Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

câu hỏi và đáp án môn triết tự luận và đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.98 KB, 65 trang )

1
CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN MÔN TRIẾT TỰ LUẬN VÀ ĐÁP ÁN
Câu 1 - /40
1. Thế giới quan là gì? Anh/Chị hãy phân tích và so sánh các hình thức cơ bản của nó.
a. Thế giới quan:
+ Định nghĩa: thế giới quan là toàn bộ các quan niệm, quan điểm của con người về thế giới, về bản thân
con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới ấy.
+ Kết cấu: Các quan niệm, quan điểm của thế giới quan bao giờ cũng hoà quyện trong mình tri thức với
niềm tin, lý trí với tình cảm, sự thật với những điều hoang đường… trãi rộng trên khắp các lĩnh vực
(kinh tế, chính trị, đạo đức, nghệ thuật…), trên khắp các cấp độ hoạt động của nhận thức (cảm tính, lý
tính, kinh nghiệm – lý luận, đời thường và khoa học…) của con người.
+ Chức năng: TGQ vừa là lăng kính để qua đó, con người nhìn nhận, suy tư, chiêm nghiệm về thế giới;
vừa là cẩm nang hướng dẫn cuộc sống cho con người. TGQ có nhiều chức năng, nhưng chức năng
chính của nó là định hướng hoạt động nhận thức và thực tiễn cho con người trong thế giới mà họ đang
sống.
+ Phân loại:
* Dựa vào chủ thể: TGQ chia thành TGQ cá nhân và TGQ cộng đồng (giai cấp)
* Dựa vào nội dung, TGQ chia thành TGQ thần thoại, TGQ tôn giáo, TGQ triết học và TGQ khoa học.
b. Phân tích và so sánh các hình thức cơ bản của thế giới quan: (sưu tầm)
b1. TGQ thần thoại:
+ Khái niệm: Là TGQ chứa đầy những hình ảnh cảm tính hoang đường hòa quyện vào lý trí ngây thơ
của con người nguyên thủy mông muội về TG muôn loài xung quanh
+ Thời điểm xuất hiện: Từ cộng đồng người nguyên thủy, khi họ muốn giải thích các hiện tượng tự
nhiên, cố truy tìm cội nguồn của cộng đồng mình trong những tưởng tượng viễn vông.
+ Thể hiện: Qua các truyền thuyết, các huyền thoại hoang đường (câu chuyện thần thoại)
+ Đặc điểm: Cố giải thích “các lực lượng của tự nhiên trong tưởng tượng và nhờ trí tưởng tượng”, moi
TGQ thần thoại “đều truy tìm nguồn gốc thị tộc”.
b2. TGQ tôn giáo:
+ Khái niệm: Là TGQ dựa trên niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của các lực lượng siêu nhiên, thần
thánh để giải thích mọi hiện tượng xảy ra trong giới tự nhiên, trần tục và quy định hành vi, thái độ của
con người đối với lực lượng siêu nhiên, thần thánh đó.


+ Thời điểm xuất hiện: Xuất hiện khi có sự phân chia giai cấp xảy ra, sự bất lực của giai cấp bị bóc lột
trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột.
+ Thể hiện: Trong các giáo lý và các nghi thức, tín ngưỡng
+ Đặc điểm: Nó phản ánh nhu cầu tinh thần của một bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân có cuộc
sống vật chất nghèo nàn và đời sống tinh thần tăm tối. Do bị bóc lột, họ đẻ ra long tin vào một cuộc đời
tốt đẹp ở thế giới bên kia.
b3. TGQ triết học:
+ Khái niệm: Là hệ thống quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về bản than, cuộc sống và
vị trí con người trong thế giới ấy
+ Thời điểm xuất hiện: Xuất hiện khi con người đạt được trình độ cao và xã hội có nhu cầu chỉ đạo
cuộc sống bằng tư tưởng.
+ Thể hiện: Qua hệ thống các phạm trù (hệ thống lý luận triết học)
+ Đặc điểm: Triết học đồng nhất với TGQ triết học, chúng là hạt nhân lý luận của TGQ con người. Bao
gồm TGQ duy vật và TGQ duy tâm.
b4. TGQ khoa học:
+ Khái niệm: Là hệ thống tri thức được tổng kết từ các kết quả của mọi quá trình nghiên cứu và dự báo
của các ngành khoa học.
+ Thời điểm xuất hiện: Khi các ngành khoa học vươn lên, tự tách mình ra khỏi triết học, tự khẳng định
2
sự tồn tại tương đối độc lập của mình.
+ Thể hiện: Qua sự tăng trưởng tri thức của con người, theo sự phát triển của các ngành khoa học, đặc
biệt là các ngành khoa học tự nhiên
+ Đặc điểm: Thể hiện vai trò to lớn trong việc chỉ đạo hoạt động nhận thức khoa học và hoạt động thực
tiễn cách mạng của con người.
Câu 2 Chương 5 - Trang 40 - Anh/Chị hãy phân tích những thành tựu và hạn chế của các hình
thức thế giới quan duy vật trước C.Mác?
1. Thế giới quan duy vật chất phác:
1.1 Thực chất:
- TGQ duy vật chất phác là một hệ thống các quan điểm, quan niệm ngây thơ về thế giới và con người.
Các quan điểm, quan niệm này đều xuất phát từ luận điểm cơ bản cho rằng, căn nguyên của vạn vật là

một (hay vài) dạng vật chất cụ thể cảm tính nào đó mà sự biến đổi theo lẽ tự nhiên của nó làm cho vạn
vật trong thế giới (bao gồm cả con người hay đời sống tinh thần của họ) được sinh ra hay bị hủy diệt.
- TGQ duy vật chất phác xuất hiện vào thời cổ đại, khi mà hoạt động thực tiễn của con người còn quá
thấp, khi mà nhận thức con người còn quá ngây thơ, đơn giản, chủ yếu dựa trên những kinh nghiệm đời
thường.
- TGQ duy vật chất phác được thể hiện trong tư tưởng của trường phái triết học duy vật như: trường
phái âm dương – ngũ hành, trường phái Milê, trường phái Lôkayata, trường phái nguyên tử… Nó là
TGQ của một bộ phận giai cấp chủ nô hay tầng lớp quý tộc tiến bộ thống trị trong xã hội.
1.2 Thành tựu:
- TGQ duy vật chất phác không dựa vào cái siêu nhiên hay lòng tin, đức tin tôn giáo mà dựa vào cái tự
nhiên, dựa vào lý trí hay lẽ phải đời thường của chính con người để lý giải thế giới và đời sống của họ.
- TGQ duy vật chất phác đã đặt ra những vấn đề mà triết học và khoa học đời sau phải giải đáp; do vậy,
nó thúc đẩy hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phát triển, nó góp phần củng cố
sức mạnh tinh thần cho các lực lượng chính trị tiến bộ trong XH
1.3 Hạn chế:
- TGQ duy vật chất phác thường đồng nhất vật chất với vật thể cụ thể; do đó, nó thường mang tính trực
quan, tính phỏng đoán, thiếu chứng cứ khoa học.
- TGQ duy vật chất phác không triệt để, vì nó không lý giải được bản tính của các hiện tượng tinh thần
cũng như mối quan hệ giữa cái tinh thần và cái vật chất; nó chỉ giải thích thế giới chứ chưa thật sự góp
phần cải tạo thế giới.
2. Thế giới quan duy vật siêu hình:
2.1 Thực chất:
- TGQ duy vật siêu hình là một hệ thống các quan điểm, quan niệm khá chặt chẽ về TG và con người.
Các quan điểm, quan niệm của TG này đều xuất phát từ luận điểm cơ bản cho rằng, cơ sở của vạn vật
là các phần tử chất gián đoạn hay một môi trường vật chất lien tục nào đó; mà sự vận động, biến đổi
của nó theo các quy luật cơ học (tự nhiên) làm cho vạn vật trong thế giới (bao gồm cả con người và đời
sống tinh thần của họ) được sinh thành hay bị hủy diệt.
- TGQ duy vật siêu hình biểu hiện rõ nét nhất vào thế kỷ XVII – XVIII ở Tây Âu, khi quan điểm cơ
học và PP phân tích mang lại rất nhiều kết quả đáng khích lệ. Nó là kết quả của việc đề cao quan điểm
cơ học và PP phân tích… khi mà khoa học tự nhiên (trừ cơ học) còn quá thô sơ, chủ yếu dựa trên

những quan sát, kinh nghiệm trực tiếp.
- TGQ duy vật siêu hình được thể hiện trong tư tưởng phái triết học duy vật như: trường phái duy vật
kinh nghiệm Anh, chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp…
- Sự hình thành và phát triển của TGQ duy vật siêu hình gắn liền với quá trình xây dựng và củng cố
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nó chính là TGQ của giai cấp tư sản tiến bộ đang vươn lên
3
thống trị mọi mặt đời sống xã hội phương Tây.
2.2 Thành tựu:
- THQ duy vật siêu hình có ảnh hưởng đến tiến bộ của các ngành khoa học tự nhiên.
- Nó không chỉ giúp đào sâu, mở rộng nhiều hiểu biết về từng lĩnh vực của giới tự nhiên mà còn góp
phần đấu tranh chống lại thế giới quan duy tâm – tôn giáo vốn thống trị trên cả ngàn năm ở phương
Tây.
- Nó là sức mạnh tinh thần giúp củng cố và thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ và vững chắc của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đưa giai cấp tư sản lên vũ đài chính trị nắm lấy vai trò lãnh đạo xã hội.
2.3 Hạn chế:
- TGQ duy vật siêu hình đồng nhất vật chất với một dạng thể cụ thể của nó; tuyệt đối hóa vận động cơ
học; coi vạn vật, kể cả con người, như những cổ máy; nó không thấy được nguồn gốc vận động của thế
giới. Do vậy, TGQ duy vật siêu hình mang tính máy móc, không hiểu đúng bản chất của con người,
không lý giải được bản tính của các hiện tượng tinh thần cũng như mối quan hệ giữa cái tinh thần và
cái vật chất, tức nó không triệt để.
- TGQ duy vật siêu hình đã mang lại phong cách tư duy siêu hình, biến cái hiểu biết tương đối của con
người thành những chân lý tuyệt đối bất biến, do đó nó đã ngăn cản sự ra đời của các ngành khoa học
lý thuyết vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, đưa khoa học tự nhiên rơi vào tình trạng khủng hoảng
nghiêm trọng.
Câu hỏi: Anh/chị hãy phân tích nội dung và bản chất của CNDVBC với tính cách là 1 hạt nhân lý
luận của thế giới quan khoa học. (Đây là câu 3- trang 40 - Chương 5:Chủ nghĩa duy vật biện
chứng - Cơ sở của thế giới quan khoa học - Sách Triết Học - Phần II. Các chuyên đề về triết học
Mác - Lênin - Chủ biên: TS. Bùi Văn Mưa)
Trả lời:
1. Phân tích nội dung:

Nội dung của CNDVBC với tính cách hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học bao gồm hai nhóm
quan niệm. Đó là nhóm quan niệm duy vật về thế giới nói chung và quan niệm duy vật về xã hội nói
riêng.
a/ Quan điểm duy vật về thế giới: thể hiện ở chỗ CNDVBC coi vật chất của thế giới là vật chất và thế
giới thống nhất ở tính vật chất của nó, được diễn tả bởi những nội dung sau đây:
- Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới: Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế
giới vật chất, thế giới vật chất tồn tại khách quan vĩnh viễn vô hạn, không ai sinh ra và tiêu diệt được
nó.
- Phạm trù vật chất: Tất cả các sự vật hiện tượng đều là những dạng tồn tại cụ thể của vật chất hay là
những thuộc tính cụ thể của vật chất và trong thế giới này không có gì khác ngoài vật chất đang vận
động.
- Các sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất đều nằm trong mối quan hệ chuyển hóa lẫn nhau là
nguyên nhân và kết quả lẫn nhau và đều bị chi phối bởi những qui luật chung giống nhau.
- Phạm trù ý thức: Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan; nó mang bản tính phản ánh-
sáng tạo-xã hội. Ý thức tồn tại trước hết trong bộ óc con người, và sau đó, thông qua thực tiễn lao
động, nó được vật chất hoá và có được sự tồn tại mới trong các vật phẩm do con người sang tạo ra. Ý
thức có cấu trúc phức tạp bao gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, … trong đó, tri
thức (yếu tố cốt lõi) và tình cảm có vai trò quan trọng, thống nhất, chuyển hoá lẫn nhau. Sự thống nhất
giữa tri thức và tình cảm tạo ra động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động con người, góp phần
làm cho con người trở thành chủ thể sang tạo ra lịch sử.
- Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
4
+ Vật chất và ý thức đối lập nhau, tuy nhiên, “sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối
trong những phạm vi hết sức hạn chế…” – V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1980,
tr.1973
+ Vật chất quyết định nguồn gốc (tự nhiên và xã hội), quyết định nội dung thể hiện, phương thức tồn
tại và quyết định cả vai trò và tác dụng của ý thức. Tuy nhiên, ý thức có tính độc lập tương đối, vì vậy
khi thông qua hoạt động thực tiễn, mà trước hết là thực tiễn lao động, ý thức con người xâm nhập vào
hiện thực vật chất, nhờ đó, nó có được sức mạnh của cái tinh thần. Dựa trên sức mạnh này, ý thức tác
động đến thế giới, góp phần làm cho thế giới biến đổi. Cả giới tự nhiên thứ hai hay đời sống xã hội của

con người là sự thể hiện vai trò tác dụng của các nhân tố ý thức. Vì vậy, ý thức con người không chỉ
phản ánh thế giới mà còn góp phần sang tạo nên thế giới.
b/ Quan niệm duy vật về xã hội:
- Thế giới quan này coi xã hội là 1 bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Thể hiện ở chỗ xã hội có những
qui luật vận động và phát triển riêng, bao gồm cả các quy luật tự nhiên lẫn các quy luật xã hội.
- Sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội: Những giai đoạn sản xuất xã hội khác nhau sản sinh ra
những kiểu đời sống xã hội khác nhau. Yếu tố cốt lõi của nền sản xuất vật chất của xã hội là phương
thức xã hội. Phương thức sản xuất quyết định mọi quá trình sinh hoạt của đời sống xã hội. Tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội.
+ Phương thức sản xuất là sự thống nhất của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự thay đổi của
quan hệ sản xuất sẽ làm thay đổi mọi quan hệ, mọi mặt của đời sống xã hội từ kinh tế - cơ sở hạ tầng
đến chính trị - kiến trúc thượng tầng, từ lĩnh vực vật chất – tồn tại xã hội đến lĩnh vực tinh thần – ý thức
xã hội.
- Sự phát triển của XH là 1 quá trình phát triển của lịch sử tự nhiên: Đó là lịch sử phát triển của các
hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, vừa thống nhất vừa đa dạng, mà thực chất là lịch sử phát triển
của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất phát triển đến một lúc nào đó sẽ kéo theo quan hệ sản xuất
thay đổi, tức làm thay đổi phương thức sản xuất; Phương thức sản xuất thay đổi làm cho cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng của xã hội thay đổi theo, tức là làm thay đổi hình thái kinh tế - xã hội.
- Quần chúng nhân dân (QCND) là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử.
+ QCND là một cộng đồng người trong lịch sử mà dựa trên địa vị và lợi ích của mình họ có thể tham
gia giải quyết các vấn đề trọng đại của lịch sử và thúc đẩy lịch sử tiến lên. QCND trước hết là những
người lao động sản xuất ra của cải vật chất và tạo ra các giá trị tinh thần; là những giai tầng xã hội góp
phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
+ Lịch sử được sang tạo bởi QCND ; bởi vì họ là lực lượng trực tiếp sản xuất ra mọi của cải vật chất,
sang tạo ra mọi giá trị tinh thần, là lực lượng quyết định thành bại của mọi cuộc biến đổi cách mạng
xảy ra trong xã hội.
+ Trong các điều kiện lịch sử khác nhau, vai trò chủ thể của QCNH biểu hiện khác nhau. Cùng với quá
trình giải phóng QCND ra khỏi các lực lượng đen tối của tự nhiên và xã hội, vai trò sang tạo ra lịch sử
của QCND càng ngày càng to lớn.
+ Sức mạnh của QCNH chỉ thật sự được phát huy cao độ khi họ được hướng dẫn bởi các tổ chức chính

trị - xã hội, dưới sự lãnh đạo của các lãnh tụ - cá nhân có nhân cách vĩ đại, biết tập hợp, giác ngộ, tổ
chức QCNH để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể do lịch sử đặt ra.
2. Phân tích bản chất
Bản chất của CNDVBC với tính cách là hạt nhân của thế giới quan khoa học được biểu hiện như sau:
a. Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn
- Chủ nghĩa duy tâm nhận thấy tính năng động sáng tạo của ý thức nhưng nó đã tuyệt đối hoá, thần
thánh hoá ý thức thành cái siêu nhiên, thần thánh, đưa ý thức thoát ra khỏi thế giới tự nhiên và đời sống
xã hội của con người (vật chất), để sau đó quay về chi phối thế giới tự nhiên và đời sống xã hội con
người (vật chất). Trong khi đó, chủ nghĩa duy vật cũ lại thiếu quan điểm thực tiễn, đầy tính trực quan
và tính máy móc, nên không nhìn thấy được tính năng động sáng tạo của ý thức, không nhận thấy được
5
vai trò quan trọng của ý thức trong đời sống của con người.
- Khắc phục những nhược điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vật chất có trước và
quyết định ý thức; trọng hoạt động thực tiễn, ý thức con người xâm nhập vào lực lượng vật chất, thông
qua những lực lượng vật chất, nó tác động tích cực làm biến đổi hiện thực vật chất (khách quan) theo
nhu cầu (chủ quan) của con người.
b. Thống nhất thế giới quan duy vật với phép biện chứng
- Chủ nghĩa duy vật cũ, kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiobac mang nặng tính siêu hình, vì vậy những
lý giải về thế giới của nó thường phiến diện, rời rạc, máy móc, còn phép biện chứng chủ yếu được
nghiên cứu trong các hệ thống triết học duy tâm, đặc biệt là hệ thống triết học duy tâm của Heghen nên
nó thường tư biện, thần bí.
- Dựa trên thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản và các thành tựu khoa học lúc bấy giờ, C.Mác đã cải
tạo triệt để chủ nghĩa duy vật cũ để giải thoát chủ nghĩa duy vật ra khỏi tính siêu hình; đồng thời C.Mác
cũng cải tạo triệt để phép biện chứng duy tâm để giải thoát phép biện chứng ra khỏi tính thần bí, tư
biện; từ đó, C.Mác xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng hay phép biện chứng duy vật. C.Mác đã
thống nhất thế giới quan duy vật với phép biện chứng.
c. Tính duy vật triệt để: CNDVBC không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà còn duy vật trong lĩnh
vực xã hội.
d. Tính thực tiễn – cách mạng: CNDVBC hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn cải tạo thế
giới.

- CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản. Sức mạnh vật chất của giai cấp kết hợp nhuần nhuyễn
với sức mạnh tinh thần của triết học tạo nên sức mạnh tổng hợp của thời đại. Chỉ có sức mạnh tổng hợp
này mới làm thay đổi trật tự của thế giới.
- CNDVBC không chỉ giải thích thế giới mà góp phần cải tạo thế giới: Khi xâm nhập vào phong trào
đấu tranh của GCVS và nhân loại tiến bộ, phép BCDV có được sức mạnh vật chất. Bằng sức mạnh vật
chất này nó có thể đánh đổ các lực lượng vật chất bảo thủ và phản động, vươn lên xây dựng một xã hội
mới của con người và dành cho con người – chủ nghĩa cộng sản.
- CNDVBC khẳng định sự tất thắng của cái mới: Mọi cái hiện tồn đều chứa đựng trong mình sự tự phủ
định; sớm muộn gì nó cũng nhường chỗ cho sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn. Trong thế giới luôn xảy
ra những cuộc đấu tranh giữa cái mới với cái cũ. Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn, phức tạp; cái
mới có thể thất bại tạm thời, nhưng cuối cùng cái mới sẽ thắng lợi.
- CNDVBC là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho hành động. Cùng với quá trình đào sâu và mở
rộng của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của nhân loại, CNDVBC không ngừng khái quát
các thành tựu khoa học và những kinh nghiệm thực tiễn của nhân loại để bổ sung, hiệu chỉnh nhằm
hoàn thiện chính mình.
Đáp án khác của câu 3 trang 40
CÂU HỎI: CÂU 3)Anh/Chị hãy phân tích nội dung và bản chất của chủ nghĩa duy vật biện
chứng với tính cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học?
TRẢ LỜI:
1. Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa
học:
1.1 Quan điểm duy vật về thế giới:
- Tồn tại của thế giới là tiền đề thống nhất thế giới: Về điều này Ăngghen đã viết
· “Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của tính thống
nhất của nó, vì trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã”
· “Tính thống nhất thật sự của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh
không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng một sự phát triển lâu dài và khó
khăn của triết học và khoa học tự nhiên”
6
- Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới. Các luận điểm đó là:

· Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vô tận
· Trong thế giới vật chất chỉ tồn tại các sự vật, quá trình vật chất cụ thể, có một mức độ tổ chức nhất
định; đang biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau; là nguồn gốc, nguyên nhân của nhau; cùng chịu sự chi phối
bởi các quy luật khách quan của thế giới vật chất.
· Ý thức, tư duy (tinh thần) con người chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao - bộ óc con
người và vật chất xã hội. Thế giới vật chất thống nhất và duy nhất.
- Phạm trù vật chất - phạm trù cơ bản, xuất phát của triết học duy vật biện chứng
· “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta ghép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác”
· “Trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận
động ở đâu ngoài không gian và thời gian”
- Phạm trù ý thức:
· Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan, nó mang bản tính phản ánh – sáng tạo – xã hội.
· Ý thức tồn tại trước hết trong bộ óc con người, và sau đó, thông qua thực tiễn lao động, nó được vật
chất hóa và có được sự tồn tại mới trong các vật phẩm do con người sáng tạo ra.
· Ý thức có cấu trúc rất phức tạp bao gồm các yếu tố như: tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí…
trong đó, tri thức (yếu tố cốt lõi) và tình cảm có vai trò rất quan trọng.
· Tri thức là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới, nó phản ánh những hiểu biết của chủ
thể về khách thể. Tình cảm là những rung động tâm lý khá ổn định phản ánh thái độ của chủ thể - cá
nhân con người - trước khách thể - hiện thực. Tri thức và tình cảm thống nhất, chuyển hóa lẫn nhau, sự
thống nhất của chúng tạo ra động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động của con người, góp phần
làm cho con người trở thành chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
- Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
· Vật chất và ý thức đối lập nhau, tuy nhiên sự đối lập chỉ là tương đối.
· Vật chất quyết định nguồn gốc (tự nhiên và xã hội), tuyết định nội dung thể hiện, phương thức tồn tại
và quyết định cả vai trò và tác dụng của ý thức.
· Tuy nhiên, ý thức có tính độc lập tương đối, vì vậy khi thông qua hoạt động thực tiễn, mà trước hết là
thực tiễn lao động, ý thức con người xâm nhập vào hiện thực vật chất, nhờ đó, nó có được sức mạnh
của cái tinh thần. Dựa vào sức mạnh này, ý thức tác động đến thế giới, góp phần làm cho thế giới biến

