Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

skkn giáo dục đạo đức cho học sinh thpt trong giai đoạn hiện nay, thực trạng và những giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.13 KB, 30 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
PHÒNG GIÁO DỤC TRUNG HỌC
Mã số:
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THPT TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY, THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG
GIẢI PHÁP”
Người thực hiện: HÀ CÔNG CHÍNH
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục 
- Phương pháp dạy học bộ môn: 
(Ghi rõ tên bộ môn)
- Lĩnh vực khác: 
(Ghi rõ tên lĩnh vực)
Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN
 Mô hình  Đĩa CD (DVD)  Phim ảnh  Hiện vật khác
(các phim, ảnh, sản phẩm phần mềm)
Năm học: 2013 - 2014
BM 01-Bia SKKN
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
––––––––––––––––––
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: HÀ CÔNG CHÍNH
2. Ngày tháng năm sinh: 16/09/1970
3. Nam, nữ: Nam
4. Địa chỉ: Bàu Cá – Trung Hòa – Trảng Bom – Đồng Nai
5. Điện thoại: (CQ)/ (NR); ĐTDĐ: 0912.143.717
6. Fax: E-mail:
7. Chức vụ: Chuyên viên
8. Nhiệm vụ được giao: Phụ trách công tác Giáo dục dân tộc, chuyên môn


GDCD, Âm nhạc, Mĩ thuật
9. Đơn vị công tác: Phòng Giáo dục trung học - Sở GDĐT Đồng Nai
II TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sĩ
- Năm nhận bằng: 2013
- Chuyên ngành đào tạo: Lý luận - PHDH môn Giáo dục chính trị
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy
- Số năm có kinh nghiệm: 17
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
- Cách sử dụng phương tiện trực quan trong giảng dạy GDCD 11.
- Thiết kế các hoạt động dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
của học sinh trong học tập môn Giáo dục công dân 12.
2
BM02-LLKHSKKN
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THPT TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY, THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP”
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bác Hồ luôn coi việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là công việc
trọng đại của đất nước, của dân tộc. Bác dạy “Người có đức mà không có tài làm
việc gì cũng khó. Người có tài mà không có đức thì vô dụng”. Vì vậy, giáo dục phải
là bồi dưỡng được cái đức, cái vốn quí của một con người. Tuy nhiên, không phải ai
cũng đã thấm nhuần được tư tưởng đó của Người.
Trong những năm qua, đất nước đã và đang chuyển mình trong công cuộc đổi
mới sâu sắc và toàn diện. Thế giới hôm nay đang tiến tới một xu hướng toàn cầu
hóa nền kinh tế, đó là một thách thức quan trọng đối với mọi quốc gia, và nền kinh
tế thị trường đang trở thành một không gian mang tính toàn cầu. Trong bối cảnh
chung đó, Việt Nam cũng chuyển mình hòa nhập để thực hiện nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, nhằm thực hiện
mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.

Sau hơn hai thập kỷ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến rõ rệt. Bên
cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế thị trường cũng dần bộc lộ một số hạn chế
nhất định như sự phân hoá giàu nghèo, bất công xã hội, một số tệ nạn gia tăng: tham
nhũng, buôn lậu, trốn thuế, mại dâm, ma tuý. Đặc biệt, những mặt trái của nền kinh
thế thị trường làm ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp giáo dục, trong đó sự suy thoái về
đạo đức và những giá trị nhân văn là vấn đề toàn xã hội quan tâm. Đánh giá thực
trạng Giáo dục, đào tạo: Nghị quyết TW 2 khóa VIII nhấn mạnh “Đặc biệt đáng lo
ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt
về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương
lai của bản thân và đất nước”. Điều này, thể hiện rõ ở một bộ phận người dân,
đặc biệt là ở lứa tuổi thanh niên, học sinh. Dường như việc họ thờ ơ trước những
cái xấu và hành vi vô đạo đức, bất chấp đạo lý, xem nhẹ tình nghĩa là một điều
hiển nhiên. Lối sống thực dụng, sống gấp và thiếu lý tưởng, đề cao lợi ích cá
nhân, giá trị vật chất, tôn thờ đồng tiền, hiện tượng suy thoái, xuống cấp về đạo
đức, lối sống ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực, nhiều tầng lớp xã hội, đặc biệt là trong lối
sống học sinh THCS nói chung đã và đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất
cả mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội.
Thật vậy, hiện tượng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống ở nhiều nơi,
nhiều lĩnh vực, nhiều tầng lớp xã hội, đặc biệt là trong lối sống học sinh cả nước nói
chung, và của học sinh THPT Đồng Nai nói riêng, đã và đang trở thành mối quan
tâm hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Vì vậy, việc giáo dục giá trị
đạo đức cho học sinh THPT của tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay là một
trong những nhân tố quan trọng góp phần hình thành một thế hệ những con người
mới đáp ứng sự nghiệp phát triển của đất nước và của địa phương.
Với ý nghĩa đó quan trọng đó và với cương vị là người làm công tác quản lý
và giảng dạy nhiều năm, bản thân nhận thức rõ được trách nhiệm phải có các giải
3
pháp thiết thực, phù hợp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục đạo đức cho
học sinh THPT, coi việc giáo dục, rèn luyện các giá trị đạo đức cho học sinh là nền

tảng, là gốc rễ vững chắc cho các mặt giáo dục khác trong nhà trường. Vì vậy, bản
thân mạnh dạn chọn vấn đề: “Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong giai
đoạn hiện nay, thực trạng và những giải pháp” làm đề tài SKKN của mình.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan mà mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, dù
muốn hay không, cũng đều chịu sự tác động của nó. Việt Nam là nước đang phát
triển, quá trình toàn cầu hoá tạo cho chúng ta những thời cơ thuận lợi có thể đi tắt
đón đầu để phát triển nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Thách thức đó bao gồm
cả nguy cơ suy thoái, đặc biệt là suy thoái về đạo đức, đạo đức truyền thống, lối
sống con người Việt nam hiện nay. Vấn đề này đã và đang thu hút được sự quan
tâm, nghiên cứu của nhiều học giả trên nhiều lĩnh vực, có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu như:
- Vấn đề về đạo đức và giáo dục giá trị đạo đức cho con người Việt Nam
Huỳnh Khái Vinh (chủ biên) (2001), “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức,
chuẩn giá trị xã hội”, gồm một số nội dung quan trọng như: Sự tác động của các
nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội và xu hướng chuyển đổi lối sống, đạo đức, chuẩn
giá trị xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; kế
thừa và phát triển nếp sống đạo đức và các giá trị truyền thống dân tộc và cách
mạng… tác giả đề ra phương hướng, quan điểm và giải pháp xây dựng lối sống, đạo
đức, chuẩn giá trị xã hội mới.
Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (chủ biên) (2003) “Mấy vấn đề đạo
đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, tác giả đã phân tích một
số nội dung quan trọng: “Kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay và những biến đổi
trong lĩnh vực đạo đức”; “Giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong
bối cảnh kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”; “Quan hệ giữa các giá trị truyền
thống và hiện đại trong xây dựng đạo đức…
Nguyễn Ngọc Phú (chủ biên) (2006) “Chuẩn mực đạo đức con người Việt
Nam hiện nay”, tác giả đã khái quát một cách hệ thống chuẩn mực đạo đức truyền
thống của con người Việt Nam và dưới sự biến đổi của nền kinh tế thị trường tác

động đến chuẩn mực đạo đức, tác giả đưa ra những chuẩn mực chủ yếu của con
người Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
- Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức cho học sinh
Một số bài báo, Tạp chí của nhiều tác giả đã bàn đến các nội dung giáo dục
giá trị đạo đức cho học sinh như: Đặng Hữu Toàn (2001), Hướng các giá trị đạo
đức truyền thống theo chuẩn giá trị chân thiện mỹ trong bối cảnh toàn cầu hoá và
phát triển kinh tế thị trường, Tạp chí Triết học số 4; Nguyễn Thị Thanh Huyền
(2007), Toàn cầu hoá và nguy cơ suy thoái đạo đức, lối lối con người Việt Nam
hiện nay, Tạp chí Triết học số 2; Nguyễn Lương Bằng (2012), Tiêu chí đánh giá,
xếp loại đạo đức học sinh phổ thông- một số vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay,
Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 8 2012 … và một số tài liệu “Học tập và làm theo tấm
4
gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Ban tư tưởng Văn hóa Trung ương soạn thảo.
Mỗi công trình, đề tài là một góc nhìn riêng của các tác giả, là tiếng nói hiện
thực của từng nhà nghiên cứu góp phần xây dựng bức tranh thêm hài hòa về hành
vi, lối sống con người và đất nước Việt nam trong bối cảnh hội nhập thế giới. Đây
là nguồn tư liệu tham khảo quý giá cho bản thân trong quá trình hoàn đề tài nghiên
cứu khoa học sư phạm ứng dụng của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích
- Từ lý luận và thực tiễn giáo dục giá trị đạo đức cho học sinh tại các trường
THPT trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, đề tài nghiên cứu đề xuất quan điểm và giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức cho học sinh THPT trong giai đoạn
hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về giáo dục giá trị đạo đức cho học sinh
THCS trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác giáo dục các giá trị đạo đức cho học
sinh THPT trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức cho

