Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

cơ sở lý luận của hoạch định chiến lược kinh doanh trong doanh nghiệp liên hệ bánh kẹo hải châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.08 KB, 88 trang )

Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
MỞ ĐẦU
Khi nói đến sản xuất kinh doanh thì cho dù dưới hình thức nào vấn đề được
nêu ra trước tiên cũng là hiệu quả. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu phấn
đấu của một nền sản xuất, là thước đo về mọi mặt của nền kinh tế quốc dân cũng
như từng đơn vị sản xuất.
Lợi nhuận kinh doanh trong nền kinh tế thị trường là mục tiêu lớn nhất của
mọi doanh nghiệp. Để đạt được điều đó mà vẫn đảm bảo chất lượng tốt, giá thành
hợp lý, doanh nghiệp vẫn vững vàng trong cạnh tranh thì các doanh nghiệp phải
không ngừng nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh, trong đó quản lý chiến lược
kinh doanh là vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định đến kết quả và hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Công ty bánh kẹo Hải Châu là một doanh nghiệp nhà nước có bề dầy lịch sử,
hiện nay đứng trước sự vận động của nền kinh tế và sự cạnh tranh gay gắt của
ngành. Công ty cũng đang cố gắng tìm tòi sáng tạo cho mình một chiến lược phát
triển kinh doanh tương đối bền vững trên cơ sở vận dụng lý luận khoa học quản trị
chiến lược vào điều kiện thực tiễn của công ty nhằm tạo ra cho mình một chiến lược
kinh doanh trong định hướng 5-10 năm tới hoặc dài hơn nữa.
Tuy nhiên môi trường kinh doanh luôn thay đổi và việc hoạch định chiến
lược kinh doanh cũng phải điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh mới và cũng có
thể nói không thể đề ra một chiến lược được xem là hoàn hảo nhất.
Chính vì vậy trong quá trình thực tập tại Công ty bánh kẹo Hải Châu trên cơ
sở hệ thống lý thuyết đã được trang bị ở nhà trường và căn cứ vào thực tế của công
ty, em đã chủ động lựa chọn đề tài: "Hoàn thiện công tác hoạch định chiến lược
kinh doanh tại công ty Bánh kẹo Hải Châu" làm nội dung nghiên cứu cho luận
văn tốt nghiệp của mình.
Nội dung nghiên cứu là vận dụng các vấn đề lý luận cơ bản về công tác
hoạch định chiến lược kinh doanh nói chung, để từ đó xem xét vấn đề sử dụng hiệu
quả chiến lược của công ty Bánh kẹo Hải Châu, trên cơ sở đó đưa ra các ý kiến
1
1


Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
nhằm hoàn thiện công tác hoạch định chiến lược kinh doanh của Công ty trong thời
gian tới.
Luận văn tốt nghiệp bao gồm ba phần:
- Phần I: Cơ sở lý luận của hoạch định chiến lược kinh doanh trong doanh
nghiệp
- Phần II: Thực trạng công tác hoạch định chiến lược kinh doanh ở Công ty
Bánh kẹo Hải Châu
- Phần III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác hoạch định chiến
lược kinh doanh ở công ty Bánh kẹo Hải Châu trong giai đoạn 2005-2010.

2
2
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
Chương 1
Cơ sở lý luận của hoạch định chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp
1.1. Chiến lược kinh doanh và công tác hoạch định chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp:
1.1.1- Những vấn đề cơ bản về chiến lược kinh doanh của Doanh nghiệp:
1.1.1.1-Khái niệm chiến lược kinh doanh:
Nếu xét trên góc độ lịch sử thì thuật ngữ chiến lược đã có từ rất lâu bắt
nguồn từ những trận đánh lớn diễn ra cách đây hàng ngàn năm.Khi đó những người
chỉ huy quân sự muốn phân tích và đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu của quân
thù, kết hợp với thời cơ như thiên thời địa lợi nhân hoà để đưa ra những quyết định
chiến lược quan trọng đánh mạnh vào những chỗ yếu nhất của quân địch nhằm
giành thắng lợi trên chiến trường.
Tuy nhiên,ngày nay thuật ngữ chiến lược lại được sử dụng rộng rãi trong
kinh doanh.Phải chăng những nhà quản lý đã thực sự dánh giá được đúng vai trò to
lớn của nó trong công tác quản trị của Doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu

to lớn đề ra.
Vậy, chiến lược kinh doanh là gì? Và tại sao các nhà quản trị cần quan tâm
đến chiến lược kinh doanh như một nhiệm vụ hàng đầu trước khi tiến hành triển
khai các hoạt động kinh doanh của mình.Để trả lời được câu hỏi này trước hết cần
phải hiểu được chiến lược kinh doanh là gì?
* Chiến lược kinh doanh là tập hợp những quyết định và hành động kinh
doanh hướng mục tiêu để các nguồn lực của doanh nghiệp đáp ứng được những cơ
hội và thách thức từ bên ngoài.
Như vậy, theo đinh nghĩa này thì điểm đầu tiên của chiến lược kinh doanh
có liên quan tới các mục tiêu của Doanh nghiệp. Đó chính là điều mà các nhà quản
trị thực sự quan tâm. Có điều những chiến lược kinh doanh khác nhau sẽ xác định
những mục tiêu khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm, thời kỳ kinh doanh của từng
Doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc xác định, xây dựng và quyết định chiến lược kinh
doanh hướng mục tiêu là chưa đủ mà nó đòi hỏi mỗi chiến lược cần đưa ra những
3
3
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
hành động hướng mục tiêu cụ thể, hay còn gọi là cách thức làm thế nào để đạt được
mục tiêu đó.
Điểm thứ hai là chiến lược kinh doanh không phảỉ là những hành động riêng
lẻ, đơn giản.Điều đó sẽ không dẫn tới một kết quả to lớn nào cho Doanh nghiệp.
Chiến lược kinh doanh phải là tập hợp các hành động và quyết định hành động liên
quan chặt chẽ với nhau,nó cho phép liên kết và phối hợp các nguồn lực tập trung
giải quyết một vấn đề cụ thể của Doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu đề ra.Như
vậy,hiệu quả hành động sẽ cao hơn, kết quả hoạt động sẽ to lớn gấp bội nếu như chỉ
hoạt động đơn lẻ thông thường. Điều mà có thể gắn kết các nguồn lực cùng phối
hợp hành động không đâu khác chính là mục tiêu của Doanh nghiệp.
Điểm thứ ba là chiến lược kinh doanh cần phải đánh giá đúng dược điểm
mạnh, điểm yếu của mình kết hợp với những thời cơ và thách thức từ môi trường.
Điều đó sẽ giúp cho các nhà quản trị của Doanh nghiệp tìm dược nhưng ưu thế cạnh

tranh và khai thác dược những cơ hội nhằm đưa Doanh nghiệp chiếm dược vị thế
chắc chắn trên thị trường trước những đối thủ cạnh tranh.
Điểm cuối cùng là chiến lươc kinh doanh phải tính đến lợi ích lâu dài và
được xây dựng theo từng giai đoạn mà tại đó chiến lược đòi hỏi sự nỗ lực của các
nguồn lực là khác nhau tuỳ thuộc vào yêu cầu của mục tiêu đề ra ở từng thời kỳ. Do
vậy các nhà quản trị phải xây dựng thật chính xác cà chi tiết từng nhiệm vụ của
chiến lược ở từng giai đoạn cụ thể.Đặc biệt cần quan tâm tới các biến số đễ thay đổi
của môi trường kinh doanh.Bởi nó là nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới mục tiêu của
chiến lược ở từng giai đoạn.
1.1.1.2-Phân loại chiến lược kinh doanh:
Phân loại chiến lược kinh doanh là một công việc quan trọng mà tại đó các
nhà quản trị cần lựa chọn những chiến lược phù hợp với mục tiêu đề ra cũng như
phù hợp với nhiệm vu, chức năng của từng bộ phận trong doanh nghiệp hay toàn
doanh nghiệp.Xét theo quy mô và chức năng lao động sản xuất kinh doanh của
Doanh nghiệp mà nhà quản trị có thể lựa chọn ba chiến lược cơ bản sau:
a- Chiến lược công ty:
Đây là chiến lược cấp cao nhất của tổ chức hoặc doanh nghiệp có liên quan
đến các vấn đề lớn,có tính chất dai hạn và quyết định tương lai hoạt động của
4
4
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
doanh nghiệp.Thường thì chiến lược công ty chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự biến
động rất lớn của cơ cấu ngành kinh doanh của doanh nghiệp.Điều đó ảnh hưởng
không nhỏ tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.Nó dẫn tới một hệ
quả là doanh nghiệp co tiếp tục theo đuổi hoạt động trong lĩnh vực đó hay không?
hay doanh nghiệp nên tham gia vào lĩnh vực khác mà tại đó lợi nhuận nói riêng hay
các mục tiêu nào đó dễ dàng đạt được và đạt được với hiệu quả cao hơn.Và tương
lai của doanh nghiệp sẽ phụ thuộc vào quyết định đó. Điều tất nhiên là chiến lược
công ty được thiết kế, xây dựng, lựa chọn và chịu trách nhiệm ở cấp cao nhất trong
doanh nghiệp như hội đồng quản trị,ban giám đốc,các nhà quản trị chiến lược cấp

