Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

các hình thức góp vốn vào công ty, định giá vốn góp, chuyển quyền sở hữu tài sản vốn góp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.23 KB, 16 trang )

A. MỞ BÀI.
Pháp luật hiện hành đã quy định cụ thể về các hình thức vốn góp, định giá
vốn góp và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty. Qua đó, tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp và hiệu quả. Tuy
nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế nhất định.
B. NỘI DUNG.
I. Hình thức vốn góp vào công ty.
Khoản 4 Điều 4 Luật Doanh nghiệp quy định tài sản góp vốn có thể là tiền
Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền
sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kĩ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công
ty do thành viên góp. Với tài sản góp vốn là tiền việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển
đổi, vàng thì không phải định giá. Khoản 1 Điều 30 chỉ rõ tài sản góp vốn nếu
không phải là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng thì phải được định
giá. Từ hai quy định trên ta thấy đối tượng tài sản góp vốn vào công ty phải được
định giá là giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí
quyết kĩ thuật, tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty. Trên cơ sở đó, vốn điều lệ
của công ty mới được xác định rõ ràng, quyền lợi của các bên được bảo đảm tối đa.
Tài sản góp vốn vào công ty phải trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho hoạt
động sản xuất của doanh nghiệp.
1. Quyền sử dụng đất.
Đất đai là tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước giao đất cho các tổ chức
và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài (Hiến pháp 1992). Khác với một số nước trên
thế giới, Việt Nam không thừa nhân hình thức sở hữu tư nhân đối với đất đai. Tổ
chức và cá nhân chỉ có quyền sử dụng đất, được chuyển quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật. Quyền sử dụng đất là một loại quyền tài sản đặc thù, trong
đó người có quyền sử dụng đất chuyển quyền này cho người khác. Hay nói cách
khác, quyền sử dụng đất là khả năng pháp lí của một tổ chức, cá nhân có thể sử
dụng đất vào mục đích trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
Luật đất đai 2003 đã mở rộng đối tượng được góp vốn bằng quyền sử dụng
đất so với Luật Đất đai 1993, tạo ra sự thuận lợi trong việc đầu tư, sản xuất, kinh
doanh. Khi định giá tài sản này, các công ty tiếp nhận vốn phải hết sức lưu ý, bởi


vì theo Điều 7 Pháp lệnh Giá – 2002, đất đai là loại tài sản do Nhà nước định giá
thông qua các hình thức: mức giá cụ thể, mức giá chuẩn, khung giá, giá giới hạn
tối đa, tối thiểu.
1
Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ kế hoạch đầu tư năm 2003, việc góp vốn
bằng giá trị quyền sử dụng đất chưa thể thực hiện được. Điều đó phần lớn xuất
phát từ việc chưa có cơ chế định giá đất rõ ràng, chính xác vì thế không tạo được
sự an tâm cho nhà đầu tư trong việc dùng quyền sử dụng đất để góp vốn kinh
doanh.
2. Quyền sở hữu trí tuệ.
Điều 5 Nghị định 102/2010/ NĐ- CP quy định hình thức ggóp vốn bằng
quyền sở hữu trí tuệ: Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm
quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,
quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của
pháp luật sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu đối với các quyền nói
trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn. Bộ Tài chính hướng dẫn việc
định giá góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Theo Khoản 1 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ 2006, Quyền tác giả phát sinh kể từ
khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất
định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã
công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký. Quyền tác giả bao gồm
các quyền nhân thân và quyền tài sản. Tuy nhiên, theo Điều 45 quy định chung về
chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan, tác giả không được chuyển nhượng
các quyền nhân thân quy định tại Điều 19, trừ quyền công bố tác phẩm; người biểu
diễn không được chuyển nhượng các quyền nhân thân quy định tại khoản 2 Điều
29 của Luật sở hữu trí tuệ như quyền bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn,
không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào
gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.
Nhà đầu tư được góp vốn kinh doanh bằng giá trị quyền sở hữu công nghiệp
đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ

và các văn bản pháp luật có liên quan, bao gồm: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa, bí
mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, thiết kế vi mạch.
Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp ghi nhận công nghệ cũng là một loại tài
sản góp vốn. Khoản 2 Điều 1 Luật Khoa học và Công nghệ 2000 giải thích: công
nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kĩ năng, bí quyết, công cụ, phương
tiện dùng để biến đổi các nguồn nhân lực thành sản phẩm. Khi nhà đầu tư góp vốn
bằng loại tài sản này có nghĩa là họ đã thiết lập một hợp đồng chuyển giao công
nghệ với công ty. Sau khi tài sản này được góp vào công ty, công ty sẽ toàn quyền
phát triển công nghệ được chuyển giao.
2
Theo Luật sở hữu trí tuệ năm 2006, Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để
góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp, quyền sở hữu đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo
quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ.
II. Định giá tài sản góp vốn vào công ty.
1. Nguyên tắc định giá.
Luật Doanh nghiệp đã đưa ra nguyên tắc định giá tài sản vào thời điểm góp
vốn thành lập công ty. Theo đó, khi xuất hiện đối tượng tài sản cần phải được định
giá, tất cả thành viên sáng lập cùng nhau bàn bạc,thống nhất để quyết định giá trị
tài sản. Luật Doanh nghiệp chưa quy định trực tiếp nguyên tắc định giá tài sản góp
vốn trong quá trình công ty đang hoạt động mà chỉ quy định người có thẩm quyền
định giá. Trong khi đó, theo quy định của pháp luật, phần vốn góp của nhà đầu tư
phải được ghi vào Điều lệ của công ty. Vì vậy, nếu trong quá trình công ty đâng
hoạt động mà có việc góp vốn thì sẽ dẫn đến phải sửa đổi, bổ sung Điều lệ. Điều
này ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của các thành viên công ty cũng như hoạt động
của công ty. Do đó đòi hỏi phải được quy định cụ thể và chặt chẽ hơn.
Vấn đề định giá tài sản vào thời điểm công ty hoạt động trong công ty cổ
phần và công ty trách nhiệm hữu hạn sẽ được quyết định tại cuộc họp của cơ quan
quản lý công ty theo đúng tỉ lệ mà Luật Doanh nghiệp quy định. Riêng trong công

