần
nhất. Do đó, trong mỗi nền chính trị, VH chính trị
không thuần nhất. VH của các giai cấp có hệ tư
tưởng độc lập chi phối VH của giai cấp khác tạo
nên bức tranh đa dạng của VH chính trị. Bên cạnh
VH chính trị của giai cấp nắm quyền lực Nhà nước,
còn có VH chính trị của các giai cấp và các giai
tầng khác nhau trong XH.
- VH chính trị là sự tổng hòa tất cả các hình
thái VH cơ bản của XH.
VH chính trị như là sự thâu thái toàn bộ các
hình thái VH khác vào trong nó và biến những giá
trị ấy thành những giá trị mang tính độc đáo riêng
của mình. Giá trị của VH chính trị luôn bao chứa
trong mình nó không chỉ là cái chính trị mà còn cả
cái đạo đức, cái khoa học, cái thẩm mỹ. Một giá trị
văn hóa khác chưa hẳn mang tính chính trị nhưng
bất kỳ một giá trị vănhóa chính trị nào cũng không
thể không mang giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ và
cả tri thức khoa học ở mức độ cần thiết. Chính vì

vậy VH chính trị luôn tồn tại và phát triển như là
một chỉnh thể quyền lực chính trị ngày càng tiệm
cận sự giải phóng tối cao và phát huy một cách tự
nhiên bản chất tốt đep của con người.
- VH chính trị rất phức tạp trong việc xác
định chân giá trị.
Xuất phát từ khát vọng cho quyền lực và nhu
cầu về lợi ích khác nhau, giá trị VH của nhiều sự
kiện chính trị lớn trong lịch sử của nhân loại, không
chỉ được những người đương thời nhìn nhận hết
sức trái ngược nhau mà còn cả những người của
thời đại sau cũng có sự đánh giá rất khác nhau.
Khó có một sự tương thích về quan điểm giữa
những người có lập trường và lý tưởng XH khác
nhau đối với khía cạnh vănhóa của các vấn đề
chính trị. Không những thế mà ý thức hệ giai cấp
còn xâm nhập vào, nhiều khi đến mức chi phối
trong việc xác nhận các giá trị đạo đức, giá trị thẩm
mỹ và thậm chí tri thức khoa học.
3. Những đặc trưng cơ bản của nền VH chính trị
VN.
Nền văn hóa chính trị Việt Nam là một nền VH
chính trị gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ
nước lâu dài đã tạo lập nên được nhiều truyền
thống quí báu, đến hôm nay vẫn đang tiếp tục phát
huy tác dụng to lớn trong những hình thức và biểu
hiện mới. Những giá trị tiêu biểu của truyền thống
văn hóa chính trị Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất, nền văn hóa chính trị VN đề cao
tinh thần yêu nước, độc lập dân tộc và chủ quyền

quốc gia; chủ nghĩa yêu nước là kết tinh những giá
trị tiêu biểu nhất của VH chính trị VN. Khắc phục
thiên tai và chống giặc ngoại xâm là hai đặc điểm
truyền thống tạo nên tính cố kết cộng đồng trong
đời sống của con người VN. Chính trong quá trình
dựng nước và giữ nước, trí tuệ, nhân cách và sức
mạnh sáng tạo của dân tộc VN được kết tinh. Tình
cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng
lớn nhất, bao trùm nhất của nhân dân, của dân tộc
VN. Giáo sư Trần Văn Giàu viết: “Chủ nghĩa yêu
nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua lịch sử VN biểu lộ rõ
ràng, đầy đủ, tập trung hơn bất cứ chỗ nào khác.
Yêu nước thành một triết lý xã hội và nhân sinh của
người VN và, nếu dùng từ “đạo” với nguyên nghĩa
của nó là “đường”, là hướng đi thì chủ nghĩa yêu
nước đích thực là đạo của VN”. Chủ nghĩa yêu
nước VN thể hiện qua một số nội dung cơ bản sau:
Yêu quê hương xứ sở làng sớm, gắn bó kết cấu
cộng đồng có lịch sử và VH chung, Ý thức dân tộc
và tự hào dân tộc; ý thức sâu sắc về độc lập dân
tộc, toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia,
hướng về dân và lấy dân làm gốc.
Thứ hai, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
HCM là bộ phận cốt lõi nhất trong VH chính trị VN
hiện nay. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng cho mọi hoạt
động của mình. Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
HCM luôn vì con người và mang những giá trị nhân
văn, luôn hướng mọi hoạt động của con người đi
đến chân, thịện, mỹ; chính vì thế mà đây là một bộ

phận cốt lõi nhất trong VH chính trị VN hiện nay. Từ
khi Đảng ta được thành lập cho đến nay giá trị
nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
HCM là một trong những mục tiêu mà Đảng ta cần
đạt tới, đó là vì con người, đem lại tự do hạnh phúc
cho con người.
Thứ ba, những chuẩn mực mang giá trị nhân
văn trong hoạt động chính trị thực tiễn của VN. Văn
hóa chính trị Việt Nam luôn kế thừa và phát triển
những chuẩn mực mang giá trị nhân văn, truyền
thống tốt đẹp trong hoạt động chính trị của nước ta
qua các thời kỳ từ khi dựng nước đến nay, đó là :
- Lấy nhân nghĩa để cứu nước, cứu dân
- Truyền thống tư tưởng thân dân, khoan dân,
yêu dân, dựa vào dân là điều kiện sống còn của
nhà nước
- Giàu tình khoan dung, đề cao và tôn trọng
hiền tài trong việc trị nước
- Độc lập dân tộc, non sông đổi mới trong một
thế giới hoà bình
Những giá trị này hiện nay vẫn còn phù hợp
với nhân loại và là một xu thế tất yếu của các dân
tộc tiến bộ trên thế giới.
Hiện nay đất nước ta đã hòa bình thống
nhất, tiến hành hiện đại hoá đất nước, mọi đượng
lối, chủ trương của Đảng điều do dân và vì dân,
phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng
XH, khuyến khích nhân dân làm giàu, bên cạnh đó
có những chính sách cụ thể nhằm giúp hộ nghèo
vươn lên thoát nghèo. Đó là những giá trị nhân văn

mà Đảng ta đã kế thừa và phát huy trong giai đoạn
hiện nay.
Thứ tư, tiếp thu phê phán, chọn lọc những giá
trị VH chính trị của nhân loại để bảo tồn và phát
triển văn hóa chính trị VN.
Tóm lại, ngày nay trong sự nghiệp đổi mới
nhằm đưa đất nước đi lên theo hướng CNH-HĐH
đất nước, nhiệm vụ của các chủ thể chính trị hiện
đại, mà trên hết là các chủ thể lãnh đạo vừa phải
biết kế thừa các giá trị tốt đẹp của dân tộc và nhân
loại, mặt khác phải tìm cách hạn chế và khắc phục
những ảnh hưởng tiêu cực để góp phần tạo nên
một môi trường văn hóa chính trị VN tiên tiến, hiện
đại, thúc đẩy quá trình phát triển đất nước trên con
đường CNH, HĐH. Cụ thể, nhiệm vụ của văn hóa
chính trị hiện đại ở VN là văn hóa chính trị được
xây dựng trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó Đảng
cộng sản VN là hạt nhân lãnh đạo toàn diện và
tuyệt đối các lĩnh vực đời sống xã hội, biết kế thừa
và phát huy một cách hợp lý những cái hay cái đẹp
trong truyền thống, đồng thời tiếp thu những cái
hay cái đẹp của văn hóa chính trị hiện đại (kể cả
của nước ngoài).
4. Thực trạng phát huy văn hóa chính trị ở nước
ta :
12
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi
xướng với mục tiêu định hướng XHCN: Xây dựng
nhà nước VN dân giàu nước mạnh, XH công bằng,

dân chủ văn minh dựa trên sức mạnh của VH
truyền thống, của văn minh nhân loại mà đỉnh cao
là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM đã kết
tinh được một cách nhuần nhuyễn tinh hoa VH thế
giới, lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
Mác-Lênin với nền VH truyền thống của dân tộc và
sự nghiệp cách mạng của nước ta từ những năm
30 đến nay và sau này - đó là sức mạnh VH chính
trị VN.
Trong nhiều năm qua, văn hóa chính trị ở
nước ta đã xác lập được những giá trị căn bản làm
nền tảng, là tiền đề văn hóa và là động lực mạnh
mẽ của công cuộc đổi mới. Dân tộc Việt Nam
không sùng tính, rất nhạy cảm về chính trị và nhiệt
tình tham gia vào công việc nhà nước. Trong thực
tiễn những ưu điểm trong việc hình thành giáo dục
nâng cao văn hoá - chính trị cho nhân dân được
thể hiện qua một số kết quả cụ thể trong phạm vi
cả nước, cũng như từng địa phương, như bản
chất của Ban chấp hành trung ương Đảng đã đánh
giá là dân chủ được phát huy, lòng tin của nhân
dân đối với chế độ và tiền đề của đất nước, với
Đảng và với nhà nước được khẳng định, trình độ
dân trí và mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân
khá hơn trước. Những thành tựu văn hóa chính trị
có thể kể như : đã có bước tiến quan trọng trong
phát triển tư duy lý luận, có bước tiến quan trọng
trên con đường hiện thực hóa quyền lực chính trị
của nhân dân, đã có một đội ngũ cán bộ có trình độ
văn hóa chính trị ngày một cao.

Mặc dù vậy, văn hóa chính trị nước ta
đang đứng trước những vấn đề bức xúc phải giải
quyết, những khó khăn trong công tác giáo dục
đào tạo, việc nâng cao mặt băng dân trí, nhất là ở
vùng sâu, vùng xa, miền núicòn nhiều chênh lệch
vứi đô thị, những hoạt động văn hoá không lành
mạnh và các tệ nạn xã hội vẫn phát triển… kỷ
cương kỷ luật, trật tự xã hội còn nhiều chỗ chưa
tốt. Một số hạn chế bao gồm :
Một là, sự bất cập về tri thức chính trị :
nhiều vấn đề thực tiễn bức xúc chưa được lý giải
về lý luận và chưa kịp thời đúc rút kinh nghiệm. Hệ
thống chính sách pháp luật còn chồng chéo, chưa
hoàn chỉnh, hoạt động pháp chế còn nhiều hạn chế
(tùy tiện trong hành pháp, sai sót trong tư pháp ),
thể chế chính trị chưa hoàn thiện, định chế của hệ
thống chính trị chưa cụ thể, thiết chế tổ chức còn
cồng kềnh, kém hiệu lực Một bộ phận cán bộ
nhân dân còn hạn chế trong tranh luận chính trị,
những sinh hoạt chính trị đóng góp xây dựng đảng,
xây dựng chủ trương đường lối của Đảng, của nhà
nước với khẩu hiệu: “ Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”. Môt bộ phận cán bộ, nhân dân còn
xem nhẹ định hướng chính trị trong các hoạt động
kinh tế, bên cạnh đó là vấn đề đẳng cấp văn hoá-
chính trị vẫn còn chưa có sự bình đẳng trong chính
trị.
Hai là, nguy cơ xói mòn các giá trị truyền
thống : một số giá trị có nguy cơ mai một dần, các
giá trị mới được xác lập chưa thật sự vững chắc,

chưa mang tín h xã hội phổ biến. Mặt trái của tính
tự trị và tính cộng đồng làng xã dẫn đến hàng loạt
các căn bệnh tâm lý - xã hội vẫn còn tồn tại và ảnh
hưởng đến quá trình phát triển đất nước hiện nay
như : bệnh làm ăn theo kiểu SX nhỏ, bệnh gia đình
chủ nghĩa, bệnh xuề xòa đại khái, bệnh “phép vua
thua lệ làng”, tác phong làm việc chậm chạp Một
số cán bộ có phong thái làm việc theo kiểu “quan
cách mạng”, không ít tệ nạn và hành vi phản văn
hóa nảy sinh trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp
cao và lan ra trong XH.
5. Một số phương hướng cơ bản để nâng cao
trình độ VH chính trị của nhân dân ta trong giai
đoạn hiện nay.
Từ việc phân tích về thực trạng tình hình VH
chính trị cho thấy việc hình thành và giáo dục VH
chính trị ở nước ta hiện nay đang là vấn đề thực
tiễn cấp bách. Nó tập trung vào một số nhiệm vụ cơ
bản như: trao dồi thế giới quan khoa học và lập
trường chính trị, giữ vững nguyên tắc tập trung dân
chủ trong sinh hoạt chính trị, trong đời sống tinh
thần, trong Đảng và XH, phát huy vai trò gương
mẫu và phẩm chất đạo đức của cán bộ đảng viên
cũng như tính tiên phong trong hành động để nêu
gương thiết phục quần chúng, tăng cường giáo dục
tuyên truyền về lịch sử dân tộc, VH dân tộc và
truyền thống cách mạng của Đảng.
Từ những mục tiêu trên, để nâng cao trình độ
văn hóa chính trị của nhân dân, mỗi địa phương tùy
theo đặc điểm và tình hình dân trí, đời sống chính

trị của địa phương mình mà đề ra những giải pháp
cụ thể để nâng cao trình độ văn hóa chính trị cho
cán bộ và quần chúng ở cơ quan, đơn vị dựa trên
một số phương hướng cơ bản như sau :
- Một là : phải nâng cao trình độ học vấn,
trình độ VH nói chung cho nhân dân bởi lẽ trình độ
học vấn, trình độ VH chính là cơ sở của VH chính
trị.
+ Việc nâng cao trình độ VH chính trị cho
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tại các
địa phương, đơn vị trước nhất phải được xem là
nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng
trên 3 mặt : chính trị, tư tưởng và tổ chức, mà cụ
thể là tiếp thu quán triệt và tổ chức thực hiện tốt
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII về một
số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng
hiện nay, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống của cán bộ, đảng viên; và thực hiện tốt
Nghị quyết TW 5, khóa VIII về xây dựng và phát
triển nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
+ Xây dựng gia đình văn hóa trong thời
kỳ CNH-HĐH cũng là một giải pháp rất quan trọng
để phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, làm
cho những giá trị đó không chỉ thuộc về quá khứ
mà còn trở thành nhân tố trực tiếp xây dựng gia
đình văn hóa mới
- Hai là phải đổi mới và nâng cao chất
lượng giáo dục lý luận chính trị để góp phần hình
thành thế giới quan khoa học và niềm tin trong

nhân dân, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên, trí
thức, văn nghệ sỹ, thanh niên, sinh viên ở các
trường đại học và cao đẳng… Yêu cầu trong đổi
mới cần chú ý những nội dung sau : Coi trọng giáo
dục tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
Mác Lênin, giáo dục phải phù hợp với từng loại
hình cụ thể, giáo dục trên cơ sở sáng tạo, khắc
phục giáo điều trong thực tiễn, khuyến khích tìm tòi
trên một số định hướng đúng, trong quá trình học
tập lý luận chính trị, học tập nghị quyết thì cần phải
khuyến khích tìm tòi và dân chủ trong tranh luận,
phải đầu tư cho các mặt giáo dục lý luận chính trị :
tài liệu, giáo viên, báo cáo viên, tài liệu học tập,
giảng dạy, trường lớp…
- Ba là : phải sử dụng tối đa các phương
tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền trong đông
đảo quần chúng nhân dân những nhận thức mới
mẻ về CNXH, những triển vọng và thành tựu trong
công cuộc đổi mới đất nước, những thành tựu về :
kinh tế, văn hóa khoa học kỹ thuật của nhân loại.
Đặc biệt chú trọng tổng kết thực tiễn quá trình đổi
mới, đông thời tạo ra sự thống nhất rộng rãi về
đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước (vì mục đích tuyên truyền và tăng niềm tin
cho nhân dân ).
- Bốn là tăng cường hình thức giao tiếp
văn hóa tinh thần theo yêu cầu dân chủ hóa và mở
rộng hoạt động đối ngoại trao đổi kỷ năng và
phương pháp văn hóa tranh luận.
- Năm là mở rộng hình thức và phương

pháp tập hợp giáo dục quần chúng theo các đoàn
thể, các hội, các hiệp hội. Sự phát triển sâu rộng
các hội của quần chúng là biểu hiện trính độ phát
triển của VH dân chủ. Đây là môi trường rất tốt để
trao đổi, giáo dục VH cho công dân trong một xã
hội đang đổi mới.
- Sáu là đặc biệt coi trọng nghiên cứu
khai thác di sản tư tưởng Hô Chí Minh về văn hóa
chính trị thông qua những bài viết, lời nói, cách ứng
xử của Hồ CHí Minh.
Ngoài ra để VH chính trị trở thành phổ
biến và thâm nhập rộng rãi vào quần chúng nhân
dân thì cần sớm tập trung lực lượng chuyên gia để
nghiên cứu và tiễn khai các đề tài về chính trị và
khoa học chính trị, trong đó có vấn đề về VH chính
trị.
Tóm lại, trên cơ sở đánh giá thực trạng
VH chính trị của nước ta hiện nay, trên cơ sở quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ trương
đường lối đúng đắn của đảng ta đã cho chúng ta
thấy được vai trò hết sức quan trọng của VH chính
trị trong yêu cầu đổi mới đó cũng là cơ sở khách
quan, khoa học để chúng ta thống nhất khẳng định
rằng giáo dục VH chính trị là nhiệm vụ hết sức
quan trọng bức thiết và cấp bách, đồng nó đòi hỏi
mọi nổ lực phấn đấu thực hiện bằng phương
hướng và biện pháp thích hợp nhằm đạt hiệu quả
cao nhất, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu chung
là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ văn minh” và vững bước đi lên chủ nghĩa xã

hội.
Vấn đề 6 : Từ kiến thức về chế độ nhất
nguyên và đa nguyên chính trị, đồng chí hiểu như
thế nào về bài học: định hướng đi lên CNXH ở
nước ta hiện nay dứt khoát phải thực hiện chế độ
một đảng - nhất nguyên chính trị
Bài làm
Muốn đạt được mục tiêu quyền lực chính trị
thì thời đại ngày nay cần phải có vai trò của Đảng
chính trị - một nhân tố không thể thiếu của hệ thống
chính trị và xã hội công dân nói chung. Trước đây,
ở nước ta, việc nghiên cứu đảng chính trị chủ yếu
là nghiên cứu về Đảng cộng sản, mà tập trung là
nghiên cứu Đảng cộng sản VN. Ngày nay, việc mở
rộng phạm vi nghiên cứu về đảng chính trị, giúp
chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm để góp
phần vào việc đổi mới Đảng ta, đa dạng hoá các
quan hệ của Đảng, đổi mới hệ thống chính trị, thực
hiện nhà nước pháp quyền – xã hội công dân ngày
càng hoàn thiện hơn.
I. Khái quát về Đảng chính trị và vai trò, chức
năng của Đảng chính trị
Cho đến nay có rất nhiều quan niệm khác
nhau về đảng chính trị, trong đó đáng chú ý là hai
loại quan niệm cơ bản : một của các học giả tư sản
và một của chủ nghĩa Mác Lênin. Các học giả tư
sản cho rằng : Đảng là một tổ chức chính trị của
những người tự nguyện, có chung mục tiêu chính
trị, quyền lực nào đó; mục đích ra đời của đảng là
giành quyền lực nhà nước và bằng phương pháp

