Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tổng hợp câu hỏi và đáp án môn học Tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.44 KB, 15 trang )

1
Câu 1: Trình bày quan điểm của
chủ nghĩa Mác-lênin về vấn đề tôn
giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo,
liên hệ đến việc thực hiện chính
sách tôn giáo ở nước ta hiện nay.
Bài làm
Ngày nay tín ngưỡng, tôn giáo
đang là vấn đề sôi động trong mỗi
nước và trên toàn thế giới, các thế
lực thù địch với CNXH và độc lập dân
tộc đang tiếp tục thực hiện lợi dụng
về vấn đề tôn giáo để tác động và
can thiệp vào công việc nội bộ của
các nước, phục vụ các ý đồ chính trị
đen tối của chúng.
Ở nước ta đang tồn tại nhiều
hình thức tín ngưỡng, tôn giáo và
đang có xu hướng phát triển. Tình
trạng tuyên truyền đạo trái phép,
nhiều tà giáo mới xuất hiện, hiện
tượng mê tín dị đoan đang có chiều
hướng phát triển. Một số người trong
các tôn giáo đang có ý định liên kết
với nhau, thực hiện “liên tôn” chống
cộng. Do vậy, việc giải quyết đúng
đắn vấn đề tôn giáo là yêu cầu cấp
bách của sự nghiệp đổi mới của
nước ta, nó đòi hỏi phải nghiên cứu
kỹ những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin và những biến động


thực tiễn của cách mạng nước ta về
vấn đề tôn giáo.
1- Bản chất tôn giáo :
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tôn
giáo là một hiện tượng xã hội đa
dạng, phức tạp gắn liền với những
lĩnh vực xã hội khác nhau của đời
sống con người; là một hình thái ý
thức xã hội do con người sáng tạo ra,
nó phản ánh cách giải quyết mối
quan hệ giữa con người với cái siêu
nhiên, cái hiện thực với cái hư ảo, cái
trần tục với cái thiêng liêng, các trần
gian với cái siêu trần gian. Tôn giáo
là sự sáng tạo, nó phản ánh hư ảo,
ảo tưởng, sự tưởng tượng, là thế
giới quan lộn ngược của con người
với những sức mạnh bên ngoài chi
phối họ. Ăngghen viết “Bất cứ tôn
giáo nào cũng đều là sự phản ánh
hư ảo vào đầu óc người, là những
sức mạnh bên ngoài chi phối cuộc
sống hàng ngày của họ, chỉ là sự
phản ánh mà trong đó sức mạnh ở
thế gian đã mang hình thức siêu thế
gian” (Ăngghen trong Chống
Đuyrinh).
Tôn giáo là một nhu cầu của xã
hội trong một giai đoạn lịch sử nhất
định. Nó không chỉ là việc đạo, nó

còn là việc đời.
Tôn giáo không có nội dung
riêng, nó phản ánh hiện thực xã hội
một cách sai lệch, hư ảo. Tôn giáo
là hạnh phúc hư ảo, là thuốc phiện
của tín đồ tôn giáo.
Tóm lại, tôn giáo vừa là một
hình thái ý thức xã hội vừa là một
thực thể xã hội. Song xét về bản
chất, tôn giáo là một hình thái ý
thức xã hội đặc biệt, nó phản ánh
một cách hoang đường, hư ảo, lệch
lạc hiện thực khách quan vào đầu
óc con người. Sự hoang đường của
tôn giáo do chính con người sáng
tạo ra; cái thế giới hư ảo ấy không
ai nhìn thấy được và chưa ai chứng
minh được bằng cơ sở khoa học.
Hoang đường và hư ảo chính là bản
chất của tôn giáo.
2- Nguồn gốc tôn giáo:
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng
tôn giáo ra đời có 3 nguồn gốc cơ
bản:
- Trước hết là nguồn gốc nhận
thức: tôn giáo đã nảy sinh trong xã
hội mà trình độ sản xuất hết sức
thấp kém, con người hầu như phụ
thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, bất
lực trước những hiện tượng tự

nhiên không thể giải thích được,
dẫn đến sự bất lực, “bổ sung” bằng
cách giải thích là có một lực lượng
siêu nhiên có sức mạnh ghê gớm ở
bên ngoài con người, đang chi phối
con người. Vì vậy, tôn giáo lúc đầu
là đa thần, tôn giáo gắn liền với đặc
điểm nhận thức. Ánh sáng khoa học
đi đến đâu thì tôn giáo lùi đến đó.
Biết và chưa biết còn khoảng cách
thì còn tôn giáo. Vì vậy, tôn giáo còn
tồn tại lâu dài.
- Thứ hai là nguồn gốc KT-XH:
Khi xã hội loài người phân chia
thành giai cấp và có đối kháng giai
cấp, con người phải chịu sự bóc lột
của giai cấp thống trị, xã hội bất
bình đẳng, con người không giải
thích được, nên tìm đến tôn giáo.
Con người tìm đến tôn giáo để
được che chở bởi đức chúa trời,
đức phật, thượng đế… Giai cấp
thống trị luôn luôn sử dụng tôn giáo,
lợi dụng triệt để tôn giáo để thống trị
nhân dân, khống chế nhân dân.
- Thứ ba là nguồn gốc tâm lý
tình cảm: Con người tìm đến tôn
giáo như tìm đến niềm an ủi, chỗ
dựa tinh thần, tôn giáo đã có tác
dụng giữ trạng thái thăng bằng, tâm

tư, tình cảm của con người. Nó là
quan niệm, lòng tin, tình cảm của
con người trước những sức mạnh
của tự nhiên, những biến cố của xã
hội. Vì thế tôn giáo chỉ là hạnh phúc
hư ảo, song người ta vẫn cần đến
nó.
3- Chức năng cơ bản của tôn
giáo : gồm 4 chức năng
Theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tôn giáo có các chức
năng:
- Chức năng đền bù hư ảo: Mặc
dù tôn giáo phản ánh xuyên tạc,
hoang đường cái hiện thực khác
quan nhưng từ sự bất lực thực tiễn
của con người, tôn giáo đáp ứng nhu
cầu niềm tin tạo sự thăng bằng tâm lý
và vấn an con người.
- Chức năng thế giới quan: giúp
cho con người nhận biết về sự giải
thích thế giới quan thông qua sự giải
thích của tôn giáo.
- Chức năng điều chỉnh hành vi
hoạt động của con người thông qua
hệ thống chuẩn mực những giá trị xã
hội do tôn giáo đưa ra.
- Chức năng liên kết: Nó duy trì
củng cố hệ thống xã hội hiện hành,
củng cố cộng đồng, củng cố các mối

quan hệ xã hội, nó có thể gắn hàng
triệu con người vào mục tiêu nào đó.
Đồng thời với những chức năng
trên, tôn giáo còn có những hạn chế.
Nó gò bó con người, làm cho con
người lệ thuộc bên ngoài. Làm mờ
nhạt ý thức đấu tranh, ý chí tự chủ
vươn lên, ý thức trách nhiệm của con
người, làm cho con người nghèo đi.
Dễ bị lợi dụng vì mục đích đen tối.
Từ nguồn gốc xuất hiện của tôn
giáo, ta thấy rằng tôn giáo chỉ ra đời
trong điều kiện lịch sử nhất định. Vì
vậy, nó là phạm trù lịch sử, tôn giáo
bao giờ cũng biến động theo sự biến
động của lịch sử và chính nó là hệ
quả của sự biến động lịch sử. Trong
tương lai, khi điều kiện xã hội tạo ra
lực lượng sản xuất phát triển, xã hội
không còn giai cấp thì tôn giáo không
còn cơ sở để tồn tại. Tôn giáo có tính
chất quần chúng, nó thâm nhập vào
2
đông đảo quần chúng nhân dân, nó
ăn sâu vào tâm tư tình cảm nhân dân
qua nhiều thế hệ, thể hiện số lượng
tín đồ chiếm số lượng lớn trong dân
cư. Tôn giáo có tính chất chính trị, khi
xã hội có giai cấp thì tôn giáo cũng có
yếu tố chính trị, các tôn giáo khác

nhau thì có tính chất chính trị khác
nhau. Tôn giáo ra đời là sự phản ánh
cuộc đấu tranh giai cấp của quần
chúng, chống áp bức bóc lột của giai
cấp thống trị; giai cấp thống trị biến
tôn giáo thành công cụ thống trị để
duy trì sự bóc lột. Ngoài ra tôn giáo
còn có tính phản khoa học, do bản
chất hoang đường, hư ảo của tôn
giáo quy định.
4- Giải quyết vấn đề tôn giáo trong
chủ nghĩa Mác-Lênin:
Trong quá trình bảo vệ và phát
triển tư tưởng của Mác-Ăngghen về
tôn giáo, Lênin đã chỉ ra rằng: Thứ
nhất, việc giải quyết vấn đề tôn giáo
là rất quan trọng nhưng không phải là
cái hàng đầu, cái chủ yếu trong mọi
chính sách. Thứ hai, phải phân biệt
chính xác giữa hệ tư tưởng tôn giáo
với những người chịu ảnh hưởng của
tôn giáo, tức là phân biệt giữa hai mặt
chính trị và tư tưởng tồn tại trong vấn
đề tôn giáo để tránh những sai lầm tả
hoặc hữu khuynh trong việc giải
quyết vấn đề tôn giáo.
Lênin cho rằng, cuộc đấu tranh
chống ảnh hưởng tiêu cực của tôn
giáo phải gắn liền với cuộc đấu tranh
giai cấp, nhằm xóa bỏ nguồn gốc xã

hội của tôn giáo. Muốn thế, cần giải
quyết vấn đề tôn giáo trong mối quan
hệ chung của cuộc đấu tranh cách
mạng với xây dựng CNXH; phải giáo
dục tư tưởng mácxít, thế giới quan
khoa học và làm cho nhân dân lao
động hiểu được lợi ích của mình
trong sự nghiệp xây dựng xã hội
mới. Tư đó Lênin đề ra những
nguyên tắc: Phải giải thích nguyên
nhân tồn tại của tôn giáo một cách
khoa học trên cơ sở duy vật. Từ đó
phải thấy rằng tôn giáo còn tồn tại
trong xã hội mới. Phải củng cố sự
đoàn kết thống nhất giữa những
người có tôn giáo và không có tôn
giáo. Không thể giải quyết vấn đề
tôn giáo bằng những biện pháp
hành chính cực đoan.
5- Thực hiện chính sách tôn giáo
ở nước ta hiện nay.
Việt Nam là một quốc gia đa
tôn giáo, dân tộc. Các tôn giáo lớn
trên thế giới hầu hết có ở Việt Nam.
Những năm qua, cùng với sự phát
triển về kinh tế và ổn định về chính
trị- văn hóa, đời sống vật chất của
nhân dân ngày càng được cải thiện,
nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng tôn
giáo diễn ra khá sôi động. Nước ta

hiện có 6 tôn giáo được Nhà nước
công nhận về mặt tổ chức: Phật
giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành, Hồi
giáo, Cao đài và Hòa hảo; với hơn
20 hệ phái khác nhau. Tổng số tín
đồ có khoảng 20 triệu người, chiếm
gần 20% dân số cả nước; khoảng
10 vạn chức sắc tôn giáo, trong đó
có 5 vạn hoạt động chuyên nghiệp.
Nhìn chung các chức sắc, tín đồ tôn
giáo đều có tinh thần gắn bó dân
tộc. Nhất là từ khi Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời đã có nhiều tín đồ
trở thành đảng viên cộng sản, thành
những chiến sĩ kiên cường, dũng
cảm hy sinh cho Tổ quốc, nhiều nhà
sư, linh mục đã đi theo kháng chiến,
nhiều chùa chiền và thánh thất là
nơi nuôi giấu, che chở cho cán bộ
cách mạng. Ngày nay, các tổ chức
giáo hội đều tuân theo Hiến pháp và
pháp luật, đều mong muốn đất
nước được ổn định và phát triển.
Tuy nhiên vấn đề tôn giáo vẫn còn
nhiều phức tạp như trình độ nhận
thức của tín đồ còn nhiều hạn chế,
nên bị lệ thuộc nặng vào thần, giáo
lý từ đó bị một số người lợi dụng để
gây rối, một số giáo sĩ chức sắc do
điều kiện lịch sử để lại thể hiện thái