ty hợp danh, xuất phát từ bản chất của nó, các thành viên hợp danh có quyền ngang
nhau quyết định các vấn đề quản lý công ty nói chung cũng như vấn đề định giá tài
sản góp vốn nói riêng.
Trong thực tế hoạt động định giá tài sản góp vốn, để tìm được sự nhất trí cho
việc xác định giá trị tài sản không hề đơn giản. Do đó, việc định giá tài sản cần có
sự hợp tác cao giữa những người có thẩm quyền định giá để đi đến một mức giá cụ
thể, phản ánh xác thực về hiện trạng tài sản mà nhà đầu tư thấy rõ là hợp lý, không
gây ra tranh chấp.
2. Thẩm quyền định giá.
Khoản 2 Điều 30 quy định về thẩm quyền định giá tài sản góp vốn khi thành
lập doanh nghiệp: Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành
viên, cổ đông sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí. Khoản 3 Điều 30 quy định
về thẩm quyền định giá tài sản góp vốn vào công ty đang trong quá trình hoạt
động, theo đó việc định giá do doanh nghiệp và người góp vốn thỏa thuận định giá
hoặc do một tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá.
3
Quy định trên đây đã xác định việc định giá tài sản góp vốn ở hai thời điểm
thành lập công ty và khi công ty đang hoạt động chỉ khác nhau ở thẩm quyền định
giá, còn trách nhiệm và chu trình định giá là hoàn toàn giống nhau. Như vậy, áp
dụng quy định của Luật Doanh nghiệp vào thực tế định giá tài sản góp vốn, những
người có thẩm quyền có thể sẽ trực tiếp tiến hành hoặc thuê những công ty kiểm
toán hay các tổ chức kinh tế có chức năng định giá tài sản.
Nếu những người có thẩm quyền trực tiếp định giá tài sản góp vốn thì họ
phải thành lập Hội đồng định giá. Tùy thuộc vào thời điểm tài sản được đem góp
vào công ty, thành phần Hội đồng định giá sẽ khác nhau.
Các chủ thể có thẩm quyền định giá tài sản có thể dựa vào Nghị định
187/2004/NĐ-CP để tham khảo thành phần Hội đồng định giá. Hội đồng có trách
nhiệm thẩm định kết quả kiểm kê, phân loại, đánh giá tài sản trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày có quyết định thành lập Hội đồng; kết quả thẩm định của Hội đồng
được lập thành biên bản, có đầy đủ chữ kí của các thành viên chính thức.

Tại thời điểm thành lập công ty, Hội đồng định giá tài sản gồm tất cả những
thành viên sáng lập. Họ cùng nhau thỏa thuận quyết định giá trị tài sản góp vốn.
Mỗi thành viên sáng lập có vai trò như nhau, có quyền quyết định ngang nhau khi
thông qua giá trị tài sản góp vốn, đảm bảo được nguyên tắc thỏa thuận trong giao
dịch dân sự.
Một trong những vấn đề phải được tất cả các thành viên hợp danh có quyền
biểu quyết chấp thuận là tiếp nhận thành viên hợp danh mới. Tiếp nhận thành viên
có thể gắn với công việc định giá tài sản góp vốn. Vấn đề định giá tài sản phải
được tất cả các thành viên hợp danh chấp thuận là hợp lí. Điều này thể hiện sự
thống nhất trong các quy định của Luật Doanh nghiệp.
Trong hoạt động định giá tài sản góp vốn, hiện tượng công ty thuê doanh
nghiệp thẩm định giá tất yếu sẽ xảy ra, nhất là đối với những tài sản đặc thù, không
có điều kiện tiến hành định giá trực tiếp. Đối với tài sản góp vốn là quyền sử dụng
đất, người có thẩm quyền phải rất linh hoạt, không thể hoàn toàn dựa vào giá thị
trường.
Quyết định giá trị tài sản vốn góp sẽ được Hội đồng quản trị công ty cổ
phần, Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, tất cả thành viên hợp danh
của công ty hợp danh bàn bạc trong cuộc họp. Việc định giá tài sản để tiếp nhận
thành viên đồng nghĩa với việc sửa đổi Điều lệ chỉ được thông qua khi đáp ứng
được tỉ lệ luật định.
3. Trách nhiệm của người định giá.
4
Trường hợp giá trị tài sản góp vốn được định cao hơn so với giá trị thực tế
của nó tại thời điểm góp vốn thì người góp vốn và người định giá phải góp đủ số
vốn như đã được định giá; nếu gây thiệt hại cho người khác thì phải liên đới chịu
trách nhiệm bồi thường. Luật Doanh nghiệp đặt ra vấn đề trách nhiệm nhằm mục
đích để người có thẩm quyền phải ý thức cao về quyền hạn và nghĩa vụ của mình.
Đối với trường hợp công ty tiến hành định giá tài sản góp vốn, tất cả thành
viên của Hội đồng định giá cùng chịu trách nhiệm vê giá trị tài sản. Họ phải cùng
thỏa thuận để định đoạt giá trị của tài sản góp vốn. Khi xảy ra việc tài sản góp vốn