bầu cử để Đảng tham gia nắm chính quyền. Theo
quan niệm của CN Mác-Lênin : Đảng là một tổ
chức chính trị của một giai cấp, đại biểu lợi ích cho
giai cấp đó. Đảng ra đời nhằm mục đích đấu tranh
giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Đảng
lãnh đạo giai cấp đấu tranh giành chính quyền
bằng phương pháp cách mạng, bằng bạo lực cách
mạng. Từ quan niệm này, có định nghĩa về Đảng
như sau: “Đảng là tổ chức chính trị của những
người cùng chung hệ tư tưởng, đại biểu giác ngộ
nhất, tích cực nhất của một giai cấp, đấu tranh cho
quyền lợi của giai cấp ấy và lãnh đạo giai cấp ấy
trong cuộc đấu tranh chính trị”.
13
Đảng chính trị ra đời bắt đầu từ cuộc đấu
tranh của giai cấp tư sản chống phong kiến và phát
triển mạnh mẽ trong XH hiện đại. Đảng sẽ mất ý
nghĩa tồn tại khi sứ mệnh lịch sử của giai cấp đã
hoàn thành. Mục tiêu của các đảng chính trị là
hướng tới lãnh đạo, điều hành chính quyền nhà
nước, tổ chức cho giai cấp và các lực lượng ngoài
giai cấp tiến hành đấu tranh theo đường lối chính trị
của mình. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc.
Đảng chính trị bao giờ cũng mang bản chất
giai cấp. Đảng chính trị luôn đại diện cho hệ tư
tưởng, quyền lực và lợi ích của giai cấp nhất định.
Một giai cấp có thể có nhiều đảng chính trị (điều
này là phổ biến ở các nước tư bản chủ nghĩa)
nhưng mỗi đảng đều mang bản chất của một giai
cấp nhất định. Không thể có đảng chính trị nào là

phi giai cấp, là siêu giai cấp.Thực tế đã chứng
minh, dù ở thời đại nào, nước nào cũng không thể
có một đảng chính trị vừa đại diện cho lợi ích của
giai cấp bóc lột thống trị lại vừa đại diện cho lợi ích
của giai cấp, tầng lớp bị bóc lột. Lênin viết: “Cuộc
đấu tranh của các chính đảng là biểu hiện hoàn
chỉnh, đầy đủ và rõ rệt nhất của các cuộc đấu tranh
chính trị của các giai cấp”.
Bản chất giai cấp quy định vai trò lịch sử của
đảng chính trị. Vai trò của một đảng chính trị đối với
sự phát triển XH chủ yếu là phụ thuộc vào địa vị
lịch sử và bản chất giai cấp của đảng đó. Cho nên
khi xem xét toàn diện một đảng, phải tìm cho được
bản chất của nó. Lênin nhấn mạnh “Để nhận rõ
được cuộc đấu tranh của các đảng, thì không nên
tin ở lời nói, mà nên nghiên cứu lịch sử thật sự của
đảng, nghiên cứu chủ yếu là việc làm chứ không
phải là những lời họ nói về bản thân họ, xem họ
giải quyết các vấn đề chính trị như thế nào, xem
thái độ họ như thế nào trong những vấn đề có liên
quan đến lợi ích thiết thân của các giai cấp khác
nhau trong XH”.
Đảng chính trị có 3 chức năng cơ bản: Một là,
đề ra cương lĩnh chính trị, chỉ rõ mục tiêu, phương
hướng chính trị và các biện pháp chủ yếu nhằm đạt
được mục tiêu đó. Đối với các đảng cầm quyền,
cương lĩnh chính trị của đảng là định hướng hoạt
động của nhà nước và cả xã hội nói chung. Hai là,
tuyển chọn các nhà chính trị của đảng để bố trí vào
bộ máy chính quyền nhà nước. Ba là, đảng là công

cụ để hình thành những chủ trương, chính sách
của đảng.
Sự tác động của các đảng chính trị đến đời
sống xã hội ở những mức độ khác nhau mà đảng
cầm quyền bao giờ cũng là nhân tố quyết định sự
phát triển của đất nước. Tác động của các đảng
chính trị không chỉ ở mặt tích cực mà còn có cả
mặt tiêu cực; tác dụng tích cực hay tiêu cực đến
đâu là tùy thuộc vào sứ mệnh lịch sử và bản chất
giai cấp của đảng chính trị. Cho nên, khi đánh giá
một đảng không phải chủ yếu chỉ dựa vào cương
lĩnh, đường lối, mà cơ bản hơn là xem xét tính hiệu
quả chính trị - xã hội của nó, sự ủng hộ của nhân
dân và địa vị của đảng trong bộ máy chính quyền
nhà nước.
II. Chế độ đa nguyên và nhất nguyên chính trị :
Trong một nước có thể có nhiều đảng phái
chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác
nhau cùng tồn tại, đối lập, đấu tranh với nhau đòi
chia sẻ vai trò lãnh đạo chính trị và chi phối đời
sống chính trị - xã hội của quốc gia, đó là các nước
thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập. Song cũng có những nước chỉ có duy nhất một
đảng chính trị chi phối quyền lực chính trị - xã hội;
tức là thực hiện chế độ một đảng, nhất nguyên
chính trị.
1. Chế độ đa nguyên chính trị :
Chế độ đa nguyên chính tri, đa đảng đối lập
đã trở thành phổ biến trong các nước TBCN. Sự đa
nguyên hay đa đảng chủ yếu diễn ra trong tranh

cử, trong đấu tranh ở nghị trường để giải quyết các
vấn đề chính trị của đất nước. Chế độ này có
những ưu điểm và hạn chế riêng.
Về ưu điểm : do tồn tại của nhiều đảng chính
trị, mỗi đảng đều muốn tranh giành quần chúng,
tranh thủ tìm sự ủng hộ của nhiều cử tri nên đảng
đều phải luôn tự đổi mới về chính trị, tư tưởng, tổ
chức làm cho đời sống XH cũng khởi sắc, đổi
mới. Để duy trì vị trí lãnh đạo của mình, các đảng
cầm quyền luôn nổ lực điều hành công việc quản lý
nhà nước có hiệu quả, còn các đảng chính trị đối
lập muốn lên vị trí cầm quyền cũng phải tìm hiểu
và tìm cách nói lên được yêu cầu nguyện vọng của
nhân dân, nhờ vậy người dân có điều kiện phát
biểu nguyện vọng và những thắc mắc của mình.
Cũng chính do sự cạnh tranh giữa các Đảng mà
lãnh đạo của các Đảng luôn chịu sự kiểm soát của
các đảng viên, nhờ vậy ngăn chận được sự độc
đoán và chuyên quyền
Về khuyết điểm : trong các quốc gia theo chế
độ đa đảng đối lập, đa nguyên chính trị, các đảng
chính trị thường tranh giành quần chúng, chia rẽ
quần chúng, kích thích sự thèm khát quyền lực của
quần chúng, tạo thêm nhiều điều kiện để tham
nhũng phát triển. Chế độ chính trị ở các nước này
thường không ổn định, xã hội luôn tiềm ẩn những
xung đột do sự tranh giành quyền lực của nhiều
đảng phái khác nhau; tệ tham nhũng là căn bệnh
trầm kha; trong cạnh tranh để đạt mục tiêu chính
quyền nhà nước thì các đảng chính trị không từ

một thủ đoạn nào, kể cả những thủ đoạn không văn
minh: khủng bố, mua chuộc, hối lộ, tung nói tin xấu
lẫn nhau…
Hiện tượng đa nguyên, đa đảng trong nền dân
chủ tư sản là xuất phát từ sự ra đời của nhiều đảng
chính trị tư sản trong cuộc đấu tranh chống chế độ
phong kiến. Ngay từ khi ra đời, dù có chung mục
đích là lật đổ chế độ phong kiến, xây dựng chế độ
TBCN nhưng các đảng tư sản đã có những mâu
thuẫn nội bộ, phản ánh những mâu thuẫn về lợi ích
giữa các giai tầng trong nội bộ giai cấp tư sản.
Ngày nay, những mâu thuẫn cục bộ về lợi ích giữa
các tập đoàn tư bản cũng những mâu thuẫn cơ bản
với các giai cấp và các tầng lớp khác không những
không mất đi mà còn tăng lên với cả các tầng lớp
XH mới trưởng thành. Vì thế, mà các đảng khác
nhau ấy vẫn tồn tại bên nhau, các đảng mới tiếp
tục được thành lập, chúng đấu tranh giành giựt
quyền lợi, lợi ích cá nhân
Chế độ đa nguyên về hình thức có vẻ rất dân
chủ, các đảng đều có quyền tự do cạnh tranh luận,
ứng cử và bầu cử để trở thành Đảng cầm quyền.
Nhưng thực chất chỉ có những đảng lớn, có thế lực
và có sự hậu thuẫn của các tập đoàn tư bản lớn,
được pháp luật dành cho sự thuận lợi mới có khả
năng thắng cử và trở thành đảng cầm quyền. Các
đảng lớn thay thế nhau cầm quyền nhưng xét cho
cùng dù là đảng nào trong giai cấp tư sản giành
thắng lợi (cầm quyền) thì mục tiêu chính trị cũng là
trước hết phục vụ giai cấp tư sản. Cho nên, về thực

chất, “Đa nguyên chính trị tư sản” cũng là nhất
nguyên chính trị của giai cấp tư sản mà thôi, các
đảng cầm quyền tư sản luôn tìm mọi cách che đậy
thực chất của sự chuyên chính tư sản và họ cố
gắng điều chỉnh phần nào quan hệ lợi ích giữa các
giai cấp và tầng lớp để làm dịu bớt những mâu
thuẫn của CNTB hiện đại bằng các chương trình
phát triển KT-XH, các chính sách an sinh XH
2. Chế độ nhất nguyên trong các nước
XHCN :
Các nước XHCN đều theo chế độ nhất
nguyên chính trị với một đảng cầm quyền duy nhất
là Đảng Cộng sản. Chế độ nhất nguyên chính trị
cũng có những ưu điểm, khuyết điểm riêng.
Về ưu điểm : do là đảng duy nhất lãnh đạo
chính trị, đường lối chủ trương của Đảng cầm
quyền, lãnh đạo đất nước được nhà nước thể chế
hóa, các tổ chức chính trị xã hội triển khai thực hiện
tạo nên sự thống nhất trong việc đề ra và thực hiện
các quyết sách chính trị, phát huy mọi sức mạnh,
mọi nguồn lực phục vụ xã hội phù hợp với mục tiêu
chính trị của Đảng cầm quyền và do không có tranh
giành, đấu đá giữa các đảng chính trị nên dễ ổn
định chính trị xã hội.
Về hạn chế : các quốc gia theo chế độ nhất
nguyên chính trị, đảng chính trị sau khi giành được
chính quyền dễ có xu hướng quan liêu, xa rời nhân
dân. Đây là căn bệnh phổ biến mà trước đây các
Đảng cộng sản các nước thường mắc phải. Chế độ
một đảng cầm quyền mà không thực hiện dân chủ

đầy đủ, vi phạm dân chủ thì cũng tiềm ẩn nguy cơ,
trở ngại. Đó là chủ quan duy ý chí và quan liêu
trong xác định chủ trương, đường lối Đảng dễ áp
đặt ý chí của mình vào nhà nước và xã hội, áp đặt
không hợp lý người của đảng, không đủ các tiêu
chuẩn vào các cơ quan nhà nước và đoàn thể, tự
đặt đảng lên trên nhà nước và pháp luật. Đảng bao
biện, làm thay công việc nhà nước mà không chịu
trách nhiệm pháp lý về các quyết định của mình.
Người dân khó kiểm soát, giám sát được các cơ
quan quyền lực và cán bộ trong hệ thống quyền
lực. Đảng và nhà nước không bị thúc bách, tìm tòi,
thực hiện các hình thức dân chủ linh hoạt, cởi mở
trong khi vẫn đảm bảo nguyên tắc cơ bản của chế
độ.
Các nước XHCN đều theo chế độ một Đảng
nhất nguyên chính trị là do xuất phát từ điều kiện
lịch sử. Từ khi phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân ra đời cho đến nay, thực tế cho thấy
chưa có đảng cộng sản nào giành thắng lợi thông
qua con đường nghị trường dù đã tranh thủ tối đa
khả năng đó. Lịch sử đã chứng minh các đảng
cộng sản giành chính quyền thắng lợi chỉ bằng bạo
lực cách mạng và sau khi giành chính quyền thắng
lợi sẽ thiết lập hệ thống chính trị trong đó Đảng
công sản giữ vai trò duy nhất lãnh đạo xây dựng
chế độ mới. Trong cuộc đấu tranh giành chính
quyền cũng như trong xây dựng chế độ mới, không
có một giai cấp nào, một lực lượng nào có thực lực,
có tín nhiệm với nhân dân để có thể “đối trọng” với

Đảng cộng sản
Trong CNXH, Đảng cộng sản là người chịu
hoàn toàn trách nhiệm về vận mệnh của quốc gia
dân tộc, là người duy nhất lãnh đạo quần chúng
cướp chính quyền từ giai cấp bóc lột, lãnh đạo hệ
thống chính trị - xã hội. Lênin đã từng khẳng định
rằng: Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất có thể
“đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ
sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ
của tất cả những người lao động và những người
bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống của họ”. Hơn
nữa, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản ngày càng
tăng lên theo sự nghiệp xây dựng CNXH: phải tập
trung lãnh đạo thống nhất các quá trình phát triển
XH, chống sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động. Chỉ có sự lãnh đạo duy
nhất của Đảng cộng sản mới có thể ổn định chính
trị, tập họp được sức mạnh của toàn dân để xây
dựng CNXH. Nếu thực hiện đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập thì chỉ có lợi cho các lực lượng chống
phá cách mạng.
Thực tế lịch sử cách mạng vô sản cho đến
ngày nay đã chỉ ra rằng: Thứ nhất, quyền duy nhất
lãnh đạo cách mạng của một đảng cộng sản là do
bản chất của giai cấp công nhân quy định. Bởi, giai
cấp công nhân là giai cấp cách mạng triệt để nhất,
là lực lượng đại diện cho phương thức SX tiên tiến
nhất của thời đại; mặt khác lợi ích của giai cấp
công nhân tương đồng với lợi ích của các tầng lớp
nhân dân lao động. Vì vậy, khi đấu tranh giải phóng

cho mình, giai cấp công nhân cũng đồng thời giải
phóng cho tất cả. Cho nên đội tiền phong của nó là
14
Đảng cộng sản không chỉ đại diện cho quyền lực và
lợi ích của giai cấp công nhân mà còn đại diện cho
giai cấp nông dân, cho nhân dân lao động và cả
dân tộc. Chính lẽ đó mà được nông dân và nhân
dân lao động cả dân tộc xem là Đảng của mình mà
không cần thành lập thêm Đảng nào khác. Thứ hai,
sự nhất nguyên của một đảng cầm quyền là do
thực tiễn cách mạng vô sản quy định. Các lực
lượng gọi là “đối trọng” với Đảng CS, thực chất đều
là những tổ chức chống phá sự nghiệp cách mạng
của nhân dân. Cho nên lịch sử đã đặt trọng trách
về vận mệnh của quốc gia dân tộc cho Đảng CS
phải gánh lấy. Thứ ba, sự nhất nguyên của một
Đảng CS cầm quyền còn là bài học xương máu
của nhân dân. Sự thực hiện “đa nguyên” “đa
đảng”, dân chủ theo kiểu tư sản ở Liên Xô và Đông
âu vừa qua, là một bài học đắt giá đối với các nước
XHCN, đã làm cho CNXH bị khủng hoảng và lâm
vào thoái trào. Đồng thời, thực tế cũng chứng minh
rằng, các nước thực hiện sự cải cách hay đổi mới
thu được những thắng lợi căn bản và vững bước đi
theo con đường CNXH đều đã kiên trì nguyên tắc:
nhất nguyên chính trị, giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo duy nhất, đúng đắn của Đảng CS đối với
hệ thống chính trị và toàn XH. Cả hai (sự tổn thất
và sự thành công trên) đều là bài học vô giá - về
thế nào là tự do dân chủ - không chỉ đối với người

cộng sản chân chính mà còn có ý nghĩa đối với
nhân loại có tiến bộ. Vì vậy, nhất nguyên chính trị
với một Đảng Cộng sản lãnh đạo là quy luật cơ bản
của cách mạng XHCN.
III. Đảng ta là lực lượng chính trị duy nhất lãnh
đạo nhà nước và xã hội.
Đảng Cộng sản VN là đảng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động VN, lấy CN Mác-Lênin
và tư tưởng HCM làm nền tảng và kim chỉ nam cho
mọi hành động. Đảng CSVN vừa là thành viên, vừa
là tổ chức lãnh đạo duy nhất của hệ thống chính trị
nước ta. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH
ở nước ta, Đảng ta đã khẳng định: định hướng
XHCN dứt khoát phải thực hiện chế độ một đảng,
nhất nguyên chính trị, không chấp nhận đa Đảng,
đa nguyên chính trị. Đây là một nguyên tắc nhất
quán của Đảng ta.
- Ngoài quy luật chung của các Đảng CS trong
CNXH, sự duy nhất lãnh đạo của Đảng cộng
sản VN đối với cả dân tộc còn do tính thực tế
lịch sử của cách mạng VN quy định. Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời là một sự kiện trọng đại, đánh
dấu một bước ngoặc, chấm dứt thời kỳ khủng
hoảng về đường lối cứu nước trước những năm
1930 của các phong trào CM và thay vào đó là
ngọn cờ cách mạng vô sản theo đường lối CN
Mác-Lênin do Chủ tịch HCM truyền bá và sáng lập
Đảng. Đó là con đường độc lập dân tộc gắn với
CNXH. Đảng cộng sản VN là kết quả sàng lọc
khách quan, đáp ứng yêu cầu của lịch sử khi mà

không có một lực lượng chính trị nào đảm đương
nổi. Từ khi bước lên vũ đài chính trị, Đảng ta đã
gánh vác trách nhiệm lịch sử giao phó lãnh đạo
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Nhân dân VN đã gắn bó máu thịt với Đảng
suốt quá trình cách mạng của dân tộc hơn 70 năm
qua. Dưới sự lãnh đạo của đảng, đất nước ta đã
độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia dân tộc
được thực hiện và đang tiến hành công cuộc đổi
mới phương thức đi lên CNXH. Lịch sử từ cách
mạng tháng 8/1945, kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ đến công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước ngày nay đã chứng minh: không thể có và
cũng không cần phải có một lực lượng chính trị nào
khác có thể “đối trọng” với Đảng ta. Hơn nữa nhân
dân ta cũng không chấp nhận sự lãnh đạo của bất
kỳ ai khác ngoài Đảng ta, mà cũng không cho phép
một lực lượng chính trị nào có thể “đối lập” với
Đảng cộng sản VN. Như Bác Hồ đã khẳng định
“Đảng ta là đảng chỉ có một điều là phục vụ tổ
quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ CNXH và CNCS.
Ngoài ra không còn có lợi ích nào khác”. Bài học
kinh nghiệm quốc tế: sự sụp đổ của chế độ XHCN
ở Liên Xô và Đông Âu, cho thấy: nếu ta chấp nhận
“đa nguyên, đa Đảng” thực chất là mở đường cho
sự ra đời và tồn tại của các đảng phái phản động
trong và ngoài nước có điều kiện trỗi dậy một cách
hợp pháp chống phá sự nghiệp cách mạng, đi
ngược lại lợi ích của nhân dân lao động và của
toàn dân tộc, làm cho tình hình trổ nên rối loạn,