độ mặc cảm với xã hội mới nên
thường chống đối lại cách mạng.
Điển hình như sự kiện chính trị - xã
hội diễn ra tháng 02/2001, vụ gây
rối ngày 1-4-2004 vừa qua xảy ra ở
một số tỉnh Tây Nguyên đã cho thấy
các thế lực phản động vẫn không từ
bỏ âm mưu lợi dụng tôn giáo phá
hoại sự nghiệp xây dựng hòa bình
của dân tộc Việt Nam.
Tôn giáo là một vấn đề tế nhị,
nhạy cảm, dễ bị kích động. Có
chính sách tôn giáo đúng đắn, giải
quyết tốt vấn đề tôn giáo là góp
phần quan trọng vào việc củng cố
khối đại đoàn kết nhân dân. Trên
quan điểm lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, thời gian qua, cùng với
việc ban hành các chủ trương,
chính sách đổi mới về kinh tế, ổn
định về chính trị, Đảng và Nhà nước
ta đã và đang từng bước xây dựng
và hoàn thiện các chính sách, pháp
lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo, khẳng
định quan điểm nhất quán trước sau
như một của Đảng và Nhà nước ta
trong việc thực hiện quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, trong đó bao hàm
cả quyền tự quyết tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo, quyền thay đổi

tôn giáo một cách tự nguyện của
nhân dân. Điều này được thể hiện
rõ tại Điều 70 của Hiến pháp nước
CHXHCNVN năm 1992: "Công dân
có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Các tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật. Những nơi thờ tự của
tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật
bảo hộ. Không ai được xâm phạm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
làm trái pháp luật và chính sách của
Nhà nước".
Đại hội IX của Đảng ta khẳng
định: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo đúng pháp
luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau, đồng bào theo tôn
giáo và không theo tôn giáo. Chăm lo
phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao
đời sống của đồng bào. Đồng bào
theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo
có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm
công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt

đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị
tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn
giáo. Từng bước hoàn thiện pháp luật
về tín ngưỡng, tôn giáo. Nghiêm cấm
lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín
ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái
pháp luật và chính sách của Nhà
nước, kích động chia rẽ nhân dân,
chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm
phạm an ninh quốc gia.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7,
Ban Chấp hành TW Đảng khóa IX về
công tác tôn giáo, đã thống nhất quan
điểm và chính sách của Đảng ta như
sau:
3
1. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng CNXH ở
nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ
phận của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
2. Đảng, Nhà nước thực hiện
nhất quán chính sách đại đoàn kết
toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo
các tôn giáo khác nhau; đoàn kết
đồng bào theo tôn giáo và đồng bào
không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát
huy những giá trị tích cực của truyền

thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh
những người có công với Tổ quốc,
với nhân dân. Nghiêm cấm sự phân
biệt đối xử với công dân vì lý do tín
ngưỡng tôn giáo. Nghiêm cấm lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt
động mê tín dị đoan, hoạt động trái
pháp luật, kích động chia rẽ nhân
dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm
phạm an ninh quốc gia.
3. Nội dung cốt lõi của công tác
tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Lấy mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh là điểm tương đồng để gắn
bó đồng bào các tôn giáo với sự
nghiệp chung. Mọi công dân không
phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có
quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Công tác vận động quần
chúng các tôn giáo phải động viên
đồng bào nêu cao tinh thần yêu
nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống
nhất của Tổ quốc thông qua việc thực
hiện tốt các chính sách KT-XH, an
ninh quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật
chất và tinh thần của nhân dân nói
chung, trong đó có đồng bào tôn giáo.
4. Công tác tôn giáo là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị. Tổ

chức bộ máy và đội ngũ cán bộ
chuyên trách làm công tác tôn giáo
có trách nhiệm trực tiếp, cần được
củng cố và kiện toàn. Công tác
quản lý Nhà nước đối với các tôn
giáo và đấu tranh chống việc lợi
dụng tôn giáo để chống đối chế độ
chỉ thành công nếu làm tốt công tác
vận động quần chúng.
5. Vấn đề theo đạo và truyền
đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do
hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ
tự hợp pháp theo qui định của pháp
luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà
nước thừa nhận được hoạt động
tôn giáo theo pháp luật qui định và
được pháp luật bảo hộ. Việc theo
đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt
động tôn giáo khác đều phải tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật. Không
được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền
tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan,
không được ép buộc người dân
theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức
truyền đạo, người truyền đạo và các
cách thức truyền đạo trái phép, vi
phạm các qui định của Hiến pháp và
pháp luật.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác-Lênin
đã lý giải vấn đề tôn giáo một cách

có khoa học, khách quan, đúng đắn,
làm nền tảng tư tưởng để từ đó
Đảng và Nhà nước ta đề ra chủ
trương chính sách về tôn giáo, giải
quyết được những vấn đề tư tưởng
của nhân dân có đạo, thực hiện
được đoàn kết dân tộc trong sự
nghiệp xây dựng đất nước. Là cán
bộ, đảng viên đặc biệt là cán bộ
quản lý cần phải nhận thức sâu sắc
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
về tín ngưỡng, tôn giáo để làm nền
tảng tư tưởng trong mọi hoạt động,
đồng thời thực hiện tốt chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước về công tác tôn
giáo, nhằm góp phần phát huy sức
mạnh khối đại đoàn kết dân tộc
trong sự nghiệp đổi mới đất nước,
phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
4
Câu 2: Nội dung tư tưởng của chủ
tịch Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn
giáo.
BÀI LÀM
Chủ tịch HCM đã để lại thế hệ
sau những di sản tư tưởng quý báu,
trong đó có những quan điểm của
người về vấn đề tính ngưỡng, tôn

giáo. Những lời di huấn, phong thái,
cũng như cách ứng xử của người đối
với các tôn giáo nói chung và đối với
các tín đô, chức sắc, giáo sĩ nói riêng
là những bài học quý báu. Tư tưởng
đoàn kết tôn giáo, hoà hợp dận tộc
và tôn trọng, bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng là những nội dung cơ
bản của tư tưởng HCM về tôn giáo.
TT.HCM về tôn giáo là bộ phận
của TT.HCM nói chung, đó là sự vận
dụng sáng tạo những điểm cơ bản
của CN M-LN về tôn giáo trong hoàn
cảng cụ thể của Việt Nam. Nghiên
cứu Tư tưởng HCM trong lĩnh vực tín
ngưỡng, tôn giáo nổi bật lên trong tư
tưởng của người là tư tưởng nhân
văn, tư tưởng đại đoàn kết, tư tưởng
chống áp bứt bốc lột và giải phóng
con người.
Chủ tịch HCM khẳng định thế
giới quan Mácxít và chủ nghĩa duy
vật, hoàn tòan khác tôn giáo và chủ
nghỉa duy tâm nhưng không phải vì
thế mà nghi kị, bài xích, đối đầu với
tôn giáo. Đồng thời khẳng định chính
sách lâu dài nhất quán của đảng và
nhà nước ta là đoàn kết lương giáo,
hoà hợp dân tộc tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng nhằm

xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
để kháng chiến kiến quốc .
HCM tìm thấy những nét
tương đồng giữa học thuyết Mácxít
và mục đích của tôn giáo. Người cho
rằng, trong nhiều lĩng vực các vị giáo
chủ và các nhà cách mạng đều là
những người có lòng nhân ái cao cả.
Mục đích lý tưởng của tôn giáo trong
nhiều lĩnh vực, không đối lập và tách
biệt với chủ nghĩa xã hội vì cả 2 phía
đều muốn có một xã hội công bằng,
giải phóng cho người nghèo khó
mưu cầu hạnh phúc cho con người
và xã hội . Đồng thời Bác coi lý
tưởng của các bật thánh thiền cũng
là lý tưởng và mục đích đấu tranh
của mình. Tiếp bước người, các học
trò của CT.HCM cũng là những
người kế tục xứng đáng tư tưởng
của Người về vấn đề tôn giáo.
Đồng thời, Chủ tịch HCM
khẳng định những nội dung tốt đẹp
của đạo đức tôn giáo, Người nhận
thấy biểu hiện của nhữnh phẩm chất
đạo đức tôn giáo là cần thiết cho việc
xây dựng cuộc sống tốt đẹp trong xã
hội mới hun đúc tinh thần cách mạng
chống áp bức bóc lột và góp phần
bối dưỡng tinh thần yêu nước

thương nòi của người có tôn giáo.
Khẳng định những khía cạnh
nhân văn của tôn giáo. Người đã thể
hiện sự đồng điệu của mình đối với
chúa Giêsu, Thích Ca Mầu Ni và các
vị giáo chủ khác. Bỡi chúa Giêsu dạy
đạo đức là bác ái, Phật Thích Ca dạy
đạo đức là từ bi, Khổng Tử dạy đạo
đức là nhân nghĩa và những điều
răng của các tôn giáo có vai trò tích
cực đẩy lùi những tiêu cực của xã
hội. Lúc sinh thời Bác luôn quan tâm
đến những ngày lễ lớn của các tôn
giáo, viết thư thăm hỏi, giáo dục lòng
yêu nước và tin ngưỡng trong sáng
của các tín đồ, chức sắc tôn giáo. Và
trên cả, ở Người bao giờ cũng toát
lên sự chân thành, độ lượng, tôn
trọng và yêu thương con người vô
bờ bến. Đặc biệt, đối với các tín đồ
tôn giáo Người càng cảm nhận hơn
nổi bất hạnh của họ, sự cùng cực
khổ đau của cuộc sống đời thường
mà họ không thể lý giải nổi nên tìm
đến tôn giáo để tự giải thoát mình ở
cỏi hư vô,
Khẳng định những nội dung
tốt đẹp của đạo đức tôn giáo, Chủ tịch
HCM luôn tôn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng của nhân dân. HCM

cho rằng quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng là một trong những
quyền chính đáng của con người, và
những ai hạn chế vi phạm thô bạo đến
quyền ấy là đi ngược lại với xu thế tiến
bộ của xã hội.
Trong các văn bản quan trọng
cũng như những sắc lệnh mà Người
trực tiếp soạn thảo và tuyên bố luôn
khẳng định tư tưởng nhất quán lâu dài
của đảng và nhà nước ta trước sau
như một là tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng của nhân dân. Sự tôn trọng
ấy không nhựng chỉ thể hiện trên các
loại văn bản mà còn biểu hiện bằng
hành độngthực tế của Người. Mặt
khác Người tôn trọng đức tin của đồng
bào có đạo và thương yêu bà con có
tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, làm
cho kể cả những người không cùng
quan điểm cũng phải kính phục. Đáp
lại tình cảm của người nhiều quần
chúng tín đồ chức sắc tôn giáo đã trở
thành lực lượng cách mạng, nêu
những tấm gương tiêu biểu trong tiến
trình cách mạng Việt Nam. Những
khẩu hiệu : cởi càsa mặc chiến bào ra
trận, hay gương sáng của Đại đức
Thích Thiện Mỹ và hoà thượng Thích
Quảng Đức mãi là tấm gương cho các

tín đố tôn giáo nêu theo.
Đoàn kết tôn giáo là yếu tố
rất cơ bản của tư tưởng HCM về tôn
giáo : Đoàn kết tôn giáo là một bộ
phận quan trọng trong tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc của HCM. HCM đã
từng nói: “ Đoàn kết, đoàn kết, đại
5
đoàn kết. Thành công, thành công, đại
thành công”. Đoàn kết là tư tưởng lớn
là một chiến lược lâu dài chứ không
phải là thủ đoạn chính trị nhất thời.
Người khẳng định : “ Đoàn kết của ta
không những rộng rãi mà còn đoàn kết
lâu dài. Đoàn kết là một chính sách
dân tộc, không phải là một thủ đoạn
chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho
thống nhất và độc lập tổ quốc; ta còn
phải đoàn kế để xây dựng nước nhà.
Ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân
dân thì ta đoàn kết với họ”. Đoàn kết
lương - giáo là đoàn kết giữa những
người cộng sản với những người có
tín ngưỡng tôn giáo; giữa những
người có tín ngưỡng tôn giáo với
những người không có tôn giáo- Đây
là một bộ phận quan trọng trong tư
tưởng đại đoàn kết dân tộc của HCM.
Vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền

với CNXH là sự nghiệp chung không
phải của riêng ai. Trong tư tưởng đoàn
kết lương – giáo, Người chỉ rõ :
+ Một là, phải đặt lợi ích dân
tộc, lợi ích tòan dân lên trên hết,
Người chú ý quan tâm đền đời sống
vật chất và tin thần với đồng bào có
đạo
+ Hai là, phải tôn trọng quyền
tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
của nhân dân, khắc phục được những
mặc cảm, định kiến với nhau và chống
âm mưu chia rẽ lương giáo của bọn
phản động
+ Ba là, phải phân biệt được
nhu cầu tín ngưỡng chân chính của
đồng bào có đạo với bọn lợi dụng tín
ngưỡng tôn giáo của các phần tử
phản động để tôn trọng hay phê phán
+ Bốn là, phải kế thừa những
giá trị nhân bản của tôn giáo trân trọng
những người sáng lập các tôn giáo
lớn. Tranh thủ các giáo sĩ quan tâm
đến giáo dân; độ lượng, vị tha với
người lầm lỗi; phê phán bọn phản
động. Đồng thời không chỉ đoàn kết
những người có đạo và không có
đạo mà còn giáo dục tinh thần đoàn
kết giữa những người có tín ngưỡng
tôn giáo khác nhau