đổi. Vì vậy, ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo nên thế giới.
(Bổ sung phần trong sách có, slide thầy không có)
- “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ
hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người”.
1.2 Quan điểm duy vật về xã hội:
- Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên:
· XH là kết quả phát triển lâu dài của tự nhiên. XH có quy luật vận động, phát triển riêng, bao gồm cả
các quy luật tự nhiên lẫn các quy luật xã hội.
· Dù sự vận động, phát triển của xã hội do quy luật khách quan chi phối, song sự vận động phát triển đó
phải thông qua hoạt động thực tiễn có ý thức của con người đang theo đuổi những mục đích nhằm đạt
những lợi ích để thỏa mãn những nhu cầu nhất định cho riêng mình.
- Sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội:
· Phương thức sản xuất quyết định mọi quá trình sinh hoạt của đời sống xã hội. Tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội. Lịch sử tồn tại và phát triển xã hội loài người gắn liền với lịch sử tồn tại và phát
triển của nền sản xuất ra của cải vật chất.
· Nền sản xuất vật chất được thông qua quá trình lao động của con người, diễn ra trong từng giai đoạn
lịch sử khác nhau là khác nhau, gắn liền với những phương thức sản xuất vật chất khác nhau. Sự thay
7
đổi của lực lượng sản xuất đến một lúc nào đó sẽ làm thay đổi quan hệ sản xuất, tức thay đổi phương
thức sản xuất.
· Trong xã hội, “không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ, mà trái lại sự tồn tại của
họ quyết định ý thức của họ”.
- Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên:
· Đó là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, vừa thống nhất vừa đa dạng,
mà thực chất là lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển đến một lúc nào
đó sẽ kéo theo quan hệ sản xuất thay đổi, tức làm thay đổi phương thức sản xuất; phương thức sản xuất
thay đổi làm cho cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội thay đổi theo, tức là làm thay đổi
hình thái kinh tế - xã hội.
· Đó là lịch sử tạo nên từ các hoạt động cụ thể của những con người cụ thể có lợi ích và mục đích khác
nhau.

- Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử:
· Quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp sản xuất ra mọi của cải vật chất, sáng tạo ra mọi giá trị
tinh thần, là lực lượng quyết định thành bại của mọi cuộc biến đổi cách mạng xảy ra trong xã hội.
· Trong điều kiện lịch sử khác nhau, vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân biểu hiện khác nhau.
Cùng với quá trình giải phóng quần chúng nhân dân ra khỏi các lực lượng đen tối của tự nhiên và xã
hội, vai trò sang tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân càng ngày càng to lớn.
· Sức mạnh của quần chúng nhân dân chỉ thật sự được phát huy cao độ khi họ được hướng dẫn bởi các
tổ chức chính trị - xã hội, dưới sự lãnh đạo của các lãnh tụ - cá nhân có nhân cách vĩ đại.
2. Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là hạt nhân của thế giới khoa học:
2.1 Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn:
- Chủ nghĩa duy vật cũ thiếu quan điểm thực tiễn, đầy tính trực quan và máy móc, nên không nhìn thấy
được tính năng động sáng tạo của ý thức, không nhận thấy được vai trò quan trọng của ý thức trong đời
sống của con người.
- Khi khắc phục những nhược điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vật chất có trước và
quyết định ý thức; trong hoạt động thực tiễn, ý thức con người xâm nhập vào lực lượng vật chất, thông
qua những lực lượng vật chất, nó tác động tích cực làm biến đổi hiện thực vật chất (khách quan) theo
nhu cầu (chủ quan) của con người. Như vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ đối lập của chủ
nghĩa duy tâm (cả duy tâm khách quan lẫn duy tâm chủ quan) mà còn đối lập với chủ nghĩa duy vật
tầm thường.
2.2 Thống nhát thế giới quan duy vật với phép biện chứng:
- Chủ nghĩa duy vật cũ (thế kỷ XVII – XVIII), kể cả CN duy vật của Phoiơbắc mang nặng tính siêu
hình, phép biện chứng chủ yếu được nghiên cứu trong các hệ thống triết học duy tâm, đặc biệt là hệ
thống triết học duy tâm của Hêghen nên nó thường tư biện, thần bí.
- C.Mác đã cải tạo triệt để CNDV cũ để giải thoát CNDV ra khỏi tính siêu hình; đồng thời C.Mác cũng
cải tạo triệt để phép biện chứng duy tâm để giải thoát phép biện chứng ra khỏi tính thần bí, tư biện; từ
đó, C.Mác xây dựng nên CNDVBC hay phép biện chứng duy vật. C.Mác đã thống nhất TGQ duy vật
với phép biện chứng.
2.3 Tính duy vật triệt để:
- CNDVBC không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà con duy vật trong lĩnh vực xã hội; CNDV
lịch sử là cống hiến vĩ đại của C.Mác cho kho tàng tư tưởng của loài người.

- CNDV cũ không triệt để, nó chỉ duy vật trong tự nhiên, còn trong lĩnh vực xã hội, nó hoàn toàn duy
tâm. Phoibắc – nhà duy vật vĩ đại nhất trước Mác, bậc tiền bối của Mác cũng không ngoại lệ.
- CNDV lịch sử ra đời từ kết quả C.Mác và Ăngghen vận dụng CNDVBC vào nghiên cứu lĩnh vực xã
hội và tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán toàn bộ tư tưởng xã hôin của loài người trên cơ sở khái
quát thực tiền mới của giai cấp vô sản.
- “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển CNDV, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở
8
rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. CNDV lịch sử
của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học.
- “Tất cả những cái mà tư tưởng loài người đã sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lại, đã phê phán, và
thong qua phong trào công nhân mà kiểm tra lại”
- Với CNDV lịch sử, nhân loại tiến bộ có được một công cụ vĩ đại trong nhận thức và cải tạo thế giới.
2.4 Tính thực tiễn – cách mạng:
- CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản.
· Lợi ích của giai cấp vô sản phù hợp với lợi ích của nhân loại tiến bộ. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản giải phóng mình ra khỏi sự áp bức, bóc lột cũng là cuộc đấu tranh của nhân loại tiến bộ và nó chỉ
thắng lợi khi phát triển từ tự phát lên tự giác.
· Được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học, phản ánh các quy luật phát triển khách quan của
lịch sử, CNDVBC trở thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản - một hệ tư tưởng chứa đựng trong mình sự
thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng.
- CNDVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn góp phần cải tạo thế giới.
· Khi xâm nhập vào phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân loại tiến bộ, phép biện chứng duy
vật có được sức mạnh vật chất.
· “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế
giới”. Để cải tạo TG hiệu quả giai cấp vô sản phải biết kết họp sức mạnh vật chất chính trị của mình
với sức mạnh tinh thần của triết học DVBC để tạo nên sức mạnh tổng hợp vô địch.
- CNDVBC không khẳng định sự tất thắng của cái mới.
· Mọi cái hiện tồn đều chứa đựng trong mình sự tự phủ định.
· Là một hệ thống các quy luật phổ biến, CNDVBC trở thành công cụ tinh thần để hạn chế rồi tiến đến
xóa bỏ cái cũ lỗi thời, phát hiện và xây dựng cái mới tiến bộ.

- CNDVBC là một hệ thống mở, là kim chỉ năm cho hành động.
Câu 3/ Chương 5/ Trang 40
TRẢ LỜI
1. Nội dung: Có2 nhóm quan điểm:
Quan điểm duy vật về thế giới:
Ø Tồn tại của thế giới là tiền đề thống nhất thế giới: Trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì
trước hết thế giới phải tồn tại. Tính thống nhất thật sự của thế giới là ở tính vật chất của nó, tính vật
chất này được chứng minh bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự
nhiên.
Ø Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới, có nội dung như sau:
§ Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.
§ Trong thế giới vật chất chỉ tồn tại các quá trình vật chất cụ thể, có mức độ tổ chức nhất định; đang
biến đổi chuyển hóa lẫn nhau là nguồn gốc, nguyên nhân của nhau; cùng chịu sự chi phối bởi các quy
luật khách quan của TGVC.
§ Ý thức, tư duy con người chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao; thế giới thống nhất
và duy nhất.
Ø Phạm trù vật chất: vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không
phụ thuộc vào cảm giác.
Ø Phạm trù ý thức, quan hệ giữa ý thức và vật chất: Ý thức của con người tồn tại trước hết trong bộ óc
con người, sau đó thông qua thực tiễn lao động nó tồn tại trong các vật phẩm do con người sáng tạo ra.
Ý thức gồm nhiều yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí… trong đó tri thức và tình cảm có vai trò
rất quan trọng. Thông qua hoạt động thực tiễn, ý thức con người xâm nhập vào hiện thực vật chất tạo
nên sức mạnh tinh thần tác động lên thế giới góp phần biến đổi thế giới.
9
Quan điểm duy vật về xã hội:
Ø Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, nó là kết quả phát triển lâu dài của tự nhiên, có quy luật
vận động, phát triển riêng, sự vận động, phát triển của xã hội phải thông qua hoạt động thực tiễn.
Ø Sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội: Nền sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử gắn liền
với một phương tiện sản xuất nhất định, sự thay đổi PTSX sẽ làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã

hội.
Ø Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, là lịch sử phát triển các hình thái kinh tế xã hội
một cách đa dạng nhưng thống nhất từ thấp đến cao, mà thực chất là lịch sử phát triển của xã hội.
LLSX á à QHSX á à PTSX á à (CSHT + KTTT) á à HTKTXH á
Ø Quần chúng nhân dân (QCND) là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử: QCND là lực lượng trực
tiếp sản xuất ra của cải vật chất, sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần, quyết định thành bại của mọi cuộc
cách mạng. Vai trò chủ thể QCND biểu hiện khác nhau ở những điều kiện lịch sử khác nhau và ngày
càng lớn dần; sức mạnh của họ chỉ được phát huy khi họ được hướng dẫn, tổ chức, lãnh đạo.
2. Bản chất của CNDVBC:
Ø CNDVBC đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn:
CNDV cũ thiếu quan điểm thực tiễn, máy móc à không thấy được tính năng động của ý thức; riêng
CNDVBC khẳng định vật chất có trước và quyết định ý thức; trong hoạt động thực tiễn ý thức tác động
tích cực làm biến đổi hiện thực vật chất theo nhu cầu của con người.
Ø CNDVBC đã thống nhất TGQDV với phép biện chứng: CNDV cũ mang nặng tính siêu hình, PBC
được nghiên cứu trong hệ thống triết học duy tâm à Mác cải tạo CNDV cũ, giải thoát PBC ra khỏi tính
thần bí, tư biện à xây dựng nên CNDVBC; thống nhất giữa TGQDV với PBC.
Ø CNDVBC là CNDV triệt để; nó không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà còn trong lĩnh vực xã
hội. CNDVLS là cống hiến vĩ đại của C.Mác cho kho tàng tư tưởng của loài người: CNDV cũ không
triệt để; CNDV lịch sử ra đời là kết quả vận dụng CNDV vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội, tổng kết lịch
sử, kế thừa có phê phán toàn bộ tư tưởng xã hội trên cơ sở khái quát thực tiễn mới của giai cấp vô sản.
Với CNDVLS nhân loại tiến bộ có được một công cụ vĩ đại trong nhận thức, cải tạo thế giới.
Ø CNDVBC mang tính thực tiễn - cách mạng, nó hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn cải
tạo thế giới:
§ CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản: Lợi ích giai cấp vô sản phù hợp lợi ích nhân loại tiến
bộ, được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học à CNDVBC trở thành hệ tư tưởng của giai cấp
vô sản có sự thống nhất tính khoa học và tính cách mạng.
§ CNDVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn góp phần cải tạo thế giới.
§ CNDVBC khẳng định sự tất thắng của cái mới: nó xóa bỏ cái cũ lỗi thời, xây dựng cái mới tiến bộ.
§ CNDVBC là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho mọi hành động.
Câu hỏi số: 4/Chương số: 5/Giáo trình Triết học II (TS. Bùi Văn Mưa) trang số: 40