cao…
b- Chiến lược cạnh tranh:
Đây là chiến lược cấp thấp hơn so với chiến lược công ty.Mục đích chủ yếu
của chiến lược cạnh tranh là xem xét doanh nghiệp có nên tham gia hay tiến hành
cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong một lĩnh vực cụ thể.Nhiệm vụ chính
của chiến lược cạnh tranh là nghiên cứu những lợi thế cạnh tranh mà doanh nghiệp
đang có hoặc mong muốn có để vượt qua các đối thủ cạnh tranh nhằm giành một vị
thế vững chắc trên thị trường.
c- Chiến lược chức năng:
Là chiến lược cấp thấp nhất của một doanh nghiệp. Nó là tập hợp những
quyết định và hành động hướng mục tiêu trong ngắn hạn(thường dưới 1 năm) của
các bộ phận chức năng khác nhau trong một doanh nghiệp. Chiến lược chức năng
giữ một vai trò quan trọng bởi khi thực hiện chiến lược này các nhà quản trị sẽ khai
thác được những điểm mạnh của các nguồn lực trong doanh nghiệp. Điều đó là cơ
sở để nghiên cứu xây dựng lên các ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp hỗ trợ cho
chiến lược cạnh tranh.Thông thường các bộ phận chức năng của doanh nghiệp như
bộ phận nghiên cứu và triển khai thị trường, kế hoạch vật tư, quản lý nhân lực, tài
chính kế toán, sản xuất…sẽ xây dựng lên các chiến lược của riêng mình và chịu
trách nhiệm chính trứơc hội đồng quản trị, ban giám đốc về các kết quả đạt được.
1.1.1.3-Vai trò của chiến lược kinh doanh đối với hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp:
5
5
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
Trước hết chúng ta phải khẳng định rằng mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
phải hướng vào mục tiêu xác định. Mục tiêu đó sẽ là động lực chính thúc đẩy doanh
nghiệp nỗ lực hành động để đạt được nó. Thường thì các doanh nghiệp hoạt động
sản xuất kinh doanh đều có những mục tiêu giống nhau là xâm nhập thị trường, tăng
lợi nhuận, mở rộng thị phần,…Nếu như các mục tiêu này không được xác lập rõ
ràng thì chẳng khác nào doanh nghiệp bước trên cái cầu bấp bênh, có nguy cơ đổ

sụp xuống trước những biến động không ngừng của thi trường. Do vậy yếu tố cần
thiết nhất khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh là phải có mục tiêu rõ ràng.
Nhưng thực tế đặt ra rằng để xác định được mục tiêu thì cần phải tiến hành các hoat
động nghiên cứu, đánh giá và phân tích các yếu tố như thị trường,nhu cầu thị
trường,môi trường kinh doanh, công nghệ,…để hình thành lên mục tiêu.Đồng thời
phải có các căn cứ về nguồn lực là cơ sở xây dựng mục tiêu. Để làm được điều này
nhất thiết phải có chiến lược kinh doanh.Như vậy chiến lược kinh doanh có vai trò
thứ nhất là xác lập có căn cứ,có cơ sở những mục tiêu cho Doanh nghiệp.
Vai trò thứ hai của chiến lựơc kinh doanh là cách thức phối hợp mọi nguồn
lực tập trung vào giải quyết một mục tiêu cụ thẻ của doanh nghiệp.Tại sao chiến
lược kinh doanh lại làm được điều đó?Trước hết ta phải xem xét cơ cấu tổ chức của
một doanh nghiệp.Về cơ cấu tổ chức,doanh nghiệp bao gồm các bộ phận chức năng
khác nhau như phòng tổ chức,phòng hành chính,phòng tài vụ,phòng kế hoạch vật
tư,phòng marketing,…Mỗi phòng ban này sẽ đảm trách từng nhiệm vụ cụ thể mà
chức năng của nó quy định.Do sự phân chia theo chức năng như vậy nên các bộ
phận này hoạt động hoàn toàn độc lập và chịu sự quản lý của cấp cao hơn là ban
giám đốc.Nếu chỉ hoạt động thông thường một cách riêng lẻ thì quả hoạt động đem
lại cho doanh nghiệp là không đáng kể vì các nguồn lực của bộ phận này là giới
hạn.Vậy yêu cầu đặt ra là phải có một cách thức nào đó cho phép liên kết,phối hợp
các nguồn lực riêng biệt này thành một nguồn lực tổng thể phục vụ cho mục tiêu
chung của doanh nghiệp.Đó chính là chiến lược kinh doanh.Như vậy chiến lược
kinh doanh sẽ khai thác được những ưu thế cạnh tranh từ sự phối hợp giữa các
nguồn lực này .
Vai trò thứ ba của chiến lược kinh doanh là đề ra được cách thức hành động
hướng mục tiêu sát thực tế hơn, hiệu quả hơn.Bởi lẽ mọi quyết định và hành động
6
6
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
đều dựa trên sự phân tích và đánh giá thực trạng điểm mạnh, điểm yếu của doanh
nghiệp cũng như nhưng thời cơ và đe dọa của môi trương kinh doanh.Tất cả đều

được phản ánh chính xác trong chiến lược kinh doanh.Do vậy, mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh sẽ gắn chặt với thực trạng của doanh nghiệp.Các nhà quản trị biết
được sẽ khai thác những ưu thế cạnh tranh nào,tận dụng nhưng thời cơ nào.Một kết
quả tất yếu là hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ rất cao.
1.1.1.4-Nội dung của chiến lược kinh doanh:
Chiến lược kinh doanh không chỉ là những mục tiêu mà còn gồm chương
trình hành động hướng mục tiêu.Tất cả được thể hiện cụ thể trong mỗi chiến lược
mà doanh nghiệp lựa chọn.
Về mục tiêu của chiến lược kinh doanh,các nhà quản trị doanh nghiệp sẽ xác
định đâu là mục tiêu quan trọng nhất,chủ yếu nhất mà doanh nghiệp muốn đạt
được.Có điều là doanh nghiệp cần phải giải quyết những mục tiêu nhỏ khác để có
cơ sở thực hiện mục tiêu chính.Mỗi một mục tiêu nhỏ có những nhiệm vụ riêng,cần
được phân chia thực hiện theo chức năng của từng bộ phận trong doanh nghiệp.Mối
liên kết chặt chè giữa các mục tiêu nhỏ và mục tiêu lớn là căn cứ đảm bảo chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp là có tính khả thi.
Về chương trình hành động là cách thức triển khai thực hiện mục tiêu đặt ra.
Những cơ sở để xây dựng chương trình dựa trên các nguồn lực của doanh
nghiệp.Cách thức triển khai chính là sử dụng các nguồn lực này để giải quyết từng
nhiệm vụ được chi tiết rõ trong từng mục tiêu con.Tuy nhiên chương trình phải có
sự sắp xếp thứ tự hợp lý không gây xáo trộn khi triển khai.
1.1.2- Một vài nét về quản trị chiến lược kinh doanh trong Doanh nghiệp:
1.1.2.1-Khái niệm quản trị chiến lược kinh doanh:
* Quản trị chiến lược kinh doanh là một loạt các bước mà các thành viên của
doanh nghiệp phải thực hiện như phân tích tình hình hiên tại,quyết định những
chiến lược,đưa những chiến lược này vào thực thi và đánh giá/điều chỉnh/thay đổi
những chiến lược khi cần thiết.Nó bao gồm tất cả các chức năng cơ bản của quản
trị: Lập kế hoạch,tổ chức,lãnh đạo va kiểm soát.
* Như vậy nếu so sánh với Quản trị Doanh nghiêp thì quản trị chiến lược
kinh doanh nhấn mạnh đến các vấn đề sau:
7