Do vậy, khi còn hoạt động ở
nước ngoài Bác đã hiệu triệu quốc
dân đồng bào không phân biệt lương
giáo muôn người như một mà đặc
biệt là đối với những người công
giáo. Đồng thời nguyên tắc quán
xuyến của Bác là mở rộng đối tượng
đoàn kết đến tất cả những ai là công
dân nước Việt Nam để phục vụ
quyền lợi toàn cục của cách mang
.Vì vậy từ chính sách đại đoàn kết
của Người đại đa số tín đồ chức sắc
tôn giáo đã đi theo con đường cách
mang đúng đắn của dân tộc
Hồ Chí Minh tôn trọng tự do
tín ngưỡng, tôn giáo nhưng kiên
quyết trừng trị những kẻ lợi dụng tôn
giáo để phá hoại sự nghiệp cách
mạng của nhân dân, tuyên truyền
chiến tranh, phá hoại sự đoàn kết,
ngăn trở tín đồ làm nghĩa vụ công
dân, xâm phạm đến tự do tín
ngưỡng, tư do tư tưởng của người
khác hoặc làm những việc trái pháp
luật. Người đã nhấn mạnh “Bảo vệ tự
do tín ngưỡng, nhưng kiên quyết
trừng trị kẻ đội lốt tôn giáo để phản
chúa, phản nước” Vì thế, Chủ tịch
HCM tiến hành nhiều biện pháp
nhằm ngăn chặn những biểu hiện vi

phạm tín ngưỡng tôn giáo chống
những hoạt động lợi dụng tôn giáo vì
mục đích ngoài tôn giáo. Đó là:
- Người đề xuất việc pháp
luật hóa chính sách về quyền tự do
tín ngưỡng của nhân dân. Trong
phiên họp đầu tiên của hội đồng
chính phủ lâm thời (3/9/1945) HCT
đã phát biểu :”Tôi đề nghị Chính phủ
ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do,
Lương - Giáo đoàn kết”. Đồng thời
nghiêm khắc phê phán những sai
phạm về chính sách tôn giáo của
chính phủ, của cán bộ nhất là những
cán bộ dân vận làm công tác tôn
giáo. Phải có thái độ đúng đắn và
phân biệt giữa tín ngưỡng chân
chính với những kẻ lợi dụng tôn
giáo . Ngoài việc nghiêm khắc phê
phán Người có biện pháp hữu hiệu
với những kẻ lợi dụng tôn giáo vì
mục đích ngoài tôn giáo dù ở cương
vị nào
HCM rất chú trọng trọng đến
tín ngưỡng truyền thống VN nhất là
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Bản
thân Bác đã nhiều lần nhắc đến tổ
tiên với tình cảm chân tình, tôn kính
và nhận thấy : ”Tổ tiên rực rỡ, anh
em thuận hoà” Bên cạnh đó Bác

cũng đã nghiêm khắc phê phán và
nêu một số phương hướng nhằm
khắc phục tệ nạn mê tín, dị đoan. Đó
là, Bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan phải
đi đôi với việc xây dựng nếp sống
văn hoá mới, xây dựng thuần phong
mỹ tục; đấu tranh nhằm khắc phục tệ
nạn mê tìn dị đoan phải tế nhị, tránh
thô bạo.
Tóm lại, theo tư tưởng HCM,
người có tín ngưỡng, đức tin tôn
giáo và lòng yêu nước không mâu
thuẫn với nhau, mà mỗi một người
vừa là một người dân yêu nước vừa
là một tín đồ chân chính. Tư tưởng
về tôn giáo của người là sự kế thừa
suất sắc CN Mác-Lênin, Bác luôn tôn
trọng niềm tin mang tính thiêng của
các tín đồ, đặc biệt tư tưởng “Dĩ bất
biến, ứng vạn biến” được Bác vận
dụng linh hoạt trong giải quyết vấn đề
tôn giáo mà chủ yếu là vận động để
mọi tín đồ, chức sắc hiểu và thực hiện
các chủ trương, chính sách của Nhà
nước; sống “tốt đời, đẹp đạo”. Tư
tưởng và đạo đức nhân văn của
Người là toàn diện và cao cả, riêng đối
với tín đồ thì Người là Giáo chủ là
thánh Mi-Xen của họ.
Thực tiễn công tác tôn giáo.

Việt Nam là một quốc gia đa tôn
giáo, dân tộc. Các tôn giáo lớn trên thế
giới hầu hết có ở Việt Nam. Những
năm qua, cùng với sự phát triển về
kinh tế và ổn định về chính trị- văn
hóa, đời sống vật chất của nhân dân
ngày càng được cải thiện, nhu cầu
sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo diễn ra
khá sôi động. Nước ta hiện có 6 tôn
giáo được Nhà nước công nhận về
mặt tổ chức: Phật giáo, Thiên chúa
giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao đài và
Hòa hảo; với hơn 20 hệ phái khác
nhau. Tổng số tín đồ có khoảng 20
triệu người, chiếm gần 20% dân số cả
nước; khoảng 10 vạn chức sắc tôn
giáo, trong đó có 5 vạn hoạt động
chuyên nghiệp. Nhìn chung các chức
sắc, tín đồ tôn giáo đều có tinh thần
gắn bó dân tộc. Nhất là từ khi Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời đã có nhiều
tín đồ trở thành đảng viên cộng sản,
thành những chiến sĩ kiên cường,
dũng cảm hy sinh cho Tổ quốc, nhiều
nhà sư, linh mục đã đi theo kháng
chiến, nhiều chùa chiền và thánh thất
là nơi nuôi giấu, che chở cho cán bộ
cách mạng. Ngày nay, các tổ chức
giáo hội đều tuân theo Hiến pháp và
6

pháp luật, đều mong muốn đất nước
được ổn định và phát triển. Tuy nhiên
vấn đề tôn giáo vẫn còn nhiều phức
tạp như trình độ nhận thức của tín đồ
còn nhiều hạn chế, nên bị lệ thuộc
nặng vào thần, giáo lý từ đó bị một số
người lợi dụng để gây rối, một số giáo
sĩ chức sắc do điều kiện lịch sử để lại
thể hiện thái độ mặc cảm với xã hội
mới nên thường chống đối lại cách
mạng. Điển hình như sự kiện chính trị
- xã hội diễn ra tháng 02/2001, vụ gây
rối ngày 1-4-2004 vừa qua xảy ra ở
một số tỉnh Tây Nguyên đã cho thấy
các thế lực phản động vẫn không từ
bỏ âm mưu lợi dụng tôn giáo phá hoại
sự nghiệp xây dựng hòa bình của dân
tộc Việt Nam.
Tôn giáo là một vấn đề tế nhị,
nhạy cảm, dễ bị kích động. Có chính
sách tôn giáo đúng đắn, giải quyết tốt
vấn đề tôn giáo là góp phần quan
trọng vào việc củng cố khối đại đoàn
kết nhân dân. Trên quan điểm lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, thời gian
qua, cùng với việc ban hành các chủ
trương, chính sách đổi mới về kinh tế,
ổn định về chính trị, Đảng và Nhà
nước ta đã và đang từng bước xây
dựng và hoàn thiện các chính sách,

pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo,
khẳng định quan điểm nhất quán trước
sau như một của Đảng và Nhà nước
ta trong việc thực hiện quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, trong đó bao hàm
cả quyền tự quyết tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo, quyền thay đổi tôn
giáo một cách tự nguyện của nhân
dân. Điều này được thể hiện rõ tại
Điều 70 của Hiến pháp nước
CHXHCNVN năm 1992: "Công dân có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước
pháp luật. Những nơi thờ tự của tín
ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo
hộ. Không ai được xâm phạm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái
pháp luật và chính sách của Nhà
nước".
Đại hội IX của Đảng ta khẳng
định: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân. Thực hiện nhất quán chính
sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt
tôn giáo bình thường theo đúng pháp
luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn

giáo khác nhau, đồng bào theo tôn
giáo và không theo tôn giáo. Chăm
lo phát triển kinh tế, văn hóa, nâng
cao đời sống của đồng bào. Đồng
bào theo đạo và các vị chức sắc tôn
giáo có nghĩa vụ làm tròn trách
nhiệm công dân đối với Tổ quốc,
sống “tốt đời, đẹp đạo”, phát huy
những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo
đức của tôn giáo. Từng bước hoàn
thiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo. Nghiêm cấm lợi dụng các vấn
đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để
hoạt động trái pháp luật và chính
sách của Nhà nước, kích động chia
rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây
rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7,
Ban Chấp hành TW Đảng khóa IX về
công tác tôn giáo, đã thống nhất
quan điểm và chính sách của Đảng
ta như sau:
1. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng CNXH ở
nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ
phận của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
2. Đảng, Nhà nước thực hiện

nhất quán chính sách đại đoàn kết
toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào
theo các tôn giáo khác nhau; đoàn
kết đồng bào theo tôn giáo và đồng
bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và
phát huy những giá trị tích cực của
truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn
vinh những người có công với Tổ
quốc, với nhân dân. Nghiêm cấm sự
phân biệt đối xử với công dân vì lý
do tín ngưỡng tôn giáo. Nghiêm cấm
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt
động mê tín dị đoan, hoạt động trái
pháp luật, kích động chia rẽ nhân
dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm
phạm an ninh quốc gia.
3. Nội dung cốt lõi của công tác
tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Lấy mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh là điểm tương đồng để gắn
bó đồng bào các tôn giáo với sự
nghiệp chung. Mọi công dân không
phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều
có quyền và nghĩa vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Công tác vận động
quần chúng các tôn giáo phải động
viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu
nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống
nhất của Tổ quốc thông qua việc

thực hiện tốt các chính sách KT-XH,
an ninh quốc phòng, bảo đảm lợi ích
vật chất và tinh thần của nhân dân
nói chung, trong đó có đồng bào tôn
giáo.
4. Công tác tôn giáo là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị. Tổ
chức bộ máy và đội ngũ cán bộ
chuyên trách làm công tác tôn giáo
có trách nhiệm trực tiếp, cần được
củng cố và kiện toàn. Công tác quản lý
Nhà nước đối với các tôn giáo và đấu
tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để
chống đối chế độ chỉ thành công nếu
làm tốt công tác vận động quần chúng.
5. Vấn đề theo đạo và truyền
đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do
hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự
hợp pháp theo qui định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước
thừa nhận được hoạt động tôn giáo
theo pháp luật qui định và được pháp
luật bảo hộ. Việc theo đạo, truyền đạo
cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác
đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật. Không được lợi dụng tôn giáo
tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín
dị đoan, không được ép buộc người
dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ
chức truyền đạo, người truyền đạo và