Đảng cộng sản cầm quyền bị bao vây bởi nhiều
Đảng chính trị và lực lượng chống đối có sự hậu
thuẫn của phương Tây nên việc mất chính quyền là
điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, không lẽ gì nhân
dân ta chiến đấu thống nhất đất nước đi lên CNXH
nay lại chấp nhận cho những lực lượng phản động,
thế lực thù địch trong và ngoài để xoá bỏ mọi thành
quả cách mạng, nắm quyền thống trị buộc nhân
dân ta trở lại kiếp sống nô lệ lầm than.
- Sự duy nhất lãnh đạo của Đảng cộng sản
VN là nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa chính
trị và kinh tế. Nền kinh tế nước ta nhiều thành
phần nhưng không phát triển một cách tự phát mà
tất cả vận hành theo cơ chế thị trường định hướng
XHCN. Từng thành phần kinh tế là một bộ phận
của một chỉnh thể kinh tế - xã hội XHCN. Trong đó,
kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác xã hợp thành
nền tảng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thống
nhất trong đó kinh tế Nhà nước, với bộ phận trọng
yếu là doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Thích ứng với chỉnh thể kinh tế là một thể chế
chính trị - xã hội XHCN thống nhất với quyền làm
chủ của các tầng lớp nhân dân trong khối đại đoàn
kết toàn dân, mà nồng cốt là khối liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo thông
qua đội tiền phong của nó là Đảng cộng sản VN.
Đây không chỉ phù hợp với thực tế của đất nước
mà còn là sự thể hiện đúng đắn mối quan hệ phổ
biến giữa chính trị và kinh tế, giữa cơ sở hạ tầng và

kiến trúc thượng tầng.
- Sự duy nhất lãnh đạo của Đảng cộng sản
VN là nhằm đảm bảo nền chuyên chính của giai
cấp công nhân với toàn xã hội. Nền chính trị nào
cũng là sự chuyên chính của một giai cấp với sự
lãnh đạo bởi đội tiên phong của giai cấp đó để
thống trị toàn XH. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
VN là thực hiện sự chuyên chính của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động đối với bất cứ ai chống
lại lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động, dân tộc VN và con đường của nhân dân ta
đã được lựa chọn; đồng thời, cũng là điều kiện tiên
quyết để đảm bảo toàn bộ quyền lực nhà nước ta
thực sự là của nhân dân. Nếu thực hiện “đa nguyên
chính trị” “đa đảng đối lập”, thì điều này không
những trái với quy định của lịch sử cách mạng VN,
mà còn tổn hại đến lợi ích nhân dân lao động và
tiền đồ của dân tộc. Nếu tồn tại đảng đối lập với
Đảng ta thì đó là đảng gì? của ai? đem lại lợi ích
cho giai cấp nào? Chắc rằng chúng ta đều đã rõ!
IV. Những biện pháp chủ yếu để thực hiện giữ
vững chế độ một đảng, nhất nguyên chính trị .:
Ngày nay, cách mạng nước ta đã chuyển sang
thời kỳ mới: “Tiếp tục xây dựng CNXH, bảo vệ tổ
quốc XHCN và đẩy mạnh công nghiệp hoá, HĐH
đất nước”. Công cuộc CNH, HĐH đất nước theo
định hướng XHCN do Đảng khới xướng là một sự
nghiệp lớn lao; song rất khó khăn, gian khổ nhất là
trong bối cảng phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế lâm vào thoái trào, CNTB vẫn còn sức sống

mãnh liệt, đang lũng đoạn nền chính trị và kinh tế
thế giới. Các thế lực thù địch thường xuyên tung ra
những luận điệu xuyên tạc như: vi phạm dân chủ,
nhân quyền; thiếu tự do hoá chính trị vì chế độ một
Đảng lãnh đạo… hòng ép chúng ta chấp nhận “đa
nguyên, đa Đảng” chỉ nhằm mục đích xoá bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng cộng sản, từ đó xoá bỏ chế độ
XHCN ở nước ta. Bằng trí tuệ và kinh nghiệm
xương máu của mình, Đảng và nhân dân ta ý thức
sâu sắc trách nhiệm giữ vững và tăng cường vai
trò lãnh đạo duy nhất đúng đắn của Đảng cộng sản
VN đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đặc
biệt, trong thời kỳ đổi mới và phát triển, quá độ lên
XHCN ở nước ta, thì sự kiên định vai trò lãnh đạo
của Đảng, không chỉ là vấn đề có tính nguyên tắc,
có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam,
mà còn là đáp ứng nguyện vọng và lợi ích chính
đáng của nhân dân VN.
Để tự khẳng định chính mình, Đảng phải tự
đổi mới vươn lên ngang tầm nhiệm vụ. Sự đổi mới
của Đảng trong tình hình mới hiện nay tập trung
vào một số nhiệm vụ sau đây :
a- Đổi mới Đảng trên cơ sở CN Mác-Lênin và
tư tưởng HCM: bất cứ một tổ chức chính trị nào để
trở thành một Đảng chính trị thì trước hết phải dựa
vào một hệ tư tưởng nhất định và đó là cơ sở tạo
điều kiện cho sự thống nhất của một Đảng. Đảng
CSVN dựa trên nền tảng CN Mác-Lênin và tư
tưởng HCM, đó là:
+ Toàn Đảng ra sức học tập, rèn luyện, nâng

cao giác ngộ vể chính trị, nắm vững, vận dụng
sáng tạo và góp phần phát triển CN Mác-Lênin, tư
tưởng HCM “làm cho thế giới quan Mác-Lênin, tư
tưởng đạo đức HCM giữ vị trí chủ đạo trong đời
sống tinh thần xã hội”. Việc vận dụng CN Mác-
Lênin, tư tưởng HCM vào hoàn cảnh cụ thể của
nước ta có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của
công cuộc đổi mới đất nước. Nghiên cứu và vận
dụng tư tưởng HCM chẳng những là yêu cầu cấp
bách đối với hoạt động lãng đạo mà còn nâng cao
năng lực vận dụng hệ tư tước Mác-xít vào Việt
Nam. Vì vậy, đổi mới công tác tư tưởng là yêu cầu
có ý nghĩa hết sức cấp bách lại vùa có ý nghĩa lâu
dài.
+ Chỉ có dựa trên hệ tưởng nhất định thì Đảng
mới có thể đoàn kết- thống nhất. Đó là thường
xuyên chăm lo, củng cố và phát triển sự đoàn kết
của Đảng, bảo đảm Đảng ta luôn luôn là một khối
thống nhất vế ý chi và hành động. Chỉ có đoàn kết
nội bộ tốt thì mới thực hiện đuợc không toàn dân,
đoàn kết quốc tế, sự suy yếu về tổ chức chẳng
những làm giảm sút sức mạnh mà còn có thể ảnh
hưởng đến vận mệnh của Đảng. Toàn Đảng phải
thực hiện cho được lời Bác dạy: “ các đồng chí từ
trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn đoàn
kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình”.
b- Để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng,
Đảng ta có nhiều NQ về xây dựng Đảng cụ thể là :
+ Xây dựng Đảng CS thật sự trong sạch, vững

mạnh, thật sự vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc.
Đảng có đầy đủ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, năng lực
lãnh đạo, xứng đáng là đội tiên phong chính trị của
giai cấp CN, của nhân dân lao động, là “trí tuệ,
danh dự và lương tâm của thời đại” như lời dạy của
Lênin.
+ Mọi Đảng viên một lòng một dạ phục vụ
nhân dân, xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là
đầy tớ của nhân dân, tăng cường sự gắn bó “máu
thịt” với nhân dân, chống quan liêu tham nhũng, vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân
+ Mở rộng các hình thức dân chủ - cả dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện, thực hiện tốt dân chủ
cơ sở “dân biết, dân làm, dân kiểm tra”. Dân chủ
gắn liền với nâng cao dân trí, nâng cao vănhóa
chính trị, vănhóa pháp lý, ý thức tránh nhiệm của
công dân. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống tổ
chức, kiếm tra các cấp và cơ chế kiểm tra, giám sát
hữu hiệu để đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân
+ Xây dựng nhà nước thật sự trong sách vững
mạnh, thật sự “của dân, do dân, vì dân”
15
+ Phát huy đầy đủ vai trò của Mặt trận tổ
quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, nghề nghiệp.
Trong điều kiện chế độ một đảng cầm quyền, nhân
dân thông qua các tổ chức chính trị XH của mình là
người kiểm định, góp ý kiến cho Đảng, nhà nước
những chủ trương chính sách, những vấn đề đặt
ra. Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của mặt trận và các đoàn thể nhân dân sát cơ

sở, sát nhân dân nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn
lợi ích và nguyện vọng của đoàn viên, hội viên về
viếc làm, đời sống về yêu cầu phát huy dân chủ và
tính công khai; đồng thời với việc tổ chức kiện toàn
bộ máy của các đoàn thể nhân dân trên cơ sở gọn
nhẹ và hiệu quả. Đồng thời coi trọng và phát huy
vai trò to lớn của báo chí cách mạng. Đây là những
kênh rất quan trọng để bảo đảm phát huy dân chủ.
c- Trong tình hình hiện nay cần tập trung giải
quyết một số vấn đề then chốt
+ Tạo lập được phương thức lãnh đạo của
Đảng thực sự đúng đắn, linh hoạt; trong đó phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là mấu
chốt, khắc phục tình trạng Đảng bao biện làm thay
nhà nước hoặc buông lỏng sự lãnh đạo đối với nhà
nước. Không ngừng hoàn thiện đường lối, chính
sách của Đảng thể hiện được tính KH, sát thực tế,
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Điều này
thể hiện là làm cho mỗi cán bộ, Đảng viên tích cực
tham gia xây dựng, nghiêm chỉnh thực hiện và nêu
cao trách nhiệm bảo vệ đường lối, chính sách của
Đảng. Sai lầm đường lối, chính sách hoặc có
đường lối chính sách đúng mà thực hiện không tốt
hoặc không thực hiện, thậm chí còn làm sai thì
không giữ được lòng tion của nhân dân đối với
Đảng. Đồng thời từng bước hoàn thiện nền dân
chủ XHCN và đổi mới Đảng để Đảng ngang tầm
với vai trò, nhiệm vụ lãnh đạo xã hội, thật sự đại
diện cho lợi ích của nhân dân lao động và của dân
tộc. Kiện toàn một bước tổ chức, bộ máy của

Đảng và nhà nước theo tinh thần NQ TW 7 (khoá
VIII) là khắc phục đượctình trạng cồng kềnh, chồng
chéo, kém hiệu lực, hiệu quả làm cho tổ chức Đảng
phù hợp với điều kiện của một Đảng cầm quyền.
Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
là làm cho nhà nước trong sạch vững mạnh, thật
sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nâng
cao chất lượng toàn diện, trước hết là chất lượng
chính trị của tổ chức bộ máy nhà nước cũng chính
là giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng. Đồng thời ngăn chặn và bài trừ tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí; nâng cao hiệu lực quản lí,
điều hành đất nước là làm cho nhà nước thật sự là
trụ cột của hệ thống chính trị. Làm được các vấn đề
trên thì vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng càng được
củng cố vững chắc.
+ Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng và trong bộ máy nhà nước trên
cơ sở nâng cao tinh thần trach nhiệm và ý thức
chấp hành kỷ luật của cán bộ Đảng viên. Thực hiện
tốt phê bình và tự phê bình theo tư tưởng của HCM
và tinh thần nghị quyềt TW 6 lần 2 (khoá VIII); thực
hiện nghiêm túc quyền Đảng viên về cung cấp
thông tin, quyền chất vấn cấp uỷ và cán bộ lãnh
đạo, quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của cán
bộ lãnh đạo, của tập thể cấp uỷ không để xảy ra
tình trạnh thao túng quyền lực của cán bộ lãnh đạo
cao nhất, cấp uỷ chỉ là cái bình phong nơi hợp thức
hoá ý muốn của cá nhân.
+ Củng cố và tăng cường mối quan hệ máu

thịt giữa Đảng và nhân dân. Nghĩa là mọi tổ chức
của Đảng, từng cán bộ, Đảng viênphải góp phần
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn
hoá tinh thần cho nhân dân nhất là ở những vùng
kho khăn, xa xôi. Đặc biệt coi trọng giáo dục nâng
cao giác ngộ chính trị, trình độ dân trí để nhân
dângiữ vững lòng tin đi theo Đảng thực hiện thắng
lợi nhệm vụ xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc
nền độc lập tự chủ của dân tộc.
+ Thường xuyên nâng cao cảnh giác cách
mạng, kịp thời phát hiện và làm thất bại mọi mưu
toan thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch,
làm thất bại chiến lược “diễn biến hoà bình” của
chúng. Đấu tranh có hiệu quả với các biểu hiện của
chủ nghĩa cơ hội, hữu khuynh, xét lại hoặc giáo
điều, bảo thủ làm cho Đảng ta luôn luôn vững vàng,
kiên định có sức chiến đấu cao.
Ngày nay ở nước ta việc đổi mới Đảng là
nhằm tăng cường sức chiến đấu của Đảng, để
Đảng xứng đáng là lực lượng lãnh đạo xã hội, là
nhân tố có ý nghĩa sống còn bảo đảm cho sự tồn
tại bền vững của chế độ nhất nguyên chính trị và
định hướng đi lên CNXH. Đồng thời với việc đối
mới Đảng, tiếp tục đổi mới các nhân tố của hệ
thống chính trị để khắc phục những yếu kém đã trở
thành bức thiết để hệ thống chính trị góp phần tích
cực vào quá trình CNH, HĐH đất nước tăng cường
và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân là nhằm
thựchiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh”, nền dân chủ

XHCN được xác lập một cách vững chắc. Tuy
nhiên, trong quá trình đổi mới chúng ta còn phải
tiếp tục làm rõ nhiều vần đề trong hệ thống chính
trị, đặc biệc là xác định rõ phương thức lãnh đạo
của Đảng và quản lí của nhà nước.
Vấn đề 7 : Vận dung kiến thức chính trị học
và thực tiễn cách mạng Việt Nam để phân
tích bài học “đường lối đúng đắn của Đảng
là nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp đổi mới”
Bài làm
Việc xây dựng quyết sách chính trị và tổ
chức thực hiện quyết sách chính trị được qui
định một cách khách quan gắn bó hữu cơ với
chức năng lãnh đạo của Đảng. Thực tế lịch sử
nhân loại cũng như ở cách mạng Việt Nam đã
cho thấy nơi nào, Đảng nào đề ra được quyết
sách chính trị và tổ chức thực hiện quyết sách
đúng, nhận thức đầy đủ vai trò của quyết sách
chính trị thì đó sẽ là bước quyết định cho thắng
lợi của cách mạng. Bản lĩnh chính trị vững vàng,
đường lối đúng đắn là một trong những yếu tố
quyết định để Đảng giữ vững được vai trò lãnh
đạo, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua những
biến động chính trị to lớn cuối thế kỷ XX, đưa
công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi. Tổng kết 15
năm thực hiện sự nghiệp đổi mới (1886-2000),
Văn kiện ĐH Đảng lần IX đã khẳng định “đường
lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
thành công của sự nghiệp đổi mới”

Vậy đường lối đúng đắn là gì và vai trò
của nó như thế nào đối với sự nghiệp đổi mới
mà Đảng và nhân dân ta đang tiến hành ? Vận
dụng kiến thức chính trị học và thực tiễn cách
mạng Việt Nam, chúng ta hãy phân tích làm rõ
vấn đề trên
1. Khái niệm quyết sách chính trị
Quyết sách chính trị là quyết định của
một tổ chức lãnh đạo hệ thống (hay phong trào)
chính trị vạch ra đường lối, xác định quan điểm,
đề ra chủ trương, hoạch định chính sách hoạt
động chính trị cho cả hệ thống (hay phong trào)
đó trong những cuộc vận động chính trị nhất
định dưới các hình thức cơ bản như : cương
lĩnh, đường lối, nghị quyết chính trị của Đảng.
Đối với Đảng cầm quyền là Đảng Cộng
sản, quyết sách chính trị của Đảng cộng sản
chính là đường lối, là nghị quyết chính trị của
Đảng.
Đường lối của Đảng là khoa học,nghệ
thuật lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân
trong cuộc đấu tranh nhằm từng bước cải biến
XH cũ, xây dựng XH mới.
Nghị Quyết của Đảng là sự cụ thể đường
lối của Đảng thành những mục tiêu, nhiệm vụ cụ
thể cho các lĩnh vực của đời sống XH, cho 1 địa
bàn, 1 cơ sở, đất nước.
Giữa đường lối và nghị quyết có sự đồng
nhất và khác nhau. Với ý nghĩa đường lối là sự
bao quát một hệ thống quan điểm của Đảng

mang tính chiến lược ở những giai đoạn cách
mạng nhất định và nghị quyết là sự cụ thể hoá
đường lối với một ngành, một địa phương, một
cơ sở… thì giữa nghị quyết của TW, của Đảng
bộ của các ngành và đường lối có sự đồng nhất
về nội dung cơ bản. Nhưng xét về mức độ của
tính toàn diện, tính bao quát, về phạm vi tác
động, mức độ của tính phổ biến… thì so với
đường lối mọi nghị quyết mang tính hạn hẹp
hơn. Đồng thời phạm vi của mọi nghị quyết càng
hạn hẹp bao nhiêu thì mọi nội dung cùa nghị
quyết càng mang tính cụ thể bấy nhiêu
2. Tầm quan trọng của đường lối chính trị :
Nói về tầm quan trọng của đường lối
chính trị, tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nhấn
mạnh : “đường lối chính trị là linh hồn của lãnh
đạo chính trị”.
Đường lối chính trị tác động đến các lĩnh
vực của đời sống XH. Với tính cách là những
quyết định chính trị chủ đạo có vai trò định
hướng, cụ thể hóa các quyết định chính trị của
các tổ chức chính trị xã hội và được thể chế hóa
thành hệ thống luật pháp và tính quyết định có
pháp quy nhà nước. Cho nên nó vừa có tính
động viên giáo dục, thuyết phục vừa có tính
cưỡng chế hành chính để điều chỉnh hành vi
của mọi thành viên, mọi tổ chức XH, dẫn dắt
hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân
nhằm đạt được mục tiêu chính trị trong từng thời
kỳ cách mạng.