được định giá cao hơn so với giá trị thực tế của nó tại thời điểm góp vốn, theo quy
định của Điều 30 Luật Doanh nghiệp cả người góp vốn và người định giá phải góp
đủ số vốn như đã được định giá. Đây là một quy định cần phải xem xét trên cả hai
phương diện: một là, các bên đã không ý thức được giá trị thực của tài sản; hai là,
các bên đã cố tình định giá cao hơn so với tài sản thực tế. Tuy nhiên, dù trường
hợp nào, khi gây thiệt hại cho người khác thì vẫn phải đặt ra trách nhiệm bồi
thường. Song Luật Doanh nghiệp chưa xác định rõ tỉ lệ trách nhiệm giữa bên góp
vốn và người định giá trong vấn đề này, vì điều này mà tranh chấp có thể xảy ra.
Trường hợp công ty thuê tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá tài sản thì
trách nhiệm được nói đến ở đây sẽ thuộc về bên được thuê định giá tài sản. Quyền
và nghĩa vụ của các bên sẽ được xác định trong hợp đồng. Tổ chức được thuê định
giá tài sản sẽ chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định tài sản trước khách hành của
mình.Với quy định về quyền yêu cầu giám định lại tài sản góp vốn của người có
quyền, nghĩa vụ và lợi ích có liên quan đã bảo vệ lợi ích của những thành viên có
vốn không lớn trong công ty. Tuy nhiên, cần phải xác định giới hạn của quyền này
để bảo đảm sự ổn định của toàn bộ quá trình kinh doanh trong công ty.
Người có quyền định giá phải ý thức cao hơn về công việc của mình khi
định giá tài sản góp vốn là quyền sử dụng đất. Bởi vì giá đất trên thị trường hàm
chứa nhiều yếu tố ảo, không phản ánh đúng quy luật cung cầu nhất là trong điều
kiện hiện nay Việt Nam chưa hình thành thị trường bất động sản có tổ chức. Khi
định giá tài sản vô hình, người có thẩm quyền cũng phải hết sức lưu ý khi mà sự
thỏa thuận lại chính là yếu tố quyết định giá trị của loại tài sản này.
Quyền lợi của nhà đầu tư gắn liền với giá trị phần vốn góp, do đó định giá
tài sản chính xác, sát với giá trị thực tế sẽ bảo vệ tối đa quyền lợi của nhà đầu tư,
tạo tâm lý an tâm khi đầu tư kinh doanh.
Luật Doanh nghiệp đã đưa ra được nguyên tắc định giá, thẩm quyền định
giá, trách nhiệm của người có quyền định giá. Tuy nhiên, cần có những quy định
5
cụ thể hơn về cơ chế bảo vệ quyền lợi của người có tài sản bị định giá sai, trách
nhiệm cụ thể của người có thẩm quyền định giá.

III. Chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty.
1. Chuyền quyền sở hữu đối với tài sản có đăng kí.
Chuyển giao quyền sở hữu đối với quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả,
quyền liên quan đến tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu đối với
giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật sở
hữu trí tuệ.
• Quyền tác giả, quyền liên quan:
Tác giả và chủ sở hữu tác phẩm có quyền nộp đơn đăng kí bảo hộ
quyền tác giả, quyền sở hữu tác phẩm tại Cục sở hữu trí tuệ. Đơn đăng ký quyền
tác giả, quyền liên quan quy định tại Khoản 2 Điều 50 Luật sở hữu trí tuệ bao gồm:
tờ khai đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan (Tờ khai phải được làm bằng tiếng
Việt và do chính tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan
hoặc người được ủy quyền nộp đơn ký tên và ghi đầy đủ thông tin về người nộp
đơn, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả hoặc chủ sở hữu quyền liên quan; tóm tắt
nội dung tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình hoặc chương trình phát
sóng; tên tác giả, tác phẩm được sử dụng làm tác phẩm phái sinh nếu tác phẩm
đăng ký là tác phẩm phái sinh; thời gian, địa điểm, hình thức công bố; cam đoan về
trách nhiệm đối với các thông tin ghi trong đơn)Mẫu tờ khai đăng ký quyền tác giả,
đăng ký quyền liên quan do Bộ Văn hóa - Thông tin quy định; và một số giấy tờ
khác theo điểm b, c,d,đ,e Khoản 2 và Khoản 3 Điều 50 Luật sở hữu trí tuệ. Cơ
quan này sẽ ghi vào sổ đăng kí bản quyền và cấp giấy chứng nhận bản quyền tác
giả. Khi tiến hành đầu tư, người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu
cho công ty mình đầu tư tại Cục sở hữu trí tuệ. Cục sở hữu trí tuệ có trách nhiệm
thực hiện chuyển quyền sở hữu cho người nhận chuyển quyền. Sau đó quyền sở
hữu giá trị quyền tác giả sẽ chuyển sang cho công ty, công ty trở thành chủ sở hữu
tài sản, toàn quyền định đoạt tài sản này trong hoạt động kinh doanh.
• Quyền sở hữu công nghiệp:
Quyền sở hữu công nghiệp phát sinh trên cơ sở văn bằng bảo hộ do Cục sở
hữu trí tuệ cấp. Đây là chứng chỉ duy nhất của Nhà nước xác nhận quyền sở hữu