Phân tích cơ sở lý luận, nếu ra các yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách quan của
chủ ngĩa duy vật biện chứng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang vận dụng nghuyên tắc này
như thế nào vào sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta?
Câu trả lời:
1. Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
Khắc phục những hạn chế của nguyên tắc khách quan trong triết học tư sản thời cận đại (không thể hiện
được tầm quan trọng của nhân tố chủ quan, của ý thức trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn của con người); đồng thời chỉ ra sai lầm của các trào lưu triết học duy tâm (tuyệt đối hoá nhân tố
chủ quan), chủ nghĩa duy vật biện chứng, dựa trên nội dung lý luận của nguyên lý thống nhất thế giới
trong tính vật chất, xây dựng các yêu cầu của nguyên tắc khách quan.
- Vật chất có trước tư duy. Vật chất tồn tại vĩnh viễn; khi vật chất phát triển ở một giai đoạn nhất định
10
của mình, nó sản sinh ra tư duy. Do tư duy phản ánh thế giới vật chất, nên quá trình nhận thức phải
xuất phát từ bản thân hoặc bản chất của đối tượng; từ đó, rút ra những sơ đồ, tái tạo trong tư duy các
hình tượng, tư tưởng – cái logic phát triển của chính đối tượng đó.
- “Nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng (tìm kiếm, chọn lựa, sử dụng những con
đường, cách thức, phương tiện thâm nhập hữu hiệu vào “thế giới” bên trong của sự vật, hiện tượng) sẽ
làm cho sự vật, hiện tượng có một cái gì đó xa lạ với chính nó. Vậy, để suy nghĩ của chúng ta về sự vật
là khách quan, phù hợp với chúng, nguyên tắc khách quan cần được bổ sung thêm yêu cầu phát huy
tính năng động sang tạo của chủ thể và nguyên tắc về tính đảng.
+ Giới tự nhiên và xã hội không bộc lộ tất cả bản chất của mình thành các hiện tượng điển hình. Do đó,
để phản ánh khách thể như một chỉnh thể, chủ thể tư duy phải phát huy tính năng động sáng tạo, tức là
phải biến đổi, thậm chí cải tạo đối tượng theo hướng phù hợp với quy luật của hiện thực và của lĩnh
vực nghiên cứu.
+ Các hiện tượng xã hội bao gồm cả vật chất và tinh thần, chứa đầy những cái chủ quan, những cái lý
tưởng; và luôn chịu sự tác động của các lực lượng tự phát của tự nhiên lẫn các lực lượng tự giác của
con người. Trong trường hợp này, khách tể tư duy và chủ thể tư duy quyện chặt vào nhau bằng hệ
thống những mối liên hệ xã hội chằng chịt. Do đó, trong nhận thức các hiện tượng xã hội, cần kết hợp
nguyên tắc khách quan với yêu cầu phát huy tính năng động và sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính
đảng. Nghĩa là, nguyên tắc khách quan trong xem xét phải: Xuất phát từ chính đối tượng; Phân biệt

những quan hệ vật chất với quan hệ tư tưởng, quan hệ khách quan với nhân tố chủ quan; Thừa nhận các
quan hệ vật chất khách quan của tồn tại xã hội là những nhân tố quyết định, còn ý thức xã hội được quy
định bởi tồn tại xã hội và ảnh hưởng ngược lại tồn tại xã hội.
+ Khi nhận thức các hiện tượng xã hội, cần chú ý đến mức độ quan tâm và năng lực nhận thức của các
lực lượng xã hội đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, đối với các khuynh hướng phát triển của các
hiện tượng xã hội, đối với việc đánh giá tình hình xã hội… Các lực lượng xã hội đứng trên lập trường
của giai cấp tiên tiến, của những lực lượng cách mạng đương thời sẽ có những đánh giá có giá trị hơn
và những cách giải quyết đúng hơn. Vì vậy, tính khách quan trong xem xét hiện tượng xã hội cần nhất
quán với nguyên tắc tính đảng.
2. Yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách quan của chủ ngĩa duy vật biện chứng:
- Trong hoạt động nhận thức phải:
+ Xuất phát từ hiện thực khách quan, tái hiện nó như nó vốn có, không được tuỳ tiện đưa ra những
nhận điịnh chủ quan.
+ Biết phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể, đưa ra các giả thuyết khoa học có giá trị về khách
thể, đồng thời biết cách tiến hành kiểm chứng các giả thuyết đó bằng thực nghiệm.
- Trong hoạt động thực tiễn phải:
+ Xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện ra những quy luật chi phối nó.
+ Dựa trên các quy luật khách quan đó, vạch ra các mục tiêu, kế hoạch, tìm kiếm các biện pháp,
phương thức để tổ chức thực hiện; kịp thời điều chỉnh, uốn nắn hoạt động của con người theo lợi ích và
mục tiêu được đề ra.
3. Sự vận dụng nguyên tắc khách quan của Đảng Cộng sản Việt Nam vào sự nghiệp cách mạng hiện
nay ở nước ta:
a) Phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định của vật chất. Cụ thể là:
- Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để hoạch định chiến lược, sách lược
phát triển đất nước.
- Biết tìm kiếm, khai thác, tổ chức những lực lượng vật chất (cá nhân - cộng đồng, kinh tế - quân sự,
trong nước – ngoài nước, quá khưa – tương lai, …) để hiện thực hoá các sách lược, chiến lược đó.
- Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; Coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu phát
triển đát nước. Biết kết hợp hài hoà các dạng lợi ích khác nhau thành động lực thúc đẩy công cuộc Đổi
mới.

11
Đảng ta kết luận: “Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật
khách quan”.
b) Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của các yếu tố chủ quan (tình cảm, ý
chí, lý trí,…), tức là phát huy vai trò nhân tố con người trong hoạt động nhân thức và thực tiễn cải tạo
đất nước. Cụ thể:
- Coi sự thống nhất nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học là động lực tinh thần thúc đẩy công cuộc
Đổi mới; Chống lại thái độ thủ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ; Bồi dưỡng nhiệt tình, phẩm chất cách mạng;
Khơi đậy lòng yêu nước, ý chí quật cường, tài trí người Việt Nam; Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và tận
dụng nhân tài.
- Coi trọng và đẩy mạnh giáo dục tư tưởng (chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh); Nâng
cao và đổi mới tư duy lý luận (về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội)
- Phổ biến tri thức khoa học cho cán bộ, Đảng viên, nhân dân.
- Kiên quyết khắc phục và ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ, hành động giản
đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng, bất chấp quy luật khách quan.
CÂU HỎI: CÂU 4 / 40
Anh (hãy) phân tích cơ sở lý luận, nêu ra các yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách
quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang vận dụng nguyên
tắc này như thế nào vào sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta?
Cơ sở lý luận:
1. Phép biện chứng:
a. Khái niệm phép biện chứng:
Biện chứng khách quan là phạm trù dùng để chỉ biện chứng của bản thân sự vật, hiện tượng, quá trình
tồn tại độc lập và ở bên ngoài ý thức con người.
Biện chứng chủ quan là phạm trù dùng để chỉ tư duy biện chứng và biện chứng của chính quá trình
phản ánh hiện thực khách quan vào bộ não của con người.
Phép biện chứng với tư cách là một học thuyết, một lý luận triết học, đó là biện chứng chủ quan, là sự
phản ánh khách quan vào trong bộ não của con người.
Ph. Ăngghen định nghĩa: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến
của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.

Trong quá trình phát triển của mình, phép biẹn chứng trãi qua 3 hình thức cơ bản sau đây:
- Phép biện chứng cổ đại: tự phát, ngây thơ.
- Phép biện chứng cổ điển Đức: duy tâm.
- Phép biện chứng duy vật.
Sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng:
Sự thống nhất giữa tính đảng và tính khách quan, khoa học.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Sự thống nhất giữa lý luận và phương pháp.
Tính sáng tạo.
Phép biện chứng duy vật bao gồm một nội dung hết sức phong phú, bởi vì đối tượng phản ánh của nó –
thế giới vật chất vô cùng, vô tận. Trong đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
triển có ý nghĩa khái quát nhất. Đây là hai nguyên lý cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật, là đối
tượng của phép biện chứng duy vật.
b. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật:
Phép biện chứng duy vật có hai đặc trưng cơ bản:
Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin là phép biện chứng được xác lập trên nền
tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Đây là sự khác biệt về trình độ phát triển so với các tư tưởng
biện chứng đã từng có trong lịch sử triết học.
12
Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có sự thốg nhất giữa nội dung thế
giới quan (duy vật biện chứng) và phương pháp luận (biện chứng duy vật), do đó, nó không dừng lại ở
sự giải thích thế giới mà là còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
Với những đặc trưng cơ bản trên, phép biện chứng duy vật giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong thế giới
quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của
hoạt động sáng tạo và nghiên cứu khoa học.
2. Các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật:
2.1 Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến:
v Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến:
Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại lẫn nhau, sự phụ thuộc lẫn

nhau, sự ảnh hưởng,sự tương tác và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới hay
giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính của sự vật hiện tượng, một quá trình.
Liên hệ phổ biến là một khái niệm dùng để chỉ mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới (cả tự nhiên, xã
hội và tư duy) dù đa dạng phong phú, nhưng đều nằm trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng
khác; đều chịu sự chi phối, tác động ảnh hưởng của sự vật, hiện tượng.
Cơ sơ của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới. Bởi lẽ, dù các sự vật trong thế
giới có đa dạng đến đâu chăng nữa thì cũng là những hình thức tồn tại cụ thể của vật chất. Cho nên,
chúng đều chịu sự chi của quy luật vật chất. Ngay cả thức, tinh thần cũng là thuộc tính của một dạng
vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Do vậy, ý thức tinh thần cũng bị chi phối bởi quy luật vật
chất.
+ Các tính chất của mối liên hệ:
Theo triết học duy vật biện chứng, mối liện hệ có các tính chất sau:
Tính khách quan – nghĩa là, mối liên hệ không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, chỉ phụ
thuộc vào bản thân sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ là mối liên hệ vốn có của bản thân sự vật, hiện
tượng.
Tính phổ biến – nghĩa là, mối liên hệ tồn tại cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy; có ở cả mọi lúc, mọi
nơi. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng, trong bất kỳ thời gian nào, không gian nào luôn có mối
liên hệ giữa các yếu tố cấu thành sự vật.
Tính đa dạng, phong phú – rất nhiều mối liên hệ khác nhau phụ thuộc vào góc độ xem xét; chẳng hạn
mối liên hệ bên trong – bên ngoài; mối liên hệ tất nhiên –ngẫu nhiên; mối liên hệ trực tiếp – gián tiếp;
mối liên hệ chủ yếu – thứ yếu; mối liên hệ xa – gần,… Mỗi cặp mối liên hệ này có vai trò khác nhau
trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. sự phân chia của các cặp mối liên hệ này
cũng chỉ là tương đối.
+ Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ tính khách quan và mối quan hệ phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức
và thực tiễn cần có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật
trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật
và trong sự tác động qua lại giữa các sự vật đó với các sự vật khác. Như vậy, quan điểm toàn diện đối
lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.

Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú cho nên trong hoạt nhận thức và thực tiễn khi thực hiện
quan điểm toàn diện phải đồng thời kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể quan điểm này yêu cầu, khi
nhận thức sự vật thì phải xem xét sự vật luôn trong điều kiện, hoàn cảnh không gian, thời gian cụ thể.
Phải xem xét sự vật ra đời trong hoàn cảnh nào? Nó tồn tại, vận động, phát triển trong những điều kiện
nào? Trong hoạt động thực tiễn khi giải quyết vấn đề thực tiễn nào phải có những biện pháp rất cụ thể,
không được chung chung. Khi vận dụng nguyên lý, lý luận chung vào thực tmiễn phải xuất phát từ
những điều kiện thực tiễn lịch sử - cụ thể. Quan điểm lịch sử chống lại quan điểm giáo điều, phiến diện,
13
siêu hình, chiết trung ngụy biện.
2.2 . Nguyên lý về sự phát triển:
+ Khái niệm phát triển:
Khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp lên cao, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn của sự vật. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là mâu
thuẫn trong bản thân sự vật. Qua trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn đó quy định sự vận động,
phát triển của sự vật.
+ Tính chất của sự phát triển:
Phát triển mang tính khách quan – nghĩa là, phát triển của sự vật là tự thân, nguồn gốc của sự phát triển
nằm ngay trong sự vật, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, chỉ phụ thuộc vào mâu
thuẫn bên trong sự vật.
Phát triển mang tính phổ biến – phát triển diễn ra cả trong tự nhiên, xã hộui và tư duy, diễn ra ở mọi
lúc, mọi nơi.
Phát triển mang tính đa dạng, phong phú – tức là, tùy thuộc vào hình thức tồn tại cụ thể khác nhau.
Trong xã hội, phát triển thể hiện ở khả năng chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội phục vụ con người.
Trong tư duy phát triển thể hiện ở việc nhận thức vấn đề gì đó ngày càng đầy đủ hơn, đúng đắn hơn.
+ Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ nguyên lý về sự phát triển rút ra những ý nghĩa phương pháp luận: xây dựng quan điểm phát triển:
Khi nhận thức sự vật phải nhận thức nó trong sự vận động, phát triển, không nhìn nhận sự vật đứng im,
chết cứng, không vận động, không phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ định kiến, đối lập với sự phát
triển.

Các yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vô tận; trong nó không gì khác ngoài những
quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc nguyên nhân của nguyên nhân.
Việc quán triệt nguyên lý về sự thống nhất về thế giới trong tính vật chất, xác định đúng mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, hiểu rõ vai trò và tác dụng của ý thức đến hoạt động cải tạo thế giới của con
người sẽ giúp chúng ta vạch ra nguyên tắc khách quan nhằm điều chỉnh hoạt động nhận thức đúng đắn
và thực tiễn cải tạo thế giới một cách hiệu quả. Nguyên tắc này yêu cầu:
Trong hoạt động nhận thức, chủ thể cần phải:
Một là, xuất phát từ hiện thực khách quan, tái hiện lại nó như nó vốn có mà không được tùy tiện đưa ra
những nhận định, đánh giá chủ quan.
Hai là, biết phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể, đưa ra các giả thuyết khoa học về khách thể,
đồng thời biết cách tiến hành những thí nghiệm để kiểm chứng các giả thuyết đó.
Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể cần phải:
Một là, xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện ra nhưng quy luật chi phối nó.
Hai là, dựa trên các quy luật khách quan đó vạch ra các mục tiêu, kế hoạch, tìm kiếm các biện pháp,
phương thức để tổ chức thực hiện, kịp thời điều chỉnh, uốn nắn hoạt động của con người theo lới ích và
mục tiêu được đặt ra.
Nghĩa là, chủ thể phải biết lấy hiện thực khách quan (thực tế) chứ không phải lấu ý muốn, tình cảm chủ
quan làm căn cứ cho mọi hoạt động cải tạo thế giới của mình. Còn trong mọi hoạt động cải tạo thế giới
của mình cần biết phát huy tính năng động sáng tạo của hiện thực chủ quan (ý thức).
Nguyên tắc khách quan đối lập với chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, đồng thời nó cũng xa lạ với thái độ
thờ ơ lãnh đạm, thụ động, chờ thời.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang vận dụng nguyên tắc này như thế nào vào sự nghiệp cách mạng
hiện nay ở nước ta?
Công cuộc đổi mới hiện nay do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo là dựa trên nguyên
tắc khách quan của phép biện chứng duy vật, đặc biệt đã và đang vận dụng nguyên tắc này vào sự
14
nghiệp cách mạng nước ta trong tình hình mới. Nguyên tắc khách quan được quán triệt đi từ nhận thức
đến hành động, nhận thức đúng từ đó chúng ta đề ra những phương thức, biện pháp để giải quyết đưa
sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Quá trình này đòi hỏi sự nhận thức đúng

đắn sự vận động của thế giới khách quan, hiện thực khách quan trước tình hình thực tế của đất nước ta.
Không ngừng đổi mới tư duy, nhận định rõ sự cần thiết khách quan của công cuộc đổi mới, tiến hành
đổi mới đồng bộ: Đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị, kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Đổi mới nhưng không xa rời với chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ từ thực tiễn cách mạng và đáp ứng nguyện vọng của quần chúng nhân dân Đảng ta đã hiện thực
hóa công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong Đổi mới chúng ta
đã đạt được những thành tựu rất vẻ vang, cải thiện đáng kể đời sống vật chất và tinh thần của quần
chúng nhân dân.
Sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình, đúng đắn, khoa học của Đảng ta là nhân tố quan trọng cho sự thắng lợi
vẻ vang đó. Đó chính là sự nhận thức hiện thực khách quan, phát hiện các quy luật, bắt mạch đúng, kịp
thời nắm bắt thời cơ từ đó đề ra những biện pháp khoa học, cách thức giải quyết, mục tiêu, kế hoạch, tổ
chức thực hiện; uốn nắn những lệch lạc trong suy nghĩ và hành động, không ngừng chỉnh đốn Đảng.
Trong tình hình hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa bên cạnh những thuận lợi thì cũng không ít những
khó khăn thách thức. Cái cốt lõi là chúng ta nhận thức và hành động đúng, nắm được quy luật vận động
của nền kinh tế thị trường, các yếu tố chi phối nền kinh tế. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xuất phát từ
hiện thực khách quan đến khách quan, nghĩa là chúng ta nhận thức hiện thực khách quan, đề ra những
hướng giải quyết phù hợp với hiện thực khách quan và mạng lại lợi ích chung của toàn thể nhân dân.
Trong nhận thức cần trách chủ quan, duy ý chí, nóng vội trong suy nghĩ, hành động và những biểu hiện
tiêu cực làm phương hại đến lợi ích của dân tộc.
Câu 5 / 40 - Đảng ta khẳng định : “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực
tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Anh/chị hãy chỉ ra và phân tích cơ sở triết học của khẳng
định đó. (Câu hỏi số 5, chương số 5, Giáo trình Triết học Phần 2 trang số 40)
Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm khá phổ biến ở nước ta và ở nhiều nước XHCN trước đây, gây
tác hại nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng CNXH.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách sáng tạo trên cơ sở của sự phản ánh. Vì vậy, nếu
cường điệu tính sáng tạo của ý thức sẽ rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí. Bệnh chủ quan duy ý chí là
khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, của ý chí xa rời hiện thực khách quan, bất
chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình Cách mạng thay cho sự yếu kém về tri thức khoa học.
Ở Việt Nam, do bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ & hành động giản đơn, nóng vội chạy theo

nguyện vọng chủ quan ảo tưởng biểu hiện trong một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Xuất phát từ hiện thực khách quan của nước ta yếu kém về năng lực tư duy, lạc hậu về lý luận, ít kinh
nghiệm trong xây dựng và quản lý đất nước. Đồng thời do sai lầm ấu trĩ “tả” khuynh, xảy ra trong một
điều kiện lịch sử rất đặc biệt của dân tộc ta (Biết phát huy tối đa sức mạnh tinh thần, khao khát thoát ra
khỏi cuộc sống lầm than, nô lệ) nhưng lại không xuất phát từ hiện thực, bất chấp quy luật khách quan,
coi thường tri thức khoa học nên tạo ra những chính sách sai lầm, gây ra những hậu quả về nhiều mặt
(kinh tế, xã hội ) rất nghiêm trọng & kéo dài.
Trước thời kỳ đổi mới (ĐH6), Đảng ta đã mắc bệnh chủ quan, duy ý chí trong việc xây dựng mục tiêu
và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế, Đảng ta đã nóng vội
muốn xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, muốn sau khi cải tạo XHCN chỉ còn lại hai thành
phần: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể hay có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp
nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ, chúng ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp cơ chế xin cho, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương,
15
tiền tệ.
Để khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp. Trước hết phải đổi
mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ lý luận của Đảng, trong hoạt động thực tiễn phải
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới tổ chức
và phương thức hoạt động của hệ thống chí trị, chống bảo thủ, trì trệ, quan liêu. Phải nhận thức đúng
đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của CNXH
ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội. Tiêu chuẩn đánh giá sự vận
động đúng đắn các quy luật thông qua chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất phát
triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được ổn định và
nâng cao, con người mới XHCN ngày càng hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ
XHCN ngày càng được cũng cố. Điều đó là điều kiện đảm bảo sự dẫn dắt đúng đắn của Đảng. Mọi chủ
trương, chính sách gây tác động ngược lại là biểu hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan,
phải được sửa đổi hai bãi bỏ.
Trên cơ sở quy luật khách quan đó, Đảng ta khẳng định “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải
xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Để làm được điều đó, chúng ta phải tôn trọng hiện
thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định của vật chất.

Câu 5 /Chương 5/ Trang 40
TRẢ LỜI
Ở Việt Nam, do bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ & hành động giản đơn, nóng vội chạy theo
nguyện vọng chủ quan ảo tưởng đã xuất hiện trước Đổi mới có nguyên nhân và gây ra tác hại lớn.
Xuất phát từ hiện thực khách quan của nước ta yếu kém về năng lực tư duy, lạc hậu về lý luận, ít kinh
nghiệm trong xây dựng và quản lý đất nước; Đồng thời do sai lầm ấu trĩ “tả” khuynh, xảy ra trong một
điều kiện lịch sử rất đặc biệt của dân tộc ta (Biết phát huy tối đa sức mạnh tinh thần, khao khát thoát ra
khỏi cuộc sống lầm than, nô lệ ) nhưng lại không xuất phát từ hiện thực, bất chấp quy bluật, coi
thường tri thức KH,… Nên tạo ra những chính sách sai lầm, gây ra những hậu quả về nhiều mặt (kinh
tế, xã hội…) rất nghiêm trọng & kéo dài.
Để có thể khắc phục triệt để chủ nghĩa chủ quan phải quán triệt thực hiện nguyên tắc khách quan. Vì
nguyên tắc khách quan là nguyên tắc đầu tiên của tư duy biện chứng, Vận dụng nguyên tắc khách quan
kết hợp với chủ quan trong hoạt động nhận thức sẽ tránh được những sai lầm trong chính sách phát
triển đất nước.
Trên cơ sở quy luật khách quan đó, Đảng ta khẳng định “Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Để làm được điều đó Phải tôn trọng hiện thực kh.quan,
tôn trọng vai trò quyết định của VC, tức:
Ø Xuất phát của hiện thực kh.quan của đất nước, của thời đại để hoạch định chiến lược, sách lược phát
triển đất nước;
Ø Biết tìm kiếm, khai thác, tổ chức những lực lượng vật chất (cá nhân – cộng đồng, kinh tế – quân sự,
trong nước – ngoài nước, quá khứ – tương lai,…) để hiện thực hóa chúng.
Ø Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; Coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu phát
triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi ích khác nhau (kinh tế, chính trị, tinh thần, ; cá nhân,
tập thể, xã hội) thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới
Đồng thời phải phát huy tính năng động, sáng tạo của YT, ph.huy vai trò của các yếu tố chủ quan
(t.thức, t.cảm, ý chí, lý trí, ), tức ph.huy vai trò nhân tố CN trong h.động nhận thức & thực tiễn cải tạo
đất nước. Cụ thể:
Ø Coi sự thống nhất nhiệt tình CM & tri thức KH là động lực tinh thần thúc đẩy công cuộc Đổi mới;
Chống lại thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ trì trệ; Bồi dưỡng nhiệt tình, phẩm chất cách mạng; Khơi dậy
lòng yêu nước, ý chí quật cường, tài trí người Việt Nam,…