Đối với Đảng chính trị, nhất là đảng cầm
quyền, việc xây dựng và tổ chức thực hiện
đường lối chính trị là hoạt động tất yếu, là nhân
tố quan trọng nhất, đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của Đảng. Tầm quan trọng của đường lối
chính trị được qui định bởi chính nội dung của
nó, thể hiện ở 3 nội dung cơ bản sau đây:
- Đường lối chính trị trước hết đó là đề ra
mục tiêu của cách mạng bằng cương lĩnh
đường lối. Trên thực tế đối với một Đảng để
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì phải
giải quyết nhiều nhiệm vụ, nhưng nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu là đề ra mục tiêu cho cách
mạng, tức là phải đề ra được cương lĩnh đường
lối đúng.
- Nội dung của đường lối chính trị còn
xác định kẻ thù, xác định bạn đồng minh để từ
đó bố trí lực lượng CM.
- Đường lối chính trị còn đề ra con
đường, biện pháp và những bước đi cụ thể cho
từng giai đoạn cách mạng để từ đó tránh được
bệnh hữu khuynh và tả khuynh.
Tính đúng đắn, độ chính xác về mặt khoa
học thực tiễn của đường lối chính trị là nhân tố
quan trọng hàng đầu góp phần tạo nên những
thắng lợi của cách mạng, thúc đẩy tiến trình lịch
sử phát triển theo xu hướng tích cực đảm bảo
vai trò lãnh đạo và sự phát triển vững mạnh của
Đảng. Quyết sách chính trị đúng thì chính là xu
hướng chính trị tiến bộ tạo điều kiện cho kinh tế

xã hội phát triển nhanh
Nhưng nếu đường lối chính trị sai lầm
không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn thì
16
cũng là nhân tố hàng đầu gây ra sự đình trệ
hoặc thoái trào của cách mạng, gây cản trở
hoặc đẩy lùi tiến trình của lịch sử và do vậy
Đảng sẽ mất vai trò lãnh đạo, đi đến suy yếu,
thậm chí bị tan rã.
Trong điều kiện Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, để xây dựng xã hội mới, xã hội XHCN.
Quyết sách chính trị của Đảng từ TW đến cơ sở
đều trở thành quyết định của các đoàn thể nhân
dân, trở thành cơ sở của các chính sách và
pháp luật cùa nhà nước, tác động trực tiếp đến
đời sống của nhân dân và của toàn dân tộc. Vì
vậy, mỗi sai lầm nhỏ của quyết sách chính trị
đều có ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của
nhân dân và của toàn dân tộc. Xuất phát từ các
cơ sở trên, Lênin đã nhấn mạnh vai trò quan
trọng của quyết sách chính trị: “Đảng không
được phạm sai lầm về chính trị”. Đường lối sai
lầm tất nhiên sẽ gây ra những phản ứng dây
chuyền, nẩy sinh những hậu quả nghiêm trọng,
có liên quan đến sự tồn vong, hưng suy của một
Đảng, một sự nghiệp cách mạng.
3. Đường lối đúng đắn và cơ sở hình thành
đường lối chính trị :
Xây dựng được đường lối chính trị đúng
và tổ chức thực hiện đường lối đó có hiệu quả

trong thực tiễn là những nhiệm vụ cơ bản của
một đảng chính trị. Nói cách khác, trách nhiệm
cao cả và nặng nề trước hết của một Đảng cầm
quyền là vạch ra cương lĩnh, đường lối đúng để
lãnh đạo đất nước, dẫn dắt cả dân tộc đi lên,
tránh được nguy cơ sai lầm về đường lối.
Đường lối chính trị đúng là đường lối
phản ánh đúng quy luật khách quan đáp ứng
đúng yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với nguyện
vọng của nhân dân, chỉ ra được mục tiêu,
phương hướng và giải pháp cơ bản của cách
mạng, trên cơ sở đó tập họp tổ chức động viên
quần chúng một cách có hiệu quả.
Đường lối chính trị đúng đắn không thể là
sản phẩm ý chí thuần túy chủ quan của các
nhân con người mà là sản phẩm, ý chí của giai
cấp, của Đảng chính trị, phản ánh những
khuynh hướng phát triển khách quan của XH.
Để tìm ra đường lối hợp lý đòi hỏi Đảng
chính trị phải có một sự nhìn nhận toàn diện : từ
toàn cục đến cục bộ, từ trước mắt đến lâu dài,
từ giá trị kinh tế đến hiệu quả xã hội, tìm ra vấn
đề then chốt trong mối quan hệ phức tạp tiến
hành luận chứng chặt chẽ chi tiết các phương
án, nêu ra quyết đoán có hiệu quả và khả thi.
Để xây dựng được quyết sách chính trị
đúng, các Đảng chính trị phải dựa trên 2 tiền đề
khách quan và chủ quan
a. Tiền đề khách quan :
Căn cứ khách quan được sử dụng làm

căn cứ hình thành đường lối chính trị phải là
những căn cứ phản ánh quy luật, do vậy nó
được lựa chọn qua nhận định chủ quan của chủ
thể. Tôn trọng quy luật khách quan là bài học có
tính nguyên tắc khi hoạch định đường lối. Khẳng
định vai trò quan trọng của khách quan, cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
Đảng ta đã nêu: "mọi đường lối chủ trương,
chính sách của Đảng phải từ thực tế, tôn trọng
và hành động theo qui luật khách quan".
Những căn cứ khách quan bao gồm : tinh
hoa, tri thức của nhân loại và của dân tộc,
những bài học kinh nghiệm thực tiễn cách
mạng, những căn cứ tiềm năng, những yếu tố
khách quan nội tại.
Đường lối chính trị đúng phải được xây
dựng dựa trên nền tảng tinh hoa tri thức của
nhân loại và của dân tộc bao gồm : những học
thuyết chính trị, xã hội của nhân loại, dân tộc
được đúc kết trong học thuyết Mác Lênin và tư
tưởng HCM và những tri thức văn hóa KH-KT và
công nghệ mà nhân loại sáng tạo ra. Nhận thức
được hiện thực khách quan là vấn đề hết sức
khó khăn, bởi vậy các Đảng cộng sản khi đề ra
chủ trương, hoạch định đường lối phải có tri
thức, có tư duy lý luận để từ đó nắm vững khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lê nin và các khoa học
khác, cách mạng phải gắn liền với khoa học. Khi
đề ra đường lối, chủ trương phải căn cứ trên
phép biện chứng duy vật vì chỉ có như vậy thì

mới giúp chúng ta nhận thức được nguyên nhân
sâu xa của các hiện tượng và quá trình xã hội
một cách đầy đủ và đúng đắn, từ đó mới tạo
điều kiện cho các Đảng đưa ra được cương lĩnh
và đường lối chính trị phù hợp. Mặt khác, phép
biện chứng duy vật còn giúp ta nhận định rõ
ranh giới giữa tính nguyên tắc với chủ nghĩa
giáo điều, bệnh rập khuôn máy móc, giữa tính
linh hoạt cách mạng với chủ nghĩa cơ hội xét lại.
Chủ nghĩa Mác Lênin còn chỉ xác định những
quy luật khách quan, chân lý và cụ thể (như quy
luật QHSX phải phù hợp với trình độ của LLSX),
tính biện chứng của sự phát triển XH là "diễn ra
trong mâu thuẫn và thông qua mâu thuẫn", đây
là những căn cứ, cơ sở phương pháp luận hết
sức quan trọng đề ra đường lối chính trị đúng
đắn, khoa học phù hợp với quy luật khách quan.
Việc hoạch định đường lối chính trị phải
căn cứ trên nền tảng tinh hoa tri thức của nhân
loại và của dân tộc, song việc vận dụng đó
không phải máy móc rập khuôn mà phải phát
huy được tính chủ động, dựa trên những bài học
kinh nghiệm thực tiễn cách mạng bao gồm
những kinh nghiệm thực tiễn của phong trào
cách mạng, những kinh nghiệm hoạch định các
chính sách phát triển đất nước của các quốc gia
trên thế giới và khu vực, những bài học kinh
nghiệm thực tiễn ở nước ta.
Việc hoạch định đường lối, chính sách
đúng đắn của Đảng còn phải dựa vào những

căn cứ tiềm năng của đất nước bao gồm tiềm
năng về con người (đặc điểm về trình độ và
năng lực của con người VN), những di sản văn
hóa xã hội, truyền thống dân tộc, tiềm năng về
kinh tế, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên
nhiên, vị trí địa lý (bao gồm cả địa kinh tế và địa
chính trị).
Bên cạnh đó, khi đề ra đường lối chính
sách, Đảng còn phải căn cứ trên những yếu tố
khách quan nội tại riêng có của tình hình KT-XH
của đất nước. Trong xã hội, động lực cho các
hoạt động của các thành viên, các tầng lớp, giai
cấp là lợi ích. Những lợi ích mà tầng lớp giai cấp
theo đuổi có thế có lợi ích phù hợp với nhau.
Nhưng cũng có nhiều lợi ích mâu thuẫn, thậm
chí đối kháng với nhau. Việc hoạch định đường
lối chính trị nhất thiết phải xem xét đến mối quan
hệ lợi ích và mối quan hệ giai cấp tầng lớp trong
XH.
b. Tiền đề chủ quan :
Tiền đề chủ quan để hoạch định các
đường lối chính trị là các yếu tố của bản thân
đảng chính trị . Các yếu tố ấy bao gồm : bề dày
hoạt động cách mạng của một Đảng với những
thử thách tạo nên bản lĩnh chính trị của đảng; trí
tuệ tập thể của toàn Đảng và năng lực thực tiễn
của từng đảng viên và sức chiến đấu của Đảng,
bản lĩnh chính trị của đảng, năng lực nhạy bén
trong các bước ngoặt quan trọng của cách
mạng, dựa trên sức mạnh tập thể của đảng, sự

đoàn kết nhất trí của đảng dựa trên nền tảng
của hệ tư tưởng khoa học. Đối với Đảng cộng
sản Việt Nam Đảng phải được tổ chức một cách
chặt chẽ, không ngừng đấu tranh, xây dựng rèn
luyện đảng viên của đảng có phẩm chất năng
lực đáp ứng được yêu cầu cách mạng
4. Vận dụng vào thực tế cách mạng Việt
Nam :
Một trong những nguyên nhân dẫn đến
sai lầm dẫn đến sự sụp đổ hệ thống XHCN ở
Đông Âu và Liên Xô cũ là do Đảng Cộng sản tại
các nước này đã có những sai lầm trong việc
đưa ra các đường lối chính trị không đúng với
quy luật khách quan. Đó là việc duy trì quá lâu
mô hình kinh tế quan liêu bao cấp cùng với
những sai lầm chính trị nghiêm trọng có tính
nguyên tắc trong thời kỳ cải tổ : mất phương
hướng chính trị, phiêu lưu, mạo hiểm trong
chính sách, bước đi và phương pháp cải tổ,
không có những biện pháp hữu hiệu để khắc
phục tình hình KT-XH ngày một xấu đi, khiến
mất dần lòng tin của quần chúng nhân dân dẫn
đến tan rã cả hệ thống.
Trong thực tiễn cách mạng ở nước ta 10
năm đầu sau khi thống nhất đất nước, cả nước
quá độ đi lên CNXH, chúng ta cũng đã có những
sai lầm trong việc đề ra các đường lối, chính
sách chính trị thời kỳ này. Việc đề ra quyết sách
chính trị thời kỳ này không bám sát những
nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa Mác

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực trạng của
đất nước nên từ Đại hội lần IV và lần V, những
chính sách, đường lối mà Đảng đề ra có những
khiếm khuyết, những sai lầm. Trước hết đó là
những sai lầm trong việc giải quyết mối quan hệ
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Đánh giá những sai lầm, khuyết điểm về đường
lối kinh tế giai đoạn trước đổi mới, Đảng đã chỉ
rõ đó là “chưa nắm vững và vận dụng đúng quy
luật về sự phù hợp giữa quan hệ SX với tính
chất và trình độ của LLSX”. Hơn nữa, cả một
thời gian dài, chúng ta đã hành động trái quy
luật khi cho rằng mâu thuẫn nổi lên ở đầu thời
kỳ quá độ là mâu thuẫn giữa chế độ chính trị
tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu, do đó
phải đẩy mạnh cải tạo quan hệ sản xuất (mà
trong đó chủ yếu là cải tạo xóa bỏ các thành
phần kinh tế phi XHCN), làm cho quan hệ sản
xuất phù hợp với chế độ chính trị tiên tiến. Từ
đó nảy sinh ra mâu thuẩn chủ yếu giữa quan hệ
sản xuất với lực lượng sản xuất , nhiệm vụ công
nghiệp hóa được đẩy lên một cách duy ý chí
trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết. Bên
cạnh đó, do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ
quá độ lên CNXH là một quá trình lịch sử tương
đối dài, phải trãi qua nhiều chặng đường và do
tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội muốn bỏ
quan những bước đi cần thiết nên các đường
lối, chủ trương của Đảng đưa ra trong giai đoạn
này chưa xác định những mục tiêu của chặng

đường đầu tiên, những bước đi thích hợp đồng
thời chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tập
trung quan liêu, bao cấp đã lỗi thời Từ những
sai lầm về đường lối chỉ đạo này, dẫn đến nền
kinh tế chậm phát triển, xã hội rơi vào khủng
hoảng.
Tuy nhiên, Đảng đã sớm nhận thức
nguyên nhân của những sai lầm trên và khắc
phục nhanh những hậu quả ấy. Rút kinh nghiệm
từ những sai lầm về đường lối, Đảng ta đã đề
17
ra công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống KT-XH tại ĐH Đảng lần
VI, những cải cách, đổi mới được dựa trên
những tiền đề khách quan và chủ quan : “Đảng
phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và
hành động theo quy luật là điều kiện đảm
bảo sự dẫn đầu của Đảng. Năng lực nhận
thức theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng”. Từ đó đến nay,
trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng CS VN
đã đề ra được và từng bước bổ sung phát triển,
hoàn thiện dần đường lối đổi mới, hình thành
ngày càng rõ hơn con đường đi lên CNXH ở VN.
Tiếp theo những đổi mới bộ phận, đổi mới từng
bước, Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn
diện, ĐH VII đã thông qua cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và các
ĐH sau đó của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển
đến nay đã hình thành một hệ thống các quan

điểm chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Đây
là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, đổi mới
tư duy lý luận, tổng kết thực tiễn, mở rộng dân
chủ, phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân,
nắm bắt được những vấn đề nảy sinh từ cuộc
sống trong khi kiên định mục tiêu, lý tưởng, kiên
định những vấn đề có tính nguyên tắc.
- Về kinh tế - xã hội : Đường lối phát
triển kinh tế mà Đảng đã đề ra trong cương lĩnh
xây dựng đất nước cũng là sự thể hiện lập
trường quan điểm giai cấp, xuất phát từ thực tế
khách quan, đứng trên quan điểm của CN Mác
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết
những mâu thuẫn và thách thức từ thực tế đặt
ra. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX đã
khẳng định đường lối kinh tế của Đảng ta là
“Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển
LLSX, đồng thời xây dựng QHSX phù hợp theo
định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực,
đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển nhanh
có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi
liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện
đời sống vật chất và tinh thấn của nhân dân,
thực hiện tiến bộ và công bằng XH, bảo vệ và
cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế-
xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh”.
“Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều

thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN” là một chủ trương nhất quán của Đảng
ta trong suốt thời kỳ quá độ. Có thể nói đây là
những thay đổi cơ bản trong tư duy lý luận về
CNXH mà nó xuất phát từ việc vận dụng đúng
đắn và sáng tạo CN Mác Lêni và tư tưởng HCM
vào thực tiễn của công cuộc đổi mới xây dựng
đất nước. Những mục tiêu, giải pháp, bước đi
mà đường lối, cương lĩnh của Đảng đề ra vừa
phù hợp và tôn trọng nguyên tắc quan hệ SX
phải phù hợp với trình độ của lực lượng SX,
vừa kế thừa hợp lý những ưu điểm của cơ chế
kinh tế thị trường và các thành tựu của cách
mạng KHKT-CN, đồng thời nó cũng xuất phát từ
đặc điểm của thời kỳ quá độ tất yếu phải có sự
đan xen tồn tại giữa các thành phần kinh tế phi
XHCN và XHCN. Xuất phát từ tình hình hiện nay
và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ
mới, đường lối kinh tế nêu trên một lần nữa
khẳng định tư tưởng chiến lược là đẩy mạnh
công nghiệp hóa hiện đại hóa, xây dựng nền KT
độc lập tự chủ, đưa đất nước trở thành một
nước công nghiệp, đồng thời chỉ rõ những định
hướng : về phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng quan hệ sản xuất, về phát huy nội lực và
tranh thủ nguồn lực bên ngoài, về tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hóa, cải thiện đời sống
nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
bảo vệ cải thiện môi trường, về phát triển kinh tế

xã hội và tăng cường quốc phòng an ninh làm
trụ sở cho việc hoạch định chiến lược xây dựng
chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội.
- Về chính trị : trong những năm đổi mới,
Đảng cộng sản VN thường xuyên coi trọng việc
xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức, đảm bảo
nội bộ luôn luôn đoàn kết thống nhất cao và
thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ luôn
là vấn đề trọng yếu đảm bảo cho Đảng thật sự
chặt chẽ về tổ chức, đoàn kết thống nhất và có
sức chiến đấu cao. Với những năm cuối thập kỷ
80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, trước sự tan
rã của Đảng CS Liên Xô và một số Đảng MácXít
ở Đông Âu, trước những đòn tiến công mới của
các thế lực thù địch, ở VN cũng có những biểu
hiện dao động trên vấn đề nguyên tắc tập trung
dân chủ, có khuynh hướng muốn hạ thấp hoặc
phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ, muốn
áp dụng chế độ “đa nguyên, đa đảng” kiểu
phương Tây. Trước thử thách sống còn, Đảng ta
mà trước hết là Bộ Chính trị, BCH TW đã
nghiêm túc nhận định tình hình thực tiễn và
khẳng định: Đảng và nhân dân ta luôn kiên định
mục tiêu, lý tưởng của Đảng là: Độc lập dân tộc
gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Vấn đề có ý nghĩa
hết sức quan trọng trên lĩnh vực chính trị, tư
tưởng, lý luận là Đảng ta phải đổi mới tư duy lý
luận chính trị, trước hết là nhận thức sâu sắc
hơn nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận

dụng, phát triển sáng tạo vào tình hình thực tiễn
đất nước trong điều kiện bối cảnh mới. Đảng đã
tập trung lý giải những vấn đề về xây dựng chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội; tổng kết thực tiễn đổi mới để từng bước
phát triển lý luận và góp phần hoàn chỉnh, bổ
sung đường lối chính trị của Đảng trong điều
kiện mới; từng bước khắc phục sự chậm trễ, lạc
hậu của công tác lý luận. Sinh hoạt lý luận dân
chủ trong Đảng đã thu hút trí tuệ của toàn xã
hội, khuyến khích tranh luận, thảo luận để tìm
chân lý, lấy thực tiễn, hiệu quả xã hội làm tiêu
chuẩn đánh giá để xây dựng và phát triển lý
luận, tránh được chủ quan, duy ý chí, rập khuôn,
giáo điều. Đồng thời, chúng ta cũng đẩy mạnh
việc đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái,
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, của cách
mạng, bảo vệ thành quả tư tưởng, lý luận của
Đảng và của cách mạng Việt Nam
Có thể thấy rằng trong các đường lối về
kinh tế, văn hóa, đối ngoại, Đảng luôn có ý thức
đổi mới sáng tạo, dám từ bỏ những cái cũ không
còn thích hợp, cả trên lĩnh vực kinh tế cũng như
trên lĩnh vực văn hóa – xã hội, cả đối nội và đối
ngoại, giải quyết tốt mối quan hệ giữa giai cấp
và dân tộc, quốc gia và quốc tế, mở rộng khối
đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, tập trung
sức cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước. Nói cách khác, Đảng CSVN kiên trì nắm
vững nguyên tắc và phương pháp biện chức

duy vật, không phiến diện, cực đoan hoặc giản
đơn từ cực này nhảy sang cực kia.
Từ những đối mới đó, thông qua việc thể
chế hóa đường lối bằng những chủ trương,
chính sách của Nhà nước và các tổ chức chính
chính trị XH, việc thực hiện đường lối chính trị
của Đảng đề ra thời gian qua đã được sự đồng
tình ủng hộ của nhân dân nhờ tính đúng đắn
của đường lối, phản ánh được xu thế vận động
của lịch sử, đồng thời phù hợp với nguyện vọng
và lợi ích chân chính của đa số nhân dân. Chính
đường lối cách mạng của Đảng có vai trò to lớn
trong việc thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, củng cố niềm tin vào Đảng, ngăn chặn và
đẩy lùi những khuynh hướng sai lầm về chính trị
và tư tưởng làm cho Đảng ngày càng vững
mạnh.
Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi
mới, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử
thách gay go, cách mạng XHCN nước ta không
những đứng vững mà còn vượt lên đạt được
những thành tựu to lớn trong tất cả các mặt kinh
tế - văn hóa – chính trị - xã hội, có ý nghĩa rất
quan trọng. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế- xã hội tuy còn một số mặt chưa vững
chắc nhưng tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội đang ngày được khẳng định. Nhiệm vụ đề
ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là
chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá hoàn
thành về cơ bản, cho phép chuyển sang thời kỳ

phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ
hơn
Có thể khẳng định rằng thành công của
cuộc đổi mới ở VN thời gian qua là do Đảng CS
VN với bản lĩnh chính trị vững vàng, đã vận
dụng sáng tạo CN Mác Lênin, tư tưởng HCM và
những thành tựu, kinh nghiệm lịch sử đã được
tích lũy và từ tình hình thực tế của đất nước để
xây dựng đường lối, chủ trương chính sách đổi
mới đúng đắn. Đảng ta đang đưa đất nước ta,
dân tộc ta ngày càng đến gần mục tiêu dân giàu
nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ văn
minh. uôn quan tâm và chú trọng xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng, tạo nên sự nhất trí
cao trong Đảng và sự đồng thuận của nhân dân.
Kết quả của đường lối chính trị đúng đắn đó là ở
chổ Đảng CS VN đã xác định rõ hơn con đường
đi lên CNXH ở VN, vừa phù hợp với thực tế của
đất nước, vừa phù hợp với nguyên lý cơ bản
của CN Mác Lênin và tư tưởng HCM.
Ngày nay, để tiếp tục đề ra những đường
lối quyết sách chính trị đúng đắn, bản thân Đảng
phải tự đổi mới tư duy, Đảng phải đấu tranh để
khắc phục bệnh giáo điều, rập khuôn, bảo thủ,
chủ quan, duy ý chí, mặc khác phải bồi dưỡng
tư duy biện chứng, tư duy độc lập, tự chủ , sáng
tạo, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực
tiễn, xuất phát từ thực tiễn để vận dụng sáng tạo

và phát triển CN Mác Lênin, tư tưởng HCM
nhằm phát hiện ra những quy luật đi lên CNXH
ở Việt Nam, xây dựng lý luận phát triển của VN
trong thế kỷ mới.
Vấn đề 8 : Vận dung lý luận về nhà nước
và pháp quyền, phân tích luận điểm “Nhà
nước ta là công cụ chủ yếu để thể hiện
quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân”
Bài làm
Chính quyền (nhà nước) là vấn đề cơ
bản của mọi cuộc cách mạng. Giành chính
quyền là vấn đề rất khó khăn, song giữ được
chính quyền lại càng khó hơn. Thực tiễn cách
mạng Việt Nam đã chứng minh là hơn nửa
thế kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà
18
nước XHCN VN đã trở thành trụ cột của hệ
thống chính trị và là công cụ chủ yếu để tổ
chức toàn dân tiến hành thắng lợi cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất
đất nước và đưa cả nước tiến lên CNXH.
Đảng ta luôn coi trọng việc xây dựng một nhà
nước vững mạnh với bản chất “Nhà nước ta
là công cụ chủ yếu để thể hiện quyền làm chủ
của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân”. Trên cơ sở vận dụng lý
luận chính trị học về nhà nước pháp quyền
cũng như thực tế cách mạng Việt Nam, chúng
ta hãy phân tích làm rõ luận điểm trên.