7
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
- Quản trị chiến lược kinh doanh có trọng tâm bên ngoài.Vì khi tiến hành
quản trị chiến lược các nhân viên của doanh nghiệp phảI phân tích và đánh giá môI
trường bên ngoàI như tình hình kinh ttrong và ngoàI nước,của ngành nghề kinh
doanh,các đối thủ cạnh tranh,những biến đổi của thị trường có thể ảnh hưởng tới
quyết định và hành động của chiến lược.
- Quản trị chiến lược kinh doanh có trọng tâm bên trong.Vì nó nhấn mạnh
tới mối tương tác của những lĩnh vực và hoạt động chức năng khác nhau của doanh
nghiệp.Các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp không được xây dựng và thực
hiện biêt lập, mà nó được xây dựng va thực hiện trên sự liên kết và phối hợp của các
chức năng với nhau .Quản trị chiến lược sẽ tạo ra sự phối hợp này.
-Quản trị chiến lược kinh doanh có trọng tâm tương lai.Vì đó là cách thức
quản trị một tiến trình hành động đã được định sẵn với những mục tiêu cụ thể.
1.1.2.2-Vai trò của quản trị chiến lược kinh doanh:
Một trong những lý do tại sao hiểu được quản tri chiến lược quan trọng là
liệu các nhân viên quản lý chiến lược có tạo ra được sự khác biệt về kết quả hoạt
động của doanh nghiệp hay không?Các nhà nghiên cứu đã tìm ra câu trả lời tổng
quát qua một loạt các nghiên cứu là co tồn tại mối quan hệ tích cực giữa kế hoạch
chiến lược và kết quả hoạt động.Dường như các doanh nghiệp sử dụng kỹ thuật
quản trị chiến lược để nâng cao kết quả họat động.Nếu quản trị chiến lược ảnh
hưởng tới kết quả hoạt đọng sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp thì đó chính là
vai trò quan trọng hàng đầu của nó.
Vai trò thứ hai của quản trị chiến lượclà cách thức quản trị hữu hiệu giúp
cho doanh nghiệp có thể đối phó với các tình huống thay đổi. Những thayđổi đó có
thể là nhỏ hoặc lớn,nhưng luôn có sự thay đổi để đối phó. Để đối phó có hiệu quả
với những biến động của môi trường bên trong và ngoài công ty,nhằm đạt được kết
quả mong muốn là một thử thách thật sự. Tuy nhiên đó chính là nơi để quản tri
chiến lược ra tay. Bằng viêc tuân thủ một cách hệ thống quá trình quản trị chiến
lược,các nhà quản trị sẽ xem xét tất cả các vấn đề quan trọng để đưa ra nhưng quyết

định phù hợp nhất.
Vai trò thứ ba của quản trị chiến lược đó là thông qua đó các bộ phận chứ
năng, những công việc khác nhau có thể phối hợp và tập trung để đạt được mục tiêu
8
8
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
chung. Quá trình quản trị chiến lược thực hiên được mục đích này. Khi họ quản trị
chiến lược,những nhân viên đại diện cho tất cả các góc độ khác nhau của doanh
nghiệp, từ sản xuất, tiếp thị đến kế toán và ở tất cả các cấp tham gia xây dựng và
thực hiện chiến lược giúp cho doanh nghiệp thực hiện được mục tiêu đề ra.
1.1.2.3-Nội dung của quản trị chiến lược kinh doanh:
* Công tác hoạch định:
Là một quá trình hoạt động để định ra các mục tiêu,xác lập những phương
tiện và nguồn lực cần thiết đạt được những mục tiêu, đồng thời xác định các giai
đoạn thực hiện và cho phép hướng dẫn mỗi thành viên trong doanh nghiệp biết
mình phải làm gì
Những điểm cần lưu ý trong hoạch định:
- Hoạch định không phải là dự báo mà là một quá trình xác lập có căn cứ,có
thực tế những vấn đề quyết định tương lai cuả doanh nghiệp
- Hoạch định để lường trước được những rủi ro cho doanh nghiệp.
- Hoạch định có mục đích soạn thảo lên một kế hoạch các hành động.
* Công tác tổ chức:
Là một quá trình vận dụng cấu trúc tổ chức cho phép các cá nhân
hợp tác với nhau để cùng đạt được mục đích chung.Một cách cụ thể thì công tác tổ
chức xác định những nhiệm vụ,thiết lập những mối liên hệ quyền lực, sự hợp tác và
trao đổi thông tin để thực thi nhiệm vụ.
* Công tác lãnh đạo:
Là công việc liên kết giữa các cá nhân với nhau cùng tiến hành triển khai một
công việc chung.Trong đó các nhà quản trị cần phải nắm rõ từng công việc phân
chia và biết cách sử dụng người thích hợp giải quyết công việc.

* Công tác kiểm soát:
Là một quá trình cho phép các nhà quản trị đánh giá được hiệu quả của công
việc,so sánh các kết quả đạt được với những kế hoạch, những mục tiêu đặt ra và sử
dụng các phương pháp điều chỉnh thích hợp để đạt được mục tiêu như ý muốn.
1.1.2.4-Mối liên hệ trong quản trị chiến lược kinh doanh
Quản trị chiến lược kinh doanh là một hoạt động phối hợp các công tác
hoạch định,tổ chức,lãnh đạo và kiểm soát nhằm quản trị có hiệu quả một chiến lược
9
9
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
kinh doanh của doanh nghiệp.Mỗi một công tác có một vai trò hết sướ quan trọng
mà thiêu nó các nhà quản trị không thể đảm bảo được hoạt động hướng mục tiêu
của doanh nghiệp sẽ dạt được các kết quả mong muốn.
Các nhà quản trị có thực hiện tốt công tác hoạch định thì mới tiến hành tốt các
bước tiếp theo được.Vì hoạch định sẽ đinh ra được cá mục tiêu,các nhiệm vụ cần
thiết.Đó chính là cơ sở cho các nhà quản trị phân chia công việc, điều tiết các nguồn
lực cần thiết để triển khai thực hiện.Đồng thời đó cũng là căn cứ để các nhà quản
ttrị xây dựng các mối quan hệ quyền lực,các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau
trong quá tình thực hiện.Cuối cùng thì công tác kiểm soát là so sánh kết quả đạt
được với cá mục tiêu đặt ra.Ngược lại khi các nhà quản trị xây dựng các mục tiêu
cho một chiến lược thì phải căn cứ trên cấu tấuc tổ chức của doanh nghiệp mà các
nhà quản trị đã thiết lập thì khi tiến hành hiệu quả công việc. Như vậy giữa các
bước của quản trị chiến lược kinh doanh có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
1.2- Khái niệm, mục đích và nội dung của hoạch định chiến lược kinh doanh trong
doanh nghiệp
1.2.1-Khái niệm và mục tiêu của hoạch định chiến lươc kinh doanh
Hiện nay tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về công tác hoạch định chiến
lược kinh doanh trong doanh nghiệp của các tác giả như:
Theo Anthony: “Hoạch định chiến lược là một quá trình quyết định các mục
tiêu của doanh nghiệp,về những thay đổi trong các mục tiêu,về sử dụng các nguồn