công nghiệp của chủ thể được cấp văn bằng. Từ thời điểm này, chủ sở hữu được
quyền khai thác giá trị tài sản thuộc quyền sở hữu của mình.
6
Giá trị quyền sở hữu công nghiệp là một loại tài sản mà tổ chức, cá nhân, hộ
gia đình có quyền góp vốn vào công ty. Quyền này thống nhất với quy định “quyền
sở hữu công nghiệp có thể được chuyển giao cho người khác” của Bộ luật Dân sự.
Song nhà đầu tư cũng chỉ có thể chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp đối với
những đối tượng mà pháp luật cho phép. Hồ sơ đăng kí hợp đồng chuyển giao
quyền sở hữu công nghiệp phải được nộp cho Cục sở hữu trí tuệ gồm các giấy tờ
có quy định trong Điều 149 Luật Sở hữu trí tuệ 2006. Việc chuyển nhượng quyền
sở hữu công nghiệp phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản.
Nội dung của hợp đồng được quy định tại Điều 140, Luật sở hữu trí tuệ 2006.
Khi nhận được đơn, Cục sở hữu trí tuệ xem xét trong thời hạn một tháng,
nếu thấy hợp lệ sẽ tiến hành việc chuyển quyền sở hữu theo yêu cầu của người
chuyển giao. Khi Cục sở hữu trí tuệ thực hiện xong việc chuyển quyền sở hữu,
công ty tiếp nhận vốn trở thành chủ sở hữu của quyền sở hữu công nghiệp. Mọi
trường hợp chuyển quyền sở hữu đối với loại tài sản này phải được thể hiện bằng
văn bản. Từ thời điểm chuyển giao, mọi quyền và nghĩa vụ của chủ văn bằng bảo
hộ (nhà đầu tư) đều được chuyển giao hoàn toàn cho công ty. Công ty này sẽ trở
thành chủ sở hữu tài sản này kể từ ngày hợp đồng chuyển giao được đăng kí tại
Cục sở hữu công nghiệp (Nghị định số 103/2006/NĐ- CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp)
Cục sở hữu trí tuệ phải chú ý đến trường hợp chuyển quyền sở hữu công
nghiệp thuộc sở hữu chung để có thể xác định chính xác phần sở hữu của người
định góp vốn. Bởi vì trong trường hợp này, mỗi chủ sở hữu chung chỉ được chuyển
giao phần quyền thuộc về mình cho công ty khi được các chủ sở hữu chung còn lại
đồng ý hoặc tuy có một hoặc một số chủ sở hữu chung còn lại không đồng ý nhưng
họ không tiếp nhận phần cần chuyển giao và việc không đồng ý không có lí do xác
đáng.
• Chuyển quyền sở hữu đối với công nghệ:

Công nghệ là một loại tài sản góp vốn cũng phải được tiến hành chuyển
quyền Sở hữu khi góp vốn vào công ty. Nhà đầu tư phải làm thủ tục chuyển quyền
sở hữu công nghệ sang cho công ty thông qua hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Theo quy định của Bộ Luật Dân sự, hợp đồng này phải được lập thành văn bản và
phải đăng kí hoặc xin phép cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nếu pháp luật có quy
định khác.
Nếu bên góp vốn là người nước ngoài, theo Nghị định sửa đổi, bổ sung một
số số điều của nghị định 24, bên góp vốn phải lập hồ sơ chuyển giao công nghệ.
Hồ sơ xin chuyển giao công nghệ phải được gửi kèm theo hồ sơ dự án xin cấp giấy
7
phép đầu tư và phải có các tài liệu liên quan đến sở hữu công nghiệp, văn bằng bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp và các văn bản xác nhận về tính năng kĩ thuật,
nguyên tắc thỏa thuận giá trị công nghệ của các bên liên doanh. Việc góp vốn bằng
công nghệ phải được Bộ Khoa học và Công nghệ chấp nhận. Cơ quan cấp giấy
phép đầu tư thực hiện việc điều chỉnh giấy phép đầu tư sau khi việc góp vốn bằng
công nghệ được chuẩn y.
Thẩm quyền thực hiện việc chuyển giao công nghệ cho các nhà đầu tư trong
nước phụ thuộc vào từng đối tượng đầu tư là ai, có thể là Bộ Khoa học và Công
nghệ, các Bộ ban ngành hoặc có thể là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Các bên trong
hợp đồng chuyển giao công nghệ phải tuân theo thủ tục đăng kí do Bộ Khoa học và
Công nghệ hướng dẫn. Theo Luật chuyển giao công nghệ 2006, bên chuyển giao
có quyền gửi hồ sơ yêu cầu đăng kí hợp đồng cho Bộ Khoa học và Công nghệ. Hồ
sơ đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ được quy định tại Khoản 2 Điều 25
Luật chuyển giao công nghệ 2006. Nếu hồ sơ hợp lệ, cơ quan này sẽ cấp giấy
chứng nhận đăng kí hợp đồng trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nộp đủ hồ sơ. Còn
nếu hồ sơ yêu cầu đăng kí việc chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng các đối
tượng sở hữu công nghiệp nộp tại Cục sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp
luật đất đai về sở hữu công nghiệp.
Trường hợp công nghệ là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
thì việc chuyển giao quyền sở hữu công nghệ phải được thực hiện cùng với việc

chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật về sở hữu trí
tuệ.
Công ty có quyền sở hữu giá trị công nghệ từ khi cơ quan có thẩm quyền
hoàn thành xong thủ tục chuyển quyền cho nhà nước.
• Chuyển quyền sở hữu đối với giống cây trồng:
Tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền đối với giống cây trồng là tổ chức, cá
nhân chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển giống cây trồng hoặc đầu tư cho công
tác chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển giống cây trồng hoặc được chuyển giao
quyền đối với giống cây trồng. Tổ chức, cá nhân này đăng kí bảo hộ giống cây
trồng tại Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Để được bảo hộ quyền đối với
giống cây trồng, tổ chức, cá nhân phải thực hiện việc nộp đơn đăng ký bảo hộ cho
cơ quan quản lý nhà nước về quyền đối với giống cây trồng (Khoản 2 Điều 164
Luật Sở hữu trí tuệ 2006).
Theo Nghị định 88/2010/NĐ- CP hướng dẫn Luật Sở hữu trí tuệ 2006 thì:
Nội dung hợp đồng chuyển nhượng tại Khoản 2 Điều 25. Sau khi hoàn tất hợp
đồng chuyển nhượng quyền đối với giống cây trồng theo quy định của pháp luật,
8
bên chuyển nhượng phải nộp hồ sơ đăng ký hợp đồng chuyển nhượng tại cơ quan
bảo hộ giống cây trồng và phải nộp lệ phí theo quy định. Hồ sơ đăng kí hợp đồng
chuyển nhượng được quy định tại Khoản 2 Điều 26. Đối với việc chuyển giao,
chuyển nhượng quyền đối với giống cây trồng được chọn tạo hoặc phát hiện và
phát triển bằng ngân sách nhà nước thì thực hiện theo Điều 27.
Chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản hữu hình
• Tài sản góp vốn là phương tiện giao thông cơ giới đường bộ
Chủ sở hữu loại tài sản này phải chuyển quyền sở hữu cho công ty tại cơ
quan mà họ đã đăng kí quyền sở hữu.
Nhà đầu tư không phân biệt cá nhân, tổ chức hay gia đình trong và ngoài
nước đang cư trú hoặc có trụ sở tại địa phương nào thì làm thủ tục sang tên, di
chuyển xe tại Phòng cảnh sát giao thông Công an cấp tỉnh của địa phương đó. Nếu
người góp vốn là cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế nước ngoài đang công tác,

học tập tại Hà Nội, họ sẽ phải chuyển quyền sở hữu tài sản của mình tại Cục sở
hữu cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt.
Khi làm thủ tục sang tên cho công ty, người cam kết góp vốn phải mang đầy
đủ giấy tờ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp của hồ sơ và việc
chuyển giao quyền sở hữu của mình. Cơ quan đăng kí xe phải chịu trách nhiệm
tiếp nhận và làm các thủ tục chuyển quyền cho người góp vốn. Trong thời gian 3
ngày (ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là 7 ngày) kể từ ngày tiếp nhận đầy đủ
hồ sơ, cơ quan cảnh sát giao thông phải thực hiện xong việc sang tên di chuyển xe
và cơ quan này có nhiệm vụ quản lí hồ sơ.
• Tài sản góp vốn là tàu bay
Tàu bay là loại tài sản phải đăng kí quyền sở hữu, nhà đầu tư góp vốn vào
công ty bằng tài sản này phải tuân theo thủ tục đặc thù do pháp luật quy định.
Người chủ sở hữu cũ (người đứng tên đăng kí tàu bay) phải báo cho Cục hàng
không dân dụng Việt Nam về việc chuyển giao quyền sở hữu.
Pháp luật quy định tổ chức, cá nhân sẽ là chủ sở hữu tàu bay theo quy định tại
hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu phải có trách nhiệm đăng kí việc chuyển
nhượng này vào đăng bạ tàu bay Việt Nam. Việc đăng kí chuyển nhượng này bao
gồm việc đăng kí hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu tàu bay dân dụng như
quy định tại Điều 29 và 30 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006. Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sở hữu tàu bay dân dụng được hiểu là mọi văn bản
9
dưới dạng hợp đồng hoặc bất kỳ dạng văn bản nào trong đó quy định việc chuyển
nhượng quyền sở hữu đối với tàu bay dân dụng Việt Nam.
Theo Nghị định 70/2007/N Đ- CP về đăng kí quốc tịch và đăng kí các quyền
đối với tàu bay dân dụng, trong thời hạn 15 ngày kể từ khi nhận đầy đủ hồ sơ hợp
lệ, Cục hàng không dân dụng Việt Nam có trách nhiệm xem xét và tiến hành cấp
chứng chỉ đăng kí chuyển nhượng quyền sở hữu tàu bay cho công ty. Trường hợp
không đủ điều kiện đăng kí, Cục hàng không dân dụng Việt Nam phải thông báo
cho người làm đơn chậm nhất là 7 ngày kể từ ngày nhận được đơn và giấy tờ có
liên quan. Tính từ thời điểm nhận chứng chỉ đăng kí quyền chuyển nhượng quyền