I. Khái niệm về nhà nước pháp quyền - xã
hội công dân
1. Nhà nước pháp quyền:
Nhà nước pháp quyền là một nhà
nước dựa trên cơ sở của pháp luật, vai trò và
nhiệm vụ của Nhà nước chỉ được thực hiện
thông qua pháp luật và cũng bị hạn chế bởi
chính pháp luật. Vì vậy, nhà nước pháp
quyền hoàn toàn khác với các hình thức nhà
nước trước đó (trong chế độ chiếm hữu nô lệ
thì chỉ có một số người mới được xem là
công dân, trong chế độ phong kiến thì pháp
luật chỉ áp dụng cho tầng lớp dưới vua, còn
“vua” thì không bị chi phối bởi pháp luật,
đứng trên pháp luật).
Nhà nước pháp quyền luôn luôn
tuân thủ, bảo vệ quyền công dân và quyền
con người; giữa công dân và nhà nước, các
đơn vị kinh tế và các tổ chức xã hội luôn luôn
có mối quan hệ thông qua pháp luật, trách
nhiệm pháp lý. Có nghĩa là nhà nước và công
dân luôn luôn bình đẳng với nhau. Nhà nước
pháp quyền là tổ chức chính trị của xã hội
thông qua pháp luật để tạo các điều kiện là
nhà nước dân chủ, nói cách khác, là nhà
nước phải tạo ra thể chế, những yêu cầu để
thực hiện dân chủ.
2. Xã hội công dân:
Bất kỳ hình thức nhà nước nào cũng
có xã hội tương ứng với nó. Nhà nước pháp

quyền phải có một xã hội tương ứng là xã hội
công dân và là nhà nước bảo đảm sự bình
đẳng giữa nhà nước và công dân. Xã hội
công dân là một xã hội mà trong đó con
người tự do phát triển cá nhân trong sự đảm
bảo của Nhà nước bằng pháp luật theo ý chí
của nhân dân. Đó là một tổ chức cộng đồng
người của một nước có chủ quyền mà người
dân có tư cách được hưởng quyền tự do của
mình theo luật định, là một xã hội mà ý chí
của nhân dân và chỉ có ý chí của nhân dân
mới là cội nguồn hợp pháp của mọi quyền lực
Nhà nước, mọi hoạt động của cơ quan và
nhân viên nhà nước đều phụ thuộc vào ý chí
và chủ quyền của nhân dân, một xã hội mà
nhà nước phải có nghĩa vụ không thể thiếu
đối với quyền tự nhiên và quyền công dân
của con người, mọi cơ quan và nhân viên nhà
nước chỉ được làm những gì mà pháp luật
cho phép, còn công dân được làm tất cả
những gì mà pháp luật không cấm.
3. Nhà nước pháp quyền và xã hội công
dân :
Nhà nước pháp quyền và xã hội công
dân là một chỉnh thể không thể tách rời, cùng
nhau từng bước hoàn thiện tương ứng với
trình độ phát triển về “khế ước xã hội” của
nhân dân. Sự tồn tại chính trị của xã hội công
dân thông qua việc tham gia luật pháp của
mỗi công dân, qua các chính đảng, các tổ

chức chính trị xã hội mà biểu thị ý chí của
nhân dân buộc nhà nước phải tuân theo. Giới
hạn của quyền lực nhà nước đối với xã hội
công dân chịu sự quy định của “khế ước xã
hội". Như vậy, nhà nước pháp quyền là nhà
nước được tổ chức và hoạt động một cách
hợp pháp với ý chí và nguyện vọng của nhân
dân. Còn xã hội công dân là một xã hội mà
con người tự do phát triển cá nhân trong sự
đảm bảo của nhà nước theo ý chí của nhân
dân.
II. Nhà nước pháp quyền - xã hội công dân
ở CNXH VN
Ở chế độ tư bản, nhà nước tư sản luôn
tuyên truyền về “nhà nước nhân dân tự do”,
“nhà nước phúc lợi chung”… nhằm che giấu
bản chất giai cấp của nhà nước tư sản; đồng
thời, tìm mọi cách chứng minh nhà nước tư
sản là “công cụ phục vụ xã hội”, “đứng trên
các giai cấp” để điều hoà mâu thuẫn xã hội.
Chúng ta cũng phải thừa nhận rằng nền dân
chủ tư sản có những bước tiến bộ, nhất là
trong việc tổ chức bộ máy và phân chia
quyền lực ra thành 3 nhánh quyền lực riêng
biệt (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tạo nên
sự chuyên môn hóa cao, giúp giải quyết vấn
đề nhanh chóng và hiệu quả; nhưng về bản
chất nền dân chủ đó không phải là dân chủ
cho đông đảo nhân dân, mà quyền làm chủ
thực sự ở các nước tư bản nằm trong tay giai

cấp tư sản, phục vụ lợi ích của giai cấp tư
sản.
Ở xã hội XHCN, nhà nước pháp quyền
XHCN mang bản chất giai cấp công nhân.
Bản chất đó thể hiện ở chỗ toàn bộ hoạt động
của nhà nước từ pháp luật, cơ chế, chính
sách đến những nguyên tắc tổ chức, hoạt
động đều thể hiện tư tưởng, quan điểm của
giai cấp công nhân, mà ý chí, nguyện vọng,
lợi ích của giai cấp công nhân là thống nhất
với ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân
lao động của dân tộc. Với ý nghĩa đó, nhà
nước XHCN là nhà nước được xây dựng trên
cơ sở nền dân chủ đối với đông đảo quần
chúng nhân dân lao động. Như vậy, nhà nước
XHCN là nhà nước đầu tiên trong lịch sử
không nằm trong giai cấp thống trị mà nằm
trong tay nhân dân, nó thực hiện chuyên
chính của đại đa số nhân dân để chống lại
một thiểu số các thế lực phản động, thù địch.
1. Những điều kiện để xây dựng nhà
nước pháp quyền-xã hội công dân:
Ở CNXH, việc xây dựng nhà nuớc
pháp quyền - xã hội công dân phải biết kế
thừa những nguyên tắc chung của nhà nước
pháp quyền kế thừa những giá trị của nhà
nước pháp quyền trong lịch sử : các quan hệ
căn bản phải được điều chỉnh bằng pháp luật,
sự kết hợp giữa hành pháp, lập pháp, tư
pháp (đảm bảo quyền lực nhà nước là thống

nhất nhưng có sự phân định rõ 3 chức năng
lập pháp, hành pháp và tư pháp); đồng thời
phải đảm bảo trong nhà nước pháp quyền
XHCN quyền lực thuộc về nhân dân, trong đó
con người phải đặt ở vị trí trung tâm, là mục
tiêu và là giá trị cao nhất. Xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN phải căn cứ vào những
vấn đề của quốc gia, dân tộc về: kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, lịch sử, truyền
thống, lý tưởng … và do vậy không có một
mô hình chung nào về nhà nước pháp quyền
cho tất cả mọi đất nước.
2. Một số đặc trưng của nhà nước
pháp quyền XHCN VN :
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
là nhà nước mà quyền lực của nó là thống
nhất thuộc về nhân dân lao động được tổ
chức và hoạt động quản lý xã hội theo pháp
luật như ý chí của nhân dân lao động được
luật hóa có cơ chế kiểm tra quyền lực nhằm
tôn trọng và đảm bảo các quyền công dân và
quyền con người do đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo. Các nội dung này nằm trong
thể thống nhất hữu cơ, làm tiền đề cho nhau
và phụ thuộc lẫn nhau. Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam có 3 đặc trưng cơ bản, đó
là :
- Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà
nước của dân, do dân và vì dân, nền tảng là
liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí

thức đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo
đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
- Mục đích của Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam là bảo đảm và phát triển
quyền con người và quyền công dân. Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam bảo vệ
phục vụ lợi ích của nhân dân mà trước hết là
nhân dân lao động. Nhà nước pháp quyền
XHCN bảo đảm quyền tự do cá nhân, quyền
lợi, danh dự, phẩm cách cá nhân.
- Nhà nước pháp quyền XHCN VN xây
dựng một đội ngũ cán bộ công chức thật sự
vì dân, vì nước.
3. Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để
thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, là
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân
Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định
dứt khoát vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là một
quan điểm chỉ đạo thống nhất và xuyên suốt
Đảng ta và nó đã được đưa vào Hiến pháp
năm 1992 (bổ sung).
Khi nói nhà nước ta là nhà nước “của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” thì
không có nghĩa là nhà nước phi giai cấp hay
siêu giai cấp. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “tính
chất nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến
pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của
chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục

vụ quyền lợi cho ai? điều đó quyết định toàn
bộ nội dung của hiến pháp Nhà nước của ta
là nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền
tảng liên minh công nông, do giai cấp công
nhân lãnh đạo”. Bản chất giai cấp công nhân
của nhà nước ta thể hiện ở chỗ nhà nước do
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, thực
hiện theo định hướng đưa đất nước quá độ đi
lên CNXH, và còn thể hiện ở nguyên tắc tổ
chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên
tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh đã khẳng
19
định “nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao
độ có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới
động viên được tất cả lực lượng của nhân
dân, đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải
tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo
nhân dân xây dựng CNXH”. Tuy vậy, bản chất
giai cấp công nhân không làm triệt tiêu tính
nhân dân, tính dân tộc của nhà nước, mà
thực sự chúng thống nhất, hài hòa với nhau
trong nhà nước đại đoàn kết dân tộc.
Để Nhà nước thật sự là công cụ chủ
yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một quan
điểm chung cần phải nhất quán trong việc tổ
chức hoạt động bộ máy nhà nước là quyền
lực trong nhà nước không phải là quyền lực
của cá nhân hay của bộ máy mà phải thật sự
là của toàn thể nhân dân. Cơ quan nhà nước

các cấp chỉ là người chấp hành mệnh lệnh
của quốc dân, chấp hành ý chí của nhân dân.
Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông
qua các cơ quan quốc hội và chính phủ là đại
diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân, do
nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước
nhân dân. Đồng thời chính nhân dân thực
hiện quyền giám sát tối cao đối với các cơ
quan nhà nước trong việc sử dụng quyền lực
mà nhân dân ủy nhiệm. Quyền giám sát đó
được thực hiện bằng cơ chế hợp lý và công
cụ pháp lý có hiệu quả nhất. Để phát huy mọi
khả năng, sức lực, trí sáng tạo của đông đảo
quần chúng nhân dân lao động, để ngăn chận
tệ quan liêu, cửa quyền trong bộ máy nhà
nước, cần tạo điều kiện cho các tầng lớp
nhân dân tham gia các hoạt động quản lý nhà
nước. Phương châm : dân biết, dân làm, dân
kiểm tra là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc
bảo đảm sự tham gia đông đảo của quần
chúng nhân dân lao động vào quản lý nhà
nước.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong
việc xây dựng, hoạt động và tổ chức nhà
nước pháp quyền là tư tưởng chỉ đạo quan
trọng nhằm đảm bảo tính chất “nhà nước của
dân”. Cũng như Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: Nhà nước phải được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
dân mới làm chủ được quyền lực của mình.

Nguyên tắc này nhằm kết hợp hài hòa sự chỉ
đạo tập trung thống nhất của cấp trên đối với
việc mở rộng dân chủ rộng rãi, để phát huy
tinh thần chủ đạo sáng tạo của cấp dưới, nhờ
vậy tăng cường được tính hiệu quả trong việc
thực hiện vai trò nhiệm vụ của nhà nước
pháp quyền XHCN.
Một đặc trưng, một nguyên tắc của
nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước và
công dân đều phải thừa nhận tính tối cao của
pháp luật : nhà nước phải quản lý và điều
hành xã hội bằng pháp luật, pháp luật phải là
công cụ điều tiết chủ yếu mối quan hệ giữa
con người với con người, mọi tổ chức và
công dân đều tuân thủ pháp luật, hoạt động
phù hợp với hiến pháp và pháp luật. Song
pháp luật ở nước ta chính là thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị, là thể chế hóa đường
lối chủ trương của đảng cầm quyền và vì vậy
nó là phản ánh ý nguyện vọng, ý chí của
nhân dân lao động. Về mặt nội dung, pháp
luật trong nhà nước pháp quyền phải đáp
ứng yêu cầu khách quan của đời sống XH,
thúc đẩy đời sống XH phát triển, đảm bảo
quyền bất khả xâm phạm về tự do cá nhân,
danh dự, nhân phẩm của con người và đồng
thời cũng phải bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp
pháp của đông đảo quần chúng nhân dân lao
động. Tính chất nhà nước “do dân và vì dân”
phải thể hiện rõ trong nội dung pháp luật phải

xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân và
đông đảo quần chúng nhân dân lao động chứ
không chỉ bảo vệ cho quyền lợi, lợi ích của
một giai cấp riêng lẻ như nhà nước của giai
cấp tư sản. Đề cao pháp luật cũng là đề cao
đường lối quan điểm, chủ trương của đảng, ý
chí của nhân dân.
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam luôn luôn coi trọng việc tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Khi
nói rằng xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN thì ở đó đã bao hàm sự thừa nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với nhà
nước pháp quyền, bởi vì nếu không có sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản thì nhà nước
không phải là nhà nước của dân, do dân, vì
dân thực sự. Như vậy, vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản là điều kiện để đảm bảo tính
giai cấp, tính nhân dân của nhà nước XHCN.
Tóm lại, đảm bảo đầy đủ các nội dung
trên, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
sẽ có vai trò hình thành và hoàn thiện nền
dân chủ XHCN, với yêu cầu quyền lực thuộc
về nhân dân, nhà nước thật sự là công cụ
chủ yếu để thể hiện quyền làm chủ của nhân
dân
III. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
ở nước ta hiện nay
1. Đánh giá về thực trạng của nhà
nước ta hiện nay:

Từ khi ra đời, Nhà nước ta đã góp
phần to lớn lãnh đạo toàn dân tộc trong đấu
tranh giải phóng dân tộc, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến hành
sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước ta luôn đảm bảo quản
lý và điều hành xã hội bằng pháp luật (về cơ
bản), và ngày nay, đang từng bước sửa đổi,
bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật chung
cho cả nước. Nhà nước ta đã hình thành
được cơ chế và thể chế hoá quyền dân chủ
của nhân dân trên nhiều lĩnh vực: chính trị ,
kinh tế, văn hoá, tư tưởng… và nhờ đó nền
dân chủ XHCN liên tục được củng cố và pháp
huy. Trong tổ chức và hoạt động của nhà
nước, nhà nước ta luôn có sự đổi mới tổ
chức và hoạt động (như xác định chức năng,
nhiệm vụ quyền hạn của bộ máy cơ quan nhà
nước, xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực,
phẩm chất) để đáp ứng những yêu cầu được
đặt ra trong từng thời kỳ lịch sử, nhất là đáp
ứng được cơ bản vai trò, chức năng của nhà
nước trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Đồng
thời, nhà nước ta cũng dần dần hoàn thiện cơ
chế thu hút sự tham gia của nhân dân ngày
càng nhiều vào việc xây dựng chính quyền
nhà nước các cấp
Bên cạnh đó, nhà nước ta cũng còn
nhiều hạn chế như : bộ máy nhà nước ta
chưa thật sự thể hiện và phát huy đầy đủ bản

chất một nhà nước dân chủ XHCN, do đó
chưa đáp ứng được đòi hỏi chính đáng về
dân chủ, còn mang nặng tính hình thức làm
hạn chế vai trò tích cực chính trị của công
dân. Quản lý nhà nước ta chưa ngang tầm
với nhiệm vụ của thời kỳ đối mới, chưa quản
lý điều hành XH bằng pháp luật, hệ thống
pháp luật chưa hoàn chỉnh. Tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước còn nặng nề, tình
trạng thiếu kiến thức nghề nghiệp, tệ nạn
tham nhũng, quan liêu còn nhiều, bất bình
đẳng xã hội có xu hướng gia tăng
2. Lý do cần phải xây dựng một nhà
nước pháp quyền
Từ việc đánh giá thực trạng trên, xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN thật sự
của dân, do dân, vì dân là nhiệm vụ bức thiết
ở nước ta hiện nay, xuất phát từ những yêu
cầu như sau:
- Cần phải có nhà nước pháp quyền đủ
mạnh để bảo vệ và phát huy những thành
quả của cách mạng mà chúng ta đã đạt
được, đặc biệt là những thành quả trong giai
đoạn đổi mới hiện nay.
- Cần phải có nhà nước pháp quyền đủ
mạnh để giải quyết những vấn đề mới nảy
sinh do mặt trái của nền kinh tế thị trường,
kinh tế nhiều thành phần : tệ nạn xã hội, ma
tuý, phân hoá giàu nghèo, đấu tranh giai cấp
trong hợp tác đầu tư, liên doanh…