lực để đạt được các mục tiêu, các chính sách để quản lý thành quả hiện tại, sử dụng
và sắp xếp các nguồn lực.” (Quản trị chiến lược - Tác giả Phạm Lan Anh- NXB
Khoa học và Kỹ thuật)
Theo Denning: “Hoạch định chiến lược là xác định tình thế kinh doanh trong
tương lai có liên quan đặc biệt tới tình trạng sản phẩm-thị trường,khả năng sinh lợi,
quy mô, tốc độ đổi mới, mối quan hệ với lãnh đạo, người lao động và công việc
kinh doanh.” (Quản trị chiến lược - Tác giả Nguyễn Ngọc Tiến- NXB Lao động)
Tuy các tác giả có cách diễn đạt quan diểm của mình khác nhau nhưng xét
trên mục đích thống nhất của hoạch định chiến lược thì ý nghĩa chỉ là một. Và nó
được hiểu một cách đơn giản như sau:
10
10
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
• Hoạch định chiến lược kinh doanh là việc xác định các mục tiêu của doanh
nghiệp và các phương pháp được sử dụng để thực hiên các mục tiêu đó.
1.2.2-Mục đích của công tác hoạch định chiến lược kinh doanh
1.2.2.1-Mục đích dài hạn
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt dộng kinh doanh luôn nghĩ
tới một tương lai tồn tại và phát triển lâu dài.Vì điều đó sẽ tạo cho doanh nghiệp thu
được những lợi ích lớn dần theo thời gian.Công tác hoạch định chiến lược kinh
doanh sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp có một tương lai phát triển lâu dài và bền
vững.Các phân tích và đánh giá về môi trường kinh doanh,về các nguồn lực khi xây
dựng một chiến lược kinh doanh luôn được tính đến trong một khoảng thời gian dài
hạn cho phép(ít nhất là 5 năm).Đó là khoảng thời gian mà doanh nghiệp có đủ điều
kiện để sử dụng hiệu quả các nguồn lực của mình cũng như khai thác các yếu tố có
lợi từ môi trường. Lợi ích có được khi thực hiện chiến lược kinh doanh phải có sự
tăng trưởng dần dần để có sự tích luỹ đủ về lượng rồi sau đó mới có sự nhảy vọt về
chất. Hoạch định chiến lược kinh doanh luôn hướng những mục tiêu cuối cùng ở
những điều kiện tốt nhất để doanh nghiệp để doanh nghiệp đạt được với hiệu quả
cao nhất.Có điều kiện tốt thì các bước thực hiện mới tốt,làm nền móng cho sợ phát

triển tiếp theo.Ví dụ: khi doanh nghiệp thực hiện chiến lược xâm nhập thị trường
cho sản phẩm mới thì điều tất yếu là doanh nghiêp không thể có ngay một vị trí tốt
cho sản phẩm mới của mình,mà những sản phẩm mới này cần phải trải qua một thời
gian thử nghiệm nào đó mới chứng minh được chất lượng cũng như các ưu thế cạnh
tranh khác của mình trên thị trường.Làm được điều đó doanh nghiệp mất ít nhất là
vài năm.Trong quá trình thực hiện xâm nhập thị trường doanh nghiệp cần phải đạt
được các chỉ tiêu cơ bản nào đó làm cơ sở cho sự phát triển tiếp theo.Sau đó doanh
nghiệp cần phải củng cố xây dựng hình ảnh thương hiệu của sản phẩm trên thị
trường.Đó là cả một quá trình mà doanh nghiệp tốn kém rất nhiều công sức mới có
thể triển khai thành công.
1.2.2.2-Mục đích ngắn hạn:
Hoạch dịnh chiến lược kinh doanh sẽ cho phép các bộ phận chức năng cùng phối
hợp hành động vơí nhau để hướng vào mục tiêu chung của doanh nghiệp.Hơn nữa
mục tiêu chung không phải là một bước đơn thuần mà là tập hợp các bước,các giai
11
11
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
đoạn.Yêu cầu của chiến lược kinh doanh là giải quyết tốt từng bước,từng giai đoạn
dựa trên sự nỗ lực đóng góp của các bộ phận chức năng này.Do vậy mục đích ngắn
hạn của hoạch định chiến lược kinh doanh là tạo ra những kết quả tốt đẹp ở từng
giai đoạn trên cơ sở giải quyết các nhiệm vụ của từng giai đoạn đó.
1.2.3 - Nội dung của công tác hoạch định chiến lược kinh doanh:
1.2.3.1-Phân tích môi trương cạnh tranh của doanh nghiệp:
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp được xem xét như một yếu tố tác
động quan trọng tới các hoạt động của doanh nghiệp mà doanh nghiệp không thể
tránh khỏi khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh.Chúng ta có thể hiểu
được điều tất yếu đó nếu nhận thức được doanh nghiệp như là một hệ thống mở.Mà
tại đó các bộ phận không chỉ tương tác với nhau theo một liên kết lôgic mà còn chịu
tác động chi phối của môi trường bên ngoài.Hệ thống sẽ tiếp nhận những yếu tố đầu
vào và qua quá trình xử lý sẽ cho sản sinh các yếu tố đầu ra.Như vậy giữa doanh

nghiệp và môi trường có sự tương tác hữu cơ,tác động qua lại.Đó mới chỉ là cách
hiểu đơn giản về vai trò của môi trường đối với doanh nghiệp.Nếu hiểu rõ nắm bắt
chắc chắn những đặc tính và nhữn biến đổi của môi trường kinh doanh thì các nhà
quản trị sẽ khai thác được những thời cơ và thuận lợi đem lại từ môi trường như yếu
tố đầu vào hiệu quả và đầu ra thích hợp.Trong nền kinh tế phát triển đa dạng và
phức tạp thì sư nắm bắt môi trừơng sẽ rất là khó khăn do sự xuất hiện của quá nhiều
thông tin gây nhiễu,cần phải được lựa chọn kỹ càng.Đồng thời không chỉ có một
doanh nghiệp tham gia khai thác những tiềm năng từ môi trường mà còn rất nhiều
doanh nghiệp khác co cùng mối quan tâm.Chính điều đó tạo nên sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp với nhau về các nguồn lực từ môi trường.
Trước khi phân tích môi trường kinh doanh cuả doanh nghiệp,chúng ta cần
phải xem xét các quan điểm của môi trường về tổ chức.
* Môi trường với quan điểm thông tin:Trong cách tiếp cận này,môi trường
được xem như một nguồn thông tin giúp cho việc ra quyết định.Khía cạnh chủ yếu
của cách tiếp cận này là ý tưởng về tính dễ thay đổi của môi trường,được xác định
bằng số lượng những thay đổi và tính phức tạp cuả môi trường doanh nghiệp.Nếu
môi trường của doanh nghiệp thay đổi nhanh quá,thì môi trường được xếp vào loại
biến đổi.Nếu ít thay đổi và diễn ra chậm,thì môi trường đó ổn định.
12
12
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
* Môi trường với quan điểm là nguồn gốc của mọi nguồn lực:Trong cách
tiếp cận này,môi trường được coi như một nguồn lực cần thiết và quý hiếm mà các
đối thủ cạnh tranh đang tìm kiếm.khi môi trường trở lên thù địch (có nghĩa là việc
khai thác và kiểm soát trở nên khó khăn) các doanh nghiệp ở trong trạng thái không
ổn định hơn.Trong điều kiện không ổn định,các nhà quản trị cần tìm cách để giành
lấy và kiểm soát những nguồn lực quan trọng đó.Họ làm như vậy thông qua việc
theo dõi môi trường,ra các quyết định đúng đắn dựa trên những gì họ thấy đang
diễn ra và luôn ghi nhớ rằng môi trường là nguồn gốc của nguồn lực quý báu đó.
a- Môi trường vĩ mô:

Bao gồm những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng gián tiếp tới doanh nghiệp và
doanh nghiệp hầu như không thể kiểm soát được. Những yếu tố này biểu lộ các xu
thế hay hoàn cảnh biến đổi có thể có,tác động tích cực(cơ hội) hay tiêu cực( đe doạ)
đối với doanh nghiệp.Tuy nhiên không phải điều gì xảy ra ở những lĩnh vực này đều
là cơ hội hay là đe doạ.Rất nhiều thay đổi xảy ra không ảnh hưởng tý nào tới doanh
nghiệp.Chúng ta quan tâm tới năm lĩnh vực môi trừơng vĩ mô sau:
* Môi trường kinh tế: Là lĩnh vực kinh tế bao gồm tất cả mọi số liệu kinh tế
vĩ mô, các số liệu thống kê hiện nay,các xu thế và thay đổi đang xảy ra.Nhưng số
liệu thống kê này rất có ích cho việc đánh giá ngành kinh doanh và môi trường cạnh
tranh của doanh nghiệp.Những thông tin kinh tế bao gồm:lãi suất ngân hàng,tỉ giá
hối đoái và giá đô la,thặng dư hay thâm hụt ngân sách,thặng dư hay thâm hụt
thương mại,tỉ lệ lạm phát,tổng sản phẩm quốc dân,kết quả chu kỳ kinh tế,thu nhập
và chi tiêu của khách hàng,mức nợ,tỉ lệ thất nghiệp,năng suất lao động.Khi xem xét
những con số thống kê này,các nhà quản tị cần quan tâm tới những thông tin hiện có
và những xu thế dự báo.Và điều cần là xem sự tác động cua nó như thế nào tới
doanh nghiệp.Ví dụ việc tăng lãi suất ngân hàng là có lợi hay có hại tới doanh
nghiệp….
* Môi trường dân số:Là lĩnh vực dân số mà các nhà quản trị cần quan tâm
bao gồm các thông tin như:giới tính,tuổi,thu nhập,cơ cấu chủng tộc,trình đọ giáo
dục,sở thích,mật độ dân cư,vị trí địa lý,tỉ lệ sinh,tỉ lệ thất nghiệp,…Điều cần nhất là
phải đánh giá đúng xu thế và thay đổi của dân số. Các thông tin này sẽ xác lập nên
tập khách hàng hiện tại và tiềm năng của doanh nghiệp trong tương lai.Hơn nữa,các
13
13
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
nhà quản trị sẽ biết đươc nhiều những cơ hội về thị trường mà doanh nghiệp đang
có và những thị trường mà doanh nghiệp muốn thâm nhập.
* Môi trường văn hoá xã hội: được hiểu như những giá trị sống tinh thần của
mỗi dân tộc,mỗi đất nước.Nó tạo ra những đặc tính riêng trong cách tiêu dùng cua
người dân cũng như những hạn chế vô hình mà các doanh nghiệp bắt gặp khi thâm