học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh THPT.
- Phạm vi nghiên cứu: Một số nội dung cơ bản của các giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc Việt Nam; nâng cao hiệu quả giáo dục và phát huy giá trị đạo đức
truyền thống Việt Nam trong lối sống học sinh cùng với việc kết hợp hài hoà các giá
trị đạo đức hiện đại; số liệu liên quan đến đối tượng nghiên cứu tính từ năm học
2011 - 2012 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Triết học duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội; Các quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản
Việt Nam về vấn đề phát huy và kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc,
vấn đề xây dựng đạo đức mới trong lối sống thanh thiếu niên, học sinh; đối chiếu và
sử dụng những số liệu thống kê của Sở Giáo dục và Đào tạo và các trường THPT
trên địa bàn tỉnh.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu chung nhất của đề tài là
các nguyên tắc, phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng. Trong đó chú
trọng phương pháp thống nhất lịch sử - lôgíc, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa,
khái quát hóa. Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng phương pháp điều tra, thống kê số
liệu để so sánh, đánh giá làm sáng tỏ cơ sở thực tiễn và tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn, nhằm đưa ra các giải pháp.
5. Giả thuyết khoa học
5
Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong năm học vừa qua còn
nhiều khó khăn và hạn chế. Nếu các giải pháp mà đề tài đưa ra, được vận dụng một
cách khoa học, phù hợp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác này tại các nhà trường
trong giai đoạn hiện nay.
6. Đóng góp của đề tài
- Đề tài đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm kế thừa và nâng cao hiệu quả
giáo dục giá trị đạo đức của dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho học sinh

THPT.
- Đề tài góp phần làm cơ sở lý luận cho các tổ chức chính trị xã hội trong việc
giáo dục giá trị đạo đức cho học sinh.
- Đề tài cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm
đến công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
CHƯƠNG 1
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THPT
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. Thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở Đồng Nai

1. Những kết quả đạt được

Trong những năm qua, công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai được triển khai đồng bộ, có nhiều đổi mới về phương thức và nội
dung, kiên trì phương châm giáo dục qua thực tiễn hành động, nêu gương điển hình
tiên tiến, phát huy vai trò tự giáo dục, rèn luyện của học sinh, góp phần bồi dưỡng lý
tưởng cách mạng, giáo dục truyền thống, đạo đức, lối sống, ý thức pháp luật cho học
sinh trên địa bàn tỉnh.
Công tác giáo dục đạo đức, lối sống trong đoàn viên, thanh niên học sinh được
quan tâm đặc biệt, chú trọng đề cao lòng nhân ái, đạo lý uống nước nhớ nguồn, lối
sống văn hóa, nghĩa tình, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội; đấu tranh bài
trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, các văn hóa phẩm độc hại, tiêu cực và tệ nạn xã
hội, lối sống buông thả, lệch lạc về hành vi, hành xử hung bạo, thờ ơ, vô cảm, thiếu
trách nhiệm; góp phần định hướng giá trị Chân - Thiện - Mỹ trong học sinh.
Bên cạnh đó, các hình thức dạy học và tuyên truyền phổ biến giáo dục đạo
đức, giáo dục pháp luật hiệu quả khá cao như: dạy học tích hợp các nội về tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật trong môn học
Giáo dục công dân và các môn học khác, thi tìm hiểu về tấm gương đạo đức của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, tìm hiểu pháp luật, … được củng cố và nhân rộng; tuyên
truyền miệng, phát hành tài liệu tuyên truyền; góp phần giáo dục ý thức công dân, ý

thức chấp hành pháp luật, nội quy kỷ luật, tôn trọng quy ước cộng đồng, hình thành
thói quen đạo đức, kỹ năng sống tốt đẹp trong toàn thể đội viên và học sinh ở trong
nhà trường.
Với những nỗ lực đổi mới nội dung, phương thức giáo dục, trong thời gian
qua, nhà trường học đã tập trung xây dựng các điển hình tiên tiến trong từng đối tượng
thiếu niên học sinh; đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các phong trào; chủ động phối
6
hợp với các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường tuyên truyền, định hướng, giáo dục học
sinh, chủ động tiếp cận, giáo dục, cảm hóa các đối tượng học sinh chậm tiến. Nâng
cao chất lượng và hiệu quả hai mặt giáo dục. Đổi mới các hoạt động giáo dục, hoạt
động tập thể, gắn học với hành, lý thuyết với thực tiễn; giúp học sinh có được những
kỹ năng sống cơ bản.
Tăng cường giáo dục đạo đức, pháp luật trong nhà trường, kiên quyết không để
xảy ra bạo lực học đường. Trong quá trình giảng dạy chú trọng nội dung tích hợp
giáo dục đạo đức pháp luật và bảo vệ môi trường, chú trọng giáo dục truyền thống
đạo đức cách mạng, học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh.
Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Đội
ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh đều nhận thức rõ tầm quan trọng và lợi
ích thiết thực của việc “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Qua các
hoạt động hướng nghiệp giáo dục ngoài giờ lên lớp, học sinh được học tập, phát huy
được sở trường của bản thân, đồng thời được thể hiện mình, được trao đổi, được
làm việc nhóm… Học sinh đã có thêm sự hứng thú khi được thực hành nhiều hơn,
tham gia các hoạt động vui chơi bổ ích và các hoạt động trò chơi dân gian nhiều
hơn. Từ đó các em cảm thấy yêu mến trường lớp, yêu mến thầy cô và bạn bè. Nhà
trường có nhiều sáng kiến, tổ chức thực hiện tốt phong trào, xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh, thân thiện, năng động. Học sinh phát triển mạnh mẽ, toàn diện,
có thể lực, có kỹ năng sống tốt, kỹ năng hòa nhập cao, góp phần hình thành nhân
cách con người mới.
Bảng 3: Kết quả xếp loại đạo đức năm học 2011 – 2012 cấp THPT
LỚP

Tổng
số HS
Xếp loại Đạo đức
Tốt Khá TB Yếu
Số lượng
Tỷ lệ
%
Số lượng
Tỷ lệ
%
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Số
lượng
Tỷ lệ
%
10 26.751 18.656 69.74 5.968 22.31 1.738 6.50 389 1.45
11 25.030 18.417 73.58 5.000 19.98 1.299 5.19 314 1.25
12 22.817 18.516 81.15 3.826 16.77 471 2.06 4 0.02
Toàn cấp 74.598 55.589 74.52 14.794 19.83 3.508 4.70 707 0.95
(Nguồn: Phòng GDTrH – Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai)
Bảng 4: Kết quả xếp loại đạo đức năm học 2012 – 2013 cấp THPT
LỚP
Tổng
số HS
Xếp loại Đạo đức
Tốt Khá TB Yếu
Số lượng

Tỷ lệ
%
Số lượng
Tỷ lệ
%
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Số
lượng
Tỷ lệ
%
10 27.482 17.293 62.92 7.138 25.97 2.072 7.54 979 3.56
11 24.985 16.684 66.78 6.053 24.23 1.614 6.46 634 2.54
12 23.715 16.963 71.53 5.106 21.53 1.204 5.08 442 1.86
Toàn cấp 76.182 50.940 66.87 18.297 24.02 4.890 6.42 2.055 2.70
7
(Nguồn: Phòng GDTrH – Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai)
a) Nhận xét chung:

- Ưu điểm:
+ 90,89% học sinh có đạo đức khá, tốt, đa số học sinh biết nghe lời, kính trọng
cha mẹ, thầy cô, có ý thức rèn luyện tu dưỡng phẩm chất đạo đức tốt; thực hiện tốt mọi
nội quy, quy định của trường, của lớp, biết sống tốt, sống đẹp, phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức xã hội;
+ Học sinh có chiều hướng phát triển tốt về mặt tình cảm đạo đức, rèn luyện được
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự nhận thức đúng, sai, tự hiểu và vận dụng được một số kiến
thức pháp luật, chẩn mực đạo đức trong cuộc sống hàng ngày.
- Hạn chế:

+ Một bộ phận học sinh có biểu hiện chán nản, lười học, thường xuyên vi phạm
và gây mất trật tự trong lớp, nói tực, chửi thề, nói dối không trung thực, vô lễ với thầy,
cô, với bạn bè và người lớn tuổi, kết bạn chơi với những đối tượng xấu ở bên ngoài,
uống rượu, hút thuốc lá
+ Số học sinh gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức vẫn còn nhiều, một số giáo
viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm chưa thật sự quan tâm đến việc giáo dục đạo đức
thông qua các tiết học ở trên lớp, thậm chí còn có thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm khi
thấy học sinh có dấu hiệu vi phạm đạo đức. Sự phối hợp giáo dục giữa nhà trường, gia
đình và xã hội còn nhiều mặt hạn chế.
b) Nguyên nhân của những kết quả đạt được trong giáo dục giá trị
đạo đức cho học sinh:

- Thứ nhất, ngành giáo dục và Đào tạo Đồng Nai luôn nhận được sự quan tâm,
chỉ đạo kịp thời của Bộ Giáo dục và Đào tạo về thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của
ngành.