16
Ø Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng (chủ nghĩa Mác–Lênin, tư tưởng HCM);
Nâng cao và đổi mới tư duy lý luận (về CNXH & con đường đi lên CNXH);
Ø Phổ biến tri thức KH cho cán bộ, đảng viên, nhân dân.
Ø Kiên quyết khắc phục & ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ, hành động giản
đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng; bất chấp quy luật khách quan.
Chương 5 trang 40 - Câu 6: Bằng lý luận và thực tiễn, anh/chị hãy chứng minh rằng ý thức con
người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo thế giới?
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao của sự phản
ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. Ý thức của con người là cơ năng
của cái “ khối vật chất đặc biệt phức tạp mà người ta gọi là bộ óc con người” (theo LêNin).
Ý thức của con người tồn tại trước hết trong bộ óc của con người và sau đó, thông qua thực tiễn lao
động, nó tồn tại trong các vật phẩm do con người sáng tạo ra (vật chất xã hội – vật chất mang/chứa ý
thức). Ý thức bao gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí…. Trong đó, tri thức
(yếu tố cốt lõi) và tình cảm có vai trò rất quan trọng. Tri thức và tình cảm thống nhất, chuyển hoá lẫn
nhau; sự thống nhất của chúng tạo ra động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động của con người,
góp phần làm cho con người trở thành chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
Thông qua hoạt động thực tiễn, mà trước hết là thực tiễn lao động, ý thức con người xâm nhập vào hiện
thực vật chất, nhờ đó, nó có được sức mạnh của cái tinh thần. Dựa trên sức mạnh này, ý thức tác động
đến thế giới, góp phần làm cho thế giới biến đổi. Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn
góp phần sáng tạo nên thế giới theo nhu cầu thực tiễn xã hội.
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có trước, ý thức có khả
năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế, có thể tiên đoán, dự
báo tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết khoa học hết sức trừu
tượng và khái quát cao. Những khả năng ấy càng nói lên tính chất phức tạp và phong phú của đời sống
tâm lý – ý thức ở con người mà khoa học còn phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất
của những hiện tượng ấy.
Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên quá trình phản ánh hiện
thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng động sáng tạo, thống nhất 3 mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất hai chiều,

có định hướng, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất, đây là quá trình “
sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hoá các đối tượng vật chất tạo thành các ý tưởng tinh
thần phi vật chất.
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hoá tư tưởng, thông
qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư
duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn những phương
pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.
Tính sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật của sự phản ánh mà kết quả bao giờ
cũng là những khách thể tinh thần. Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc bản chất ý thức.
Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam cho
hoạt động thực tiễn mà còn là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực tiễn, tác động
tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò
chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa học, văn hoá và tư tưỏng.
Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế- kỹ thuật yếu, trong điều kiện sự
biến đổi khoa học- công nghệ trên thế giới lại diễn ra rất nhanh, liệu nước ta có thể đạt được những
thành công mong muốn trong việc tạo ra nền khoa học- công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc tế trong một
17
thời gian ngắn hay không? Chúng ta phải làm gì để tránh được nguy cơ tụt hậu so với các nước trong
khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi và trật
tự ưu tiên phát triển khoa học- công nghệ trong quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới.
Như vậy có nghĩa là ta cần phải có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao
khả năng nhận thức cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành niềm tin và ý chí thì tự nó
cũng không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả. Chỉ chú trọng đến tri thức mà bỏ qua công tác
văn hoá- tư tưởng thì sẽ không phát huy được thế mạnh truyền thống của dân tộc. Chức năng của các
giá trị văn hoá đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo đức thì tất cả các dạng
giá trị ( giá trị vật chất và tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Còn cách mạng tư tưởng góp phần làm biến
đổi đời sống tinh thần- xã hội, xây dựng mối quan hệ tư tưởng, tình cảm của con người với tư cách là
chủ thể xây dựng đời sống tinh thần và tạo ra được những điều kiện đảm bảo sự phát triển tự do của
con người.Mà có tự do thì con người mới có thể tham gia xây dựng đất nước.

Như vậy, ý thức mà biểu hiện trong đời sống xã hội là các vấn đề khoa học- văn hoá- tư tưởng có vai
trò vô cùng quan trọng. Tìm hiểu về ý thức và tri thức để có những biện pháp đúng đắn tạo điều kiện
cho sự phát triển toàn diện xã hội.
Câu 6 - Chương 5 - Bằng lý luận và thực tiễn, anh/chị hãy chứng minh rằng ý thức con người
không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo thế giới?
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao của sự phản
ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. Ý thức của con người là cơ năng
của cái “ khối vật chất đặc biệt phức tạp mà người ta gọi là bộ óc con người” (theo LêNin).
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song đây là sự phản ánh đặc biệt –
phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá trình ấy diển ra ở 3 mặt: sự trao đổi thông tin
giữa chủ thể và đối tượng phản ánh, mô hình hoá đối tượng trong tư duy hình ảnh tinh thần và chuyển
vào mô hình hoá từ tư duy ra hiện thực khách quan hay gọi là hiện thực hoá mô hình tư duy - đây là
giai đoạn cải tạo hiện thực khách quan. Chủ nghĩa duy vật biện chứng còn cho rằng ý thức không phải
là hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà còn gọi là hiện tượng xã hội ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử
xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan. Đây chính là bản chất xã hội của ý thức.
Ý thức của con người tồn tại trước hết trong bộ óc của con người và sau đó, thông qua thực tiễn lao
động, nó tồn tại trong các vật phẩm do con người sáng tạo ra (vật chất xã hội – vật chất mang/chứa ý
thức). Ý thức bao gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí…. Trong đó, tri thức
(yếu tố cốt lõi) và tình cảm có vai trò rất quan trọng. Tri thức và tình cảm thống nhất, chuyển hoá lẫn
nhau; sự thống nhất của chúng tạo ra động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động của con người,
góp phần làm cho con người trở thành chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
Thông qua hoạt động thực tiễn, mà trước hết là thực tiễn lao động, ý thức con người xâm nhập vào hiện
thực vật chất, nhờ đó, nó có được sức mạnh của cái tinh thần. Dựa trên sức mạnh này, ý thức tác động
đến thế giới, góp phần làm cho thế giới biến đổi. Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn
góp phần sáng tạo nên thế giới theo nhu cầu thực tiễn xã hội.
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có trước, ý thức có khả
năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế, có thể tiên đoán, dự
báo tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết khoa học hết sức trừu
tượng và khái quát cao. Mặt khác, thông qua quá trình lao động, ý thức con người nhận biết và phát
triển các quy trình, những cái có sẳn lên một tầm cao mới phục vụ tốt hơn cho con người, đồng thời mở

đường cho sự phát triển của xã hội loài người. Và những cái mới được ý thức tạo ra đó chính là đóng
góp của ý thức góp phần sáng tạo thế giới. Lấy cách mạng tư sản là một dẫn chứng cho điều này. Trong
khi chế độ phong kiến đang suy yếu, giai cấp tư sản ngày càng lớn mạnh về mặt kinh tế nhưng họ chưa
có địa vị chính trị tương xứng, chế độ chính trị đương thời ngày càng cản trở cách làm ăn của họ.
Trước thực tế đó, tư tưởng lật đổ phong kiến đã dần hình thành nhằm lật đổ chế độ lạc hậu đương thời,
18
tạo điều kiện cho kinh tế tư bản nhân loại đã bước sang một giai đoạn văn minh mới.
Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam cho
hoạt động thực tiễn mà còn là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực tiễn, tác động
tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò
chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa học, văn hoá và tư tưỏng.
Như vậy, ý thức mà biểu hiện trong đời sống xã hội là các vấn đề khoa học- văn hoá- tư tưởng có vai
trò vô cùng quan trọng. Tìm hiểu về ý thức và tri thức để có những biện pháp đúng đắn tạo điều kiện
cho sự phát triển toàn diện xã hội.
Câu hỏi số: 7/40 chương 05
Phân tích câu nói của Mác: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê
phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận
cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng

Lý luận phải được vận dụng sáng tạo vào trong từng điều kiện cụ thể của thực tiễn để kịp thời chỉ đạo
hoạt động thực tiễn, lý luận phải được kiểm nghiệm trong thực tiễn
-LL được xây dựng không dành cho LL mà để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, sự phát triễn của LL
không tách ra khỏi TT mà bám sát TT, giải đáp các vấn đề do TT đặt ra.
-LL phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm tính chân lý của nó.
-LL đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp để hướng dẫn, dự báo hoạt động TT, cải tạo thế giới. LL
chỉ có sức mạnh khi xâm nhập vào TT, vào hoạt động của con người trong thực tế.
Hoạt động của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có LL soi đường, nhờ đó mà hoạt động thực
tiễn của con người mới trở thành tự giác, có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn. TT phải được
chỉ đạo bởi LL, vì LL có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp
thực hiện. LL còn dự báo được khả năng phát triển các mối quan hệ thực tiễn, dự báo được những rủi

ro có thể xảy ra, những hạn chế, những thất bại có thể có trong quá trình hoạt động. Như vậy LL không
chỉ giúp con người hoạt động có hiệu quả mà còn:
-Là cơ sở để khắc phục những hạn chế hiểu biết của con người.
-Là cơ sở để tăng năng lực hoạt động của con người
-LL có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng của con người.
-Liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh cải tạo tự nhiên và xã hội.
Từ LL xây dựng mô hình TT theo những mục đích khác nhau của quá trình hoạt động, dự báo các diễn
biến, các mối quan hệ, lực lượng tiến hành và những phát sinh của nó trong quá trình phát triển để phát
huy các nhân tố tích cực, hạn chế được những yếu tố tiêu cực. Vì vậy có thể nói rằng TT cao hơn LL,
vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà cả tính hiện thực trực tiếp.
Chính vì vậy, C.Mác đã nói rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê
phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng
sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”.
Chương 5 trang 40
Câu 7: Anh/Chị hãy phân tích hoàn cảnh xuất hiện, nội dung và ý nghĩa triết học câu nói của
C.Mác: "Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực
lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực
lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng"
- Hoàn cảnh xuất hiện: trong Lời nói đầu của bộ “ Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêgen”
của C.Mác - Gồm ba tác phẩm của Mác phê phán quan điểm của Hêghen về nhà nước và pháp quyền.
Sự tán dương của tác giả với chế độ quân chủ lập hiến, chế độ quan liêu và quân chủ Phổ. Nêu vai trò
19
lịch sử của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh nhằm cải tổ xã hội.
- Nội dung và ý nghĩa triết học:
+Nội dung: Ở đây, "Vũ khí của sự phê phán" và "lý luận" là khoa học, tư tưởng khoa học, lý luận khoa
học, còn "sự phê phán của vũ khí” và "lực lượng vật chất" là hoạt động vật chất, hoạt động thực tiễn
của con người. Như vậy, C Mác đã giải trình rất rõ ràng, lý luận khoa học phải thông qua hoạt động của
con người thì mới trở thành lực lượng vật chất.
Khoa học vốn là sản phẩm của tư duy, của trí tuệ. Nếu không thông qua hoạt động của người lao động
(công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức…), mà chỉ tự bản thân nó thôi, thì như Mác nói khoa học không