nhập thị trường.Do vậy cần phải nghiên cứu kỹ để tránh khỏi những phản ứng tiêu
cực của người dân do xâm hại tới những giá trị truyền thống của họ.Nghiên cứu kỹ
môi trường này, các nhà quản trị sẽ tránh được những tổn thất không hay làm giảm
uy tín của doanh nghiệp.Đó cũng là những căn cứ cần thiết để xác lập những vùng
thị trường có tính chất đồng dạng với nhau để tập trung khai thác.
* Môi trường chính trị pháp luật: bao gồm các quy định,các điều luật của nhà
nước có liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Những sự
thay đổi rất có thể làm biến đổi những luật chơi,đồng thời cũng lám phát sinh những
khó khăn cho doanh nghiệp .Không chỉ quan tâm tới vấn đề pháp luật mà doanh
nghiệp còn phải quan tâm tới các đảng phái chính trị tham gia cầm quyền.Bởi mỗi
lần thay đổi chính quyền là một loạt các chính sach mới ra đời.
* Môi trường công nghệ: Sự tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ đã
làm tăng năng suất lao động cũng như cho ra những thế hệ sản phẩm mới với nhiều
tính năng độc đáo.Điều đó tạo ra sức cạnh tranh lớn cho những doanh nghiệp nào
nắm bắt được những công nghệ tiên tiến đó.Đồng thời đi kèm theo sự tiến bộ đó là
xu thế phát triển của xã hội.Nó làm biến đổi nhu cầu của người dân từ thấp tới cao,
đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự nỗ lực lớn về công nghệ để đáp ứng được những
nhu cầu đó….
b- Môi trường đặc thù: bao gồm những thành phần bên ngoài mà doanh
nghiệp chịu tác động trực tiếp.Cụ thể la môI trường đặc trưng gồm các biến số cạnh
tranh và công nghiệp.Một ngành công nghiệp có thể định nghĩa là một nhóm hoặc
những nhóm doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những sản phẩm tương tự hoặc như
nhau.Những doanhnghiệp này cạnh tranh với nhau giành khách và đảm bảo nhưng
nguồn lực cần thiết(đầu vào) để biến đổi(quá trình xử lý) thành các sản phẩm(đầu
ra).Một trong những cách được sử dụng phổ quát nhất để phân tích và đánh giá
14
14
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
nhưng thông tin về môI trường đặc trưng là mô hình năm lực lượng do Michael
Porter xây dựng.Nội dung của các lực lượng đó như sau:

* Thị trường các nhà cung ứng:Là một trong những nhân tố quan trọng ảnh
hưởng trực tiếp tới các hoạt động của doanh nghiệp.Khi nhìn nhận doanh nghiệp
như một hệ thống mở thì điều tất yếu là doanh nghiệp sẽ phải tiếp nhận những yếu
tố đầu vào cung ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.Như vậy, Doanh nghiệp sẽ
phải phụ thuộc rất nhiều vào các nhà cung ứng.Một sự chọn lựa không chính xác sẽ
dẫn tới một hậu quả là doanh nghiệp sẽ không được dáp ứng đầy đủ những gì cần
thiết phục vụ quá trình sản xuất của mình.Hoặc một sự phản ứng tiêu cực của nàh
cung ứng cũng coá thể làm gián đoạn sự liên tuc của quá trình sản xuất kinh
doanh.Ví dụ như nhà cung ứng giao hàng không đúng hẹn hoặc như chất lượng
không đúng trong hợp đồng cam kết.Do vậy,doanh nghiệp hết sức quan tâm tới thị
trường này,cần có những chính sách lựa chọn các nàh cung ứng theo nguyên tắc
không bỏ trứng vào một giỏ.Điều đó sẽ cho phép doanh nghiệp tránh được những
rủi ro đem lại từ nhã cung cấp khi họ có những ý định thay đổi các điều kiện hợp
tác.Mặt khác cần lựa chọn những nhà cung cấp truyền thống,đảm bảo cho doanh
nghiệp khai thác được tính ưu thế trong kinh doanh như giảm chi phí nghiên cứu
đầu vào,nợ tiền hàng để quay vòng vốn…Ngoài ra sự cạnh tranh của các nhà cung
ứng cĩng là những đIều kiên tốt để doanh nghiệp xác định được chất lượng,cũng
như giá cả của đầu vào.
* Thị trường khách hàng: Đây là một trong những thi trường quan trọng nhất
của doanh nghiệp.Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả
hay không là phản ánh rõ ràng trên thị trường này thông qua các chỉ tiêu như doanh
thu,lợi nhuận,khả năng cạnh tranh,khả năng xâm nhập thị trường mới…Sự đòi hỏi
của khách hàng về chất lượng và giá cả luôn là thách thức đối với mỗi doanh
nghiệp.Nếu không đáp ứng được những yêu cầu đó,họ sẽ chuyển nagy sang tiêu
dùng loại sản phẩm khác thay thế hoăc lựa chọn hàng hoá của doanh nghiệp khác để
thoả mãn nhu cầu của họ với chi phí thấp nhất.Điều đó lại làm cho doanh nghiệp
phảI tăng chi phí cho nghiên cứu để tạo ra những sản phẩm mong muốn đó của
khách hàng,đồng thời phải tìm kiếm những giải pháp tiết kiệm chi phí đầu vào để
giảm giá thành sản xuất và tăng năng suất lao động.Điều đó thật khó vì trong đó tồn
15

15
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
tại những mâu thuẫn giữa chi phí đầu vào và giá cả đầu ra. Nếu Doanh nghiệp
không làm được điều đó chứng tỏ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp rất thấp và
doanh nghiệp dễ dàng bị đánh bật ra khỏi thi trường bởi các đối thủ cạnh tranh.Nên
nhớ rằng khách hàng là người quyết định trong việc mua sắm nên hoạt động kinh
doanh phải hướng vào khách hàng,coi khách hàng là xuất phát điểm.Làm được như
vậy doanh nghiệp mới thu hút được khách hàng đồng thời giữ được khách hàng của
mình.Việc xác lập những tập khách hàng khác nhau như khách hàng tiềm
năng,khách hàng truyền thống cũng chiếm một vai trò rất quan trọng tới hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp.Doanh nghiệp sẽ khai thác hiệu quả các tập khách
hàng này nếu như phân tích và đánh giá chính xác các thông số marketing có liên
quan tới khách hàng như thu nhập,sở thích,nhu cầu,…để đưa ra những sản phẩm
thích hợp đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng.
* Sự đe dọa của các đối thủ cạnh tranh tiềm năng:Đây là mối lo lắng thường
trực của các doanh nghiệp không chỉ của riêng một doanh nghiệp nào.Với một
ngành kinh doanh không phảI chỉ có riêng mọt doanh nghiệp tha gia phục vụ mà
còn có rất nhiều các doanh nghiệp khác cũng cùng có mối quan tâm để khai thác
những lơii ích to lớn đem lại từ số đông khách hàng.Cũng giống như quy luật sinh
tồn thì sự sống sẽ thuộc về những kẻ mạnh.Trong thương trường cũng vậy không có
sự tồn tại cuả khái niệm nhân đạo. Mọi Doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình
những cách thức riêng, có thể chống chọi với các đối thủ cạnh tranh để tồn tại và
phát triển. Các đối thủ cạnh tranh sẽ sử dụng những ưu thế của mình để thu hút ca
lôi kéo khách hàng về phía họ bằng các chính sách khôn khéo có lợi cho khách
hàng,hoặc bằng những sản phẩm mới đáp ứng được tốt nhất nhu cầu đa dạng và
phong phú của khách hàng.Sự lớn mạnh của các doanh nghiệp do liên doanh, liên
kết đem lại,hoặc sự xuất hiện của các đối thủ cạnh tranh lớn khác đến từ bên ngoài
sẽ tạo ra một thách thức rất lớn cho các doanh nghiệp nhỏ hơn do không khai thác
được tính kinh tế theo quy mô,và công nghệ hiện đại. Nhưng thực tế lại chứng minh
sự tồn tại của các doanh nghiệp này một cách thuyết phục bởi lẽ các Doanh nghiệp