- Thứ hai, nhiều năm qua, Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân
dân, Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai và các cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương quan tâm, chỉ đạo thường xuyên và kịp thời các nhiệm
vụ chính trị đối với ngành giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó, với những cố gắng
và nỗ lực to lớn của ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh nhà, các đơn vị trường
học trên địa bàn tỉnh đã thực hiện thành công, tạo ra những chuyển biến tích
cực, toàn diện trên các mặt giáo dục các giá trị đạo đức cho học sinh, trong đó
có nhiều bước, nhiều khâu mang tính đột phá mới, tạo nên động lực thúc đẩy
phong trào rèn đức, luyện tài trong học sinh phát triển mạnh mẽ. Những quyết
tâm đổi mới nội dung, phương thức giáo dục học sinh đã mang lại những bước
tiến mới về lý luận và thực tiễn.

- Thứ ba, các sở, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể, các lực lượng xã hội và
nhân dân tích cực phối hợp chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo.

Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục năng động, tích cực, sáng tạo
trước yêu cầu đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục. Lòng yêu
nước, yêu người, yêu nghề, sự nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách to lớn
8
của đội ngũ nhà giáo và quyết tâm đổi mới của ngành giáo dục đào tạo tỉnh nhà
đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục và sự nghiệp
trồng người.

- Thứ tư, truyền thống hiếu học của dân tộc được phát huy mạnh mẽ, thể
hiện trong từng gia đình, từng cộng đồng dân cư. Nhân dân đã không tiếc công
sức, tiền của đầu tư và khuyến khích động viên con em vượt khó, chăm chỉ học
tập, hỗ trợ và tạo điều kiện dạy tốt, học tốt cho các nhà trường.

- Thứ năm, các hoạt động nhằm giáo dục các giá trị đạo đức của các đơn
vị trường học được đoàn viên thanh niên, học sinh đón nhận, cấp ủy đảng và
chính quyền đồng tình, quan tâm ủng hộ, các lực lượng xã hội đánh giá cao; sự
phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc giáo dục học
sinh có nhiều bước tiến mới; vị trí của thanh niên, học sinh trong nhà trường và
xã hội được đặt ở vị trí tương xứng. Những kết quả đó tiếp tục là tiền đề quan
trọng thúc đẩy và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trong
thời gian tới.

II. Những hạn chế trong giáo dục giá trị đạo đức cho học sinh
THPT trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ, khả quan đã đạt được trong thời gian qua,
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
trong giai đoạn hiện nay vẫn còn một số mặt tồn tại và hạn chế.
- Một bộ phận không nhỏ các em học sinh vẫn chưa hiểu và xác định được các giá
trị đích thực của cuộc sống, sống buông thả, thực dụng, vô cảm, ích kỷ thiếu trách nhiệm
với bản thân, với gia đình và xã hội. Hiện tượng học sinh vi phạm đạo đức ngày càng

nhiều, khiến dư luận xã hội lo lắng, nhiều thầy, cô giáo và các nhà quản lý giáo dục phải
đau đầu.
- Công tác giáo dục chính trị tư tưởng đã có đổi mới nhưng chưa tác động sâu sắc
đến đông đảo đoàn viên, thanh niên học sinh; công tác tuyên truyền, định hướng lý
tưởng, giáo dục đạo đức lối sống, nêu gương người tốt, việc tốt cho học sinh chưa
thường xuyên. Nhiều cơ sở giáo dục chưa chủ động trong công tác phối hợp tuyên
truyền, giáo dục pháp luật đối với học sinh. Công tác nắm bắt, định hướng tình hình tư
tưởng học sinh có lúc, có nơi thiếu kịp thời. Một bộ phận học sinh thiếu trách nhiệm với
bản thân và xã hội, thiếu ý chí khắc phục khó khăn để vươn lên, có lối sống không lành
mạnh, ý thức chấp hành pháp luật có nhiều hạn chế. Tính tương tác trong các hoạt động
giáo dục còn ít. Việc tổng kết và nhân rộng các mô hình, cách làm hay trong công tác
giáo dục đạo đức học sinh còn nhiều vấn đề bất cập, chưa phát huy được tác dụng tích
cực.
- Vai trò của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường trong việc tổ chức các hoạt
động nhằm giáo dục các giá trị đạo đức, lối sống cho đoàn viên, thanh niên học sinh
chưa thật sự hiệu quả; cơ sở vật chất, thiết chế vui chơi, giải trí cho học sinh còn ít và
thiếu đồng bộ.
- Thách thức trước mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động rất lớn đến sự hình
thành và phát triển nhân cách của học sinh. Sự bùng nổ của khoa học công nghệ, cùng
với mạng Internet chứa đựng rất nhiều yếu tố phức tạp, học sinh dễ nhiễm các yếu tố
9
sinh hoạt văn hóa không lành mạnh .
- Nội dung, phương pháp giáo dục tuy đã được đổi mới nhưng còn bộc lộ nhiều
hạn chế; còn có những nội dung trong chương trình giáo dục không thiết thực, nặng về
lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa gắn với yêu cầu xã hội, chưa phù hợp với nhu cầu và
khả năng học tập của đối tượng học sinh.
Trong năm 2012 - 2013, tình trạng bạo lực học đường, ý thức chấp hành pháp
luật, vi phạm an toàn giao thông trong học sinh từng bước được khắc phục nhưng
vẫn chưa được triệt để. Có 359 học sinh vi phạm an toàn giao thông, so với cùng kỳ
tăng 55 trường hợp. Số học sinh bị tai nạn giao thông: Có 215 học sinh bị thương

nhẹ (giảm 47); 32 học sinh bị thương nặng (tăng 09); 23 học sinh bị chết (tăng 04).
Các địa phương có học sinh bị chết do tai nạn khá nhiều là Tân Phú (06), Trảng
Bom (05).
Có 1.991 học sinh vi phạm kỷ luật bị xử lý, so với cùng kỳ tăng 622 trường
hợp. Trong đó, có 1.129 học sinh bị phê bình (tăng 351), 368 học sinh bị khiển trách
(giảm 150), 372 học sinh bị cảnh cáo (tăng 148), 134 học sinh bị buộc thôi học có
thời hạn (tăng 25). Các trường có số học sinh bị buộc thôi học có thời hạn cao:
THPT Hồng Bàng (20), THCS và THPT Lạc Long Quân (20), THPT Tôn Đức
Thắng (14), THPT Điểu Cải (12), THCS và THPT Bàu Hàm (09).
+ Qua khảo sát cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh, bên cạnh những kết quả
đạt được như trên, bản thân đã ghi nhận được, ý thức thực hiện nội quy của học sinh
còn chưa tốt như: nghỉ học, trốn tiết, lười học bài cũ, gian lận trong kiểm tra vi
phạm ở mức cao. Các bài giảng của giáo viên chưa được hấp dẫn để nhiều học sinh
nói chuyện riêng trong giờ học. Nhiều học sinh vi phạm nội quy như: hút thuốc,
uống rượu, bia, trộm cắp, đánh bạc, đánh nhau, vi phạm luật giao thông. Đặc biệt là
tình trạng vô lễ, xúc phạm đối với giáo viên và người lớn, tỷ lệ vi phạm 30,7%.
+ Nguyên nhân dẫn tới việc học sinh vi phạm đạo đức là do: Thiếu sự quan
tâm của gia đình: 90,9% (đối với cán bộ, giáo viên), và 81,2% (đối với học sinh);
bản thân học sinh không có sự tu dưỡng, rèn luyện tốt: 82,8% (đối với cán bộ, giáo
viên) và 68,2% (đối với học sinh); những tác động tiêu cực của bạn bè: 77,3% (đối
với cán bộ, giáo viên) và 76,0% (đối với học sinh); sự ảnh hưởng của khoa học công
nghệ: điện thoại, internet, games…68,2% (đối với cán bộ, giáo viên) và 54,0% (đối
với học sinh). Đây thực sự là vấn đề rất đáng quan tâm của cán bộ quản lý và giáo
viên xem lại các biện pháp giáo dục đạo đức của nhà trường.
+ Ngoài ra, những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình rèn luyện đạo đức học sinh
cũng không kém phần quan trọng như qua khảo sát, bản thân nhận thấy các yếu tố
bên ngoài tác động đến việc rèn luyện đạo đức của học sinh ở mức độ quan trọng và
rất quan trọng như: Sự động viên khích lệ của bạn bè 99,2%; khen thưởng, kỷ luật
kịp thời 96,8%; nội dung giáo dục phù hợp 96,4%; sự quan tâm thường xuyên của
các thầy, cô giáo 96,0%; không bị định kiến của nhà trường và xã hội 92,8%; được

gia đình thông hiểu, tạo điều kiện 91,2%; và cuối cùng là được tự do trong mọi hoạt
động 77,6%. Các nhà quản lý cần xem xét cụ thể các yếu tố tác động ở trên để đưa
ra các nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục đạo đức cho phù hợp.
+ Về các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý công tác giáo dục đạo đức
10
qua khảo sát thấy: Thiếu sự phối hợp với các tổ chức đoàn thể xã hội ở địa phương
70,5%; thiếu sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình 68,2%; tác động tiêu cực của
môi trường xã hội 54,5%; phẩm chất đạo đức, lối sống của thầy, cô, cha mẹ, bạn
bè…54,5%.
+ Tuy nhiên những yếu tố như: Không có chuẩn đánh giá đạo đức học sinh
lại có tới 54,5%; không đồng ý và còn phân vân 11,4%; yếu tố không khen thưởng,
trách phạt kịp thời là 40,9%; không đồng ý và còn phân vân là 13,6%.
Nguyên nhân của hạn chế trong giáo dục giá trị đạo đức cho học sinh