- Cần phải có nhà nước pháp quyền đủ
mạnh đúng nghĩa để phát huy được nền dân
chủ XHCN. Vì nếu thiếu nền dân chủ nó sẽ
tạo ra lực cản lớn cho sự phát triển của đất
nước.
- Cần phải có nhà nước pháp quyền đủ
mạnh với tư cách là công cụ chuyên chính để
đủ sức đương đầu và chiến thắng diễn biến
hoà bình của CNĐQ và các thế lực thù địch
ráo riết phá hoại thành quả của CNXH và của
nước ta. Có nghĩa là chúng ta luôn cảnh giác
âm mưa diễn biến hoà bình của CNĐQ, là
cuộc chiến tranh không có tiếng súng, CNTB
luôn lợi dụng về kinh tế,văn hoá, chính trị,
tình hình dân tộc, tôn giáo để gây rối, phân
hoá nhằm xoá bỏ CNXH.
3. Phương hướng xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN của nước ta:
Quan điểm của Đảng ta là: trước hết
tiến hành cải cách và hoàn thiện các cơ quan
nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp), cải
cách một bước nền hành chính quốc gia; tiếp
tục bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật
để đáp ứng đòi hởi quản lí trong tình hình
mới. Đồng thời, tiến hành thể chế hoa nền
dân chủ của nhân dân thành pháp luật, thành
cơ chế chính sách và chỉ có như vậy mới
thực hiện dân chủ được tốt nhất… Để làm rõ
các quan điểm trên, trước mắt cần tập trung
giải quyết một số lĩnh vực, đó là:

- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng nhằm phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong việc
xây dựng và quản lí nhà nước. Văn kiện hội
20
nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương
khoá VIII nêu rõ: “chỉ khi nào phát động được
nhân dân đứng lên tham gia các công việc
nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát có
hiệu quả, chúng ta mới chống được tham
nhũng, giữ được trong sạch của bộ máy nhà
nước”. Nhân dân tham gia công việc nhà
nước trước hết là ở những lĩnh vực chủ yếu
sau : tham gia lựa chọn người đại diện cho
mình thông qua bầu cử đại biểu HĐND các
cấp và đại biểu quốc hội; tham gia đóng góp ý
kiến vào những văn bản pháp luật và những
quyết định quan trong của nhà nước; tham
gia giám sát hoạt động của các cơ quan hành
pháp, tư pháp (điều tra, xét xử, thi hành
án…). Đặc biệt hiện nay, ở từng cơ sở nhân
dân tham gia và thực hiện cơ chế dân chủ mà
nhà nước đã ban hành. Trong đó, nòng cốt là
cán bộ, Đảng viên phải luôn ý thức rằng nhà
nước là của dân, do dân và vì dân; quyền lực
nhà nước là do dân trao cho những đại biểu
ưu tú của mình. Đồng thời, cần đấu tranh
kiên trì, kiên quyết để ngăn chặn và khắc
phục những biểu hiện cơ hội chính trị, lợi

dụng chức quyền và những sơ hở của pháp
luật để tham nhũng, lãng phí, sống xa dân, ức
hiếp dân, gây phiền hà cho dân.
- Đổi mới nâng cao chất lượng công
tác lập pháp và giám sát tối cao của quốc
hội đối với toàn bộ hoạt động của nhà
nước. Về lập pháp, ban hành các đạo luật
cần thiết để điều chỉnh các lĩnh vực của đời
sống xã hội, ưu tiên xây dựng các luật về kinh
tế, các quyền công dân và các luật điều chỉnh
trong công cuộc cải cách bộ máy nhà nước,
các luật điều chỉnh các hoạt động văn hoá
thông tin. Coi trọng việc tổng kết thực tiễn,
xây dựng các văn bản pháp luật và ban hành
các văn bản cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện…
Về hoạt động giám sát: nâng cao chất lượng,
hiệu lực và hiệu quả giám sát của quốc hội và
HĐND. Xác định rõ phạm vi, nội dung, cơ chế
giám sát của quốc hội, các ủy ban quốc hội
và HĐND với hoạt động thanh tra, kiểm tra,
giám sát. Song song với việc bảo đảm các
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân cần
nghiên cứu, hướng dẫn mọi công dân có điểu
kiện phát hiện, đề xuất, kiến nghị giúp cho
hoạt động giám sát có hiệu quả. Nâng cao
chất lượng hoạt động giám sát của cơ quan
hành pháp, tư pháp. Đồng thời giám sát các
cơ quan nhà nước trong việc thu chi ngân
sách và các khoản viện trợ, vay vốn, quỹ từ
thiện… Chú trọng giám sát thu chi tài chính ở

cơ sở và những khoản tiền do nhân dân đóng
góp, đồng thời với việc giám sát bắt người,
quá trình điều tra, xét xử, thi hành án…
- Cải cách nền hành chính nhà nước:
là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện
nhà nước. Trong những năm trước mắt, cải
cách hành chính tập trung những nhiệm vụ
cơ bản : Về cải cách thể chế hành chính: đẩy
mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính
trên những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến
đời sống nhân dân, giảm tối đa cơ chế “xin-
cho”; tổng kết kinh nghiệm thực hiện cơ chế
thực hiện cơ chế một cửa để chỉ đạo áp dụng
rộng rãi trên toàn quốc. Đồng thời với việc
xắp xếp tinh gọn, cắt bỏ khâu trung gian
những bộ phận chéo chức năng, nhiệm vụ,
ngăn chặn tệ cửa quyền, tham nhũng, hối lộ,
vi phạm pháp luật. Về tổ chức bộ máy: chấn
chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế, quy chế hoạt
động của bộ máy hành chính các cấp làm cho
bộ máy tinh gọn và thực thi có hiệu lực từ TW
đến địa phương, cơ sở. Xác định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi
cấp nhằm tạo điều kiện thuận lợi giải quyết
kịp thời những vấn đề đặt ra mà nhân dân đòi
hỏi. .
- Cải cách tổ chức và hoạt động tư
pháp: các cơ quan tư pháp phải là mẫu mực
trong việc tuân thủ pháp luật, phải thể hiện
công lý, tính dân chủ, công khai trong hoạt

động, hình thành các toà án chuyên nghành
và nâng cao năng lực xét xử. Phân định rõ
chúc năng công tố và kiểm sát của VKSND,
nâng cao chất lượng công tố (điều tra, luận
tội) tránh những chồng chéo giữa thanh tra
nhà nước và Viện kiểm sát. Đồng thời với
việc khắc phục tình trạnh tồn đọng án quá
nhiều, quá lâu hoặc dây dưa kéo dài thời gian
thi hành án.
- Kiên quyết đấu tranh thường xuyên
và có hiệu quả tệ nạn tham nhũng trong
bộ máy nhà nước các cấp nhằm xây dựng
một nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Đấu tranh chống tham nhũng phải đấu tranh
chống buôn lậu, lãnh phí, quan liêu; tập trung
vào các hành vi lợi dụng chức quyền tham ô
làm thất thoát tài sản nhà nước, nhận hối lộ…
đồng thời, kết hợp những biện pháp cấp bách
với những giải pháp có tầm chiến lược nhằm
vừa hoàn thiện cơ chế, chính sách, kiện toàn
tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc
phục sơ hở và xử lí kịp thời mọi hành vi vi
phạm, tội phạm.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức “xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý
ở các cấp, vững vàng về chính trị, gương
mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí
tuệ, kiến thức, năng lực hoạt động thực tiễn,
gắn bó với nhân dân”. Cải cách và hoàn thiện

quy chế về đội ngũ cán bộ công chức: sắp
xếp lại đội ngũ cán bộ, xây dựng các văn bản
pháp quy về chế độ công vụ và công chức,
ban hành các thể chế và tổ chức quản lý kiểm
tra cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh
đạo có tầm chiến lược. Quy định chế độ đào
tạo, tuyển dụng sử dụng công chức. Xây
dựng cán bộ công chức nhà nước vừa có
trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp
cao, vừa giác ngộ chính trị, có tinh thần trách
nhiệm, tận tụy công việc, vừa có đạo đức,
liêm khiết khi thừa hành công vụ
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với nhà nước trong tình hình mới trên
cơ sở xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị
quyết ĐH VIII, NQ TW3, NQ TW6 (lần 2),
Nghị quyết TW 7 khoá VIII nhằm chấn chỉnh
kịp thời cán bộ, Đảng viên làm trong sạch các
tổ chức Đảng từ TW đến cơ sở, nâng cao
năng lực và sức chiến đấu cùa Đảng trong
tình hình mới.
Kết luận :
Tóm lại, Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam là một nhà nước được tổ chức và
vận hành theo nguyên tắc “chủ quyền tối
thượng thuộc về nhân dân”. Đổi mới tổ chức,
hoạt động của nhà nước theo nguyên tắc trên
là công việc vừa cơ bản, vừa cấp bách và
cần phải tính toán kỹ từng bước đi thích hợp.
Mấu chốt của sự thành công đổi mới hoạt

động của nhà nước là phải bảo đảm và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng. Nếu chúng ta
quán triệt đầy đủ và thực hiện tốt nhưng yêu
cầu và phương hướng nêu trên, thì nhà nước
pháp quyền XHCNVN sẽ được thiết định
vững chắc và xã hội công dân ngày càng
phát triển về mọi mặt. Đồng thời, chúng ta có
đủ điều kiện để xây dựng thành công CNXH
theo cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ
quá độ lên CNXH ở nước ta
Vấn đề 9 : Vận dụng lý luận về các tổ chức
chính trị xã hội ngoài nhà nước để phân tích
và chứng minh: “để tiếp tục đưa sự nghiệp
đổi mới tiến lên giành thành tựu to lớn hơn
cần thực hiện tốt việc mở rộng, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân ở trong nước và
nước ngoài, phát huy dân chủ, động viên tối
đa sức mạnh của toàn thể dân tộc vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh”.
Bài làm
Chính trị như Lênin nói là công việc có liên
quan đến hàng chục triệu con người. Mọi đường
lối, chủ trương của Đảng đều là sự phản ánh
nguyện vọng và lợi ích của quần chúng và phải
được thâm nhập vào quần chúng. Tuy nhiên sức
mạnh của quần chúng khi và chỉ khi được thông
qua tổ chức, được tập họp tổ chức lại thì mới trở
thành sức mạnh to lớn. Với ý nghĩa đó, thì việc
nghiên cứu cũng như việc củng cố các tổ chức

chính trị - xã hội ngoài nhà nước là vấn đề có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng, nhất là trong giai đoạn
hiện nay của nước ta. Văn kiện ĐH Đảng lần
VIII đã khẳng định : “để tiếp tục đưa sự nghiệp
đổi mới tiến lên giành thành tựu to lớn hơn cần
thực hiện tốt việc mở rộng, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân ở trong nước và nước ngoài,
phát huy dân chủ, động viên tối đa sức mạnh
của toàn thể dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, VM”. Bằng việc vận
dụng lý luận chính trị học về các tổ chức chính
trị XH ngoài nhà nước, chúng ta hãy phân tích
làm rõ vấn đề trên.
1. Khái niệm về tổ chức chính trị - XH
Tổ chức chính trị - xã hội ngoài nhà nước
là những tổ chức cộng đồng người trong cơ cấu
xã hội dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tự chủ,
thống nhất hoạt động. Điều đó có ý nghĩa là nó
vừa mang tính xã hội, tính quần chúng, đồng
thời lại vừa mang tính chính trị nhưng không
phải là đội tiền phong của giai cấp như chính
đảng hay tổ chức công quyền như Nhà nước
mà tác dụng mang tính cục bộ đến cơ chế thực
thi quyền lực của XH Các tổ chức ấy lấy hoạt
động chính trị xã hội là phương thức chủ yếu để
tập họp, tổ chức hành động của các thành viên
nhằm gây ảnh hưởng với mức độ khác nhau đối
với quyền lực chính trị vì lợi ích của thành viên
trong tổ chức mình.
2. Tính chất và vai trò của các tổ chức chính

trị - xã hội :
21
Các tổ chức chính trị - xã hội ngoài nhà
nước không chỉ tồn tại ở các nước XHCN mà nó
còn rất phổ biến ở các nước TBCN.
Trong chủ nghĩa tư bản, có nhiều tổ chức
chính trị - xã hội khác nhau như : các công
đoàn, các hiệp hội, các câu lạc bộ lợi ích, các tổ
chức và liên minh tôn giáo, các nhóm lợi ích
theo nghề nghiệp. Một số trong đó là chổ dựa
của nhà nước, một số khác đấu tranh chống đối
nhà nước. Các tổ chức nay đều tác động đến
nhà nước nhằm giải quyết những vấn đề thuộc
về lợi ích của nhóm họ và trong những điều kiện
nhất định, cũng có thể trực tiếp tham gia vào các
cuộc đấu tranh giành quyền lực chính trị. Song
tất cả các việc làm trên đều trong khuôn khổ của
CNTB và được pháp luật Nhà nước tư bản cho
phép.
Trong chủ nghĩa xã hội, các tổ chức chính trị
- xã hội ngoài nhà nước chủ yếu của nước ta
hiện nay là: Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Công
đoàn, Đoàn Thanh niên cộng sản, Hội liên hiệp
phụ nữ Việt Nam; Hội cựu chiến binh Việt Nam;
hội nông dân Việt Nam. Các tổ chức trên đều là
thành viên của hệ thống chính trị của nước ta,
bản chất của hệ thống chính trị của nước ta là
hệ thống chuyên chính vô sản, đều chịu sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản và là chổ dựa vững
chắc của Nhà nước pháp quyền XHCN.

Chức năng của các tổ chức chính trị - xã hội
ngoài nhà nước là giáo dục và nâng cao trình độ
về mọi mặt của các thành viên để thực hiện có
hiệu quả mục tiêu của tổ chức đó đặt ra, bảo vệ
và thực thi lợi ích chính đáng, hợp pháp của các
thành viên trong tổ chức mình, song lợi ích đó
phải đặt trong mối quan hệ phụ thuộc vào những
quy định về pháp luật, về chủ trương, chính
sách của Đảng và nhà nước. Đồng thời, các tổ
chức này tập hợp các thành viên của mình để
tham gia vào đời sống chính trị của đất nước.
Các tổ chức chính trị-xã hội của nước ta có vai
trò quan trọng trong việc góp phần tham gia xây
dựng đường lối, nghị quyết của Đảng, tham gia
xây dựng những đạo luật quan trọng, động viên
đoàn viên, hội viên thực hiện nhiệm vụ chính trị
của đất nước, của địa phương và chính quyền
cơ sở. Ngoài ra, nó còn tham gia giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước, góp phần đầu
tranh chống tiêu cực, tham nhũng làm trong
sạch bộ máy của Đảng và chính quyền, làm lành
mạnh hoá quan hệ xã hội, góp phần vào việc
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của chế độ,
góp phần thực hiện một cách hiệu quả nhất các
nhiệm vụ kinh tế xã hội của Đảng và chính
quyền ở địa phương đơn vị
Ở nước ta Mặt trận TQ và các đoàn thể
nhân dân với vai trò rất quan trọng trong sự
nghiệp đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo
vệ tổ quốc, phát huy quyền dân chủ, giữ gìn kỷ

cương, phép nước, nâng cao trách nhiệm của
công dân, thắc chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân, góp phần thúc đẩy công
cuộc kiến tạo đất nước. Đó là những tổ chức mà
thông qua đó Đảng và Nhà nước phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đồng thời
tăng cường đại đoàn kết toàn dân, củng cố sự
nhất trị về mặt chính trị và tinh thần của chế độ
ta, cũng là tổ chức để quần chúng thực hiện
quyền lực, quyền tự do dân chủ của chính mình.
Nói đến vai trò động lực của khối đại đoàn kết
toàn dân, Đảng ta khẳng định Mặt trận tổ quốc
Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất
nước
Hiện nay, nước ta chủ trương xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN, nghĩa là xây dựng một
nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, nhưng
trong thực tế nhà nước cũng không thể can
thiệp vào tất cả các quan hệ xã hội. Vì vậy, cùng
với việc xây dựng nhà nước pháp quyền thì nhà
nước cần khuyến khích, tôn trọng các quyền tự
do của hội, các đoàn thể nhân dân, thông qua
các tổ chức này lội cuốn đông đảo các tầng lớp
nhân tự ngguyện tham gia vào hoạt động chính
trị-xã hội, giúp đỡ nhau giải quyết các vấn đề mà
nhà nước bao quát hết. Xu hướng phát triển của
các tổ chức quần chúng phi nhà nước là một xu
hướng dân chủ và tiến bộ

3. Một số tổ chức CT-XH ngoài nhà nước ở
nước ta hiện nay
- Mặt trận tổ quốc Việt Nam : Là một bộ
phận cấu thành của hệ thống chính trị, Mặt trận
TQ VN là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân, nơi thể hiện ý chí và nguyên vọng của các
tầng lớp nhân dân, nơi phối hợp và thống nhất
hành động của 32 tổ chức thành viên, động viên
nhân dân góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền
quốc gia, toàn vẹnh lãnh thổ, thực hiện sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước. Tư tưởng chỉ đạo
xuyên suốt toàn bộ Chỉ thị, nghị quyết của Đảng
và Luật Mặt trận là : Đoàn kết tất cả mọi người
VN tán thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
XH công bằng, dân chủ và văn minh. Xóa bỏ
mọi định kiến, mặc cảm. Đoàn kết tất cả những
người VN thuộc các giai cấp, các tầng lớp, các
dân tộc, các tôn giáo trong và ngoài Nhà
nước là nhiệm vụ hàng đầu của Mặt trận, là lý
do tồn tại của Mặt trận. Đoàn kết dân tộc là chủ
trương nhất quán của Đảng, nhà nước ta trong
mọi thời kỳ cách mạng. Hiện nay, với tư duy đổi
mới, vấn đề đại đoàn kết các dân tộc lại được
nâng lên ở tầm cao mới, chấp nhận cả sự khác
nhau về quá khứ, hoàn cảnh sống miễn là sự
khác nhau đó không trái với lợi ích chung của
dân tộc. Khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt
trận tổ quốc Việt Nam luôn được củng cố và
phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh công-
nông và đội ngũ trí thức.