sở hữu tàu bay dân dụng, người được cấp đăng kí chính thức được công nhận là
chủ sở hữu của tàu bay đã được chuyển nhượng.
Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh khi nhận tài
sản vốn góp bằng tàu bay phải thực hiện các quy định trên. Tài sản thuộc diện phải
đăng kí muốn chuyển thành sở hữu công ty đòi hỏi người cam kết góp vốn phải
chuyển quyền sở hữu theo quy định của pháp luật tại cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
2. Chuyển quyền sử dụng đất vào công ty
Luật Đất đai 2003 đã mở rộng quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất,
thiết lập được cơ chế một cửa, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc góp vốn bằng
quyền sử dụng đất có gắn với trách nhiệm của cơ quan Nhà nước. Hơn nữa, người
góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi chuyển quyền sử dụng đất chỉ phải nộp hồ sơ
(gồm hợp đồng góp vốn và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) tại văn phòng
đăng kí quyền sử dụng đất được hoạt động theo cơ chế dịch vụ công thuộc cơ quan
quản lí đất đai của địa phương. Và trong thời hạn không quá 4 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, văn phòng đăng kí quyền sử dụng đất có trách nhiệm
thẩm tra hồ sơ, trích sao hồ sơ địa chính, gửi số liệu địa chính tới cơ quan đối với
trường hợp đủ điều kiện góp vốn thì thực hiện đăng kí góp vốn vào hồ sơ địa chính
và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Trong thời hạn không quá 3 ngày làm
việc kể từ ngày bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng thực hiện xong
nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng kí quyền sử dụng đất hoặc Ủy ban nhân dân
xã, thị trấn nơi có đất có trách nhiệm trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất (Điểm c Khoản 2 Điều 148 Nghị
định 181/2004/NĐ- CP về thi hành Luật Đất đai). Trong trường hợp góp vốn phát
sinh pháp nhân mới thì văn phòng này gửi hồ sơ đăng kí góp vốn đến cơ quan quản
lí đất đai thuộc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho pháp nhân mới
10
Luật Đất đai 2003 đã gộp trình tự thực hiện quyền của người sử dụng đất,
trình tự đăng kí khi chuyển quyền và trình tự cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất thành một trình tự chung và giao thẩm quyền cho văn phòng đăng kí quyền sử
dụng đất. Trách nhiệm làm thủ tục phần lớn đã chuyển cho cơ quan Nhà nước, từ
đó tạo ra sự vững tin cho nhà đầu tư khi làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất.
Khi thực hiện xong việc chuyển quyền sử dụng đất cho công ty, nhà đầu tư
mới hoàn thành nghĩa vụ góp vốn của mình. Từ thời điểm này, giá trị quyền sử
dụng đất trở thành tài sản của công ty.
3. Chuyển quyền sở hữu đối với tài sản không đăng kí quyền sở hữu
Trong thực tế hoạt động kinh doanh hiện nay, các nhà dầu tư chủ yếu dùng tài
sản không thuộc diện đăng kí quyền sở hữu để góp vốn vào công ty. Những tài sản
này có thể là tiền mặt, máy móc, vật tư, tiền, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng…
Những tài sản này phải là những tài sản mà công ty có nhu cầu sử dụng và mang
lại lợi ích cho công ty. Tài sản này phải đảm bảo tính hợp pháp của nó.
Luật Doanh nghiệp quy định thủ tục chuyển quyền sở hữu loại tài sản này đơn
giản hơn rất nhiều so với loại tài sản phải đăng kí hay giá trị quyền sử dụng đất.
Theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 29 Luật Doanh nghiệp, việc góp vốn phải
được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản.
Biên bản giao nhận phải có các nội dung chủ yếu như sau: tên và địa chỉ trụ sở
chính của công ty; tên và địa chỉ người góp vốn; loại tài sản và số đơn vị tài sản
góp vốn; tổng giá trị tài sản góp vốn và tỉ lệ của tổng giá trị tài sản đó trong vốn
điều lệ của công ty; ngày giao nhận; chữ kí của người góp vốn và người đại diện
theo pháp luật của công ty.
Như vậy, việc giao nhận tài sản loại này thuộc nội bộ công ty và thành viên
góp vốn. Pháp luật không điều chỉnh sâu về nội dung vấn đề này, không quy định
cách thức tiến hành chuyển quyền sở hữu loại tài sản này khi công ty mới thành lập
hay trong quá trình công ty đang hoạt động. Việc quy định phải lập biên bản giao
nhận vốn là thống nhất với các quy định khác của Luật Doanh nghiệp. Biên bản
giao nhận vốn là cơ sở pháp lí xác nhận sự chuyển giao thực tế tài sản từ sở hữu
thành viên sang sở hữu công ty và là căn cứ sau này xác lập quyền và nghĩa vụ của
các thành viên.
Người có thẩm quyền lập biên bản sẽ phải báo cáo việc này trong cuộc họp