- Một là, chưa nhận thức đầy đủ về vai trò trách nhiệm đối với việc giáo dục
thế hệ trẻ, nên chưa có sự quan tâm thỏa đáng tạo điều kiện tăng cường công tác
giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống trong học sinh.
- Hai là, Hoạt động tư vấn học đường còn nhiều bất cập, thiếu đội ngũ
chuyên môn có kinh nghiệm. Quá trình hội nhập quốc tế đã mang tới những cơ hội
lớn nhưng cũng mang đến nhiều thách thức lớn đối với giáo dục. Mặt trái của kinh
tế thị trường đã có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến giáo dục, trong đó sự suy thoái về
đạo đức và những giá trị nhân văn là vấn đề toàn xã hội quan tâm. Những mặt tiêu
cực, những mặt xấu của xã hội đã ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục toàn diện của
nhà trường và điều mà chúng ta quan tâm nhất đó là sự hình thành nhân cách của
thế hệ trẻ.
- Ba là, Sự phối hợp giáo dục giữa các tổ chức Đoàn thể trong nhà trường với
các ban, ngành, tổ chức kinh tế, xã hội và gia đình ở một số nơi thiếu chặt chẽ, chậm
được khắc phục, chưa khai thác và phát huy hết các nguồn lực, điều kiện cho công tác
giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh.
- Bốn là, Các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương chưa quan tâm đúng mức

và thường xuyên đối với công tác giáo dục thiếu niên, học sinh; việc tổ chức thực
hiện các phong trào thi đua mang tính giáo dục truyền thống đối với học sinh chưa
thực sự hiệu quả; giữa nhận thức và sự quan tâm thực tế cho công tác giáo dục đạo
đức còn chưa tương xứng.
- Năm là, Trong quá trình giáo dục học sinh, đội ngũ giáo viên có lúc chưa
nhận thức hết mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt đạo đức và văn hóa, Vì vậy,
khuynh hướng tập trung nâng cao văn hóa, không chú ý đến vai trò của mặt giáo dục
đạo đức; công tác giáo dục đạo đức còn thực hiện mang tính chung chung, thiếu tính
toàn diện, xem nhẹ việc thực hành rèn luyện hành vi, thói quen đạo đức.
- Sáu là, Việc phối hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quá
trình giáo dục đạo đức có lúc thiếu chặt chẽ, chưa đồng bộ. Đời sống kinh tế khó
khăn, một bộ phận không nhỏ đội viên, thanh thiếu niên học sinh, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; môi trường gia đình, nhà trường và xã hội có
những biểu hiện xuống cấp đã ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp làm cản trở những
nỗ lực trong công tác giáo dục, tập hợp, vận động học sinh của đơn vị.
Kết quả điều tra nguyên nhân của hạn chế trong giáo dục giá trị đạo đức cho
học sinh cho thấy:
TT Nội dung %Ý kiến Ghi chú
11
trả lời
1 Gia đình thiếu quan tâm 19.9
2 Nhà trường thiếu biện pháp giáo dục 34.5
3 Xã hội còn tiêu cực 27.1
4 Quản lý xã hội còn buông lỏng 23.9
5 Thi hành pháp luật chưa nghiêm 24.8
6 Mặt trái của cơ chế thị trường 31.8
7 Phối hợp giữa Gia đình- Nhà trường-Xã hội chưa tốt 29.1
8 Các biện pháp giáo dục chưa đồng bộ 24.6
9 Ảnh hưởng xấu của bạn bè 14.5
10 Biến đổi về tâm, sinh lý 22.7

11 Nội dung giáo dục chưa thiết thực 30.7
12 Phương pháp giáo dục chưa phù hợp 30.9
13 Phim ảnh, sách báo có nội dung xấu 12.4
14 Phong trào thi đua còn mang tính hình thức 30.3
( Số liệu tổng hợp điều tra năm 2013 - 2014)
Để hiểu sâu hơn thực trạng đạo đức học sinh trung học phổ thông trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay, tôi đã tổ chức khảo sát, điều tra sơ bộ
những giá trị đạo đức Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp phù hợp
nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh.
Trên thực tế về việc điều tra thực địa đã được thực hiện 200 phiếu khảo sát,
cho 200 người, đại diện hai nhóm đối tượng gồm học sinh: 100 phiếu; cán bộ, giáo
viên: 100 phiếu), kết quả thu được cụ thể như sau:
Bảng 1. Cần lưu giữ giá trị đạo đức Việt Nam
Stt Giá trị đạo đức
Tỷ lệ %
Học sinh Cán bộ, giáo viên
1 Rất cần 45 54
2 Cần 30 14
3 Không cần 17 19
4 Ý kiến khác 8 13
( Số liệu tổng hợp điều tra năm 2013 - 2014)
Qua bảng bảng khảo sát, chúng ta có thể thấy những giá trị đạo đức truyền
thống được hai nhóm cho là không thể thiếu và rất cần được gìn giữ trong cuộc
sống. Tuy nhiên tỷ lệ đồng thuận chưa cao, nhóm học sinh 45%, nhóm cán bộ, giáo
viên 54%. Trong khi số người có quan điểm cho rằng không cần lưu giữ giá trị đạo
đức truyền thống cũng chiếm tỷ lệ tương đối, nhóm học sinh 17%, nhóm cán bộ,
giáo viên 19%.
Bảng 2. Giá trị đạo đức Việt Nam nổi bật nhất
Stt Giá trị đạo đức
Tỷ lệ %

Học sinh Cán bộ, giáo viên
1 Yêu nước 20 28
2 Đoàn kết 28 24
12
3 Lao động cần cù, tiết kiệm 11 20
4 Thương người 20 8
5 Ý thức cộng đồng 9 16
6 Ý kiến khác 12 4
( Số liệu tổng hợp điều tra năm 2013 - 2014)
Có thể thấy, giữa hai nhóm được khảo khát có quan điểm khác nhau về giá trí
đạo đức truyền thống nổi bật nhất. Nhóm học sinh cho là giá trị đoàn kết 28%, yêu
nước 20%; nhóm cán bộ, giáo viên cho là giá trị yêu nước 28%, đoàn kết 24%.
Như vậy, sự khác nhau này là do nhận thức, sự trải nghiệm cuộc sống. Tuy
nhiên những giá trị đạo truyền thống tuy cần được lưu giữ nhưng vai trò của nó lại
rất mờ nhạt trong lối sống của học sinh trong tình hình hiện nay.
Bảng 3. Những giá trị đạo đức Việt Nam ít được lưu giữ
Stt Giá trị đạo đức
Tỷ lệ %
Học sinh Cán bộ, giáo viên
1
Yêu nước, đoàn kết, lao động cần cù,
thương người
10 22
2
Hiếu học, anh hùng, chịu khó, trung thực,
ý thức cộng đồng
43 29
3 Lạc quan, vì nghĩa, giản dị, yêu gia đình 19 35
4 Ý kiến khác 28 14
( Số liệu tổng hợp điều tra năm 2013 - 2014)