Trong lịch sử Đảng ta, từ khi có Đảng đến
nay không lúc nào vắng tổ chức Mặt trận. Lịch
sử cách mạng nước ta cũng cho thấy khi nào
Đảng có chính sách Mặt trận đúng đắn, coi trọng
vai trò của Mặt trận, tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với Mặt trận, tập họp được ngày
càng đông đảo các tầng lớp nhân dân, thật lòng
đoàn kết thì sẽ động viên được sức mạnh to lớn
của toàn dân tộc, tranh thủ được sự đồng tình,
ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Ngày
nay, ở nước ta, do điều kiện lịch sử cụ thể, chỉ
có Đảng Cộng sản tồn tại, gánh vác sứ mệnh
lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
vai trò của Mặt trận càng trở nên quan trọng
trong việc tập họp quần chúng rộng rãi, do
Đảng lãnh đạo; đây sẽ là một đảm bảo quan
trọng để phát huy dân chủ, tránh khỏi bệnh quan
liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, góp phần
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Bằng việc
tập họp ý kiến đa dạng, nhiều chiều của các
tầng lớp nhân dân, Mặt trận là nơi Đảng, Nhà
nước bàn với dân về những vấn đề quốc tế dân
sinh, Đảng và Nhà nước lắng nghe ý kiến trực
tiếp của dân để xây dựng hoàn thiện chủ
trương, chính sách của mình. Mặt trận thông
qua việc tham gia xây dựng, giám sát việc thực
hiện đường lối, chủ trương chính sách pháp luật
liên quan đến lợi ích của các tầng lớp nhân dân
làm cho những đường lối chính sách đó phản
ánh và phù hợp với thực tế cuộc sống của nhân

dân. Mặt trận TQ VN còn tham gia xây dựng
chính sách pháp luật, giám sát hoạt động của
cán bộ chính quyền bằng cách phản ánh ý kiến
đóng góp của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
Mặt trận hiệp thương danh sách bầu cử đại biểu
quốc hội và HĐND các cấp, tuyên truyền vận
động nhân dân và giám sát việc thực hiện Luật
bầu cử góp phần xây dựng chính quyền nhân
dân trong sạch, vững mạnh. Trong sự nghiệp
Đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế là một
lĩnh vực quan trọng nhằm tăng cường tình hữu
nghị hợp tác giữa nhân dân ta với nhân dân các
nước trong khu vực và trên thế giới. Với tư cách
là một tổ chức chính trị - xã hội, thể hiện ý chí và
nguyện vọng của toàn dân. Mặt trận tổ quốc VN
có nhiều điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh hoạt
động đối ngoại nhân dân với bè bạn quốc tế,
một lĩnh vực hoạt động đối ngoại có những đặc
điểm và ưu thế riêng, góp phần tạo môi trường
hòa bình, hữu nghị, ổn định cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta
- Tổng liên đòan lao động Việt Nam: Về tổ
chức công đoàn, Lênin viết: “nhiệm vụ chủ yếu
của công đoàn là bảo vệ lợi ích của quần chúng,
theo nghĩa trực tiếp nhất và chính xác nhất của
từ đó”. Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị-
xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người
lao động Việt Nam tự nguyện lập ra dưới sự
lãnh đạo của ĐCSVN, là thành viên trong hệ
thống chính trị của xã hội Việt Nam. Công đoàn

cùng với cơ quan nhà nước và tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội chăm lo về quyền lợi của cán bộ,
công chức, viên chức và những người lao động
khác, tham gia quản lý nhà nước và xã hội,
tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các
cơ quan nhà nước và tổ chức kinh tế, giáo dục
cán bộ, công nhân viên chức và những người
lao động khác pháp huy vai trò làm chủ đất
nước, thực hiện nghĩa vụ của công dân, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời, công đoàn
cùng với nhà nước còn có trách nhiệm phát triển
sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống
vật chất, tinh thần của người lao động.
- Đoàn thanh niên cộng sản HCM : Trong
quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, đoàn
thanh niên cộng sản HCM luôn là lực lượng
xung kích và đóng góp to lớn trong việc giành
độc lập dân tộc thống nhất đất nước. Đoàn
thanh niên luôn là lực lượng tin cậy, là đội quân
hậu bị, là cánh tay đắc lực của Đảng; và ngày
nay, đoàn TN luôn thể hiện tính tiên phong của
mình trong việc tổ chức, tập hợp đoàn viên
thanh niên đảm nhận vai trò xung kích của lực
lượng trẻ trong quá trình xây dựng CNXH, góp
phần thực hiện đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH
đất nước theo chủ trương và đường lối của
Đảng và nhà nước.
- Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam: Là thành
viên của hệ thống chính trị, trong nhiều thập kỷ
qua, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam luôn có đóng

góp to lớn và đạt nhiều thành tựu to lớn trong
quá trình cách mạng của dân tộc như: thời kỳ
1930-1945, vận động phụ nữ hăng hái tham gia
phong trào thi đua ái quốc, “giệt giặc đói”, “diệt
giặc dốt”, “diệt giặc ngoại xâm”; thời kỳ 1954-
1975 phụ nữ hưởng ứng phong trào như “phụ
nữ 3 đảm đang”, “phụ nữ 5 tốt” và nhiều tầng
lớp phụ nữ tập hợp hình thành nên thế trận “đội
22
quân tóc dài” đã góp phần giành thắng lợi trong
cách mạng giải phóng dân tộc. Bước vào thời kỳ
đổi mới, với phương thức họat động khá tốt của
hội đã đáp ứng nguyện vọng bức thiết của các
phụ nữ với các phong trào thi đua như: “phụ nữ
tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy
con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc”, “phụ nữ
giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm
xây dựng đất nước”, “giỏi việc nước, đảm việc
nhà”…Đồng thời, hội cũng đã thiết lập được mối
quan hệ với nhiều tổ chức quốc tế và nhiện
được nhiều sự hỗ trợ, hợp tác có hiệu quả, góp
phần làm cho bạn bè quốc tế hiểu biết hơn về
Việt Nam.
4. Thực trạng và các giải pháp
* Thực trạng : trong thời gian qua, phát huy
vai trò của mình, Mặt trận TQ VN và các tổ chức
chính trị xã hội đã đóng góp tích cực xây đắp
khối đại đoàn kết dân tộc đã không ngừng mở
rộng, nội dung phong phú đa dạng hơn và là
nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển KT-XH

của đất nước. Thành tựu đạt được là không nhỏ
tuy nhiên, hiện đang có nhiều vấn đề cần phải
giải quyết : khối đại đoàn kết toàn dân vẫn chưa
thật bền chặt và đang đứng trước những thử
thách mới; lòng tin vào Đảng, nhà nước, chế độ
của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc có
phần vì đời sống còn nhiều khó khăn vì bất bình
trước những bất công xã hội, trước tình trạng
tham nhũng quan liêu, lãnhg phí còn khá phổ
biến và nghiêm trọng, kỷ cương, pháp luật nhiều
lúc nhiều nơi bị buông lỏng đạo đức XH có mặt
bị xuống cấp, trật tự an toàn XH còn phức tạp.
Các vụ khiếu kiện đông người vẫn còn nhiều, hệ
thống chính trị ở cơ sơ còn yếu kém về nhiều
mặt. Công tác mặt trận tuy đạt nhiều thành tích
đáng kể nhưng vẫn còn không ít thiếu sót : chưa
thật sự phát huy tính chủ động, tích cực của
quần chúng, chưa coi trọng công tác tuyên
truyền ở địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa,
vùng tôn giáo dân tộc, chưa phản ánh đầy đủ và
tổng kế thực tiễn từ cơ sở, chưa đề xuất được
những giải pháp mang tính chiến lược lâu dài,
thiếu sự phối hợp thường xuyê, chặt chẽ giữa
các tổ chức thành viên với Mặt trận tổ quốc các
cấp.
Trên thực tế mối quan tâm của XH và
việc triển khai thực hiện Hiến pháp và Luật Mặt
trân chưa đến nơi, đến chốn. Nhiều nơi, nhiều
ngành, nhiều cấp còn chưa nhận thức đúng vị
trí, vai trò của Mặt trận. Một số cơ quan nhà

nước vẫn chưa thật sự lắng nghe và tham khảo
ý kiến đóng góp của các tổ chức Mặt trận. Các
chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ và
những người hoạt động trong hệ thống chính trị-
xã hội ngoài nhà nước chưa phù hợp, chưa
động viên và thu hút được những người có trình
độ và khả năng. Mặt khác, cũng phải thấy rằng,
bản thân hoạt động của Mặt trận và các đoàn
thể nhân dân ở nhiều nơi còn thụ động, hình
thức, thiếu đồng bộ, nặng nề hành chính, mang
tính hiệu triệu, không sát dân. Tổ chức bộ máy
còn quá yếu, chưa đủ trình độ và chưa theo kịp
với yêu cầu mà cuộc sống đặt ra.
* Giải pháp : Để đưa công cuộc đổi
mới đất nước giành thắng lợi nhiều mặt và trên
nhiều lĩnh vực, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn
của đất nước, các hệ thống chính trị - xã hội
ngoài nhà nước phải không ngừng đổi mới tổ
chức, phương thức hoạt động nhằm “thực hiện
tốt việc mở rộng, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân ở trong nước và nước ngoài, phát huy
dân chủ, động viên tối đa sức mạnh của toàn
thể dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh”
a. Mặt trận tổ quốc Việt Nam : Muốn
góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc có hiệu quả thiết thực, Mặt trận cần đẩy
mạnh việc đa dạng hóa các hình thức tập họp
các tầng lớp nhân dân, tập họp những ý kiến,
kiến nghị, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để

phản ánh với Đảng và Nhà nước thực hiện vai
trò cầu nối của Mặt trận nhằm tăng cường quan
hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Việc
tập họp đoàn kết toàn dân phải gắn liền với việc
chăm lo quyền lợi chính đáng và hợp pháp của
các tầng lớp nhân dân. . .
Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trên,
trong giai đoạn hiện nay, Mặt trận tổ quốc Việt
Nam cần quán triệt và thực hiện các chủ trương
lớn sau:
+ Cần phải có các chủ trương, chính sách pháp
luật đúng đắn trên tất cả mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội nhằm đáp ứng nguyện vọng và lợi
ích chính đáng của các giai tầng trong xã hội.
+ Đoàn kết phải trên cơ sở lợi ích
nhằm tạo ra những động lực thúc đẩy phong
trào hành động cách mạng nhân dân trong xây
dựng cuộc sống mới. Hiện nay cơ cấu giai cấp,
cơ cấu xã hội nước ta biến đổi rất đa dạng và
phong phú. Bên cạnh lợi ích và nhu cầu chung
thì các giai cấp, các tầng lớp xã hội của nước ta
đều có tiếng nói, những nhu cầu, lợi ích riêng.
Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội phải đề ra hệ
chính sách phản ánh lợi ích và tiếng nói đa dạng
của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau.
Có như vậy thì chính sách đại đoàn kết mới đi
vào chiều sâu và tạo ra động lực phát triển kinh
tế -XH
+ Việc thực hiện chính sách đại đoàn
kết dân tộc phải thể hiện ngay trong tổ chúc và

hoạt động bộ máy chính quyền nhà nước nói
riêng và hệ thống chính trị nói chung.
+ Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã
hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm quyền
lực thuộc về nhân dân. Dân chủ được thực hiện
trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, KT, văn hoá…ở các cấp, các ngành.
Có như vậy, Mặt trận mới phát huy vai trò
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng
liên minh công – nông – trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng, trở thành nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định
bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc
b. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam:
Trong giai đoạn hiện nay, ngày càng nổi lên
những vấn đề mới do nền kinh tế thế giới đi vào
thời kỳ toàn cầu hoá mạnh mẽ, các lực lượng
kinh tế - tài chính trở thành lực lượng quốc tế
hoá; tình hình đó đã tác động trực tiếp đến
phong trào CNVC-LĐ và hoạt động của tổ chức
công đoàn. Vai trò của Công đoàn ngày trong
nền KT thị trường và mở cửa hội nhập nước
ngoài có tầm quan trọng đặc biệt. Công đoàn
Việt Nam cần quán triệt đường lối, chủ trương
của Đảng và nhà nước, cùng với các cấp, các
ngành, đơn vị sản xuất kinh doanh tìm các giải
pháp tháo gỡ khó khăn, sắp xếp lại DNNN.
Công đoàn phải tập hợp, đoàn kết công nhân

lạo động, bồi dưỡng và động viên họ nâng cao ý
chí tự lập, tự cường, năng động sáng tạo, nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh góp phần làm
cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ và văn minh.
NQ ĐH lần VIII công đoàn VN đã chỉ ra,
tổ chức công đoàn phải thực hiện nhiệm vụ
chính trị trong giai đoạn đổi mới đất nước ta
hiện nay như sau : Một là nhanh chóng tập họp,
đoàn kết tuyệt đại bộ phận công nhân, người lao
động công nghiệp, dịch vụ công nghiệp trong tất
cả các thành phần kinh tế, đặc biệt là trong tất
cả các cơ sở ngoài quốc doanh bởi lẽ ở khu vực
này , người lao động đang rất cần được tổ chức
lại và được bảo vệ quyền lợi; Hai là đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của công đoàn
theo hướng đa dạng hóa loại hình kinh tế nhiều
thành phần phù hợp với điều kiện sống, lao
động và nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích của công
nhân lao động trong các thành phần KT khác
nhau; Ba là xây dựng đội ngũ cán bộ có nhiệt
tình công tác công đoàn, am hiểu chuyên môn
và hoạt động kinh doanh, nắm vững pháp luật,
chính sách có liên quan đến người lao động
Tóm lại, để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
mới đòi hỏi tổ chức công đoàn và CNVC-LĐ
phải vươn lên mạnh mẽ, năng động sáng tạo
vượt qua khó khăn thử thách, thực hiện thắng
lợi NQ ĐH VIII công đoàn Việt Nam với khẩu
hiệu: “vì sự ngiệp công nghiệp hoá, HĐH đất

nước, vì việc làm, đời sống, dân chủ và công
bằng xã hội, xây dựng giai cấp CN và tổ chức
công đoàn vững mạnh”.
c. Đoàn thanh niên cộng sản HCM: Đảng
và Bác Hồ đánh giá cao và đặt nhiều kỳ vọng
vào thanh niên, vào thế hệ tương lai của đất
nước, Bác viết: “đoàn thanh niên ta nói chung là
tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không
ngại khó khăn, co chí tiến thủ. Đảng cần phải
chăm lo giáo dục đạo đúc cách mạng cho họ
thành những người thừa kế xây dựng XHCN
vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau là một việc rất quan
trọng và rất cần thiết”. Nhờ sự quan tâm của
Đảng mà thanh niên không ngại gian khổ, hi
sinh luôn xứng đáng với niềm tin cậy của Bác,
viết lên những trang sử hào hùng của dân tộc.
Tuy nhiên, ngày nay trong hoàn cảnh mới của
đất nước, trong dòng xoáy của nền KT thị
trường: chủ nghiã cá nhân, lối sống thực dụng…
Đòan cũng còn nhiều lúng túng trên nhiều
phương diện như: hình thức tổ chức chưa đủ
sức hấp dẫn đối với thanh niên, đặc biệt là chức
năng tổ chức cơ sở đoàn ngoài DNNN còn chưa
thật được rõ…
Vì vậy, để nâng cao sức sống của thế hệ trẻ,
tổ chức đoàn cần thiết thực hiện một số phương
hướng sau: một là tăng cường đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với tổ chức đoàn, hai là Đoàn
TN phải đa dạng hoá hơn nữa các hình thức tập

hợp thanh niên, cải tiến phương thức sinh hoạt,
loại hình sinh hoạt, ba là hoạt động đoàn cần
gắn với chương trình KT-xã hội. Gắn hoạt động
đoàn trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp,
giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ cộng
đồng… nhằm thực hiện tốt các chính sách phát
triển nông nghiệp nông thôn, chương trình công
nghiệp hoá, HĐH đất nước, xoá đói giảm nghèo,
đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nông thôn mới;
khuyến khích tài năng trên co sở tự do sáng tạo,
phát minh, cống hiến. Đồng thời cùng với Đảng
và nhà nước, Công đoàn phải có biện pháp và
hình thức thích hợp trong việc tôn vinh, đãi ngộ
xứng đáng các tài năng, phát huy trí tuệ trong
23
nghiên cứu KH, xây dựng luật pháp và quản lý
xã hội, lồng ghép nhiều mục tiêu và hiệu quả
trong hoạt động đoàn, đối với thanh niên: Đoàn
phải chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát
triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống, văn hoá, nghề nghiệp, tạo việc làm
phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai
trò của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc.
d. Hội liên hiệp phụ nữ: Để thực hiện
đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động của mình, Đại Hội Phụ Nữ Việt Nam lần
thứ VI (19871) đã xác địng rõ chức năng của
Hội LHPN trong giai đoạn mới là tổ chức đại
diện, bảo vệ quyền bình đẳng, dân chủ và lợi ích

hợp pháp của phụ nữ, giáo dục phụ nữ xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Ngày 12/7/1993, Bộ
chính trị có NQ 04/NQTW về đổi mới và tăng
cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình
mới nhằm: Tạo ra sự chuyển biến mới của toàn
Đảng, toàn dân đối với sự nghiệp giải phóng
phụ nữ hiện nay, Phát huy mạnh mẽ vai trò của
phụ nữ trong công cuộc đổi mới, tăng số lượng
cán bộ nữ trong các cơ quan quyền lực, Phát
huy sức mạnh phụ nữ trên các lĩnh vực đời sống
xã hội. Ngày nay, thế kỷ XXI là thế kỷ của KT tri
thức, của hội nhập quốc tế-Thế kỷ mà bình đẳng
giới là một trong những vấn đề được quan tâm
mang tính toàn cầu. Để góp phần thực hiện
thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng do
Đảng đề ra, Hội LHPN cần thực hiện một số
nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Vận động mọi tầng lớp phụ nữ dấy lên
phong trào thi đua học tập, nâng cao học vấn,
nghề nghiệp, nghiên cứu KH, ngoại ngữ, công
nghệ thông tin. Phối hợp với các ngành hữu
quan có giải pháp hỗ trợ để thúc đẩy phong trào
thi đua học tập.
+ Vận động các tầng lớp phụ nữ đẩy
mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, thực
hành tiết kiệm, phát huy sáng kiến cải tiến kĩ tuật
và tiếp thu kĩ thuật công nghệ mới ứng dụng vào
sản xuất và đời sống nhằm nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả.
+ Phối hợp các ngành chức năng để khai

thác nguồn lực nhằm thực hiện xoá đói giảm
nghèo, tạo việc làm, cải thiện điều kiện làm việc
cho phụ nữ.
+ Tổ chức hướng dẫn phụ nữ đẩy mạnh phong
trào xây dựng gia đình văn hoá mới, bảo vệ và
chăm sóc bà mẹ-trẻ em; phòng chống tệ nạn
XH, bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan từ mỗi GĐ và
cộng đồng.
+ Nâng cao nhận thức xã hội cho phụ nữ
về vấn đề giói trong phát triển; nâng cao chất
lượng tham gia xây dựng pháp luật, chính sách
để quan điểm về giới được thể hiện rõ nét trong
các chính sách của nhà nước; tạo điều kiện cho
cán bộ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ
quan lãnh đạo và quản lí các cấp, các ngành để
tương xứng với lực lượng lao động xã hội và
khả năng đóng góp của phụ nữ.
+ Tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế trên cơ sở đường lối, chính
sách đối ngoại của Đảng và nhà nước, vì sự
bình đ83ng và phát trir63n của phụ nữ Việt
Nam. Đồng thời tăng cường hiệu quả và vị thế
của hội trong các hoạt động qyý«chính sách tế ở
khu vực và trên toàn thế giới.
+ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
Hội và chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ
máy Hội Phụ nữ các cấp. Đổi mới mạnh mẽ
hơn nữa phương thức hoạt động của Hội, làm
cho Hội thực sự luôn luôn là chỗ dựa đáng tin
cậy của Phụ nữ Việt Nam.

III. Kết Luận:
Cùng với Mặt trận tổ quốc, các tổ chức
chính trị xã hội ngoài nhà nước có vai trò rất
quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn
dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc, phát huy dân
chủ, giữ gìn kỉ cương phép nước, nâng cao
trách nhiệm của công dân, thúc đẩy công cuộc
đổi mới, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, nhà
nước với nhân dân. Ngày nay, chủ trương của
Đảng và nhà nước ta là tiếp tục đổi mới phương
thức hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội
ngoài nhà nước nói riêng và của hệ thống chính
trị nói chung, trước hết là đổi mới phương thúc
lãnh đạo của Đảng, sự quản íy điều hành của
nhà nước. Đổi mới bằng các dân chủ hoá bản
thân các tổ chức chính trị-xã hội theo hướng cơ
bản là: đa dạng hơn nữa hình thức tập hợp
quần chúng và đa dạng hóa chức năng, nhiệm
vụ của các tổ chức chính trị - xã hội đó. Mặt
khác, đổi mới là phương thức hoạt động của các
tổ chức chính trị - xã hội ngoài nhà nước là góp
phần khắc phục tình trạnh hành chính hoá, quan
liêu, xa dân. Xây dựng các phong trào quần
chúng phải gắn liền, với chương trình, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và địa
phương. Hướng mạnh về cơ sở để phát triển tổ
chức, tăng cường sinh hoạt chính trị, tư tưởng
đáp ứng nhu cầu và lợi ích thiết thực của các
đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.