thể biến thành cái gì cả, không thể sinh ra tác động tích cực hay tiêu cực.
Theo Mác, triết học phải có nhiệm vụ phản ánh mọi xung đột của đời sống hiện thực, những điều kiện
kinh tế, vật chất của những xung đột hiện thực ấy, đồng thời vạch ra con đường và những cách giải
quyết các xung đột đó. Vì vậy, triết học phải tìm được cho mình một lực lượng nằm ngay trong bản
thân hiện thực, có khả năng phủ định xã hội hiện tại, xây dựng một xã hội mới. Lực lượng ấy chính là
giai cấp vô sản. Như vậy theo Mác, triết học tiên tiến phải gắn liền với các lực lượng tiến bộ.
+ Ý nghĩa triết học: Cho thấy vị trí vai trò của triết học, của lý luận khoa học trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi sự nô dịch của giai cấp bóc lột.
Câu hỏi số 8 – Chương 5 – Trang 80:
Anh/Chị hãy giải thích câu nói của V.I Lênin: "Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học
thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng,
nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm".
Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Trong nguyên tử
có điện tử và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hoá và dị hoá; trong kinh tế thị trường có cung và cầu,
hàng và tiền v v Những mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng
biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn tại các
mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong tất cả các sinh vật.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu
thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn
biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận
thức. Mâu thuẫn biện chứng không phải là ngẫu nhiên, chủ quan, cũng không phải là mâu thuẫn trong
lôgic hình thức. Mâu thuẫn trong lôgich hình thức là sai lầm trong tư duy.
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất
của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn
tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau.
Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất” của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó,” sự thống
nhất của các mặt đối lập” còn bao hàm cả sự “ đồng nhất” của các mặt đó. Do có sự “đồng nhất” của
các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển

hoá lẫn nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song đó chỉ là
trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối
lập.
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn “đấu tranh” với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập
là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Hình thức đấu tranh
của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào tính chất, vào mối liên hệ qua lại giữa
các mặt đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
20
Câu hỏi số: 1 Chương số 6 G - Anh/ chị hãy trình bày khái quát các hình thức lịch sử của phép
biện chứng?
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã qua ba giai đoạn phát triển,
được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của nó: Phép biện chứng tự phát, phép biện chứng
duy tâm, phép biện chứng duy vật.
+ Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà biện chứng cả phương Đông lẫn
phương Tây thời kỳ này đã thấy các sự vật, hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi
dây liên kết vô tận. Tuy nhiên những gì các nhà biện chứng thấy được chỉ là trực kiến, chưa phải là kết
quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
+ Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm. Đỉnh cao của hình thức này được thể hiện trong triết
học cổ điển Đức, người khởi đầu là Cantơ và người hoàn thiện là Heghen. Có thể nói, lần đầu tiên
trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống
những nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện chứng. Song theo họ biện chứng ở đây bắt đầu
từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm nên biện chứng của các
nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm.
+Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được thể hiện trong triết học
do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin phát triển. C.Mác và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ
tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép trong phép biện chứng duy tâm để xây
dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển
dưới hình thức hoàn bị nhất.
Câu 2 (chương 6, trang 86) :Nêu những yêu cầu phương pháp luận và phân tích cơ sở lý luận của

nguyên tắc toàn diện.Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
Yêu cầu phương pháp luận:
- Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải
+Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều mối liên hệ , quan hệ (hay những đặc điểm tính chất, yếu tố, mặt )
đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật càng tốt.Phải xem xét sự vật từ khắp góc độ, từ nhiều
phương diện càng tốt
+ Phân loại để xác định những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm tính chất, yếu tố, mặt ) nào
là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định ; còn những mối liên hệ , quan hệ (hay những đặc điểm tính
chất, yếu tố, mặt ) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn định ;
+ Dựa trên những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm tính chất, yếu tố, mặt ) bên trong, cơ bản,
tất nhiên, ổn định để lý giải những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm tính chất, yếu tố, mặt )
còn lại.Qua đó xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất những mối liên hệ, quan hệ (hay
những đặc điểm tính chất, yếu tố, mặt ); phát hiện ra quy luật bản chất của nó
- Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải
+ Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm tính chất, yếu tố, mặt )
chi phối sự vật
+Thông qua hoạt động thực tiễn sử dụng, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích
hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối liên hệ,
quan hệ (hay những đặc điểm tính chất, yếu tố, mặt ) của bản thân sự vật, đặc biệt là những mối liên
hệ, quan hệ (hay những đặc điểm tính chất, yếu tố, mặt ) bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng của
nó.
+ Nắm vững sự chuyển hóa những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm tính chất, yếu tố, mặt )
21
của bản thân sự vật, kịp thời sử dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay hạn
chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo đúng quy luật và hợp lợi ích
chúng ta.
Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
- Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ

ràng buộc lẫn nhau.Mối liên hệ tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.
- Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến, chúng chi
phối một cách tổng quát quá trình vận động phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới
- Phân tích:
+ Quan điểm biện chứng cho rằng mối liên hệ là sự tác động qua lại, ràng buộc lẫn nhau mà sự thay đổi
cái này sẽ tất yếu kéo theo sự thay đổi cái kia.Đối lập với sự liên hệ là sự tách biệt.Sự tách biệt cũng là
sự tác động qua lại nhưng sự thay đổi cái này sẽ không tất yếu kéo theo sự thay đổi cái kia.Các sự vật,
hiện tượng , quá trình khác nhau trong thế giới vừa tách biệt nhau, vừa liên hệ ràng buộc, thâm nhập,
chuyển háo lẫn nhau, thế giới là một hệ thống chỉnh thể thống nhất mà mọi yếu tố bộ phận của nó luôn
tác động qua lại chuyển hóa lẫn nhau.
+ Quan điểm biện chứng duy vật luôn cho rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại, ràng buộc lẫn nhau đó ở
trong vật chất, và mối liên hệ mang tính khách quan – tức tồn tại không phụ thuộc vào ý thức con
người, và mang tính phổ biến – tức tồn tại trong mọi sự vật hiện tượng, trong mọi lĩnh vực hiện thực
+ Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các mặt các thuộc tính đối lập tồn tại trong mọi sự vật, hiện
tượng, trong mọi lĩnh vực hiện thực, nó được nhận thức trong các (cặp) phạm trù biện chứng và là đối
tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật nhằm phát hiện ra các quy luật phổ biến chi phối một
cách tổng quát sự tồn tại, vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng, quá trình xảy ra trong thế
giới- cả hiện thực khách quan lẫn chủ quan
3. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn
- Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục được chủ nghĩa phiến
diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình
- Không sa vào chủ nghĩa bình quân, quan điểm dàn đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng điểm,
điều cốt lõi trong cuộc sống vô cùng phức tạp.
Câu 3 (chương 6, trang 86) :Nêu những yêu cầu phương pháp luận và phân tích cơ sở lý luận của
nguyên tắc phát triển.Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
Yêu cầu phương pháp luận:
- Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải:
+ Phát hiện những xu hướng, khả năng biến đổi, chuyển hóa, những giai đoạn tồn tại của bản thân sự

vật trong sự tự vận động và phát triển của chính nó
+ Xây dựng được hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các xu hướng, những giai đoạn thay đổi thay
đổi của nó, từ đó, phát hiện ra quy luật vận động và phát triển (bản chất) của sự vật.
- Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
+ Chú trọng mọi điều kiện, khả năng tồn tại của sự vật để nhận định đúng các xu hướng, những giai
đoạn thay đổi có thể xảy ra đối với nó
+ Thông qua thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết là
những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những điều kiện, phát huy hay hạn chế
những khả năng tồn tại của sự vật nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo những quy luật và có
22
lợi cho chúng ta.
Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển:
- Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển
+ Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động phát triển
+ Phát triển mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện của hệ thống vật chất do việc giải quyết mâu thuẫn,
thực hiện bước nhảy về chất gây ra và hướng theo xu thế phủ định của phủ định.
* Như vậy, phát triển, theo quan điểm biện chứng là một quá trình vận động rất phức tạp khó khăn, vừa
liên tục vừa gián đoạn, vừa tiến lên vừa thụt lùi, thông qua việc giải quyết những xung đột giữa các mặt
đối lập (giải quyết mâu thuẫn) thực hiện sự chuyển hóa qua lại giữa lượng và chất (bước nhảy về chất)
làm cho cái mới ra đời trên cơ sở của cái cũ (phủ định của phủ định).
* Nếu quan điểm biện chứng duy tâm cố tìm nguồn gốc của sự phát triển trong các lực lượng siêu nhiên
hay ý thức con người (phi vật chất) thì quan điểm duy vật biện chứng luôn cho rằng nguồn gốc của sự
phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, vật chất, do những mâu thuẫn sự vật vật chất quy định.Mọi
quá trình phát triển của sự vật đều là quá trình tự thân của thế giới vật chất.Vì vậy, sự phát triển mang
tính khách quan
-tức tồn tại không phụ thuộc vào ý thức và nhận thức con người, và mang tính phổ biến- tức tồn tại
trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực hiện thực.
3. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn

- Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc phát triển sẽ giúp chủ thể khắc phục được quan điểm (tư
duy) siêu hình, lối xem xét cứng nhắc, đầu óc bảo thủ giáo điều trong hoạt động thực tiễn và nhận
thức của mình
Câu hỏi số: 4/Chương số: 6/Giáo trình Triết học II (TS. Bùi Văn Mưa) trang số: 86
Anh chị hãy phân tích nội dung quy luật quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và
vạch ra ý nghĩa phương pháp luận của nó.
Trong ba qui luật của phép biện chứng duy vật, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
“ hạt nhân của phép biện chứng”, bởi vì qui luật này đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong của sự
vận động và phát triển của các sự vật.
I. Nội dung của qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập ( qui luật mâu thuẫn )
1. Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến:
- Mâu thuẫn là một khái niệm để chỉ sự liên hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập. Đó là những
mặt có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau, cùng tồn tại trong một sự vật. Mâu thuẫn là sự thống
nhất của hai mặt đối lập.
- Mâu thuẫn có tính khách quan vì là cái vốn có trong các sự vật hiện tượng và tính phổ biến – tồn tại
trong tất cả các lĩnh vực ( tự nhiên, xã hội và tư duy )
- Do mâu thuẫn có tính khách quan và phổ biến, nên mâu thuẫn có tính đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn
trong mỗi sự vật và trong các lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau. Trong mỗi sự vật, hiện tượng không
phải chỉ có một mâu thuẫn, mà có nhiều mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có
đặc điểm, có vai trò tác động khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Vì vậy, cần phải
có phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể.
2. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó, hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự liên hệ, qui định, ràng buộc lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt
này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự xung đột, thay thế, bài trừ và phủ định lẫn nhau của các mặt đối
23
lập
- Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời với sự đấu tranh của chúng,
bởi trong sự qui định, ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn luôn có xu hướng phát triển trái ngược
nhau, đấu tranh với nhau