nhỏ biết chuyển hướng cạnh tranh sang một trạng thái khác,tránh hiện tượng đối
đầu vơí các doanh nghiệp lớn. Các công cụ hữu dụng mà các doanh nghiệp biết tập
16
16
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
trung khai thác lợi thế từ nó như: chính sách về sản phẩm, chính sách về giá, chính
sách phân phối,chính sách khuếch trương và xúc tiến thương mại,….
* Sự đe doạ của sản phẩm thay thế:Trong tiêu dùng thì nhu cầu của khách
hàng luôn thay đổi ngoại trừ những nhu cầu thiết yếu của đời sống như gạo,nước,…
Những mong muốn của khách hàng la muốn chuyển sang tiêu dùng một loại sản
phẩm mới khác co thể thay thế được nhưng phải có sự khác biệt.Sự ra đời của loại
sản phẩm mới sẽ là thách thức lớn cho Doanh nghiệp vì sẽ có một bộ phận khách
háng sẽ quay lưng lại với những sản phẩm cũ.Điều đó sẽ làm cho Doanh nghiệp
mất đi một lượng khách hàng to lớn và không đảm bảo cho doanh nghiệp thu được
lợi ích từ khách hàng. Yêu cầu đặt ra là phải làm thế nào chống chọi đươc với
những sản phẩm thay thế đó. Doanh nghiệp không thể vứt bỏ công nghệ cũ của
mĩnh để theo đuổi một công nghệ mới khác. Nhiệm vụ là các doanh nghiệp phải cải
tiến công nghệ,tạo ra những đặc tính hay đơn giản chỉ là những thay đổi bên ngoài
của sản phẩm cải tiến để níu giữ và thu hút thêm được khách hàng mới.
* Sự cạnh tranh hiện tại giữa các doanh mghiệp trong ngành: Một lĩnh vực
hoạt động hiêu quả là một lính vực hứa hẹn nhiều lợi nhuận đem lại nhưng đó cũng
là lĩnh vực thu hút nhiều các đối thủ cạnh tranh,tạo nên sự khắc nghiệt trong lĩnh
vực đó.Đó chính là mức độ cạnh tranh của ngành.Vậy điều gì ảnh hưởng đến mức
độ cạnh tranh?
Theo M.Porter thì co tám điều kiện ảnh hưởng tới mức độ cạnh tranh của các
đối thủ hiện hành:
- Số lượng các đối thủ cạnh tranh hiện hành
-Mức tăng trưởng công nghiệp chậm
-Điều kiện chi phí lưu kho hay chi phí cố định cao
-Sự thiếu hụt chi phí để dị biệt hoá hay chuyển đổi

-Công suất phải được tăng với mức lớn
-Đối thủ đa dạng
-Đặt chiến lược cao
-Sự tồn tại của rào cản xuất thị.
1.2.3.2-Phân tích các nguồn lực bên trong và bên ngoài:
17
17
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
Các doanh nghiệp khi xây dựng các chiến lược kinh doanh luôn phải căn cứ
trên các khả năng có thể khai thác của mình.Đó chính là những tiềm lực tạo ra
những lơị thế cạnh tranh khác biệt với các doanh nghiệp khác.Nhưng các tiềm lực
đó bắt nguồn từ đâu?Câu trả lời nằm ở chính những nguồn lực mà doanh nghiệp sở
hữu,bao gồm nguồn lực bên trong và bên ngoài.Các nguồn lực này đóng vai trò như
các yếu tố đầu vào mà thiếu nó thì doanh nghiệp không hoạt động được.Các yếu tố
đầu vào này có thể có hiệu quả hoặc không tuỳ thuộc vào yêu cầu đòi hỏi của từng
chiến lược kinh doanh.Sự tham gia đóng góp của các nguồn lực cũng khác nhau
không nhất thiết phải cân bằng.Mỗi nguồn lực sẽ tạo lên môt sức mạnh riêng,rất
khác biệt.Nếu các nhà quản trị biết phân tích đúng những điểm mạnh và điểm yếu
của từng nguồn lực, chắc chắn rằng họ sẽ khai thác hiệu qủa các nguồn lực ấy. Các
nguồn lực được chia ra lam hai loại:
* Nguồn lực bên trong:bao gồm các nguồn lực về tài chính,nguồn nhân lực,
khoa học công nghệ,tài sản cố định như nhà xưởng,máy móc,kho tàng,các phương
tiện vận tải,uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp, tất cả thuộc sở hữu bên trong
doanh nghiệp.Doanh nghiệp có thể sử dụng để khai thác phuc vụ cho sản xuất kinh
doanh.Mỗi doanh nghiệp có thế mạnh về nguồn lực này nhưng lại yếu về nguồn lực
khác,các đánh giá cho thấy các doanh nghiệp sẽ căn cứ vào các thế mạnh cuả mình
để tạo ưu thế cạnh tranh.Ví dụ như các doanh nghiệp mạnh về tai chính sẽ chi tiêu
nhiều cho hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ,nghiên cứu các sản phẩm mới,…tạo
ra những đặc đIểm khác biệt cho sản phẩm của mình.Những sản phẩm như vậy sẽ
hấp dẫn khách hàng hơn các sản phẩm khác cùng loại.Đó là ưu thế cạnh tranh của

doanh nghiệp.Đặc biệt những doanh nghiệp nào có tiềm lực tài chính mạnh thì
nguồn vốn tự có lớn,họ sẽ không phụ thuộc vào ngân hàng.Do vậy mọi hoạt động
của doanh nghiệp là hoàn toàn chủ động.Ngược lại các doanh nghiệp mạnh về lĩnh
vực nhân lực thì thường tập trung vào khai thác những tiềm năng đó như trí tuệ,
chất xám của con người . Đó cung là một ưu thế cạnh tranh.
*Nguồn lực bên ngoài: bao gồm sự hỗ trợ của tổ chức bên ngoài mà doanh
nghiệp có thể sử dụng khai thác được nhằm mục đích tăng cường sức mạnh cuả
mình. Sự quan hệ tốt của doanh nghiệp với các tổ chức bên ngoài có thể đem lại cho
doanh nghiệp những sự giúp đỡ cần thiết mà không phải doanh nghiệp nào mong
18
18
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
muốn có được.Ví dụ :sự trợ giúp của ngân hàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay
vốn đặc biệt với lãi suất ưu đãi, làm tăng nguồn vốn của doanh nghiệp.tăng cường
khả năng tài chính.
1.2.3.3-Phân tích thị trường của doanh nghiệp
Thị trường của doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng quyết định trực tiếp
hiệu quả sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp. Thị trường các nhà cung ứng sẽ
cung cấp các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp.Thị trường khách hàng sẽ tiêu thụ
những sản phẩm đầu ra, đồng thời phản ánh chính xác nhu cầu của thị trường.Phân
tích chính xác thị trường của doanh nghiệp sẽ làm tăng tính hiệu quả hoạt động kinh
doanh.
*Thị trường các nhà cung ứng cung cấp cho các nhà quản trị biết các thông
tin về các nhà cung ứng hiện tại và các nhà cung ứng trong tương lai.Đâu là nhà
cung ứng tốt nhất cho doanh nghiệp về chất lượng,chủng loại, giá, thời gian giao
hàng và các tiêu chí khác….Những sự thay đổi của các nhà cung ứng sẽ được các
nhà quản trị đánh giá để xác định những rủi ro, cơ hội. Từ đó mới đưa ra các quyết
định lựa chọn nhà cung ứng hiệu quả.Mặt khác, các nhà cung ứng không chỉ cung
cấp cho một doanh nghiệp mà còn cho nhiều doanh nghiệp khác có cùng ngành
nghề kinh doanh. Như vậy những sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh sẽ có chất