Bảng khảo sát giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam ít được lưu giữ, lại cho
ta thấy sự khác nhau giữa hai nhóm một nữa. Trong khi nhóm học sinh cho là giá trị
hiếu học, anh hùng, chịu khó, trung thực, ý thức cộng đồng 43%, nhóm cán bộ, giáo
viên cho giá trị lạc quan, vì nghĩa, giản dị, yêu gia đình 35%.
Thông qua tình hình và thực tế khảo sát thực trạng giáo dục đạo đức học sinh
trong giai đoạn hiện nay, ta thấy rõ hơn thực trạng học sinh khi phân tích yếu tố tích
cực và tiêu cực.
Thứ nhất, yếu tố tích cực trong lối sống: Học sinh cả nước nói chung, học
sinh tỉnh Đồng Nai nói riêng, có nhiều thế mạnh, nhất là trong thời đại toàn cầu hoá,
sức trẻ, tài năng, sự nhạy cảm của họ là yếu tố quan trọng để hội nhập; lý tưởng của
họ, trên tất cả các lĩnh vực, mọi hoạt động, có thể nói gọn trong một chữ: “Dám” đó
là dám nghĩ, dám làm, dám mơ ước, dám nhận thấy những hạn chế, non yếu và dám
tin vào chính mình.
Thứ hai, mặt hạn chế trong lối sống: học sinh là lực lượng trẻ, được đào tạo
và giáo dục có hệ thống, có khả năng tiếp cận nhanh nhạy với kiến thức khoa học
kỹ thuật hiện đại và công nghệ mới, đồng thời là lực lượng lao động chủ yếu rất
năng động, sáng tạo trong tương lai, đặc điểm chung của họ là hiếu động thích hấp
thụ cái mới. Tuy nhiên, vì thiếu kinh nghiệm sống nên họ thường bắt chước cả cái
tốt lẫn cái xấu mà thiếu sự cân nhắc, lựa chọn. Họ sẽ dễ bị choáng ngợp trước
những cám dỗ vật chất, trong khi họ chưa chuẩn bị cho mình một lối ứng xử phù
hợp với cuộc sống hiện đại. Cuộc sống sa hoa truỵ lạc, những nhà hàng khách sạn,
13
vũ trường phơi bày trước mắt họ, chào mời, kích thích tính tò mò của họ… như vậy,
nếu không trang bị một kiến thức đầy đủ, họ sẽ dễ bị sa ngã, chệch hướng trong lối
sống.
Từ thực trạng trên, chúng ta thấy lối sống của mọi người bị quy định bởi hoàn
cảnh khách quan của xã hội, bởi những điều kiện sống và sự giáo dục của gia đình
và xã hội. Mỗi học sinh hãy chủ động trên bước đường lập nghiệp và trong mọi
hoàn cảnh để vừa thể hiện bản lĩnh của người chủ nhân tương lai của đất nước.
Đồng thời, mỗi học sinh phải thấy được trách nhiệm đối với bản thân cũng là trách

nhiệm đối với xã hội; phải tự tạo hành trang cho mình bằng cách nắm lấy tri thức
làm sức mạnh của bản thân; có tinh thần yêu nước, biết phát huy những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc; có cá tính, năng lực sáng tạo, có lý tưởng, đạo đức cách
mạng… như vậy mới hoàn thành sứ mệnh là lực lượng quyết định là động lực phát
triển của đất nước nói chung và của địa phương nói riêng. Xã hội càng phát triển,
bên cạnh mặt tăng trưởng kinh tế thì mặt đạo đức xã hội cũng có mặt bị tha hoá,
xuống cấp, khủng hoảng thế nào đó về mặt giá trị sống, không thể không lo lắng.
Cần từng bước giúp học sinh hình thành nên những tư duy mới, cởi mở và phù hợp
với tính cách người Việt Nam trong thời hiện đại.
Kết luận chương 2
Giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong điều kiện hiện nay
cho học sinh là hết sức cần thiết. Bằng nhiều phương thức khác nhau để chúng ta
làm cho học sinh thấy được vai trong to lớn của giá trị đạo đức truyền thống. Trước
hết là phải tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Bởi lẽ
một thực tế không thể phủ nhận được là do thiếu sự giáo dục và tuyên truyền sâu
rộng về đạo đức, lý tưởng cách mạng trong nhà trường nên những hiểu biết của thế
hệ trẻ về các giá trị đạo đức có thể nói là chưa đầy đủ, thậm chí còn sai lệch ở một
bộ phận không nhỏ thanh niên, học sinh. Tiếp đến, chúng ta cần giải quyết hợp lý
mối quan hệ lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, tạo môi trường lành mạnh cho thế hệ
trẻ phát huy tài năng của mình để từ đó học sinh nhận thức và tin tưởng hơn
những giá trị truyền thống của dân tộc, là hành trang góp phần ngăn chặn sự suy
thoái đạo đức, lối sống trong thanh niên, học sinh làm phong phú nội dung các giá
trị đạo đức truyền thống trong thời đại mới, đem lại sức mạnh cho công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước.
CHƯƠNG 2
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
THPT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo
đức cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay

1. Nâng cao nhận thức về giá trị đạo đức cho học sinh trong giai đoạn
hiện nay
a) Nhận thức về giá trị đạo đức
- Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học
14
sinh THPT trong giai đoạn hiện nay, có vai trò to lớn trong việc nâng cao nhận thức
cũng như điều chỉnh tư tưởng, thái độ và hành vi của con người. Bên cạnh việc phát
huy các phương tiện thông tin đại chúng thì việc đề cao tính trách nhiệm của các tổ
chức đoàn thể trong nhà trường là hết sức cần thiết. Với vị trí và vai trò của mình
trong nhà trường, Đoàn thanh niên là lực lượng hùng hậu thực hiện công tác truyền
thông dưới nhiều hình thức hoạt động khác nhau nhằm thu hút học sinh tham gia
vào các hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống.
- Giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, truyền thống đạo đức và lối sống
cho học sinh hiện nay không chỉ dừng lại ở các chương, điều trong sách vở mà quan
trọng là phải giáo dục bằng chiều sâu lịch sử, những truyền thống đấu tranh cách
mạng của Đảng và dân tộc, bằng những tấm gương yêu nước tiêu biểu, những anh
hùng, liệt sĩ hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân ta.
- Khơi dậy trong học sinh tinh thần xung kích tình nguyện vì cộng đồng, vì xã
hội thông qua các phong trào “tuổi trẻ sáng tạo” gắn với thực hiện cuộc vận động
“tuổi trẻ học đường học tập và làm theo lời Bác”, “thanh thiếu niên hiếu thảo”. Mở
rộng tuyên truyền tìm hiểu truyền thống yêu nước dân tộc, của Đảng.
- Lấy gương người tốt, việc tốt khích lệ học sinh để họ nhận thấy tự điều
chỉnh, học tập, rèn luyện bản thân. Có thể lấy những tấm gương ở xung quanh ta,
luôn có mọi lúc ở mọi nơi rất gần gũi với cuộc sống mà ai cũng có thể học. Như
nghị lực vượt khó của cậu học trò nghèo đã đậu thủ khoa trong các kỳ thi đại học;
hay một hành động tốt, cách ứng xử khéo léo ta có thể bắt gặp thường ngày.
Chính những hành vi, cử chỉ đúng mực này có thể làm thay đổi lối sống, suy nghĩ,
cuộc đời của mỗi người.
b) Phát huy giá trị đạo đức cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay
- Không ngừng tăng cường giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, bồi dưỡng

đạo đức, lý tưởng cách mạng của Đảng, của dân tộc; bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội cho thế hệ trẻ; lấy giáo dục nhân cách, giáo dục đạo làm người là
chính. Nhằm hình thành những thế hệ học sinh ưu tú, vững vàng về chính trị, kiên
định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, có lý tưởng sống cao đẹp, sống có văn hóa và tình
nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính, biết nuôi dưỡng hoài
bão, tự cường dân tộc.
- Đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
trong các đơn vị trường học. Xác định rõ, đây là công việc thường xuyên hàng ngày,
là trách nhiệm cụ thể, thiết thực của mỗi học sinh.
- Các Chuẩn mực đạo đức phải được đề cao, nhân cách con người phải được
tôn trọng, quan hệ giữa người với người phải là quan hệ giàu nhân tính nhân văn,
thể hiện ở tính lên kết và sự hợp tác, sự quan tâm và trách nhiệm, sự cảm thông chia
sẽ, giàu lòng nhân ái, vị tha, nhất là tình thương đối với trẻ em và sự bình đẳng, tôn
trọng dành cho phụ nữ. Đó là những biểu hiện của đạo đức và văn hoá đạo đức cần
giáo dục cho thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh để tạo thành thói quen trong hành vị
ứng xử của họ.
- Vào đầu năm học mới cần giới thiệu cho học sinh truyền thống xây dựng,
phát triển và trưởng thành, các hình ảnh các thế hệ đã trưởng thành từ mái trường
15
nay đang góp sức xây dựng quê hương đất nước. Các thành quả mà nhà trường đã
đạt được, các thế hệ thầy cô giáo đã và đang công tác trong nhà trường để từ đó
giúp cho học sinh tình yêu trường yêu lớp, biết phát huy những truyền thống tốt đẹp
của nhà trường.
- Tổ chức các buổi nói chuyện, tọa đàm của các cán bộ lão thành cách mạng,
các cựu chiến binh; tổ chức các đợt đi thăm các di tích lịch sử. Từ đó hình thành cho
học sinh lòng yêu quê hương đất nước, tự hào dân tộc, ý chí tự cường về quê hương,
về mái trường yêu dấu.
- Giáo dục ý thức tự giác của lớp trẻ phải biết “gạn đục, khơi trong” trong
việc tiếp thu những giá trị hiện đại và kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống.
c) Hạn chế các yếu tố tiêu cực trong lối sống.