- Phát triển là một quá trình đấu tranh giữa các mặt đối lập:
+ Quá trình hình thành và phát triển của một mâu thuẫn: lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở
sự khác biệt, sau đó phát triển thành hai mặt đối lập, khi hai mặt của mâu thuẫn xung đột với nhau gay
gắt và có điều kiện thì giữa chúng có sự chuyển hóa – mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi,
mâu thuẫn mới được hình thành là lại một quá trình mới làm cho sự vật không ngừng vận động và phát
triển
+ Nếu các mặt đối lập không có sự chuyển hóa, thì không có sự phát triển. Chuyển hóa của các mặt đối
lập là tất yếu, là kết quả của sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Do sự đa dạng của thế giới, nên các hình
thức chuyển hóa cũng rất đa dạng: có thể hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau và cũng có thể chuyển
hóa lên hình thức cao hơn…
- Sự vận động và phát triển của sự vật thể hiện trong sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt : thống
nhất và đấu tranh của hai mặt đối lập, trong đó: thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời, tương đối,
còn đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. Tính tuyệt đối của đấu tranh của các mặt đối lập làm cho
sự vận động và phát triển của sự vật là sự tự thân và diễn ra liên tục. Tính tương đối của thống nhất
giữa các mặt đối lập làm cho thế giới vật chất phân hóa thành các bộ phận, các sự vật đa dạng, phức
tạp, gián đoạn.
- Tóm lại, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan đều là thể thống nhất của các mặt đối lập,
chính sự đấu tranh của các mặt đối lập và sự chuyển hóa giữa chúng là nguồn gốc, động lực của sự phát
triển
II. Ý nghĩa của phương pháp luận:
- Mâu thuẫn là khách quan, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, vì thế, muốn nắm được bản chất
của sự vật, cần phải phân đôi cái thống nhất và nhận thức các bộ phận đối lập của chúng
- Mâu thuẫn là phổ biến, đa dạng, do đó, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải có phương pháp
phân tích mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể. Việc giải quyết mâu thuẫn chỉ được thực
hiện bằng con đường đấu tranh giưa các mặt đối lập khi mâu thuẫn đã chín muồi
- Mâu thuẫn có tính khách quan, phổ biến và đa dạng. Các sự vật, quá trình khác nhau, mâu thuẫn có
khác nhau. Mỗi sự vật, quá trình lại có nhiều mâu thuẫn, mỗi mâu thuẫn có đặc điểm riêng, và ngay cả
quá trình phát triển của một mâu thuẫn, ở mỗi giai đoạn, từng mặt đối lập của nó lại có vai trò riêng.
Cho nên, cần phải có phương pháp phân tích mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể.
Câu 4 Chương 6 Trang 86: Anh Chị hãy phân tích nội dung Quy luật thống nhất đấu tranh của

các mặt đối lập và vạch ra ý nghĩa phương pháp luận của nó.
Nội dung Quy luật thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập cần được phân tích như sau:
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (hay còn gọi là quy luật mâu thuẫn) là hạt nhân
của phép biện chứng. V.I. Lê nin viết “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự
thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi
hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm”
+ Khái niệm các mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Khái niệm:
- Mặt đối lập là những mặt có những yếu tố, những bộ phận, những thuộc tính, … có khuynh hướng
biến đổi trái ngược nhau, nhưng cùng tồn tại trong một thể thống nhất.
- Thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, ràng buộc lẫn nhau và tạo cơ sở, tiền đề tồn
tại cho nhau của các mặt đối lập.
24
- Mâu thuẫn biện chứng: là mâu thuẫn trong đó bao hàm sự thống nhất và đấu tranh của các mặt mâu
thuẫn
+ Phân tích nội dung quy luật:
- Sự vật nào cũng là thể thống nhất của các mặt đối lập: Đó là thống nhát của những mâu thuẫn . Như
vây, mọi sự vật đều có mâu thuẫn từ chính bản thân nó. Chẳng hạn, Nguyên tử là thể thống nhất giữa 2
mặt đối lập của hạt nhân mang điện tích dương và điện tử mang điện tích âm. Lượng có khi được xác
địng bằng những con số cụ thể, cũng có khi xác địng bẳng sự trừu tượng hóa, ví dụ: cách mạng ngày
càng lớn mạnh, ngày càng trưởng thành. - Nhưng bên cạnh thống nhất các mặt đối lập thì các mặt đối
lập có sự đấu tranh với nhau. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, bài trừ, phủ định
nhau. Sự vật khác nhau thì phương thức đấu tranh cũng khác nhau. Sự đấu tranh của các mặt đối lập
đưa đến sự chuyển hóa của các mặt đối lập
+ Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển
- Đấu tranh các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Sự vật là thể thống nhất của các
mặt đối lập, chừng nào thể thống nhất này còn tồn tại thì sự vật còn tồn tại . - Đấu tranh của các mặt đối
lập làm cho thể thống nhất cũ bị phá, thể thống nhất mới được xác lập, sự vật phát triển Ví dụ: Trong
xã hội, “đấu tranh” giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là nguồn gốc, động lực phát triển của
xã hội.

- Đấu tranh là tuyệt đối, thống nhất là tương đối. Sự thống nhất các mặt đối lập là tương đối, vì bất cứ
sự thống nhất nào cùng là sự thống nhất có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, gắn liền với đứng im tương
đối của sinh vật. Còn đấu tranh là tuyệt đối, vì nó diễn ra liên tục không bao giờ ngừng ,trong suốt quá
trình ton tai các mặt đối lập, từ đầu đến cuối. - Ngay trong thống nhất vẫn đấu tranh. Đấu tranh gắn
liền với vận động, mà vận động của vật chất là tuyệt đối nên đấu tranh cũng tuyệt đối
* Kết luận: Từ sự phân tích trên, có thể rút ra nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập như sau: mọi su vật đều chứa đựng những mặt có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau gọi là
những mặt đối lập. Mối quan hệ của hai mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn. các mặt đối lập vừa thống nhất
với nhau, vừa chuyển hóa lẫn nhau làm mâu thuẫn được giải quyết, sự vật biến đổi và phát triển, cái
mới ra đời thay thế cái cũ. Quy luật mâu thuẫn có tác động lên tất cả các mặt tự nhiên, xã hội, tư duy
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Thừa nhận sự vật, hiện tượng là khách quan thì cũng phải thừa nhận mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng
là khách quan. Từ đó muốn nhận thức sâu sắc, triệt để, khoa học về sự vật thì phải phân đôi các thống
nhất và nhận thức từng bộ phận đối lập của nó.
- Phân tích cụ thể các tình hình cụ thể. Bản chất khác nhau, quá trình khác nhau thì dẫn đến mâu thuẫn
khác nhau. Các giải quyết cũng phải khác nhau, tránh rập khuôn, máy móc.
- Muốn biến đổi bản chất sự vật thì phải giải quyết mâu thuẫn của nó, tránh cải lương bề ngoài.
Câu 5 – 86 - Phân tích nội dung quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại, và vạch ra ý nghĩa phương pháp luận của nó.
* Quy luật chuyển hĩa từ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất v ngược lại
Chất, lượng, độ, điểm nút, bước nhảy:
Chất - tính quy định vốn có của sự vật, đặc trưng cho sự vật là nó, giúp phân biệt nó với sự vật khác.
Lượng - tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị quy mô, tốc độ vận động, phát triển của sự vật cũng
như của các thuộc tính (chất) của nó.
Độ - giới hạn mà trong đó sự thay đổi về Lượng chưa làm Chất thay đổi căn bản.
Điểm nút - mốc (giới hạn) mà sự thay đổi về Lượng vượt qua nó sẽ làm Chất thay đổi căn bản.
Bước nhảy - sự chuyển hóa về Chất do những thay đổi về Lượng trước đó gây ra; Bước nhảy là giai
đoạn cơ bản trong tiến trình phát triển của sự vật, nó tồn tại khách quan, phổ biến, đa dạng (Bước nhảy
toàn bộ/Bước nhảy cục bộ; Bước nhảy đột biến/Bước nhảy dần dần; Bước nhảy tự nhiên/Bước nhảy xã
25

hội/Bước nhảy tư duy).
* Nội dung quy luật
Mọi sự vật đều được đặc trưng bằng sự thống nhất giữa Chất và Lượng.
Sự vật bắt đầu vận động, phát triển bằng sự thay đổi về Lượng (liên tục, tiệm tiến); nếu Lượng thay đổi
trong độ, chưa vượt quá điểm nút thì Chất không thay đổi căn bản; khi Lượng thay đổi vượt qua độ,
quá điểm nút thì Chất sẽ thay đổi căn bản, bước nhảy xảy ra.
Bước nhảy làm cho Chất thay đổi (gián đoạn, đột biến) – Chất (Sự vật ) cũ mất đi, Chất (Sự vật) mới ra
đời; Chất mới gây ra sự thay đổi về Lượng (làm thay đổi quy mô tồn tại, tốc độ, nhịp điệu vận động,
phát triển của sự vật ).
Sự thay đổi về Lượng gây ra sự thay đổi về Chất; sự thay đổi về Chất gây ra sự thay đổi về Lượng là
phương thức vận động, phát triển của mọi sự vật trong thế giới; phát triển vừa mang tính liên tục vừa
mang tính gián đoạn.
* Phân tích:
Trong quá trình vận động và phát triển, Chất và Lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của
Lượng và của Chất không diễn ra độc lập với nhau, mà chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng
không phải bất kỳ sự thay đổi nào của Lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản Chất của sự vật.
Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản Chất của
sự vật đó. Khi vượt qua giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời
(bước nhảy xảy ra).
Vd: Khi xét các trạng thái tồn tại khác nhau của nước với tư cách là những chất khác nhau (chất – trạng
thái), ứng với chất – trạng thái đó, Lượng ở đây là nhiệt độ, thì dù Lượng có thay đổi trong một phạm
vi khá lớn (0 độ C< t<100 độ C), nước vẫn ở trạng thái lỏng (tức là chưa thay đổi về chất – trạng thái).
Khi nhiệt độ của nước giảm đến 0 độ C nước sẽ chuyển sang trạng thái rắn và khi đạt đến 100 độ C
nước sẽ chuyển sang trạng thái hơi (bước nhảy xảy ra). Ở đây, 0 độ C và 100 độ được gọi là điểm nút.
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt đến điểm nút. Sau khi ra đời, chất mới
có tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm
thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật đó.
* Ýnghĩa phương pháp luận:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
Phát hiện chính xác các quy định về chất và lượng của sự vật; thấy được sự thống nhất giữa chúng để

xác định đúng độ, điểm nút của sự vật;
Phân tích kết cấu và điều kiện tồn tại của sự vật để xác định đúng tính chất, quy mô, tiến độ của bước
nhảy có thể xảy ra;
Hiểu rằng, chất chỉ thay đổi khi lượng thay đổi vượt quá độ, quá điểm nút; còn nếu lượng chưa thay đổi
qua độ, chưa qua điểm nút thì bước chưa thể xảy ra, chất chưa thay đổi căn bản được;
Xác định được chất mới (sau khi sự vật thực hiện bước nhảy), qua đó xác định lượng độ, điểm nút và
bước nhảy, tức định hình được sự vật mới phải ra đời thay thế sự vật cũ như thế nào.
Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
Hiểu rõphương thức vận động và phát triển của sự vật; từ đó xây dựng các đối sách thích hợp;
Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng linh hoạt các công cụ, phương tiện vật chất can thiệp đúng lúc,
đúng chỗ, đúng mức độ vào tiến trình vận động và phát triểncủa sự vật, lèo lái nó theo đúng quy luật và
hợp lợi ích cùa chúng ta. Cụ thể:
Muốn có sự thay đổi về chất phải kiên trì tích lũy thay đổi về lượng;
Muốn duy trì sự ổn định của chất phải giữ sự thay đổi về lượng trong phạm vi giới hạn độ;
Khi lượng thay đổi đạt tới giới hạn độ phải kiên quyết thực hiện bước nhảy.
Câu 6 (Trang 86 - Chương 6): Anh Chị hãy phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định
và vạch ra ý nghĩa phương pháp luận của nó:

×