lượng tương đồng hoặc tốt hơn nếu như họ thoả thuận với các nhà cung ứng nhập
đầu vào với cùng chất lượng của doanh nghiệp hoặc tốt hơn. Nếu không theo dõi
chính xác thị trường các nhà cung ứng, thì doanh nghiệp sẽ không xác định được
chất lượng sản phẩm của mình ở mức độ nào.Doanh nghiệp có nguy cơ mất khả
năng cạnh tranh về chất lượng sản phẩm.
*Thị trường khách hàng: Chính là những tập khách hàng hiện tại và tiềm
năng của doanh nghiệp. Đây là nhân tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp
vì mục đích chính của các doanh nghiệp là phuc vụ khách hàng để thu lợi nhuận.
Các Doanh nghiệp luôn mong muốn chiếm được nhiều thị phần hơn đối thủ cạnh
tranh thì càng tốt vì như vậy doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội thu lợi hơn. Doanh
thu lớn,lợi nhuận lớn sẽ cho phép doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất và tái đầu
tư mở rộng trong kinh doanh.Doanh nghiệp sé nâng cao khả năng cạnh tranh,chiếm
vị thế lớn trên thị trường
19
19
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
1.2.3.4-Phân tích các chính sách của doanh nghiệp
a- Chính sách về sản phẩm:
Bao gồm những quy định về chủng loại,mẫu mã,kiểu dáng,màu sắc,chất
lượng sản phẩm sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra những
loại sản phẩm của doanh nghiệp còn được phân chia theo tập khách hàng khác
nhau. Sự phân chia đó sẽ giúp cho doanh nghiệp khai thác tốt nhất từng tập khách
hàng bởi những sản phẩm phù hợp nhất.
Chính sách sản phẩm còn tập trung vào việc cải tiến sản phẩm nhằm nâng
cao khả năng cạnh tranh,khả năng xâm nhập thị trường của sản phẩm mới cũng như
kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm…
b-Chính sách về giá:
Bao gồm các quy định về cách định giá cho từng sản phẩm sao cho phù hợp
nhất. Giá là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới các quyết định mua của khách hàng
ngoàI chất lượng.Khách hàng luôn tìm chọn những sản phẩm có giá thấp mà chất

lượng vẫn đảm bảo.Do vậy định giá cho sản phẩm sẽ tạo lên tính cạnh tranh cho sản
phẩm. Tuỳ thuộc vào mục đích của Doanh nghiệp mà Doanh nghiệp có cách định
giá thích hợp. Ví dụ như: Doanh nghiệp muốn xâm nhập thị trường mới thì áp dụng
phương pháp định giá thấp,hoặc áp dụng phương pháp định giá cao để tạo sự khác
biệt hoá.Với những sản phẩm mới doanh nghiệp có thể sử dụng phương pháp định
giá hớt váng sữa để thu hồi vốn nhanh….
c-Chính sách phân phối:
Đó là sự lựa chọn các kênh phân phối của Doanh nghiệp.Trong các kênh
phân phối,doanh nghiệp nên tập trung vào những kênh nào đem lại hiệu quả cao
nhất cho tiêu thụ hàng hoá.Điều đó phụ thuộc vào đặc điểm của hàng hoá mà lựa
chọn kênh phân phối thích hợp.Ngày nay các Doanh nghiệp biết khai thác những lợi
thế của mạng lưới phân phối để tăng khả năng cạnh tranh của mình trên thị
trường.Điều đó giải thích tại sao các hãng lớn trên thế giới rất thành công trong việc
tiêu thụ sản phẩm ở những thị trường rộng lớn bởi họ có một mạng lưới bán hàng
rộng khắp….
d-Chính sách Marketing đối với sản phẩm:
20
20
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
Đó là những chương trình khuyến mại,khuếch trương sản phẩm nhằm mục
đích thu hút khách hàng và giới thiệu sản phẩm tới khách hàng.Các thông tin qua
các hoạt động quảng cáo, đem lại những thông điệp rằng khách hàng nên sử dụng
những sản phẩm của doanh nghiệp,khách hàng sẽ được hưởng nhiều lợi ích từ
những sản phẩm đó hơn các sản phẩm của doanh nghiệp khác.
Ngoài những hoạt động trên , những hoạt động nghiên cứu và tìm hiểu nhu càu thị
trường cũng được xúc tiến mạnh nhằm lựa chọn những sản phẩm đáp úng tốt nhất
nhu cầu của khách hàng.
1.2.3.5-Sử dụng ma trận SWOT trong việc đánh giá và lựa chọn các mục tiêu
Phương pháp ma trận SWOT là một trong những phương pháp hiệu quả
trong việc đánh giá và lựa chọn mục tiêu cho doanh nghiệp. Cơ sở đánh giá là

những căn cứ về những đIểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp và những cơ hội
cũng như thách thức từ môi trường bên ngoài doanh nghiệp. Phương pháp SWOT
sẽ cho phép phân tích các tình thế của doanh nghiệp dựa trên sự kết hợp các yếu tố
vơí nhau. Vớ mỗi tình thế doanh nghiệp sẽ xác định dược các mục tiêu mà doanh
nghiệp quan tâm. Những mục tiêu nào có thể thực hiện được,những mục tiêu nào thì
doanh nghiệp bó tay. Điểm nổi bật của phương pháp này ở chỗ trong mỗi tình thế
không chỉ toàn thuận lợi hoặc toàn khó khăn mà ngoài ra có những tình thế có sự
thuận lợi,có khó khăn. Điều quan trọng là Doanh nghiệp biết sử dụng điểm mạnh
khắc phục những khó khăn,dùng cơ hội để bù đắp cho những điểm yếu. Từ sự đánh
giá đó mà Doanh nghiệp xác dịnh được những lợi thế và bất lợi thế của các mục tiêu
trong từng tình thế cụ thể. Sự lựa chọn cuối cùng các mục tiêu là căn cứ trên những
lợi thế đó. Ma trận SWOT được mô tả qua biểu đồ sau:
Điểm mạnh Điểm yếu
Cơ hội
Cơ hội - Điểm mạnh Cơ hội - Điểm yếu
21
21
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
Thách
thức
Thách thức - Điểm
mạnh
Thách thức - Điểm
yếu
1.2.3.6-Xây dựng các chiến lược trên các mục tiêu đă chọn
Thông qua việc sử dụng ma trận SWOT, doanh nghiệp đã có thể xác định
được các vị thế của mình.Đó là doanh nghiệp đang sở hữu những tiềm năng to lớn
nào,những cơ hội nào,những lợi thế cạnh tranh nào.Hoặc là doanh nghiệp đang
thiếu hụt tiềm năng gì,đang chịu sự đe doạ nào từ môi trường.Mục tiêu đặt ra là phải
làm gì để tăng cường những lợi thế của doanh nghiệp và khắc phục những bất lợi