Cần giáo dục cho thế hệ trẻ việc nhận diện các quan hệ đạo đức đang vận
động trong đời sống của xã hội. Việc cổ vũ, ủng hộ các quan hệ đạo đức đúng đắn,
phê phán và đấu tranh công lại các quan niệm đạo đức sai lầm một cách khách quan
là điều cần thiết để từ đó, học sinh có lòng tin vào những điều thiện và phê phán
điều ác một cách khoa học, củng cố ý thức tự giác. Các hành vi xấu, thiếu trách
nhiệm, ăn bám, lười biếng, lừa đảo phải được vạch trần và người tốt việc tốt phải
được cổ vũ, nêu gương điển hình
Nghị Quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII
đã nhấn mạnh những đức tính cần có của con ngưòi mới Việt Nam:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết
với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và
cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, nâng
xuất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể, xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ
thẩm mỹ và năng lực” [26, tr 58, 59)
Thiết nghĩ, thế hệ trẻ càng cần thiết chú trọng các đức tính này trong tiếp
nhận giáo dục, tự giáo dục để bồi bổ và hoàn thiện nhân cách con người mới.
Trong đó phải chú ý phát huy mặt tích cực, hạn chế khuyết điểm và thiếu hụt, để
cho nhân cách thế hệ trẻ nảy nở theo những chuẩn mực chân, thiện, mỹ.
2. Giáo dục giá trị đạo đức cho học sinh thông qua các môn học
trong nhà trường
a) Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua môn học Giáo dục
công dân và các môn học khác.
Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT, thông qua giảng dạy môn học Giáo

16
dục công dân, cần coi trọng đúng mức việc giảng dạy môn Giáo dục công dân cũng
như vị trí và vai trò của môn học này trong giáo dục đạo đức cho học sinh; đổi mới
nội dung chương trình và phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân nói riêng
và các môn học khác nói chung, phương pháp dạy học nói chung một cách khoa học
hơn nữa để phù hợp với sức học của học sinh, không nên quá dồn ép kiến thức tạo
áp lực trong việc học tập của học sinh.
- Tiếp tục thực hiện việc điều chỉnh nội dung dạy học, tổ chức dạy học theo
chuẩn kiến thức và kỹ năng trong giáo dục phổ thông như hướng dẫn của Bộ Giáo
dục và Đào tạo. Chú trọng nội dung giáo dục đạo đức, pháp luật, thể chất, quốc
phòng - an ninh và các giá trị văn hóa truyền thống; giáo dục kỹ năng sống, giáo
dục lao động và hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông.
- Dạy học Giáo dục công dân phải chú ý đến việc rèn luyện kỹ năng và giáo
dục thái độ, hành vi đúng đắn của học sinh; phải gắn với thực tế cuộc sống, hướng
dẫn học sinh vận dụng kiến thức đã học để phân tích, giải quyết các tình huống, các
vấn đề trong cuộc sống, chú ý phát huy tư duy độc lập, sáng tạo trong học sinh.
- Tăng cường các hoạt động ngoại khoá cho giáo viên và học sinh, kết hợp
với các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, các hoạt động của Đoàn, đội nhằm
thông qua các hoạt động này góp phần giúp học sinh hình thành nhân cách, nhận
thức các giá trị sống và hình thành các kĩ năng sống.
b) Tích hợp giảng dạy nội dung “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” vào các môn học.
Tiếp tục tích hợp, lồng ghép nội dung giáo dục “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, giáo dục giá trị và kĩ năng sống, giáo dục bảo vệ môi
trường vào môn Giáo dục công dân một cách phù hợp với từng đối tượng học sinh
và điều kiện cụ thể của từng trường theo đúng nguyên tắc, cách thức, nội dung đã
nêu trong các tài liệu hướng dẫn. Việc tích hợp, lồng ghép những nội dung trên
được xem là những hoạt động quan trọng trong việc tiếp tục thực hiện cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, là nội dung cơ bản
của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Việc

kiểm tra, đánh giá đối với những nội dung tích hợp, lồng ghép trong kiểm tra đánh
giá môn Giáo dục công dân: cần chú ý kiểm tra năng lực vận dụng, tư duy sáng tạo
để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn, đánh giá thông qua quá trình, qua thái độ.
Chú trọng nâng cao chất lượng giảng dạy nội dung pháp luật trong chương
trình. Các đơn vị trường học cần xây dựng tủ sách pháp luật cho bộ môn Giáo dục
công dân. Giáo viên cần nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, đẩy mạnh phong trào nghiên cứu, học tập, tìm hiểu các chuyên đề về
tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thông qua nhiều hình thức (nghe băng,
kể chuyện vào các buổi sinh hoạt chào cờ, tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh trong
các hoạt động ngoại khóa…).
3. Giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường thông qua việc thực
hiện các cuộc vận động, các phong trào do Bộ Giáo dục và Đào tạo và do ngành
tổ chức phát động
a) Cuộc vận động “Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo
17
đức, tự học và sáng tạo”.
Tăng cường đổi mới nội dung, phương thức hoạt động giáo dục theo chủ
điểm, giáo dục truyền thống, giáo dục ngoài giờ lên lớp; xây dựng nếp sống văn
hóa, củng cố kỷ cương nền nếp, thực hiện giáo dục kỷ luật tích cực hiệu quả; hướng
dẫn tổ chức tham quan, học tập di sản, các cơ sở sản xuất.
Tiếp tục tổ chức tốt, thu hút học sinh tham gia các hoạt động văn nghệ, trò
chơi dân gian và các hội thi năng khiếu văn nghệ, thể dục – thể thao; đổi mới
phương thức tổ chức các hoạt động giao lưu,… theo hướng phát huy sự chủ động và
sáng tạo của các trường; tăng cường tính giao lưu, hợp tác nhằm thúc đẩy học sinh
hứng thú học tập, rèn luyện kỹ năng sống, bổ sung hiểu biết về các giá trị văn hóa
truyền thống và tinh hoa văn hóa thế giới.
b) Phong trào xây dựng “Trường học thân thiện, Học sinh tích
cực”.
Tổ chức các hoạt động giáo dục đa dạng, linh hoạt, gắn với đặc điểm lứa tuổi
nhằm thu hút học sinh tham gia một cách tích cực và hào hứng theo khả năng của

mình. Tính đa dạng của các hoạt động giáo dục bao hàm cả về nội dung giáo dục
lẫn hình thức hoạt động. Nội dung giáo dục của hoạt động phải phản ánh nhiều lĩnh
vực khác nhau của đời sống kinh tế, xã hội hiện nay. Đồng thời nội dung đó cần đáp
ứng nhu cầu mong muốn nâng cao hiểu biết của học sinh trước những thách thức
của cuộc sống. Lựa chọn các hình thức hoạt động phải đảm bảo có thể đáp ứng nhu
cầu, hứng thú và khả năng của các em. Nếu là hình thức khiên cưỡng, bị áp đặt thì
hiệu quả giáo dục sẽ không cao, không mang lại hứng thú cho các em, ngược lại sẽ
tạo nên tâm lý thụ động khi bắt buộc phải tham gia vào hoạt động của tập thể.
Tăng cường giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động phong
trào xây dựng “Trường học thân thiện, Học sinh tích cực”, coi đó là giải pháp tích
cực nhằm hình thành, phát triển ở các em một lối sống lành mạnh, có văn hóa, có
đạo đức. Giáo dục kỹ năng sống giúp học sinh có cách suy nghĩ, thái độ và hành vi
tích cực, đặc biệt giúp tăng cường kỹ năng giao tiếp hiệu quả, có kỹ năng phân tích
vấn đề và tình huống, có thái độ tự khẳng định và có quyết định chọn lựa. Giáo dục
kỹ năng sống kết nối nhà trường, gia đình và cộng đồng trong cùng mục tiêu, giúp
các em có được những kỹ năng thiết thực cần cho cuộc sống hiện tại và sau này.
4. Phát huy tính tự giác của học sinh trong giáo dục giá trị đạo đức
Tập thể học sinh là một tổ chức có cùng môi trường học tập, có cùng lứa tuổi,
là nơi mà các em dễ bộc lộ cá tính. Vì vậy người cán bộ quản lý phải biết kết hợp
với giáo viên chủ nhiệm để giúp các em xây dựng được một tập thể lớp đoàn kết, có
tổ chức kỷ luật và phát huy được vai trò tự quản, tính tự giác trong việc giáo dục giá
trị đạo đức. Để phát huy tối đa được tính tự giác và vai trò tự quản của tập thể học
sinh cần phải có sự lựa chọn đầu tư về đội ngũ cán bộ lớp, cán bộ chi đội, cụ thể:
+ Phải lựa chọn được ban cán sự lớp là những học sinh có phẩm chất, có năng
lực, nhiệt tình và có uy tín với tập thể, được tập thể tín nhiệm.
+ Căn cứ vào số lượng học sinh để phân chia thành các tổ, nhóm có tỷ lệ chất
lượng, phù hợp với vị trí địa lý, tổ chức tốt phong trào “đôi bạn cùng tiến”.
18
+ Có sự định hướng giữa giáo viên chủ nhiệm với tổ chức Đoàn, Đội về cơ
cấu nhân sự của Ban chấp hành chi đoàn, chi đội lớp nhằm có sự thống nhất điều