các cách thức truyền đạo trái phép, vi
phạm các qui định của Hiến pháp và
pháp luật.
Trải qua gần 20 năm đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nhân
dân ta đã đạt được những thắng lợi
với những thành tựu cơ bản trên nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội. Thành
tựu ấy là nhờ có sự nỗ lực phấn đấu
của toàn Đảng, toàn dân, trong đó sự
đóng góp không nhỏ của đồng bào các
tôn giáo. Qua đó, đời sống vật chất,
tinh thần không ngừng được đáp ứng
vàcải thiện làm cho đồng bào có đạo
nói riêng và nhân dân cả nước nói
chung luôn an tâm, phấn khởi, tin
tưởng vào sự đổi mới của Đảng và
nhà nước, góp phần tích cực vào công
cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ
quốc Việt Nam XHCN.
Song, với âm mưu chiếm lược diễn
biến hoà bình các thế lực thù địch
7
đang lợi dụng tôn giáo để phá hoại
công cuộc đổi mới của nhân dân dân
ta, hòng xóa bỏ chủ nghĩa XH ở VN.
Các điểm nóng về tôn giáo trong thời
gian gần đây như các hoạt động
truyền đạo trái phép nhầm lập ra tổ
chức đạo “Tin lành Đề ga” ở tây

nguyên đã phản ánh điều đó. Hiệu
ứng tiêu cực của các hoạt động đó là
sự mất ổn định trong đời sống dân cư,
gây chia rẽ làng xóm, thôn bản, các
thành phần dân tộc, làm phương hại
đến tình hình kinh tế, an ninh, trật tự
XH, làm sức mẽ khối đoàn kết toàn
dân. Vì vậy, trước tiên chúng ta cần
quán triệt tình thần chỉ đạo của Đảng
về vấn đề tôn giáo từ TW đến địa
phương, từng bước xây dựng thế giới
quan của CN Mác-Lênin và tư tưởng
HCM trong nhân dân, đồng thời phải
hết sức cảnh giác trước mưu đồ của
các thế lực thù địch đội lốt tôn giáo
chống phá cách mạng Việt Nam.
Câu 2: Trình bày tư tưởng cơ bản
của Hồ Chí Minh về tôn giáo và
cách giải quyết vấn đề tôn giáo,
liên hệ đến việc thực hiện chính
sách tôn giáo của nước ta hiện
nay?
Bài làm
1. Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí
Minh về tôn giáo :
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh bao quát nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội. Trong lĩnh vực tín
ngưỡng tôn giáo, Người để lại nhiều
tư tưởng có giá trị làm cơ sở cho

đường lối, chính sách giải quyết vấn
đề tôn giáo của Đảng và Nhà nước
ta.
Là một người cộng sản theo
chủ nghĩa Mác - Lê nin, Chủ tịch Hồ
Chí Minh thể hiện thế giới quan
mácxít và chủ nghĩa duy vật hoàn
toàn khác với tôn giáo và chủ nghĩa
duy tâm. Nhưng không phải vì thế
mà Người nghi kỵ, bài xích, đối đầu
với tôn giáo; Người luôn tỏ thái độ
tôn trọng tự do tín ngưỡng của mỗi
người và đề cao vai trò của những
vị đã sáng lập ra các tôn giáo.
Người không hề có sự phân biệt đối
xử giữa tôn giáo này và tôn giáo
khác, giữa người có đạo và người
không có đạo.
Hồ Chí Minh đã tìm thấy những
nét tương đồng giữa học thuyết
mácxít và mục đích của các tôn
giáo. Người cho rằng: trong nhiều
lĩnh vực, các vị giáo chủ và các nhà
cách mạng đều là những người có
lòng nhân ái cao cả. Mục đích, lý
tưởng của tôn giáo trong nhiều lĩnh
vực không đối lập và cách biệt với
CNXH, cả hai đều muốn xây dựng
một xã hội công bằng, giải phóng
con người nghèo khó, mưu cầu

hạnh phúc cho con người và xã hội.
Đồng thời, Hồ Chí Minh coi lý tưởng
của các bậc thánh hiền là lý tưởng
và mục đích đấu tranh của mình.
Người nói: Mục đích cao cả của
Phật Thích Ca và chúa Giê-su đều
giống nhau. Thích Ca và Giê-su đều
muốn mọi người có cơm ăn, áo
mặc, bình đẳng, tự do và thế giới
đại đồng. Còn nếu Phật Thích ca
mâu ni, Chúa Giê-su, Khổng tử,
Lão tử - các vị ấy còn sống và họp
lại một chỗ thì nhất định họ sẽ sống
chung với nhau hoàn thiện, hoàn
mỹ như những người bạn thân thiết.
Và Người nói “tôi cố gắng làm
người học trò nhỏ của các vị ấy…”
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định những nội dung tốt đẹp của
đạo đức tôn giáo, Người nhận thấy
biểu hiện của phẩm chất đạo đức
tôn giáo là cần thiết cho xây dựng
cuộc sống tốt đẹp trong xã hội mới,
hun đúc tinh thần cách mạng, chống
áp bức bóc lột và bồi dưỡng tinh
thần yêu nước, thương nòi của
người tôn giáo. Hồ Chí Minh đã khái
quát giá trị đạo đức có trong tôn
giáo: Chú Giê-su dạy đạo đức là
bác ái; Phật Thích ca dạy đạo đức

là nhân nghĩa; Khổng tử dạy đạo
đức là nhân nghĩa. Một mặt kế thừa;
mặt khác Hồ Chí Minh cũng phê
phán đạo đức tôn giáo khi nó không
còn phù hợp với đạo đức cách
mạng. Ví dụ “trung quân ái quốc”
trong quan niệm Nho giáo;
hoặc”Cách đây 2000 năm, đức Giê-
su đã nói ta phải yêu mến kẻ thù
của ta. Điều đó đến bây giờ vẫn
chưa thực hiện được”.
Khẳng định những khía cạnh
nhân văn của tôn giáo, Hồ Chí Minh
nhận thấy sự đồng điệu của mình
với Giê-su, Thích ca mâu ni và các
vị giáo chủ khác. Người thương yêu
tín đồ vì thấy họ không giải thích nổi
những bất hạnh của cuộc đời nên
tìm đến tôn giáo để hy vọng sự thay
đổi hay làm dịu đau nỗi bất hạnh
của mình.
Người luôn tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng tôn giáo của nhân
dân, rất đề cao nhấn mạnh quyền
con người và nhu cầu tinh thần của
con người. Hiến pháp năm 1946,
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt
Nam độc lập do chính Chủ tịch Hồ
Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo,
đã khẳng định quyền tự do tín

ngưỡng là quyền tự nhiên của người
Việt Nam. Người nghiêm khắc phê
phán những biểu hiện vi phạm quyền
tự do tín ngưỡng, quan tâm giáo dục
cán bộ chính quyền, quân đội và các
đoàn thể phải tôn trọng tự do tín
ngưỡng, bảo vệ đền chùa, nhà thờ
các tôn giáo.
Tư tưởng đoàn kết tôn giáo, hòa
hợp dân tộc, không phân biệt tín
ngưỡng tôn giáo là tư tưởng nhất
quán và trở thành chính sách lớn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm đoàn kết
khối đoàn kết toàn dân để kháng
chiến kiến quốc. Đoàn kết lương –
giáo là một bộ phận trong tư tưởng
đại đoàn kết của Người. Khi còn hoạt
động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã
hiệu triệu quốc dân đồng bào không
phân biệt tôn giáo, muôn người như
một, đặc biệt là đồng bào Công giáo.
Nguyên tắc quán xuyến của Hồ Chí
Minh là mở rộng đối tượng đoàn kết
đối với tất cả những ai là con dân
nước Việt Nam, để phục vụ quyền lợi
toàn cục của cách mạng. Người dạy:
"Ngày nay, đồng bào cả nước, giáo
và lương, đều đoàn kết chặt chẽ,
nhất tâm nhất trí như con một nhà,
cương quyết giữ vững tự do độc

lập ". Tư tưởng đoàn kết tôn giáo
của Chủ tịch Hồ Chí Minh rõ ràng nổi
lên quan điểm bỏ qua những dị biệt
nhỏ để giữ lấy cái tương đồng lớn;
vượt qua những khác biệt về đức tin,
lối sống… để giữ lấy tình đoàn kết
dân tộc, giữ lấy mục tiêu độc lập, tự
do, hạnh phúc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết tôn giáo không chỉ xuất phát từ
thực tế đất nước, truyền thống đoàn
8
kết của dân tộc, từ tinh hoa văn hóa
dân tộc, từ lý luận Mác - Lê nin xem
cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng mà còn từ tình cảm yêu
thương, lòng nhân ái của Người với
đồng bào các tôn giáo. Tấm lòng ấy
là bản sắc Hồ Chi Minh luôn biết hòa
vào quần chúng, hiểu họ yêu gì, ghét
gì và mong muốn điều gì.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc có một ý nghĩa rất to lớn.
Nó đã trở thành cơ sở cho việc hình
thành chính sách tôn giáo của Đảng
và Chính phủ ta trong các giai đoạn
cách mạng nhằm phát huy được mặt
tích cực của đạo đức tôn giáo trong
công cuộc bảo vệ và xây dựng đất

nước.
2. Phương pháp giải quyết vấn đề
tôn giáo :
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến hành
nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn
những hành vi lợi dụng tôn giáo vì
mục đích ngoài tôn giáo.
Về đấu tranh chống âm mưu lợi
dụng tôn giáo, Hồ Chí Minh chỉ ra
rằng chính bọn đế quốc phản động
đã từng lợi dụng tôn giáo để duy trì
sự thống trị của chúng, gây chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân, xuyên tạc
chủ trương chính sách của đảng và
nhà nước để lừa bịp nhân dân. Vì vậy
ta phải làm rõ thái độ của đảng và
nhà nước đối với tôn giáo. Bác nói:
Chúng ta không chống tôn giáo, mà
chỉ chống chế độ người bóc lột
người. Bản chất giáo dân là tốt, chỉ có
một số người bị lôi kéo, lầm đường
lạc lối, phải có sự khoan dung. Bác
đánh vào chủ nghĩa giáo sĩ làm tay
sai cho đế quốc, nhưng Bác không
đụng vào đức tin của tôn giáo. Bản
thân tôn giáo không có tội, có điều
là sử dụng nó vào mục đích gì.
Thực hiện chính tôn giáo theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết, phải
tuyên truyền giải thích cho đồng bào

tín đồ các tôn giáo hiểu rõ chính
sách của đảng và nhà nước để họ
thực hiện và đồng thời họ đấu tranh
chống âm mưu lợi dụng tôn giáo
của địch. Phải nghiên cứu thực tế,
hiểu phong tục, tập quán, truyền
thống tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân để gây tình cảm cho quần
chúng. Phải chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần cho đồng bào tôn
giáo.
Hồ Chí Minh xúc tiến nhiều biện
pháp nhằm ngăn chặn hành vi vi
phạm tín ngưỡng tôn giáo. Một
trong những nhiệm vụ đầu tiên của
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, Người đề xuất việc pháp luật
hóa chính sách tôn giáo. Người
nghiêm khắc phê phán những cán
bộ sai phạm chính sách tôn giáo
của Chính phủ. Có giải pháp khôn
khéo, cụ thể trong những tình huống
phức tạp.
Trong công tác tôn giáo, phải có
thái độ đúng với các chức sắc tôn
giáo. Tranh thủ các chức sắc còn có
thể tranh thủ được. Với kẻ lợi dụng
tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo,
phải phê phán nghiêm khắc, dù ở
cương vị nào.