gần nhất của Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, Đại hội đồng cổ
đông (trong công ty cổ phần), hay trước tất cả các thành viên hợp danh của công ty
hợp danh. Công ty phải làm thủ tục đăng kí thay đổi vốn điều lệ, đăng kí thay đổi
11
thành viên nếu như việc góp vốn diễn ra trong quá trình công ty đang hoạt động.
(Điều 37 và 40 Nghị định 43/2010/NĐ-CP về đăng kí doanh nghiệp).
Người có thẩm quyền lập biên bản theo quy định của pháp luật là người đại
diện theo pháp luật của công ty, đó là giám đốc (tổng giám đốc) công ty cổ phần
hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên nếu Điều lệ không quy
định khác. Pháp luật không quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên nên người đại diện theo pháp luật của công ty
này được ghi trong Điều lệ công ty, còn trong mô hình công ty hợp danh là bất kì
thành viên hợp danh nào.
Khi lập biên bản giao nhận tài sản, người đại diện theo pháp luật của công ty
cùng nhà đầu tư sẽ tiến hành xem xét hiện trạng tài sản, giá trị còn lại của tài sản
góp vốn để có thể xác định rõ giá trị tài sản tại thời điểm góp vốn. Để thực hiện
được việc này đòi hỏi phải có sự thỏa thuận, sự hơp tác cao độ của cả hai bên, làm
cơ sở cho việc xác định chắc chắn vốn điều lệ của công ty sau khi việc góp vốn
hoàn thành.
4. Chuyển quyền sở hữu đối với một số tài sản khác.
Đối với cổ phần
Cổ phần là khái niệm chỉ xuất hiện trong công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh không được phép phát hành cổ phiếu. Cổ phần
chỉ được coi là thanh toán xong khi quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản góp vốn
đã chuyển sang công ty.
Một trong những nghĩa vụ của cổ đông là phải thanh toán đủ số cổ phần cam
kết mua vàc chỉ sau khi thanh toán đủ số cổ phần đăng kí mua, họ mới có quyền
yêu cầu công ty cấp cổ phiếu. “Quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản góp vốn đã
chuyển sang công ty” ở đây có thể hiểu là quyền sở hữu đối với tài sản thuộc diện
không đăng kí quyền sở hữu. Sự quy định như trên không phù hợp với logic của

Khoản 4 Điều 4 Luật Doanh nghiệp khi quy định về các loại tài sản góp vốn. Đây
là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhiều công ty chưa thực hiện tốt việc
chuyển quyền sở hữu tài sản từ thành viên sang sở hữu công ty.
Chuyển quyền sở hữu đối với các loại tài sản không phải là tiền Việt Nam,
ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng.
Sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp cho phép nhà đầu tư thực hiện
quyền góp vốn bằng nhiều loại tài sản khác nhau. Ngoài các loại tài sản trên, nhà
đầu tư còn có thể góp vốn bằng các giấy tờ có giá, đó có thể là các loại chứng
12
khoán, séc, hồi phiếu. Thủ tục chuyển quyền sở hữu các loại tài sản trên phải tuân
theo quy định của pháp luật.
• Trong công ty cố phần, quá trình góp vốn, huy động vốn đều thông
qua việc phát hành và mua bán cổ phiếu do chính công ty đó phát hành. Cổ phiếu
là chứng chỉ do một công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi xổ xác nhận
quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Công ty cổ phần có thể xác
lập quyền sở hữu thông qua quá trình chuyển quyền sở hữu các cổ phần trong công
ty hoặc qua thị trường chứng khoán. Điều đó có nghĩa là các cổ đông có thể
chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác một cách công khai trên thị
trường chứng khoán theo những điều kiện mà pháp luật quy định cũng như Điều lệ
của công ty quy định. Khi cổ phần đã được bán hoặc được chuyển nhượng, được
ghi đúng những thông tin luật định vào sổ đăng kí cổ đông, thì kể từ thời điểm
quyền sở hữu hợp pháp của công ty cổ phần được xác lập. Những quy định này áp
dụng chung cho cả nhà đầu tư trong và ngoài nước. Việc góp vốn cũng như quá
trình chuyển quyền sở hữu tài sản vào doanh nghiệp Việt Nam của nhà đầu tư nước
ngoài bên cạnh việc áp dụng theo quy chế ban hành kèm theo Quyết định 88/2009
về việc ban hành quy chế góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong
các doanh nghiệp Việt Nam, đương nhiên phải tuân theo quy định của Luật Doanh
nghiệp.
• Người sở hữu trái phiếu khi góp vốn vào công ty phải thực hiện thủ
tục chuyển quyền sở hữu tài sản của mình theo quy định của pháp luật.