hành hoạt động của tập thể lớp.
+ Đội ngũ ban cán sự lớp và Ban chấp hành chi đội có nhiệm vụ điều hành
hoạt động của tập thể lớp theo các tiêu chí đã đề ra và nhiệm vụ kế hoạch của nhà
trường. Điều hành tập thể lớp giúp giáo viên chủ nhiệm trong các hoạt động tập thể.
+ Sau mỗi tuần hoạt động sau các đợt thi đua và sau một học kỳ, cuối năm thì
giáo viên chủ nhiệm cùng ban cán sự lớp và chi đội phải có trách nhiệm đánh giá
xếp loại kịp thời để khen thưởng những cá nhân tiêu biểu đồng thời điều chỉnh uốn
nắn những sai phạm.
+ Giáo viên chủ nhiệm cùng ban cán sự lớp và chi đội cần tìm hiểu và nắm
vững hoàn cảnh và sức khỏe, đặc biệt là những em học sinh có hoàn cảnh khó khăn,
hạn chế về nhận thức để có kế hoạch giúp đỡ, chia sẽ, động viên khích lệ nhằm vượt
qua những hoàn cảnh khó khăn, tin yêu lạc quan trong cuộc sống.
5. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong giáo dục giá
trị đạo đức cho học sinh
Gia đình, nhà trường và xã hội luôn được coi là “tam giác” giáo dục quan
trọng đối với học sinh. Tầm quan trọng của mỗi lực lượng cũng như mối quan hệ
giữa chúng trong việc giáo dục học sinh ai cũng hiểu nhưng vẫn có khoảng cách lớn
giữa nói và làm.
Vì vậy, muốn giáo dục rèn luyện đạo đức học sinh có hiệu quả cần có sự kết
hợp sức mạnh tổng hợp từ nhà trường, gia đình và xã hội. Nhà trường, giáo viên chủ
nhiệm phải chủ động phối hợp thường xuyên với gia đình, địa phương. Sự phối hợp
nhằm mở rộng môi trường giáo dục, từ đó có sự tác động trực tiếp hay gián tiếp tốt
của gia đình, xã hội trong công tác giáo dục hình thành nhân cách, phẩm chất đạo
đức cho học sinh.
Tuyên truyền cho các bậc cha mẹ về đường lối giáo dục, mục tiêu giáo dục,
phương pháp dạy con về ý thức tổ chức kỷ luật và việc chấp hành nội quy nề nếp
của nhà trường. Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc quan tâm tổ
chức giáo dục học sinh bằng cách tổ chức phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội
nhằm giáo dục học sinh, sự phối hợp nhà trường và gia đình được thực hiện bởi một
số biện pháp sau:

+ Thăm gia đình học sinh: giáo viên chủ nhiệm sẽ thu thập được những thông
tin có giá trị về học sinh; Có kế hoạch nghiên cứu đặc điểm gia đình và đặc điểm
của từng học sinh của lớp chủ nhiệm, biết phân loại học sinh theo các đặc điểm để
có giải pháp tác động phù hợp. Nghiên cứu đặc điểm gia đình học sinh và đặc điểm
tâm sinh lý của học sinh lớp học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công tác của
người chủ nhiệm lớp. Tất cả việc nghiên cứu gia cảnh của học sinh nhằm hai mục
đích, trước hết để kết hợp trong giáo dục học sinh của lớp, mặt khác hiểu thêm
nguyên nhân, những yếu tố tích cực hoặc tiêu cực, những thuận lợi hoặc khó khăn
tác động đến học sinh để có giải pháp giáo dục. Song, quan trọng hơn cả là hiểu
được đặc điểm của mỗi học sinh về các mặt tâm sinh lý, tính cách năng lực…Nội
dung nghiên cứu về học sinh bao gồm: sức khỏe, năng lực phát triển trí tuệ, cần
19
nghiên cứu để hiểu từng học sinh về sự tập trung chú ý, nhận thức, nắm vững sở
thích, nguyện vọng, động cơ học tập, hoạt động. Lưu ý tới tính cách, phẩm chất đạo
đức, quan hệ, cách ứng xử của học sinh trong gia đình, ở trường, ở cộng đồng với
bạn bè của các em.
+ Mời cha mẹ học sinh đến trường: thường được hiệu trưởng hoặc giáo viên
chủ nhiệm sử dụng trong trường hợp học sinh vi phạm kỉ luật học tập, vi phạm đạo
đức, quy định nề nếp, tác phong ở mức độ trầm trọng.
+ Cuộc họp toàn thể cha mẹ học sinh của lớp: là biện pháp liên hệ rộng rãi
lớn nhất giữa giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh, được sử dụng phổ biến, được
tổ chức định kì theo tình hình thực tế của nhà trường, gia đình.
+ Thông qua sổ liên lạc giữa gia đình và nhà trường: là biện pháp hữu hiệu để
trao đổi thông tin hai chiều giữa gia đình và nhà trường.
+ Trao đổi thư từ, điện thoại với cha mẹ học sinh: sử dụng để thông báo tình
hình học tập, tư tưởng đạo đức, việc chấp hành qui định về nếp giữa giáo viên chủ
nhiệm và cha mẹ học sinh.
+ Phối hợp với gia đình thông qua cơ quan cha mẹ học sinh làm việc.
Tóm lại, hoạt động giáo dục học sinh là nhiệm vụ của toàn xã hội, vấn đề
giáo dục đạo đức học sinh lại càng cần có sự phối kết hợp của các tổ chức xã hội, do

vậy nhà quản lý giáo dục cần phải thực hiện:
+ Xây dựng Ban đại diện cha mẹ học sinh, tổ chức và hoạt động có hiệu quả,
hàng tuần Ban đại diện cha mẹ học sinh cùng với Ban giám hiệu và giáo viên chủ
nhiệm nắm bắt được các thông tin về rèn luyện của con em mình kịp thời thông báo
tới gia đình để cùng nhau giáo dục.
+ Thực hiện tốt việc xây dựng cam kết giữa học sinh, nhà trường, gia đình và
xã hội.
Như vậy, muốn nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cần có sự kết hợp từ
phía gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó nhà trường giữ vai trò định hướng,
uốn nắn những hành vi của học sinh theo chuẩn mực giá trị chung của xã hội. Gia
đình và xã hội là môi trường vun đắp, nuôi dưỡng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự
hình thành giá trị đạo đức cho học sinh. Cần sớm khắc phục tình trạng giáo dục đạo
đức cho học sinh hiện nay hầu như được giao phó chủ yếu cho nhà trường.
6. Các nhóm giải pháp khác
a) Tăng cường vai trò lãnh đạo của Chi bộ Đảng
Trong nhà trường, vị trí của Chi bộ Đảng là trung tâm chính trị tập hợp các
lực lượng quần chúng nhằm thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và nhà nước. Chi bộ Đảng nắm quyền lãnh đạo các hoạt động của nhà trường,
là hạt nhân, là nền tảng của sự đoàn kết, chính vì vậy phải xây dựng Chi bộ Đảng
nhà trường vững mạnh, thực hiện tốt vai trò của mình, luôn thực hiện theo phương
châm “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”. Mỗi Đảng viên phải
đầu tàu gương mẫu trong mọi hoạt động, đặc biệt là trong công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng.
20
Thường xuyên cập nhật thông tin, quán triệt các quan điểm, đường lối, nghị
quyết của Đảng và các cấp chính quyền. Họp định kỳ vào cuối tháng để đề ra chủ
trương cụ thể, giao trách nhiệm cho các tổ chức trong nhà trường thực hiện. Đặc
biệt là công tác giáo dục chính trị tư tưởng đạo đức cho cán bộ giáo viên và học
sinh. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn, sửa chữa những tư tưởng lệch lạc, sai
chủ trương mà chi bộ đề ra. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng

viên trong việc rèn luyện đạo đức, phát triển và hoàn thiện nhân cách cho học sinh.
b) Phát huy vai trò xung kích của các tổ chức Đoàn thể trong nhà trường
Các tổ chức Đoàn thể trong nhà trường có trách nhiệm trước chi bộ, ban giám
hiệu nhà trường trong việc giáo dục mục tiêu lý tưởng cách mạng cho đoàn viên,
thanh thiếu niên học sinh thông qua nhiều hình thức hoạt động như: Hội thảo, thi
tìm hiểu, dã ngoại, cắm trại giao lưu với các đoàn trường bạn để giúp các em lĩnh
hội kiến thức từ đó hình thành cho các em ước mơ hoài bão cao đẹp.
Xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ Đoàn là những người có phẩm chất
đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn, năng động sáng tạo, nhiệt tình trong mọi công
việc. Phối hợp thường xuyên với các tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cấp trên tổ
chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn cán bộ đoàn và coi trọng việc phát triển Đoàn viên
mới trong mỗi năm học; trong mỗi năm học phải bám sát nhiệm vụ năm học của
nhà trường và của cấp trên, để từ đó xây dựng kế hoạch cụ thể. Tổ chức các đợt thi
đua theo từng chủ đề, thi đua dài hạn và ngắn hạn. Thành lập các đội an ninh xung
kích học sinh để thường xuyên kiểm tra đánh giá thi đua; đồng thời tổng kết, đánh
giá chất lượng hoạt động để có sự động viên, khen thưởng các tập thể, cá nhân kịp
thời; bên cạnh đó phê bình khiển trách, điều chỉnh, uốn nắn những tập thể, cá nhân
vi phạm.
Xây dựng kế hoạch phối hợp hoạt động giữa Đoàn THCS HCM và giáo viên
chủ nhiệm - Giáo viên bộ môn - Ban đại diện cha mẹ học sinh để tạo ra các hoạt
động bổ ích góp phần giáo dục học sinh có hiệu quả thiết thực như: thăm hỏi các gia
đình thương binh liệt sĩ nhân ngày 27/7, nhân ngày 22/12. Thăm hỏi và chăm sóc
Bà mẹ Việt Nam anh hùng, tu bổ và thăm viếng nghĩa trang liệt sĩ; tổ chức các buổi
lao động sản xuất giúp đỡ các gia đình neo đơn, nghèo và các gia đình gặp khó
khăn, hoạn nạn; tổ chức tốt phong trào ủng hộ học sinh nghèo, học sinh vùng xa
xôi, hẻo lánh và tham gia tốt các phong trào tham gia từ thiện, nhân đạo; tổ chức tốt
tháng thanh niên hành động theo các chủ đề cho đoàn viên, đội viên thanh thiếu
niên và học sinh.
Kết hợp với các tổ chức Đoàn ở địa phương như các chi đoàn công an, chi
đoàn huyện đội, và đoàn trường bạn Để từ đó giáo dục cho đoàn viên, thanh niên