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh
về tôn giáo nổi lên mấy điểm chính
là: cần có một chiến lược về tôn
giáo nói chung và về các tôn giáo
riêng lẻ nói riêng. Phát huy bản sắc
dân tộc trong các tôn giáo. Việt Nam
là một quốc gia đa tôn giáo, cho nên
phải xem trọng đoàn kết các tôn
giáo khác nhau, phải coi là có tính
chiến lược. Vấn đề quan trọng là
khai thác mặt tương đồng là cơ bản,
làm giảm tối đa sự dị biệt. Tỉnh táo
chống lại mưu đồ lợi dụng tôn giáo
để chống lại nhân dân.
3. Liên hệ thực hiện chính sách
tôn giáo ở nước ta.
Việt Nam là một quốc gia đa
tôn giáo, dân tộc. Các tôn giáo lớn
trên thế giới hầu hết có ở Việt Nam.
Những năm qua, cùng với sự phát
triển về kinh tế và ổn định về chính
trị- văn hóa, đời sống vật chất của
nhân dân ngày càng được cải thiện,
nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng tôn
giáo diễn ra khá sôi động. Nước ta
hiện có 6 tôn giáo được Nhà nước
công nhận về mặt tổ chức: Phật
giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành, Hồi
giáo, Cao đài và Hòa hảo; với hơn
20 hệ phái khác nhau. Tổng số tín

đồ có khoảng 20 triệu người, chiếm
gần 20% dân số cả nước; khoảng
10 vạn chức sắc tôn giáo, trong đó
có 5 vạn hoạt động chuyên nghiệp.
Nhìn chung các chức sắc, tín đồ tôn
giáo đều có tinh thần gắn bó dân
tộc. Nhất là từ khi Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời đã có nhiều tín đồ
trở thành đảng viên cộng sản, thành
những chiến sĩ kiên cường, dũng
cảm hy sinh cho Tổ quốc, nhiều nhà
sư, linh mục đã đi theo kháng chiến,
nhiều chùa chiền và thánh thất là
nơi nuôi giấu, che chở cho cán bộ
cách mạng. Ngày nay, các tổ chức
giáo hội đều tuân theo Hiến pháp và
pháp luật, đều mong muốn đất
nước được ổn định và phát triển.
Tuy nhiên vấn đề tôn giáo vẫn còn
nhiều phức tạp như trình độ nhận
thức của tín đồ còn nhiều hạn chế,
nên bị lệ thuộc nặng vào thần, giáo lý
từ đó bị một số người lợi dụng để gây
rối, một số giáo sĩ chức sắc do điều
kiện lịch sử để lại thể hiện thái độ
mặc cảm với xã hội mới nên thường
chống đối lại cách mạng. Điển hình
như sự kiện chính trị - xã hội diễn ra
tháng 02/2001, vụ gây rối ngày 1-4-
2004 vừa qua xảy ra ở một số tỉnh

Tây Nguyên đã cho thấy các thế lực
phản động vẫn không từ bỏ âm mưu
lợi dụng tôn giáo phá hoại sự nghiệp
xây dựng hòa bình của dân tộc Việt
Nam.
Tôn giáo là một vấn đề tế nhị,
nhạy cảm, dễ bị kích động. Có chính
sách tôn giáo đúng đắn, giải quyết tốt
vấn đề tôn giáo là góp phần quan
trọng vào việc củng cố khối đại đoàn
kết nhân dân. Trên quan điểm lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, thời gian
qua, cùng với việc ban hành các chủ
trương, chính sách đổi mới về kinh tế,
ổn định về chính trị, Đảng và Nhà
nước ta đã và đang từng bước xây
dựng và hoàn thiện các chính sách,
pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo,
khẳng định quan điểm nhất quán
trước sau như một của Đảng và Nhà
nước ta trong việc thực hiện quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó bao
hàm cả quyền tự quyết tự do không
tín ngưỡng, tôn giáo, quyền thay đổi
tôn giáo một cách tự nguyện của
nhân dân. Điều này được thể hiện rõ
tại Điều 70 của Hiến pháp nước
CHXHCNVN năm 1992: "Công dân
có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
theo hoặc không theo một tôn giáo

nào. Các tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật. Những nơi thờ tự của
tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật
bảo hộ. Không ai được xâm phạm
9
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
làm trái pháp luật và chính sách của
Nhà nước".
Đại hội IX của Đảng ta khẳng
định: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo đúng pháp
luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau, đồng bào theo tôn
giáo và không theo tôn giáo. Chăm lo
phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao
đời sống của đồng bào. Đồng bào
theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo
có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm
công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt
đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị
tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn
giáo. Từng bước hoàn thiện pháp luật
về tín ngưỡng, tôn giáo. Nghiêm cấm
lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín

ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái
pháp luật và chính sách của Nhà
nước, kích động chia rẽ nhân dân,
chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm
phạm an ninh quốc gia.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7,
Ban Chấp hành TW Đảng khóa IX về
công tác tôn giáo, đã thống nhất quan
điểm và chính sách của Đảng ta như
sau:
1. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng CNXH ở
nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ
phận của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
2. Đảng, Nhà nước thực hiện
nhất quán chính sách đại đoàn kết
toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào
theo các tôn giáo khác nhau; đoàn
kết đồng bào theo tôn giáo và đồng
bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và
phát huy những giá trị tích cực của
truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn
vinh những người có công với Tổ
quốc, với nhân dân. Nghiêm cấm sự
phân biệt đối xử với công dân vì lý
do tín ngưỡng tôn giáo. Nghiêm
cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo

để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt
động trái pháp luật, kích động chia
rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc,
gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
3. Nội dung cốt lõi của công tác
tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Lấy mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh là điểm tương đồng để
gắn bó đồng bào các tôn giáo với
sự nghiệp chung. Mọi công dân
không phân biệt tín ngưỡng, tôn
giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác
vận động quần chúng các tôn giáo
phải động viên đồng bào nêu cao
tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ
độc lập và thống nhất của Tổ quốc
thông qua việc thực hiện tốt các
chính sách KT-XH, an ninh quốc
phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và
tinh thần của nhân dân nói chung,
trong đó có đồng bào tôn giáo.
4. Công tác tôn giáo là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị. Tổ
chức bộ máy và đội ngũ cán bộ
chuyên trách làm công tác tôn giáo
có trách nhiệm trực tiếp, cần được
củng cố và kiện toàn. Công tác
quản lý Nhà nước đối với các tôn

giáo và đấu tranh chống việc lợi
dụng tôn giáo để chống đối chế độ
chỉ thành công nếu làm tốt công tác
vận động quần chúng.
5. Vấn đề theo đạo và truyền
đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do
hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ
tự hợp pháp theo qui định của pháp
luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà
nước thừa nhận được hoạt động
tôn giáo theo pháp luật qui định và
được pháp luật bảo hộ. Việc theo
đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt
động tôn giáo khác đều phải tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật. Không
được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền
tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan,
không được ép buộc người dân
theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức
truyền đạo, người truyền đạo và các
cách thức truyền đạo trái phép, vi
phạm các qui định của Hiến pháp và
pháp luật.
Câu 3: phân tích tình hình đặc
điểm tôn giáo Việt Nam, liên
hệ việc thực hiện chính sách ở
nước ta hiện nay ?
Bài làm
I. Tình hình đặc điểm tôn giáo
Việt Nam

Con người Việt Nam có
đời sống tín ngưỡng, tôn giáo
hết sức phong phú, điều đó xuất
phát từ Việt Nam là một quốc gia
nằm giữa ngã tư đường, trung
tâm của Đông Nam Á nên có
điều kiện thuận lợi để tiếp nhận
và giao lưu của các luồng tư
tưởng, văn hóa, tín ngưỡng, tôn
giáo từ các quốc gia khác nhau,
nhất là lại kề bên hai nền văn
minh lớn của loài người là Trung
Hoa và Ấn Độ nên tín ngưỡng, tôn
giáo có ảnh hưởng sâu đậm từ hai
nền văn minh ấy. Ngoài ra, với địa
hình phong phú, đa dạng, lại ở
vùng nhiệt đới gió mùa, thiên
nhiên vừa ưu đãi, vừa đe dọa
cộng đồng người sống ở đây nên
trong đời sống tinh thần người
Việt thường nảy sinh tâm lý sợ
hãi, nhờ cậy vào sự che chở của
lực lượng tự nhiên, đó cũng là cơ
hội để tín ngưỡng và tôn giáo phát
triển mạnh. Lịch sử Việt Nam còn
là lịch sử chống ngoại xâm, những
người có công lớn trong việc giúp
dân, cứu nước được cả cộng
đồng tôn sùng và để tưởng nhớ
những vị ấy, người Việt đã thờ

phụng và thần thánh hóa họ, gắn
cho họ những sức mạnh của siêu
nhiên. Chính những đặc điểm tự
nhiên, lịch sử và văn hóa ấy đã có
ảnh hưởng lớn đến đặc điểm tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
1. Việt Nam là một quốc
gia đa tôn giáo, đa dân tộc:
Như đã nói trên, do điều
kiện địa lý nước ta là nơi thuận lợi
cho việc giao lưu của nhiều luồng
tư tưởng, văn hóa khu vực và thế
giới, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc
của hai nền văn minh lớn Trung
Hoa và Ấn Độ, đồng thời là một
nước có 54 dân tộc cư trú ở nhiều
khu vực với điều kiện tự nhiên, khí
hậu, lối sống, phong tục, tín
ngưỡng, tôn giáo khác nhau nên
Việt Nam có điều kiện du nhập
nhiều tín ngưỡng tôn giáo lớn trên
thế giới. Hơn nữa, bản tính người
Việt vốn cởi mở, khoan dung nên
cùng một lúc họ có thể tiếp nhận
nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn
10
giáo khác nhau. Từ những hình
thức tôn giáo, tín ngưỡng sơ khai
đến hiện tại, từ tôn giáo phương
Đông cổ đại đến phương Tây cận,

hiện đại - tất cả đã và đang cùng
tồn tại bên cạnh tín ngưỡng dân
gian, bản địa của nhiều dân tộc,
bộ tộc khác nhau. Bên cạnh
những tôn giáo lớn "ngoại nhập"
như Phật giáo, Hồi giáo, Công
giáo, Tin lành , Việt Nam còn có
những tôn giáo "nội sinh" như Cao
Đài, Hòa Hảo. Hiện nay, ở Việt
Nam có sáu tôn giáo lớn đã được
Nhà nước công nhận về mặt tổ
chức gồm: Phật giáo, Công giáo,
Tin lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa
Hảo và Hồi giáo. Có tôn giáo với
số lượng hàng triệu tín đồ như
Phật giáo : 10 triệu, Công giáo :
2,5 triệu, Cao đài : hơn 2 triệu,
Hoà Hảo trên 1 triệu, nhưng có
tôn giáo lại có số lượng tín đồ
không đáng kể (trong đó nhiều
nhất là Tin lành : 500.000 tín đồ,
Hồi Giáo : 500.000 tín đồ). Lịch
sử hình thành và du nhập, số
lượng tín đồ, vai trò xã hội cũng
như tác động chính trị của các
tôn giáo ở nước ta cũng rất khác
nhau. Trong 6 tôn giáo lớn ở Việt
Nam hiện nay (Phật giáo, Công
giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao đài,
Hòa hảo) Phật giáo có lịch sử xuất

hiện lâu đời nhất và do có nhiều
tín đồ nhất nên đang là đạo giáo
có ảnh hưởng khá lớn trong đời
sống tinh thần của nhân dân ta.
2. Tôn giáo ở Việt Nam
được điều hành theo ý thức tiểu
nông Do xuất phát từ nền nông
nghiệp lúa nước, nông dân chiếm
tỷ lệ rất lớn trong số tín đồ tôn
giáo nên những tín đồ tôn giáo
Việt Nam ít có thời gian cũng
như khả năng nghiên cứu, học
tập giáo lý, giáo luật của các tôn
giáo. Tuy am hiểu giáo lý không
sâu sắc nhưng lại tín đồ người
Việt lại rất chăm chỉ thực hiện
những nghi lễ tôn giáo và sinh
hoạt cộng đồng tín ngưỡng một
cách nhiệt tâm. Có bộ phận tín
đồ sùng tín và đôi khi ngộ nhận
cả tin khi có lực lượng lợi dụng
tôn giáo. Từ đặc điểm ấy, chính
quyền cần chú ý đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt tín ngưỡng của họ
ở những nơi thờ tự. Cán bộ làm
công tác tôn giáo cần kiên trì
thuyết phục, tránh mặc cảm thô
bạo và hết lòng chăm lo đến đời
sống vật chất lẫn tinh thần của
họ.