thế mà doanh nghiệp đang vấp phải.Tính chất của mục tiêu sẽ quyết định doanh
nghiệp nên lựa chọn chiến lược nào,cấp nào là phù hợp?Một mục tiêu mang tính
chất dài hạn,đòi hỏi nguồn lực lớn thì không thể chọn chiến lược chức năng được vì
như vậy sẽ không đảm bảo yếu tố khả thi để đạt mục tiêu.Mà phải là chiến lược cáp
công ty.Ngược lại một mục tiêu nhỏ có tính chất ngắn hạn,đòi hỏi nguồn lực không
cao thi không nên chọn chiên lược cấp công ty làm gi.Sau khi chọn chiến lược phù
hợp với các mục tiêu đã chọn rồi ,doanh nghiệp tiến hành xây dựng chiến lược.
Quá trình xây dựng chiến lược phải đảm bảo những cơ sở cần thiết sau:
- Các căn cứ về nguồn lực bên trong là yếu tố đảm bảo thực hiên chiến lược
bao gồm:nguồn nhân lực,tài chính,công nghệ,máy móc,kho tàng nhà xưởng,…
- Các căn cứ về nguồn lực bên ngoài đóng vai trò hỗ trợ cho Doanh nghiệp
- Các căn cứ về môi trường ảnh hưởng trực tiếp tới Doanh nghiệp ( môi
trường đặc thù) và ảnh hưởng gián tiếp tới Doanh nghiệp ( môi trường vĩ mô)
- Các căn cứ về chính sách của doanh nghiệp như chính sách về sản phẩm,
giá, phân phối,marketing,…đóng vai trò là các công cụ thực hiện chiến lược.
1.2.3.7- Ra quyết định hoạch định chiến lược
Sau khi hoàn thành công tác xây dựng một chiến lược cụ thể,các nhà quản trị
cấp cao bắt đầu ra quyết định hoạch định chiến lược.Từng công việc cụ thể sẽ được
giao cho từng bộ phận chức năng tham gia hoạch định.Kết quả sẽ được tổng hợp ở
ban hoạch định chiến lược.Điều đặc biệt trong quá trình hoạch định chiến lược,các
22
22
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
thành viên trong tổ doanh nghiệp đều có thể tham gia đóng góp ý kiến,đưa ra những
quan diểm của mình trong cách nhìn nhận riêng về chiến lược.
1.2.3.8-Thực hiện công việc hoạch định chiến lược
Công việc hoạch định chiến lược gồm 5 bước:
-Thiết lập chiến lược
-Đánh giá vị trí hiện tại
-Xây dựng một chiến lược

-Chuẩn bị và thực hiện một kế hoạch chiến lược
-Đánh giá và đIều chỉnh chiến lược
Giữa các bước này tồn tại mối quan hệ logic với nhau
a-Xây dựng mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp:
Một phần quan trọng của quá trình hoạch định chiến lược là thiết lập các
mục tiêu mang tính thực tế cho doanh nghiệp. Các mục tiêu hoặc là các mục đích
trong tương lai hoặc là các vị trí mà doanh nghiệp mong muốn đạt được. Các mục
tiêu được lượng hoá thể hiện chính xác những gì doanh nghiệp muốn thu được. Sở
dĩ cần lượng hoá các mục tiêu là để có thể đo lường được các mục tiêu và làm tiêu
chuẩn so sánh các kết quả đạt được. Mục tiêu được lượng hoá này là bước đầu tiên
trong quá trình hoạch định.
Các mục tiêu không được lượng hoá thì không thể dùng được cho các điểm
xuất phát của một kế hoạch chiến lược và từ đó không bao giờ biết được liệu kế
hoạch được xây dựng có thích hợp không. Sai lầm đối với đặt các mục tiêu đặc biệt
là khả năng đo lường và khả năng đạt được.Đây có thể là nguyên nhân tại sao nhiều
doanh nghiệp dường như chỉ loanh quanh giữ một khoảng cách vừa đủ với tăng
trưởng kinh tế khi tuyên bố rằng “mục tiêu của Doanh nghiệp là cực đại lợi nhuận”
mà không đưa ra hướng thích hợp cho các hoạt động của doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạch định chiến lược, các mục tiêu đặc biệt cần quan tâm
là doanh thu,lợi nhuận, thị phần,tái đầu tư và một số mục tiêu khác.
b- Đánh giá vị trí hiện tại:
Có hai lĩnh vực cần đánh giá là đánh giá môi trường và đánh giá nội lực.
- Điểm đầu tiên là phải xem xét nội lực: Gồm đánh giá khách quan xem hiện
Doanh nghiệp đang ở đâu? Thông thường doanh nhiệp cần có sự trợ giúp từ bên
23
23
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5
ngoài để xác định các tiêu chuẩn khách quan theo yêu cầu.Trong giai đoạn hoạch
định chiến lược,các nhà quản trị cần định lượng những điểm mạnh và điểm yếu của
doanh nghiệp bao gồm các yếu tố cần phân tích sau:

+Quản trị
+Marketing
+Hoạt động tài chính
+Hoạt động sản xuất
+Nghiên cứu và phát triển
Từ những nghiên cứu về những điểm mạnh ,điểm yếu của các yếu tố trên,
doanh nghiệp sẽ xác định được năng lực đặc biệt hoặc lợi thế cạnh tranh chiến lược
-Đánh giá môi trường kinh doanh:Việc đánh giá này khó thực hịên hơn.Nó
yêu cầu các nhà quản trị nghiên cứu môi trường để xác định xem yếu tố nào trong
môi trường hiện đang là nguy cơ cho mục tiêu và chiến lược của doanh
nghiệp.Đồng thời xác định xem yếu tố nào trong môi trường hiện đang là cơ hội để
cho doanh nghiệp đạt mục tiêu lớn hơn
c-Xây dựng chiến lược:
Sau khi đã hoàn thiện giai đoạn phân tích và đánh giá của quá trình hoạch
định chiến lược,các nhà quản trị sẽ lựa chọn được cho mình những mục tiêu cụ thể.
Nhưng để đạt được các mục tiêu này,các nhà hoạch định chiến lược phải xác lập
một chiến lược phù hợp với mục tiêu đó. Đây chính là giai đoạn hoạch định chiến
lược.Có 4 loại chiến lược cơ bản để các nhà quản trị theo đuổi:
-Chiến lược ổn định: Khi một doanh nghiệp tiếp tục phục vụ đông thời một
bộ phận quảng đại hoặc một bộ phận giống nhau như đã xác định trong chính sách
kinh doanh của doanh nghiệp và theo đuổi tới cùng các mục tiêu thì nên theo chiến
lược ổn định.Khi theo chiến lược này các Doanh nghiệp thường tập trung các nguồn
lực của mình vào nơi mà hiện tại Doanh nghiệp có hoặc có thể phát triển nhanh một
lợi thế cạnh tranh.
-Chiến lược tăng trưởng: Chiến lược tăng trưởng là một trong những chiến
lược mà một Doanh nghiệp theo đuổi khi nó làm tăng mức độ các mục tiêu theo
hướng làm tăng mức tiền lãi cao hơn nhiều so với mức làm được trong quá khứ.
24
24
Luận văn tốt nghiệp Bùi Thế Phúc -K36 A5

-Chiến lược cắt xén: Một Doanh nghiệp theo đuổi chiến lược này khi nó
quyết định cải tiến sản xuất kinh doanh bằng cách tập trung vào cải tiến chức năng,
đặc biệt tập trung vào giảm chi phí và bằng cách giảm số sản phẩm, thị trường của
nó.
-Chiến lược tổng hợp: Chiến lược tổng hợp là chiến lược mà doanh nghiệp
theo đuổi khi quyết định chính tập trung vào việc sử dụng các chiến lược quan
trọng( ổn định, tăng trưởng, cắt xén) ở cùng một thời gian trong các bộ phận khác
nhau của doanh nghiệp.
1.3-Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện công tác Hoạch định chiến lược kinh
doanh
1.3.1-Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác Hoạch định chiến lược
kinh doanh
Hoạch định chiến lược kinh doanh được xem như một công việc quan trọng
đầu tiên không thể thiếu khi Doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh . Bởi
vì đó là sự định hướng cho toàn bộ công việc mà Doanh nghiệp cần thực hiện để đạt
mục tiêu của mình đề ra. Công tác Hoạch định chiến lược chỉ ra cách thức của từng
công việc,từng nhiệm vụ cho từng bộ phận hay từng cá nhân thực hiện trên cơ sở
đánh giá rất khách quan tình hình nội lực bên trong Doanh nghiệp hay các yếu tố
của môi trường bên ngoài. Nếu công tác hoạch định chiến lược kinh doanh được
thực hiện tốt thì điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp đã hoàn thành một phần
công việc kinh doanh của mình.Trên thực tế là các hoạt động kinh doanh không thể
được thực hiện bằng sự cảm nhận chủ quan của các nhà quản trị trước một loạt các
vấn đề phát sinh trong công việc mà nó đòi hỏi phải có sự tính toán, xem xét, phân
tích các yếu tố ảnh hưởng một cách có khoa học. Từ đó đưa ra các giải pháp để giải
quyết các vấn đề.Các giải pháp này đóng vai trò tháo gỡ các khó khăn và tìm các
yếu tố thuận lợi giúp Doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả các hoạt động kinh
doanh.
Nếu các nhà quản trị chú trọng trong việc nâng cao công tác hoạch định
chiến lược thì doanh nghiệp đó sẽ thu được nhiều các yếu tố thuận lợi hơn trong quá
trình thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình.Bởi vì doanh nghiệp có một

25
25

×