Do trái phiều không ghi tên người sở hữu nên tại thời điểm người góp vốn
chuyển giao một cách hợp pháp cho công ty, công ty trở thành một chủ sở hữu loại
trái phiếu này.
Trái phiếu có thể chuyển nhượng trong nội bộ công ty hoặc giao dịch thông
qua thi trường chứng khoán. Dù người sở hữu có trái phiếu theo cách nào, quyền
sở hữu hợp pháp tài sản từ nhà đầu tư phải được chuyển sang công ty.
• Đối với các loại giấy tờ có giá khác như séc, hồi phiếu, cách thức
chuyển quyền sở hữu hợp pháp phải tuân theo những văn bản pháp luật trong lĩnh
vực ngân hàng.
Đối với giấy tờ có giá ghi danh, người góp vốn ghi tên, địa chỉ, số giấy chứng
minh nhân dân của người được chuyển nhượng, sau đó kí vào mặt sau của giấy tờ
có giá và chuyển giao cho công ty. Công ty đến tổ chức tín dụng nơi phát hành để
đề nghị thay đổi chủ sở hữu đã đăng kí tại tổ chức tín dụng. Đối với giấy tờ không
ghi danh, người góp vốn chuyển nhượng một cách trực tiếp (Quyết định
02/2005/QĐ- NHNN ban hành quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín
dụng).
13
Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu do Ngân hàng Nhà
nước quy định, yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi
thanh toán của mình để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc người
cầm séc. Khi chuyển nhượng séc vào công ty, theo quy định của quy chế cung ứng
và sử dụng séc (Quyết đinh số 30/2006 ), nhà đầu tư có thể chuyển nhượng bằng
chuyển khoản hoặc bằng tiền mặt. Họ phải ghi tên, địa chỉ, số hiệu tài khoản, đơn
vị giữ tài khoản của công ty (nếu có), ghi ngày tháng năm chuyển nhượng, kí tên
và đóng dấu vào mặt sau của tờ séc (nếu có).
Từ thời điểm này, công ty nhận vốn trở thành người thụ hưởng séc, trở thành
chủ sở hữu tài sản do nhà đầu tư góp vốn.
IV. Giải pháp.
1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về hình thức định giá vốn góp và chuyển
quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty.

Thứ nhất, phải có quy định về sự xuất hiện đại diện của cơ quan Nhà nước
trong quá trình định giá tài sản góp vốn với tư cách giám sát viên bằng sự có mặt
bắt buộc của họ trong hợp đồng định giá. Sự bổ sung này sẽ hạn chế được tình
trạng định giá sai tài sản góp vốn của nhà đầu tư, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của
những người có liên quan.
Thứ hai, cần có sự quy định rõ ràng về trách nhiệm của người định giá tài
sản, chịu trách nhiệm như thế nào? Vào thời điểm nào? Chịu trách nhiệm trước ai?.
Cần quy định về mức độ bồi thường của người có thẩm quyền định giá có thể là
một tỉ lệ nhất định so với giá trị tài sản mà họ đã định giá trước đó.
Bổ sung chế tài đối với trường hợp người có thẩm quyền định giá tài sản góp
vốn cao hơn so với giá trị thực tế cần có quy định một mức phạt cụ thể đánh vào
lợi ích kinh tế.
Thứ ba, quy định cụ thể hơn vấn đề quyền hạn yêu cầu giám định lại tài sản
góp vốn của người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích có liên quan.
Thứ tư, cần quy định rõ hơn vấn đề chuyển quyền sở hữu tài sản vào công ty
hợp danh. Đối với thành viên góp vốn, vấn đề chuyển quyền sở hữu tài sản góp
vốn cho công ty là cần thiết. Đối với thành viên hợp danh, do xuất phát từ chế độ
trách nhiệm liên đới và vô hạn về mặt tài sản của họ nên không cần thiết phải
chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty. Vì vậy, luật cần quy định phân
biệt rõ hai trường hợp trên.
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện việc định giá vốn góp và
chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty.
14
Thứ nhất, về phía cơ quan Nhà nước nên có những cơ chế, chính sách hỗ trợ
các doanh nghiệp và nhà đầu tư trong thực tế hoạt động định giá và chuyển quyền
sở hữu tài sản vào công ty.
- Cơ quan nhà nước phải tạo điều kiện giúp doanh nghiệp thực hiện quyền tự
chủ trong kinh doanh bằng việc đẩy nhanh quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, giảm mức thu lệ phí và chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất cho
người dân.

- Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước đặc biệt là cần có sự hợp tác
cao độ giữa cơ quan thực hiện chuyển quyền sở hữu tài sản với cơ quan đăng kí
kinh doanh để có thể nhanh chóng đáp ứng nhu cầu của người dân. Trên thực tế có
trường hợp Sở Kế hoạch và đầu tư cấp đăng kí kinh doanh trong vòng 24h nhưng
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất kéo dài 2 tháng.
Thứ hai, cần nâng cao khả năng tự chủ kinh doanh về cả phía nhà đầu tư và
công ty tiếp nhận vốn.
- Phải nâng cao kiến thức và ý thức chấp hành pháp luật kinh doanh.
- Các nhà đầu tư cần phải ý thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình
trong công ty. Khi kê khai tài sản để phục vụ cho công tác định giá, cần phải trung
thực, hợp tác cũng người quản lý doanh nghiệp tiến hành thỏa thuận xác định giá
trị tài sản.
Thứ ba, cần có sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong vấn đề định giá và
chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty.
C. KẾT LUẬN.
Qua việc tìm hiểu “Pháp luật hiện hành về hình thức vốn góp, định giá vốn
góp và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty” chúng ta có thể thấy
được những điểm tích cực và hạn chế của pháp luật hiện hành đối với hoạt động
góp vốn, định giá vốn góp và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
15
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại, NXB
2.
3.
16

×