3. Yếu tố nữ luôn mang
tính trội trong hệ thống tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam : cũng do xuất phát từ một
nước nông nghiệp, yếu tố nữ rất
phù hợp với điều kiện sản xuất
lúa, vì thế vai trò của người phụ
nữ được đề cao và ảnh hưởng
khá nặng của chế độ mẫu hệ
cho nên trong hệ thống tín
ngưỡng tôn giáo xuất hiện rất
nhiều các vị thánh thần là nữ. Từ
Bắc đến Nam ở đâu cũng có nơi
thờ tự nữ thần : Phật Bà, Thánh
Mẫu Đền thờ Bá chúa kho
(Bắc Ninh), Bà chúa Liễu ở Phủ
Tây Hồ (Hà Nội), Bà chúa Đen
(Tây Ninh), Bà chúa Sứ (An
Giang) là những nơi thu hút
nhiều người mà không phải chỉ
có giới nữ. Các tôn giáo lớn
từ Công giáo đến Khổng giáo và
nhất là Hồi giáo vốn coi thường
phụ nữ, nhưng khi du nhập vào
Việt Nam đã phải thay đổi ít
nhiều cho phù hợp với vai trò
của người phụ nữ và sự nhìn
nhận, đánh giá của xã hội đối với
họ.
4. Thần thánh hóa những

người có công với gia đình,
làng, nước và tín ngưỡng dân
gian. Xuất phát từ một nước có
truyền thống dựng và giữ nước
lâu dài với bề dày lịch sử chống
giặc ngoại xâm lâu dài, Việt Nam
có rất nhiều những anh hùng
dân tộc, có công với dân. với
nước. Với đặc điểm chung xã
hội phương Đông hay suy tôn
cá nhân thành người đại diện tối
cao của cả cộng đồng, quốc gia,
người Việt còn mang đức tính
yêu nước, trọng tình “uống
nước, nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ
người trồng cây” nên tín
ngưỡng, tôn giáo Việt Nam cũng
thấm đượm tinh thần ấy. Những
người có công với gia đình, làng
xóm, đất nước đều được người
Việt Nam tôn vinh, sùng kính và
thần thánh hóa hóa để cầu khẩn
sự phù hộ và tìm sự che chở
trong bản thân gia đình và cộng
đồng. Ngoài ra, Việt Nam còn có
hệ thống tín ngưỡng dân gian
hết sức đa dạng như tín ngưỡng
thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ thần.
Ở những vùng khác nhau, các
dân tộc khác nhau còn có những

hình thức tín ngưỡng đặc thù
của vùng mình, dân tộc mình.
Nhìn chung tín ngưỡng dân gian
tôn giáo Việt Nam còn hướng
niềm tin vào các nhân thần và
nhiên thần.
5. Tính đan xen, hòa đồng,
khoan dung của tín ngưỡng,
tôn giáo ở Việt Nam.Với bản tính
hiếu hoà, đồng thời do phải đoàn
kết chống giặc ngoại xâm và
chống chọi với thiên nhiên, người
Việt rất dễ tiếp nhận các loại văn
hóa tín ngưỡng tôn giáo miễn sau
là nó không đi ngược lại lợi ít dân
tộc, đi ngược lại truyền thống văn
hóa dân tộc. Đồng thời, nó cũng
phải thay đổi cho phù hợp với
phong tục tập quán tuỳ ý của
người Việt mà trước hết phải
được sự khảo nghiệm của lịch sử
dựng nước và giữ nước, sau nữa,
phải tôn trọng tôn giáo truyền
thống và hòa đồng với tín ngưỡng
bản địa. Khổng giáo và Đạo giáo
từ Trung Hoa lan xuống, Phật giáo
từ Ấn Độ truyền sang nước ta từ
rất sớm nhưng vẫn tồn tại song
song cùng nhau một cách hòa
bình cùng với tín ngưỡng bản địa

mà không xảy ra những cuộc
chiến tranh tôn giáo nào. Kể cả về
sau một số tôn giáo phương Tây
thâm nhập vào Việt Nam, tuy có
xa lại với truyền thống văn hóa
dân tộc, nhưng vẫn được chấp
nhận. Nếu có giai đoạn lịch sử
nào đó tôn giáo bị cộng đồng dân
tộc mặc cảm, định kiến là khi nó bị
lực lượng phản động lợi dụng đi
ngược lại lợi ích của dân tộc.
Giáo lý của các tôn giáo lớn
ở Việt Nam có không ít những
điều khác biệt và trong lịch sử tồn
tại của nó cũng xuất hiện những
mâu thuẩn nhất định. Cá biệt có
hiện tượng phê phán, bài bác lẫn
11
nhau, nhưng nhìn chung, chưa có
sự đối đầu để dẫn đến chiến tranh
tôn giáo. Nếu có mâu thuẩn dẫn
đến xung đột thì đó cũng chỉ vì lý
do chính trị mà tôn giáo như một
hình thức biểu hiện. Tín ngưỡng
tôn giáo Việt Nam là hòa đồng,
đan xen, nương tựa, hỗ trợ lẫn
nhau. Những tôn giáo độc thần
như Công giáo, Tin lành, Hồi giáo
du nhập vào nước ta cũng như
tôn giáo nội sinh như Cao Đài,

Hòa Hảo ít nhiều đều có tính đan
xen, hòa đồng dung hợp với nhau
và với tín ngưỡng bản địa. Nhờ có
tính khoan dung, hiếu hòa của tôn
giáo đã khiến cho một đất nước
đa dân tộc và đa tôn giáo như Việt
Nam mà vẫn giữ được truyền
thống đoàn kết toàn dân không
phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo.
6. Tôn giáo ở Việt Nam
mang tính chất phiếm thần : Ở
nước ta tín đồ theo tôn giáo độc
thần nhưng tư tưởng của họ vẫn
chấp nhận rất nhiều các vì thánh
thần tiên phật khác nhau. Đặc
điểm đó thể hiện rõ ở việc các tín
đồ công giáo Việt Nam phần lớn
đều có bàn thờ ông bà tổ tiên
trong gia đình, một đặc điểm
không có ở các nước công giáo
khác. Tính chất phiếm thần còn
thể hiện ở các dân tộc thiểu số
nước ta. Ở vùng Đông-Bắc, Đạo
giáo quyện vào các tôn giáo khác,
tạo nên một tổ chức với một hệ
thống chức sắc gồm ông thày Tào
là hàng phẩm trật cao nhất, rồi
đến các ông (bà) Then, Pựt, Mo,
Ngạn thuộc đạo Phật và các tôn
giáo địa phương. Các tín đồ ảnh

hưởng của đạo Bàlamôn giáo và
đạo Ba Ni của dân tộc Chăm
tham dự chung các lễ hội liên
quan đến cộng đồng Plơi (làng)
và đến lễ thức nông nghiệp. Chỉ
có bộ phận Islam ở Nam Bộ
chuyển cư từ Malaysia,
Campuchia trở về, mới theo đạo
Hồi đầy đủ, tự nhận là Chà Và
Kur, nhưng vẫn phải chấp nhận
chế độ mẫu hệ với việc thờ cúng
truyền thống
7. Một số tôn giáo bị các
thế lực phản động trong và
ngòai nước lợi dụng vì mục
đích chính trị : Cũng như mọi
tôn giáo khác, Tôn giáo ở nước
ta ra đời là để đáp ứng khát
vọng của đời sống tâm linh con
người, song cũng từ khi có tôn
giáo, nó luôn bị các thế lực xã
hội lợi dụng để thực hiện các
mục đích phi tôn giáo, đặc biệt là
mục đích chính trị Trên thực tế,
tín ngưỡng, nhất là vấn đề tôn
giáo hết sức phức tạp và tế nhị.
Nó không thuần túy là đời sống
tinh thần của cá nhân mà từ khi
xuất hiện, nó luôn là vấn đề của
xã hội, của giai cấp, của dân tộc.

Vì vậy, ở bất cứ tôn giáo nào
vấn đề của đời sống thế tục
cũng được đề cập trong các mặt
của thế giới siêu phàm. Tôn giáo
có sự đan xen quan hệ với nhiều
khía cạnh của văn hóa, đạo đức,
chính trị Mặt khác, tôn giáo còn
là một thực thể xã hội, không chỉ
có đức tin, giáo lý, giáo luật, lễ
nghi, mà còn có cả những tổ
chức, những thiết chế để hiện
thực hóa giáo lý, luật lệ tôn giáo.
Với lượng tín đồ có đức tin và
tình cảm tôn giáo, được cố kết
trong tổ chức giáo hội, tôn giáo
đã trở thành một thế lực xã hội
đặc biệt. Nhận thức rõ điều đó,
các thế lực thù địch trong và
ngoài nước luôn âm mưu sử
dụng ngọn cờ nhân quyền gắn
với tôn giáo hòng xóa bỏ chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hiện
nay tôn giáo đang bị các thế lực
phản động lợi dụng để thực thi
chiến lược "diễn biến hòa bình"
nhằm phá hoại công cuộc đổi
mới của nhân dân ta. Các "điểm
nóng" về tôn giáo trong thời gian
gần đây như các hoạt động trái
phép nhằm lập ra tổ chức đạo

"Tin lành Đề Ga" ở Tây
Nguyên đã phản ánh điều đó.
Hiệu ứng tiêu cực của các hoạt
động đó là sự mất ổn định trong
đời sống dân cư, gây chia rẽ từ
trong nội bộ gia đình, làng xóm,
thôn bản, chia rẽ dân tộc này với
dân tộc khác, làm phương hại
đến tình hình kinh tế, an ninh,
trật tự xã hội ; làm sứt mẻ khối
đoàn kết toàn dân.
Mặt khác, hoạt động tôn
giáo trong những năm gần đây
biểu hiện mang tính chất thị
trường. Những năm qua, nhờ
công cuộc đổi mới với việc áp
dụng các chính sách kinh tế xã
hội phù hợp, đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được
nâng cao, nhưng cũng kéo theo
hoạt động của các tôn giáo sôi
nổi hơn trước đây. Tình trạng
xây mới, sữa chửa cơ sở thờ tự
diễn ra nhiều đến mức khó kiểm
soát, hiện tượng buôn thần bán
thánh có dấu hiệu bùng phát, là
tiêu tốn tiền bạc, thời gian sức
khoẻ của nhân dân. Bên cạnh đó
hiện nay xuất hiện một chức sắc
tín đồ các tôn giáo có biểu hiện

suy thoái đạo đức, lợi dụng tôn
giáo để tuyên truyền mê tín dị
đoan kiếm tiền bất chính. Đã xuất
hiện 60 tôn giáo mới, tà giáo, dị
giáo; trong đó có nhiều nhất tôn
giáo mang phản động phi khoa
học
II. Liên hệ việc thực hiện chính
sách ở nước ta hiện nay
Sự đa dạng về đời sống
tôn giáo, tín ngưỡng và từ
những đặc điểm tôn giáo ở Việt
Nam trong bối cảnh đất nước
đang tiến hành công cuộc đổi
mới nhằm tíên tới xây dựng
thành công CNXH hiện nay, đoàn
kết tôn giáo là một nội dung quan
trọng không thể thiếu để tạo nên
sức mạnh của khối đoàn kết toàn
dân. Văn kiện Đại hội IX đã chỉ rõ
: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Thực hiện nhất quán
chính sách tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo
nào, quyền sinh hoạt tôn giáo
bình thường theo đúng pháp luật.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau, đồng bào theo