CÂU 10: đồng chí hãy vận dụng lý luận về
quyết sách chính trị và thực tiễn CM Việt Nam
để phân tích và chứng minh luận điểm sau:
"Đảng… không được phạm sai lầm chính trị"
Bài làm
Việc xây dựng quyết sách chính trị và tổ
chức thực hiện quyết sách chính trị được qui định
một cách khách quan gắn bó hữu cơ với chức năng
lãnh đạo của Đảng. Thực tế lịch sử nhân loại đã
cho thấy nơi nào, Đảng nào đề ra được quyết sách
chính trị và tổ chức thực hiện quyết sách đúng,
nhận thức đầy đủ vai trò của quyết sách chính trị
thì đó sẽ là bước quyết định cho thắng lợi của cách
mạng. Thực tiễn cách mạng VN bảy mươi năm
qua đã chứng minh trước những nguy cơ, những
biến cố của lịch sử, Đảng ta luôn có những quyết
sách chính trị đúng đắn, sáng suốt kịp thời đã giành
độc lập tự do cho dân tộc, hoàn thành cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đang vượt qua
mọi khó khăn thử thách để giành thắng lợi trong
cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Đạt được những
thành quả cách mạng trên là do Đảng ta là do có
quyết sách chính trị đúng đắn trên cơ sở quán triệt
tư tưởng của Lênin : "Đảng… không được phạm
sai lầm chính trị". Vậy quyết sách chính trị là gì và
vai trò của nó như thế nào đối với Đảng cầm
quyền, chúng ta hãy phân tích làm rõ những vấn đề
trên.
1. Khái niệm quyết sách chính trị và vai trò của
quyết sách chính trị

Quyết sách chính trị là quyết định của 1 tổ
chức lãnh đạo hệ thống (hay phong trào) chính trị
vạch ra đường lối, xác định quan điểm, đề ra chủ
trương, hoạch định chính sách hoạt động chính trị
cho cả hệ thống hay phong trào đó trong những
cuộc vận động chính trị nhất định dưới các hình
thức cơ bản như : cương lĩnh, đường lối, nghị
quyết chính trị của Đảng.
Quyết sách chính trị của Đảng cộng sản
chính là khoa học là nghệ thuật lãnh đạo chính trị
của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh nhằm
từng bước cải biến XH cũ, xây dựng XH mới.
Quyết sách chính trị xác định những mục tiêu chủ
yếu, những phương hướng chủ yếu trong cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp công nhân, của chính
đảng thuộc giai cấp đó và của lực lượng cách
mạng nói chung trong một giai đoạn lịch sử tương
đối dài. Chỉ ra những kẻ thù giai cấp chủ yếu,
những bạn đồng minh của giai cấp công nhân trong
cuộc đấu tranh nhằm đạt mục tiêu chủ yếu.
Giữa đường lối và nghị quyết có sự đồng
nhất và khác nhau. Với ý nghĩa đường lối là sự bao
quát một hệ thống quan điểm của Đảng mang tính
chiến lược ở những giai đoạn cách mạng nhất định
và nghị quyết là sự cụ thể hoá đường lối với một
ngành, một địa phương, một cơ sở… thì giữa nghị
quyết của TW, của Đảng bộ của các ngành và
đường lối có sự đồng nhất về nội dung cơ bản.
Nhưng xét về mức độ của tính toàn diện, tính bao
quát, về phạm vi tác động, mức độ của tính phổ

biến… thì so với đường lối mọi nghị quyết mang
tính hạn hẹp hơn. Đồng thời phạm vi của mọi nghị
quyết càng hạn hẹp bao nhiêu thì mọi nội dung cùa
nghị quyết càng mang tính cụ thể bấy nhiêu
2. Tầm quan trọng của quyết sách chính
trị
Vai trò của từng quyết sách không giống
nhau, song tất cả đều là sự định hướng cơ bản,
xác định đối tượng chủ yếu, định tính và định
hướng chung, nội dung và hình thức chính yếu,
biện pháp đặc trưng cho từng cuộc vận động chính
trị. Quyết sách của Đảng cầm quyền trở thành
đường lối hoạt động của nhà nước, quy định chiều
hướng vận động cơ bản của xã hội, nhất là chế độ
độc đảng như nước ta hiện nay. Chính vì vậy quyết
sách chính trị có vai trò quan trọng đặc biệt đối với
một Đảng. Nó bảo đảm tính tự giác, tính định
hường đúng đắn và tính hiệu quả của hoạt động
chính trị nhằm biến đổi xã hội một cách thực tế
theo hướng tiến bộ. Tầm quan trọng của quyết
sách chính trị được qui định bởi chính nội dung của
nó. Nội dung của quyết sách chính trị được thể hiện
ở 3 nội dung cơ bản sau đây:
- Quyết sách chính trị trước hết đó là đề ra
mục tiêu của cách mạng bằng cương lĩnh
đường lối. Trên thực tế đối với một Đảng để hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình thì phải giải quyết
nhiều nhiệm vụ, nhưng nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu là đề ra mục tiêu cho cách mạng, tức là phải
đề ra được cương lĩnh đường lối đúng (điều này có

ý nghĩa ngay một chi bộ, một con người nếu đề ra
một quyết định sai thì chắc chắn sẽ không tìm được
mục đích đúng). Minh chứng là quyết sách chính trị
cùa Đảng ta được thể hiện đúng đắn với chính
cương vắn tắt và sách lược vắn tắt của Đảng tại hội
nghi thành lập Đảng 3/02/1930, tuy còn sơ lược
nhưng đã vạch ra đường lối cơ bản, đúng đắn cho
cách mạng Việt Nam, và là cương lĩnh đầu tiên của
Đảng, đó là: “chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Với cương lĩnh của Đảng, nhiệm vụ vủa
cách mạng tư sản dân quyền là đánh đuổi đế quốc
pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai, làm cho
nước nhà độc lập, tự do; tịch thu ruộng đất của bọn
đế quốc, phong kiến chia cho dân cày nghèo, quốc
hữu hoá toàn bộ xí nghiệp của bọn đế quốc, thành
lập chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội
công nông. Đồng thời cương lĩnh xác định lực
lượng cách mạng trước hết là công-nông do GC
công nhân lãnh đạo, song phải lôi kéo cho được
nhiều thành phần tiểu TS, trí thức, trung nông về
phía cách mạng. Đối với phú nông , trung tiểu địa
chủ và TS Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng
thì phải lợi dụng hoặc trung lập, bộ phận nào rõ
mặt thì phải đánh đổ. Sự ra đời của Đảng và tính
đúng đắn của cương lĩnh đã đánh dấu một bước
24
ngoặc căn bản của lịch sử cách mạng Việt Nam,
chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối cứu
nước, là sự kiện có ý nghĩa quyết định đối với toàn

bộ quá trình phát triển cách mạng Việt Nam từ đó
và về sau này
- Nội dung của quyết sách chính trị còn xác
định kẻ thù, xác định bạn đồng minh để từ đó bố trí
lực lượng CM. Nội dung này đã được Đảng ta vận
dụng trong quá trình CM Việt Nam mà tiêu biểu là
trong giai đoạn giành chính quyền (1945). Thực
tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh là cách
mạng tháng 8/1945 với khẩu hiệu “Nhật Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta”, Hội nghị toàn
quốc của Đảng họp từ ngày 13 đến 15/08/1945
khẳng định Đảng lãnh đạo toàn dân nổi dậy giành
chính quyền trong cả nước trước khi quân đồng
minh kéo vào Đông dương, và khi được tin Nhật
đầu hàng thì Đảng ta ra quân lệnh tổng khởi nghĩa
ngay đêm 13/08/1945 và sau hơn 2 tuần lễ cuộc
tổng khởi nghĩa giành thắng lợi, ngày 2/9/1945
chính thức khai sinh ra nước VNDCCH, kết thúc
chế độ phong kiến hàng nhìn năm, sự thống trị gần
80 năm của thực dân, mở đầu kỉ nguyên mới, kỉ
nguyên độc lập đi lên CNXH ở nước ta. Một dẫn
chứng khác nữa về tương quan lực lượng cách
mạng là sau cách mạng tháng 8/1945, quân tưởng
với danh nghĩa giải giáp quân nhật kéo ồ ạt vào
nước ta. Âm mưu đen tối của chúng là “diệt cộng,
cầm Hồ”. Chúng tiến hành đánh phá, cướp bóc
nhiều nơi ở nước ta. Bác Hồ của chúng ta lặng lẽ
chia sẻ những đau thương do quân Tưởng và bọn
bán nước gây ra. Song, Bác kết luận, phải nhận
thức đúng về ta (biết mìmh); về địch (biết người)

nếu đánh Tưởng lúc này khó nói với thế giới vì
chúng mang danh nghĩa quân đồng minh, vả lại
quân Tưởng “chúng ăn gạo lứt, đi giày cỏ, luồn
rừng lội suối không kém gì bộ đội ta. Điều quan
trọng là chúng đang bị hai sức ép lớn là do Đảng
cộng sản Trung Quốc đánh chúng, hai là theo hiệp
ước Pháp-Tưởng thì Tưởng sẽ rút toàn bộ quân lực
về nước. Nghĩa là không đánh ta cũng thắng.” Và
thực tế đã chứng minh được điều đó: quân Tưởng
đã rút về nước theo đúng nhận định của Bác
- Quyết sách chính trị còn đề ra con đường,
biện pháp và những bước đi cụ thể cho từng giai
đoạn cách mạng để từ đó tránh được bệnh hữu
khuynh và tả khuynh. Điều này thể hiện rõ nét trong
cách mạng XHCN, Đảng ta đã chủ quan, nóng vội
mắc phải nhiều sai lầm về một số vấn đề có tính
chiến lược như mô hình KT, CNH, hợp tác hoá, cải
tạo XHCN…, chúng ta đã xác định sai lầm bước đi,
không tập trung phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ mà thiên về xây dựng công nghiệp
nặng, ham làm nhanh, làm nhiều, không tận dụng
và phát triển lực lượng sản xuất đã có, cải tạo ồ ạt,
nhanh chóng xoá bỏ thành phần KT tư nhân để xác
lập một cách phổ biến hình thức sở hữu tập thể và
toàn dân đối với tư liệu sản xuất ngay cả khi lực
lượng sản xuất còn thấp kém…, duy trì quá lâu mô
hình KT tập trung quan liêu bao cấp đã đưa đến sự
trì trệ và khủng hoảng về KT-xã hội. Đại Hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI đã đánh giá thực trạng tình
hình đất nước, thẳng thắn chỉ ra những sai lầm,

khuyết điểm, những khó khăn về KT và đời sống
nhân dân. Đảng đề ra đường lối đổi mới đúng đắn,
đề ra con đường biện pháp và bước đi thích hợp,
phản ánh đúng quy luật vận động khách quan của
lịch sử và thực trạnh tình hình KT của nước ta, nhờ
đó nền KT dần dần ổn định và phát triển.
Quyết sách chính trị đúng thì chính là
xu hướng chính trị tiến bộ, tạo điều kiện cho kinh tế
phát triển nhanh và ngược lại. Trong điều kiện
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, để xây dựng xã
hội mới, xã hội XHCN. Những quyết sách sai lầm
tất nhiên sẽ gây ra những phản ứng dây chuyền,
nẩy sinh những hậu quả nghiêm trọng. Quyết sách
đúng hay không đúng có liên quan đến sự tồn
vong, hưng suy của một đơn vị, thậm chí một sự
nghiệp. Quyết sách chính trị của Đảng từ TW đến
cơ sở đều trở thành quyết định của các đoàn thể
nhân dân, trở thành cơ sở của các chính sách và
pháp luật cùa nhà nước, tác động trực tiếp đến đời
sống của nhân dân và của toàn dân tộc. Vì vậy, mỗi
sai lầm nhỏ của quyết sách chính trị đều có ảnh
hưởng tiêu cực đến cuộc sống của nhân dân và
của toàn dân tộc. Xuất phát từ các cơ sở trên,
Lênin đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của quyết
sách chính trị: “Đảng không được phạm sai lầm về
chính trị”. Vì vậy, để tìm ra quyết sách hợp lý đòi
hỏi người lãnh đạo chính trị có một sự nhìn nhận
toàn diện : từ toàn cục đến cục bộ, từ trước mắt
đến lâu dài, từ giá trị kinh tế đến hiệu quả xã hội,
tìm ra vấn đề then chốt trong mối quan hệ phức tạp

tiến hành luận chứng chặt chẽ chi tiết các
phương án, nêu ra quyết đoán có hiệu quả và khả
thi. Để quyết sách chính trị của Đảng (đường lối,
nghị quyết) biến thành những nhân tố góp phần cải
biến hiện thực thì phải đưa nó vào nhân dân, làm
cho quyết sách chính trị có được sức mạnh của
nhân tố hoạt động thực tiễn và có tính vật chất của
nhân dân. Có nghĩa là quyết sách chính trị của
Đảng phải xuất phát từ thực tiễn và được kiểm
chứng từ thực tiễn sinh động của quần chúng nhân
dân, và điều này cho thấy nếu xây dựng mục tiêu
sai thì không bao giờ có hành động đúng
3. Những cơ sở và phương pháp luận cơ
bản trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện
quyết sách chính trị:
Nhận thức đúng đắn vai trò của quyết sách
chính trị, xây dựng được quyết sách chính trị đúng
và tổ chức thực hiện quyết sách đó có hiệu quả
trong thực tiễn là những nhiệm vụ cơ bản của một
đảng chính trị. Nói cách khác, trách nhiệm cao cả
và nặng nề trước hết của một Đảng cầm quyền là
vạch ra cương lĩnh, đường lối đúng để lãnh đạo đất
nước dẫn dắt cả dân tộc đi lên, tránh được nguy cơ
sai lầm về đường lối. Đường lối chính trị đúng là
đường lối phản ánh đúng quy luật khách quan đáp
ứng đúng yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân, chỉ ra được mục tiêu,
phương hướng và giải pháp cơ bản của CM, trên
cơ sở đó tập họp tổ chức động viên quần chúng
một cách có hiệu quả.

Để xây dựng được quyết sách chính trị
đúng, các Đảng chính trị cách mạng phải tuân thủ
cơ sở phương pháp luận như sau:
Một là, phải dựa trên cơ sở phép biện
chứng duy vật. Vì chỉ có như vậy thì mới giúp
chúng ta nhận thức được nguyên nhân sâu xa của
các hiện tượng và quá trình xã hội một cách đầy đủ
và đúng đắn, từ đó mới tạo điều kiện cho các Đảng
đưa ra được cương lĩnh và đường lối chính trị phù
hợp. Mặt khác, phép biện chứng duy vật còn giúp
ta nhận định rõ ranh giới giữa tính nguyên tắc với
chủ nghĩa giáo điều, bệnh rập khuôn máy móc,
giữa tính linh hoạt cách mạng với chủ nghĩa cơ hội
xét lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng phép
biện chứng duy vật phân tích tình hình Việt Nam
sau khi mới giành được chính quyền để ký hiệp
định sơ bộ (6/3/1946) nhằm tranh thủ thời gian hoà
hoãn củng cố chính quyền và xây dựng lực lượng
cách mạng. Phép biện chứng duy vật con giúp
chúng ta xác định đúng đắn mối quan hệ giữa mục
tiêu và phương tiện. Đối với mục tiêu mà quyết
sách chính trị đề ra phải kiên trì, nhưng với phương
tiện thì phải hết sức linh hoạt. Mục tiêu phát triển
KT hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN đã được Đảng ta
vận dụng trong đổi mới là hoàn toàn phù hợp.
Hai là, để xây dựng được quyết sách
chính trị đúng đắn các Đảng CM phải nắm vững
mối quan hệ biện chứng giữa khách quan và
chủ quan.Vi sự phát triển của XH nói chung cũng

như sự phát triển của chủ nghĩa XH nói riêng luôn
luôn thống nhất giữa khách quan và chủ quan,
trong đó khách quan luôn là tính thứ nhất, chủ quan
là tính thứ hai. Quyết sách chính trị đúng không thể
thoát khỏi hiện thực khách quan, thoát ly hiện thực
khách quan sẽ rơi vào bệnh giáo điều duy ý chí.
Khẳng định vai trò quan trọng của khách quan,
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
Đảng ta đã nêu: "mọi đường lối chủ trương, chính
sách của Đảng phải từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo qui luật khách quan". Nhận thức được
hiện thực khách quan là vấn đề hết sức khó khăn,
bởi vậy các Đảng cộng sản phải có tri thức, có tư
duy lý luận để từ đó nắm vững khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lê nin và các khoa học khác, CM phải
gắn liền với khoa học.
Ba là, phải nắm vững quan điểm chân lý
và cụ thể vì: mọi quyết sách chính trị dù ở tầm vĩ
mô hay vi mô đều xuất phát từ cụ thể và giải quyết
những vấn đề cụ thể. Thực tiễn là thước đo và
kiểm nghiệm chân lý, do vậy quyết sách chính trị đề
ra phải xuất phát từ điều kiện cụ thể và đi vào giải
quyết những vấn đề cụ thể. Song cụ thể ở đây là
phải tránh rập khuôn máy móc, phải phát huy được
tính chủ động.
Bốn là, phải nắm vững tính biện chứng
của sự phát triển XH là "diễn ra trong mâu
thuẫn và thông qua mâu thuẫn", đây là một trong
những cơ sở phương pháp luận quan trọng trong
việc đề ra quyết sách chính trị. Vì cơ sở phương

pháp luận này chỉ cho chúng ta những mâu thuẫn
bên trong của sự vật, hơn thế nó còn chỉ cho chúng
ta đâu là mâu thuẫn cơ bản để từ đó đề ra quyết
sách chính trị phù hợp. Vận dụng cơ sở phương
pháp luận này bước vào thời kỳ đổi mới Đảng ta đã
xác định được vấn đề trọng tâm để chuyển từ nền
SX nhỏ lên SX lớn XHCN ở nước ta là phát triển
lực lượng SX tiến hành công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước. Đường lối đúng đắn đó đã và đang
tạo thế và lực cho quá trình phát triển KT XH ở
nước ta. Mặt khác cơ sở phương pháp luận này nó
con giúp cho chúng ta xác định bước đi và phương
pháp hoạt động CM phù hợp của từng giai đoạn và
cả tiến trình phát triển của CM.
4. Những yêu cầu cơ bản trong việc
xây dựng và tổ chức thực hiện quyết sách
chính trị
a. Những yêu cầu cơ bản trong việc
xây dựng QSCT:
Xây dựng quyết sách chính trị là khâu
quan trọng hàng đầu đối với các Đảng CM là khâu
hết sức khó do vậy chỉ có Đảng nào dựa trên học
thuyết của chủ nghĩa Mác - Lê nin, dựa trên cơ sở
và phương pháp luận trong việc xây dựng và tổ
chức thực hiện quyết sách chính trị thì Đảng đó
mới có điều kiện đưa ra được đường lối chính trị
đúng đắn. Yêu cầu cơ bản nhất của mọi quyết sách
chính trị là phát hiện và giải quyết đúng đắn, kịp
thời và có hiệu quả những vấn đề do thực tiễn cách
mạng đặt ra nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển

của xã hội theo đúng quy luật khách quan. Một số
yêu cầu cụ thể là :
- Quyết sách chính trị phải giải thích hiện
thực và cách mạng hóa hiện thực. Giải thích hiện
thực là đánh giá tình hình, đây là yêu cầu và nội
dung quan trọng của quyết sách. Trên thực tế việc
đánh giá đúng tình hình là công việc không đơn
giản, không dễ dàng vì sự kiện chính trị nói chung
không thể cân đo, đong đếm được, chỉ nhận biết
được qua nhãn quan chính trị, sự nhạy bén từng
trãi của những nhà chính trị, thậm chí phải trãi qua
một quá trình lịch sử tích lũy kinh nghiệm rất dài.
Quá trình đánh giá tình hình là quá trình gắn chặt
giữa yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan có sự
tham gia của cái tôi cái ta trong đánh giá, nếu chịu
25

×