tôn giáo và đồng bào không theo
tôn giáo. Chăm lo phát triển kinh
tế, văn hóa, nâng cao đời sống
của đồng bào. Đồng bào theo
đạo và các vị chức sắc tôn giáo
có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm
công dân đối với Tổ quốc, sống
"tốt đời, đẹp đạo", phát huy
12
những giá trị tốt đẹp về văn hóa,
đạo đức của tôn giáo. Từng
bước hoàn thiện luật pháp về tín
ngưỡng, tôn giáo. Nghiêm cấm
lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín
ngưỡng, tôn giáo để hoạt động
trái pháp luật và chính sách của
nhà nước, kích động chia rẽ
nhân dân, chia rẽ các dân tộc,
gây rối, xâm phạm an ninh quốc
gia”
Với quan điểm đó, chính
sách tự do tôn giáo ở nước ta
những năm qua đã thu được
những kết quả to lớn, được sự
tiếp nhận ngày càng tốt hơn từ
phía giới tôn giáo và sự ủng hộ
của nhân dân nói chung. Một
quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo
như Việt Nam nhưng đến nay vẫn
là một bức tranh sinh hoạt tôn

giáo yên bình, hoà đồng và ngày
càng tỏ ra thích ứng với Chủ
nghĩa xã hội là một thành tựu lớn
xác định tính hợp lý trong đường
lối chính sách tôn giáo của Đảng
và nhà nước ta. Nhiều thập kỷ
nay, đường hướng hành đạo:
Sống phúc âm trong lòng dân tộc
(Công Giáo, Thư chung 1980) ;
Dân tộc, Đạo pháp và CNXH
(Phật giáo, từ Đại hội I năm 1981).
Nước Vinh, đạo Sáng (Hoà Hảo);
Sống Phúc Âm, phụng sự thiên
chúa, phụng sự dân tộc của đạo
Tin lành đã và đang được khẳng
định, nhiều cộng đồng tôn giáo đã
thực sự gắn bó, tốt Đạo đẹp Đời.
Căn cứ vào chủ trương,
đường lối, chính sách tôn giáo của
Đảng và Nhà nước, cũng như tình
hình đất nước ta hiện nay, để
củng cố đoàn kết tôn giáo chúng
ta cần tập trung vào các vấn đề
sau : đặt ra cho công tác tôn
giáo quan tâm đến những vấn đề
sau :
Một là, ở một nước có
nhiều tín ngưỡng, tôn giáo như
Việt Nam thì tín đồ các tôn giáo
phải luôn đặt lợi ích dân tộc,

quốc gia lên trên hết và phấn
đấu vì mục tiêu chung là dân
giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh. Nhà
nước không phân biệt đối xử về
nghĩa vụ và quyền lợi công dân
vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Hai là, phát huy tính
khoan dung, hòa đồng giữa các
tôn giáo nhằm đoàn kết các tôn
giáo để bảo đảm ổn định chính
trị xã hội.
Ba là, chăm lo đời sống
vật chất tinh thần cho đồng bào
có đạo, thực hiện chính sách xóa
đói giảm nghèo ở nông thôn,
vùng sâu vùng xa nơi đồng bào
tín đồ các tôn giáo đang gặp
nhiều khó khăn. Trên cơ sở
không ngừng phát triển kinh tế,
văn hóa xã hội, nâng cao đời
sống vật chất tinh thần của nhân
dân, tạo cho nhân dân một cơ sở
xã hội hiện thực để họ yên tâm,
tin tưởng vào xã hội mới; chấp
nhận sự khác biệt, khai thác
điểm tương đồng, thực hiện
nhiều giải pháp đồng bộ thu hút
mọi người dân phấn đấu vì mục
tiêu chung. Giúp cho người dân

nhận thức hạnh phúc, tự do tín
ngưỡng, tôn giáo chỉ có được khi
lợi ích chung ấy được thực hiện
Bốn là, bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo
nhưng luôn đề cao cảnh giác
chống những âm mưu lợi
dụng tôn giáo của các thế lực
thù địch.
Câu 4: Quan điểm, đường lối và
chính sách tôn giáo của Đảng
và nhà nước ta
Bài làm
I./ Tình hình thực hiện chính
sách tôn giáo :
Nhìn chung trong những
năm qua, Đảng và nhà nước đã
có nhiều cố gắng nhằm thực
hiện tốt quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo trên thực tế. Chính sách
tôn giáo của ta ngày càng được
cụ thể hóa và đáp ứng ngày
càng tốt hơn nguyện vọng của
chức sắc, tín đồ tôn giáo. Bằng
việc ban hành hàng loạt các
Nghị quyết, pháp lệnh về tôn
giáo như Nghị quyết số 24-
NQ/TW ngày 16-10-1990 của Bộ
Chính trị (khóa IX) về “Tăng
cường công tác tôn giáo trong

tình hình mới”, Chỉ thị số 37-
CT/TW ngày 02/7/1998 của Bộ
Chính trị về công tác tôn giáo,
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 7
(khoá IX) về tôn giáo, Pháp lệnh
tín ngưỡng, tôn giáo số
21/2004/PL-UBTVQH11 ,
Đảng và Nhà nước ta đã và
đang thể hiện sự quan tâm thỏa
đáng đến những sinh hoạt tín
ngưỡng, tôn giáo và tạo điều
kiện thuận lợi cho các tổ chức và
cá nhân tôn giáo sinh hoạt và
phù hợp với luật pháp quốc tế về
quyền dân sự, chính trị của
người dân. Nhờ những đổi mới
trong chính sách tôn giáo, sinh
hoạt tôn giáo ở nước ta có thêm
nhiều điều kiện thuận lợi, nhiều cơ
sở thờ tự được tu sửa, xây dựng
lại hoặc xây mới khang trang hơn,
việc đào tạo các chức sắc tôn giáo
cũng được nhà nước quan tâm
(tính đến năm 2003 : Công giáo
đã có 5 đại chủng viện, Phật giáo
cũng đã có 3 trường Phật học cao
cấp, các tôn giáo đã có tới 400
đầu sách được nhà nước cho
phép xuất bản với số lượng lớn ),

đồng bào có đạo ngày càng phấn
khởi yên tâm hành đạo và tham
gia tích cực hơn công cuộc xây
dựng đất nước với phương châm
“Tốt đời - đẹp đạo”, “Nước vinh –
đạo sáng”, “Sống phúc âm trong
lòng dân tộc”. Chính sách tôn
giáo hợp lý của Đảng và nhà
nước ta những năm qua cũng đã
củng cố đoàn kết được những
người có tín ngưỡng tôn giáo và
những người không tín ngưỡng
tôn giáo với nhau, có những nơi
nhiều đồng bào tôn giáo khác
nhau sống xen kẻ nhưng vẫn sinh
hoạt tôn giáo yên bình, hoà đồng
và ngày càng tỏ ra thích ứng với
Chủ nghĩa xã hội, chức sắc tín đồ
ngày càng được tin tưởng hơn
vào Đảng, vào công cuộc đổi mới
ở Việt Nam. Mặt khác, nhờ áp
dụng chính sách kinh tế phù hợp
đã làm cho đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân ta, trong
đó có các chức sắc, tín đồ tôn
giáo được nâng lên. Chúng ta
cũng đã ngăn chận và phá vỡ
nhiều âm mưu phá hoại của các
thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo
4-1

13
vì mục đích kinh tế, chính trị như :
dẹp tan vụ lộn xộn của một số
phần tử cực đoan trong Phật giáo
năm 1993, ngăn chận hành động
chống đối của linh mục Nguyễn
Văn Lý ở giáo xứ Nguyệt Biều, vụ
gây rối của đồng bào đạo Tin
Lành vào tháng 2 năm 2001 và
ngày 10-4-2004 vừa qua ở Tây
nguyên
Bên cạnh những kết quả kết
quả đạt được, cũng phải thừa
nhận rằng chính sách tôn giáo và
việc thực hiện các chính sách tôn
giáo của ta thời gian qua cũng còn
nhiều nhược điểm, hạn chế.
Chính sách tôn giáo của ta vẫn
còn chung chung chưa được cụ
thể hóa, một số cán bộ Đảng viên
đánh giá thấp tầm quan trọng của
công tác tôn giáo, hơn nữa do
những nguyên nhân lịch sử nên
trình độ của một bộ phận cán bộ,
Đảng viên còn hạn chế vì vậy
việc giải quyết vấn đề tôn giáo ở
một số địa phương chưa thật tốt.
Bên cạnh việc buông lỏng công
tác quản lý nhà nước, có nơi ứng
xử với tôn giáo còn cứng nhắc,

một số cấp ủy, chính quyền cơ sở
chưa thật chủ động trong việc đáp
ứng nhu cầu tín ngưỡng chân
chính của đồng bào có đạo. Điều
đó cùng với việc một bộ phận nhỏ
chức sắc tín đồ còn nghi ngờ, dao
động, hoang mang trước sự
xuyên tạc của thù địch, đời sống
của một bộ phận chức sắc tín đồ,
đặc biệt là ở vùng đồng bào dân
tộc còn gặp nhiều khó khăn đã
tạo kẽ hở cho các phần tử cực
đoan, các thế lực chính trị phản
động lợi dung tiến hành các hoạt
động mua chuộc, lôi kéo chức
sắc tín đồ chống đối, kích động
tín đồ phá hoại khối đoàn kết
toàn dân tộc, gây mất ổn định
chính trị và vu cáo Đảng và nhà
nước ta vi phạm nhân quyền,
đàn áp tôn giáo. Nhiều vụ việc
nổi cộm liên quan đến tín
ngưỡng tôn giáo xảy ra như vụ
gây rối ở Tây nguyên năm 2001
và 2004, chúng ta vẫn bị động
hoặc xử lý thiếu tế nhị hoặc nóng
vội, giản đơn trong việc giải
quyết nhiều vấn đề liên quan đến
dân tộc,tôn giáo.
II. Quan điểm, đường lối và

chính sách tôn giáo của Đảng
và nhà nước ta
1. Những quan điểm
nhất quán từ trước đến nay :
Trước tình hình đó, công
tác tôn giáo hiện nay đang
được Đảng và nhà nước ta hết
sức quan tâm và tiếp tục đổi
mới hoàn thiện các chính sách
tôn giáo.
Những đổi mới đó trước
nhất phải dựa trên quan điểm
nhất quán, trước sau như một
của Đảng và Nhà nước ta là
thực hiện việc tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng, tự do tôn giáo,
trong đó bao hàm cả quyền tự
quyết tự do không tín ngưỡng,
tôn giáo, quyền thay đổi tôn giáo
một cách tự nguyện của nhân
dân. Điều này được thể hiện rõ
tại Điều 70 của Hiến pháp nước
CHXHCNVN năm 1992: "Công
dân có quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào. Các tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật.
Những nơi thờ tự của tín
ngưỡng, tôn giáo được pháp luật
bảo hộ. Không ai được xâm

phạm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để làm trái
pháp luật và chính sách của Nhà
nước". Sự tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng tôn giáo và tự do
không tín ngưỡng của nhân dân
của Đảng ta xuất phát từ quan
điểm cho niềm tin là quyền tự do
của mỗi con người, thuộc đời
sống tâm linh của con người
không thể cấm đoán được. Tuy
nhiên “tự do” tín ngưỡng tôn
giáo không có nghĩa là muốn
làm gì thì làm mà là “ tự do”
trong khuôn khổ Hiến pháp và
Pháp luật của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Vấn đề
tôn giáo phải luôn được đặt
trong và dưới vấn đề quốc gia -
dân tộc, mọi hoạt động tôn giáo
phải tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật Nhà nước. Tự do tôn giáo
cũng không có nghĩa là khuyến
kích tôn giáo hoặc hạn chế tôn
giáo. Pháp luật Việt Nam không
ngăn cấm việc công dân theo tôn
giáo nhưng cũng đảm bảo quyền
không theo tôn giáo của công
dân, nó cũng cho phép có thể

chuyển từ tôn giáo này để theo
một tôn giáo khác. Điều I và Điều
5, Nghị định số 26/1999/NĐ-CP
ngày 19/4/1999 là: "Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam bảo đảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do
không tín ngưỡng, tôn giáo.
Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử
vì lý do tín nguỡng, tôn giáo ";
và: “ Mọi hành vi vi phạm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo; mọi hành
vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
chống lại Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn cản
tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá
hoại sự nghiệp đoàn kết dân tộc,
làm hại đến nền văn hoá lành
mạnh của dân tộc và hoạt động
mê tín dị đoan đều bị xử lý theo
pháp luật ".
Coi trọng đoàn kết tôn giáo
luôn là một tư tưởng chủ đạo,
nhất quán trong chính sách tôn
giáo và đoàn kết dân tộc của
Đảng. Quan điểm của Đảng, chính
sách của Nhà nước về đoàn kết
tôn giáo vì mục tiêu giải phóng
dân tộc, xây dựng cuộc sống ấm
no hạnh phúc cho nhân dân là

nguồn sức mạnh to lớn tạo nên
nội lực của dân tộc. Đó cũng là
nhân tố có thể xóa bỏ dần những
mặc cảm, những định kiến, nghi
kỵ do lịch sử để lại và do các thế
lực phản động thường xuyên
tuyên truyền, xuyên tạc nhằm chia
rẽ khối đoàn kết toàn dân. Với một
quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo
như nước ta, đoàn kết tôn giáo
chính là đoàn kết đồng bào theo
các tôn giáo khác nhau, đoàn kết
giữa đồng bào theo tôn giáo và
đồng bào không theo tôn giáo. Từ
xưa, sự khoan dung, cởi mở,
không kỳ thị tín ngưỡng, tôn giáo
vốn là nét đặc trưng của con
người Việt Nam. Phát huy những
giá trị tinh thần quý báu của con
người Việt Nam, Đảng ta còn chủ
động thực hiện đồng bộ các giải
pháp trên nhiều lĩnh vực nhằm
tăng cường củng cố đoàn kết tôn
4-2
4-3
4-4
14
giáo. Đó là phải không ngừng
chăm lo phát triển kinh tế văn
hóa để nâng cao đời sống vật

chất và tinh thần của các chức
sắc tín đồ tôn giáo, tạo cho nhân
dân một cơ sở xã hội hiện thực để
họ yên tâm, tin tưởng vào xã hội
mới; chấp nhận sự khác biệt, khai
thác điểm tương đồng, thực hiện
nhiều giải pháp đồng bộ thu hút
mọi người dân phấn đấu vì mục
tiêu chung. Giúp cho người dân
nhận thức hạnh phúc, tự do tín
ngưỡng, tôn giáo chỉ có được khi
lợi ích chung ấy được thực hiện.
Đó là phải tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, quyền
sinh hoạt tôn giáo theo đúng
pháp luật, tôn trọng các vị sáng
lập ra tôn giáo, tôn trọng niềm tin
tôn giáo của quần chúng, phải
hiểu rõ tâm tư, nguyên vọng và
tính đặc thù của các chức sắc
tín đồ tôn giáo, mọi sự xúc phạm
đến niềm tin tôn giáo của quần
chúng đều là nguy cơ tạo nên sự
hiềm khích, đố kỵ, gây chia rẽ,
mất đoàn tôn trọng niềm tin mang
tính thiêng của các chức sắc tín
đồ của tôn giáo.
Đồng thời trong quan điểm
nhất quán về vấn đề tôn giáo,
Đảng và nhà nước luôn cảnh giác

chống mọi âm mưu lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ
đồng bào và kiên quyết đấu tranh
và xử lý thích đáng những kẻ lợi
dụng tôn giáo để hoạt động trái
pháp luật và chính sách của Nhà
nước, kích động chia rẽ nhân dân,
chia rẽ dân tộc, xâm hại đến khối
đoàn kết toàn dân
2. Một số quan điểm
nổi bật trong thời kỳ đổi mới
Trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước ta hiện
nay, Nghị quyết Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ 7, Khoá IX, đã xác định
rõ quan điểm, chính sách đối với
tôn giáo của Đảng và Nhà nước
ta: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, đang và sẽ tồn tại
cùng dân tộc trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ
phận của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc ". Việc thừa nhận tôn
giáo còn tồn tại lâu dài trong đời
sống tinh thần của con người ở
nước ta xuất phát từ tính hợp lý
của tôn giáo vẫn còn duy trì

trong quá trình xây dựng CNXH
ở nước ta. Đạo đức tôn giáo còn
nhiều điều phù hợp với công
cuộc xây dựng xã hội mới. Bên
cạnh đó, tôn giáo là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân.
Trong thời đại ngày nay, khi xã
hội vẫn còn tồn tại mang tính
đan xen giữa những cái cũ như
bóc lột, bất công, phân hoá giàu
nghèo chưa mất đi, những cái
mới tốt đẹp, công bằng chưa
phổ biến thì tôn giáo vẫn còn tồn
tại trong đời sống tinh thần của
con người. Nó đem lại cho con
người nguồn an ủi, trấn an con
người trước những bất lực trong
quan hệ giữa người và người,
giữa người với tự nhiên, biến cái
chết thành một sự thay đổi ''bình
thường'' như về với tổ tiên, lên
cõi Niết Bàn hay về với Chúa…
Do vậy, tôn giáo vẫn còn là nhu
cầu của một bộ phận con người
trong xã hội.
III. Tư tưởng chỉ đạo về giải
quyết vấn đề tôn giáo - nhiệm
vụ, giải pháp của công tác tôn
giáo
Trên thực tế, vấn đề tín

ngưỡng, nhất là vấn đề tôn giáo
hết sức phức tạp và tế nhị. Nó
không thuần túy là đời sống tinh
thần của cá nhân mà từ khi xuất
hiện, nó luôn là vấn đề của xã
hội, của giai cấp, của dân tộc, nó
luôn có sự đan xen quan hệ với
nhiều khía cạnh của văn hóa,
đạo đức, chính trị Mặt khác,
tôn giáo còn là một thực thể xã
hội, không chỉ có đức tin, giáo lý,
giáo luật, lễ nghi, mà còn có cả
những tổ chức, những thiết chế
để hiện thực hóa tín lý, luật lệ
tôn giáo. Với lượng tín đồ có đức
tin và tình cảm tôn giáo, được cố
kết trong tổ chức giáo hội, tôn
giáo đã trở thành một thế lực xã
hội đặc biệt. Ở các quốc gia, các
thế lực chính trị, các tập đoàn
thống trị đều đã biết lợi dụng tôn
giáo, sử dụng tôn giáo như một
công cụ tinh thần, thậm chí tôn
giáo cũng được sử dụng như
một tổ chức xã hội để thực hiện
các mục đích chính trị.
Hiện nay tôn giáo đang bị
các thế lực phản động lợi dụng
để thực thi chiến lược "diễn biến
hòa bình" nhằm phá hoại công

cuộc đổi mới của nhân dân ta.
Các "điểm nóng" về tôn giáo
trong thời gian gần đây như các
hoạt động trái phép nhằm lập ra
tổ chức đạo "Tin lành Đề Ga" ở
Tây Nguyên đã phản ánh điều
đó. Hiệu ứng tiêu cực của các
hoạt động đó là sự mất ổn định
trong đời sống dân cư, gây chia rẽ
từ trong nội bộ gia đình, làng xóm,
thôn bản, chia rẽ dân tộc này với
dân tộc khác, làm phương hại đến
tình hình kinh tế, an ninh, trật tự
xã hội ; làm sứt mẻ khối đoàn kết
toàn dân.
Vì vậy, thực hiện một chính
sách đoàn kết tôn giáo là một mắt
xích quan trọng trong chiến lược
đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp
xây dựng đất nước và CNXH. Tư
tưởng chỉ đạo của Đảng và nhà
nước ta trong việc giải quyết các
vấn đề tôn giáo luôn thể hiện quan
điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là
không thể giải quyết các vấn đề
tôn giáo bằng các biện pháp hành
chính cực đoan mà vấn đề cốt lõi
của công tác tôn giáo là vấn đề
vận động quần chúng chức sắc tín

đồ. Khi giải quyết vấn đề tôn giáo
phải kết hợp giáo dục nâng cao ý
thức tinh thần, với việc chăm lo
nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần. Đồng thời giải quyết nhu
cầu tín ngưỡng tôn giáo của chức
sắc tín đồ tôn giáo phải đi đôi với
đấu tranh chống các thế lực thù
địch lợi dụng tôn giáo. Bên cạnh
đó, phải xác định rõ công tác tôn
giáo là trách nhiệm toàn bộ hệ
thống chính trị : của các cơ quan
Đảng nhà nước Mặt trận tổ quốc,
Ban tôn giáo, các tổ chức chính trị
xã hội và nhân dân
Văn kiện Đại hội IX đã chỉ
rõ : "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận
4-5
4-6
15
nhân dân. Thực hiện nhất quán
chính sách tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo
nào, quyền sinh hoạt tôn giáo
bình thường theo đúng pháp luật.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau, đồng bào theo
tôn giáo và đồng bào không theo

tôn giáo. Chăm lo phát triển kinh
tế, văn hóa, nâng cao đời sống
của đồng bào. Đồng bào theo
đạo và các vị chức sắc tôn giáo
có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm
công dân đối với Tổ quốc, sống
"tốt đời, đẹp đạo", phát huy
những giá trị tốt đẹp về văn hóa,
đạo đức của tôn giáo. Từng
bước hoàn thiện luật pháp về tín
ngưỡng, tôn giáo Nghiêm cấm
lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín
ngưỡng, tôn giáo để hoạt động
trái pháp luật và chính sách của
nhà nước, kích động chia rẽ
nhân dân, chia rẽ các dân tộc,
gây rối, xâm phạm an ninh quốc
gia “.
Để thực hiện tốt các quan
điểm của Nghị quyết đại hội Đảng
lần IX, Nghị quyết Hội nghị lần thứ
7 BCH TW Đảng khóa IX đã chỉ
rõ những nhiệm vụ và các giải
pháp chủ yếu trong công tác tôn
giáo như sau :
* Nhiệm vụ công tác tôn
giáo :
- Thực hiện có hiệu quả
chủ trương chính sách và các
chương trình phát triển kinh tế xã

hội nâng cao đời sống vật chất,
văn hóa của nhân dân, trong đó
có đồng bào các tôn giáo
- Tạo điều kiện cho các
tôn giáo hoạt động bình thường
theo đúng chính sách và pháp
luật của nhà nước
- Đẩy mạnh phong trào
thi đua yêu nước xây dựng cuộc
sống “tốt đời, đẹp đạo” trong
quần chúng tín đồ, chức sắc,
nhà tu hành ở cơ sở. Xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
thực hiện thắng lợi công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất
nước
- Phát huy tinh thần yêu
nước của đồng bào có đạo , tự
giác và phối hợp đấu tranh làm
thất bại âm mưu của các thế lực
thù địch lợi dung vấn đề tôn
giáo, dân tộc để phá hoại đoàn
kết dân tộc, chống đối chế độ
- Hướng dẫn các tôn
giáo thực hiện quan hệ đối ngoại
phù hợp với đường lối đối ngoại
của Đảng và nhà nước. Đẩy
mạnh thông tin tuyên truyền
chính sách tôn giáo của Đảng và
nhà nước, đấu tranh làm thất bại

những luận điệu tuyên truyền
xuyên tạc, vu khống của các thế
lực thù địch bên ngoài đối với
tình hình tôn giáo và công tác
tôn giáo ở nước ta.
- Tổng kết việc thực hiện
các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng
về công tác tôn giáo. Tăng
cường nghiên cứu cơ bản, tổng
kết thực tiễn, góp phần cung cấp
luận cứ khoa học cho việc xây
dựng và thực hiện các chủ
trương chính sách trước mắt và
lâu dài đối với tôn giáo
* Các giải pháp chủ
yếu :
- Tập trung nâng cao
nhận thức, thống nhất quan
điểm, trách nhiệm của hệ thống
chính trị và toàn xã hội về vấn đề
tôn giáo
- Tăng cường
công tác vận động quần chúng,
xây dựng lực lượng chính trị ở
cơ sở
- Tăng cường quy luật
nhà nước về tôn giáo
- Tăng cường công tác
tổ chức cán bộ làm công tác tôn
giáo

Tóm lại, tôn giáo là một
vấn đề tế nhị, nhạy cảm, dễ bị
kích động. Có chính sách tôn
giáo đúng đắn, giải quyết tốt
vấn đề tôn giáo là góp phần
quan trọng vào việc củng cố
khối đại đoàn kết nhân dân,
bảo đảm sự thành công trong
sự nghiệp xây dựng đất nước
và CNXH.

×