về trật tự an toàn giao thông, an toàn xã hội, tránh xa các tệ nạn xã hội.
c) Kết hợp khen thưởng và phê bình là vũ khí đảm bảo sự thành công
của mỗi cá nhân khi sống trong tập thể, cũng như trong gia đình.
- Kết hợp khen thưởng và phê bình là vũ khí đảm bảo sự thành công của mỗi
cá nhân khi sống trong tập thể, cũng như trong gia đình. Mác, Ăngghen, Lênin dạy
chúng ta rằng: Tự phê bình là một thứ vũ khi sắc bén nhất của cách mạng”. Thật thà
tự phê bình chẳng những giúp cho mình sửa chữa, giúp cho mình tiến bộ mà còn
21
giúp cho người khác biết để mà tránh.
Phải đẩy mạnh tự phê bình và phê bình là tự bồi dưỡng về tư tưởng, đạo đức
và lối sống theo gương Bác Hồ vĩ đại. Tự phê bình và nghe người khác phê bình là
vũ khí sắc bén ngăn chặn có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực và đẩy lùi sự tha hóa
về đạo đức, lối sống thực dụng trong thanh thiếu niên.
Học sinh luôn có tinh thần vươn tới cái đẹp, luôn ngưỡng mộ các thần tượng
và có tâm hồn tươi trẻ nên họ dễ tiếp cận với chân, thiện, mỹ. Nên tránh phê bình
quá nhiều mà thiếu sự cổ vũ khích lệ, như thế thanh niên dễ chán nãn, buông xuôi,
đi ngược lại những gì ta mong muốn.
7. Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá xếp loại đạo đức học sinh theo Thông tư
58/2011 của Bộ Giáo dục và đào tạo
- Căn cứ đánh giá, xếp loại hạnh kiểm (theo Thông tư 58/2011)
+ Đánh giá hạnh kiểm của học sinh căn cứ vào biểu hiện cụ thể về thái độ và
hành vi đạo đức; ứng xử trong mối quan hệ với thầy giáo, cô giáo, cán bộ, công
nhân viên, với gia đình, bạn bè và quan hệ xã hội; ý thức phấn đấu vươn lên trong
học tập; kết quả tham gia lao động, hoạt động tập thể của lớp, của trường và của xã
hội; rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường.
+ Kết quả nhận xét các biểu hiện về thái độ, hành vi của học sinh đối với nội
dung dạy học môn Giáo dục công dân quy định trong chương trình giáo dục phổ
thông cấp THCS, cấp THPT do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
- Tiêu chuẩn xếp loại hạnh kiểm (theo Thông tư 58/2011)
+ Loại tốt:

a) Thực hiện nghiêm túc nội quy nhà trường; chấp hành tốt luật pháp, quy
định về trật tự, an toàn xã hội, an toàn giao thông; tích cực tham gia đấu tranh với
các hành động tiêu cực, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội;
b) Luôn kính trọng thầy giáo, cô giáo, người lớn tuổi; thương yêu và giúp đỡ
các em nhỏ tuổi; có ý thức xây dựng tập thể, đoàn kết, được các bạn tin yêu;
c) Tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức, có lối sống lành mạnh, giản dị,
khiêm tốn; chăm lo giúp đỡ gia đình;
d) Hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ học tập, có ý thức vươn lên, trung thực trong
cuộc sống, trong học tập;
đ) Tích cực rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường;
e) Tham gia đầy đủ các hoạt động giáo dục, các hoạt động do nhà trường tổ
chức; tích cực tham gia các hoạt động của Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
g) Có thái độ và hành vi đúng đắn trong việc rèn luyện đạo đức, lối sống theo
nội dung môn Giáo dục công dân.
+ Loại khá:
Thực hiện được những quy định tại Khoản 1 Điều này nhưng chưa đạt đến
mức độ của loại tốt; còn có thiếu sót nhưng kịp thời sửa chữa sau khi thầy giáo, cô
22
giáo và các bạn góp ý.
+ Loại trung bình:
Có một số khuyết điểm trong việc thực hiện các quy định tại Khoản 1 Điều
này nhưng mức độ chưa nghiêm trọng; sau khi được nhắc nhở, giáo dục đã tiếp thu,
sửa chữa nhưng tiến bộ còn chậm.
+ Loại yếu:
Chưa đạt tiêu chuẩn xếp loại trung bình hoặc có một trong các khuyết điểm
sau đây:
a) Có sai phạm với tính chất nghiêm trọng hoặc lặp lại nhiều lần trong việc
thực hiện quy định tại Khoản 1 Điều này, được giáo dục nhưng chưa sửa chữa;
b) Vô lễ, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể của giáo viên,

nhân viên nhà trường; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bạn hoặc của người khác;
c) Gian lận trong học tập, kiểm tra, thi;
d) Đánh nhau, gây rối trật tự, trị an trong nhà trường hoặc ngoài xã hội; vi
phạm an toàn giao thông; gây thiệt hại tài sản công, tài sản của người khác.
Căn cứ vào các tiêu chí đánh giá, xếp loại đạo đức học sinh nêu trên, tác giả
nhận thấy như sau:
Một là, sự cần thiết phải xây dựng một bộ tiêu chí đánh giá, nhận xét và cho
điểm kết quả rèn luyện về hạnh kiểm đạo đức của học sinh; sau mỗi học kỳ và cuối
năm học, giáo viên chủ nhiệm cho học sinh tự đánh giá, cho điểm về hạnh kiểm của
bản thân; tập thể lớp đánh giá, cho điểm các cá nhân trong lớp, theo các tiêu chí sau:
TT Nội dung đánh giá
Điểm
tối đa
HS tự
đánh giá
Lớp
đánh giá
1
Luôn kính trọng người trên, thầy giáo, cô
giáo, cán bộ và nhân viên nhà trường;
thương yêu và giúp đỡ các em nhỏ tuổi; có
ý thức xây dựng tập thể, đoàn kết với các
bạn, được các bạn tin yêu;
20
2
Tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức, có
lối sống lành mạnh, trung thực, giản dị,
khiêm tốn;
15
3

Hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ học tập, cố
gắng vươn lên trong học tập;
15
4
Thực hiện nghiêm túc nội quy nhà trường;
chấp hành tốt luật pháp, quy định về trật
tự, an toàn xã hội, an toàn giao thông; tích
cực tham gia đấu tranh, phòng chống tội
phạm, tệ nạn xã hội và tiêu cực trong học
tập, kiểm tra, thi cử;
15
23
5
Tích cực rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ
sinh và bảo vệ môi trường;
15
6
Tham gia đầy đủ các hoạt động giáo dục
quy định trong Kế hoạch giáo dục, các
hoạt động chính trị, xã hội do nhà trường
tổ chức; tích cực tham gia các hoạt động
của Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí
Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh; chăm lo giúp đỡ gia đình.
20
Tổng điểm 100
Trên cơ sở đó giáo viên có thể căn cứ kết quả xếp loại hạnh kiểm học sinh:
+ Từ 90 điểm trở lên loại xuất sắc, nếu thực hiện tốt các nội dung trên.
+ Từ 80 đến 89 điểm loại tốt, thực hiện được những các nội dung, đôi khi có
thiếu sót nhỏ nhưng sửa chữa ngay khi thầy giáo, cô giáo và các bạn góp ý.

+ Từ 60 đến 79 điểm loại khá, có một số khuyết điểm trong việc thực hiện
các nội dung.
+ Từ 50 đến 59 điểm loại trung bình có một số khuyết điểm trong việc thực
hiện các nội dung nhưng mức độ chưa nghiêm trọng; sau khi được nhắc nhở, giáo
dục đã tiếp thu sửa chữa nhưng tiến bộ còn chậm.
+ Từ 40 đến 49 điểm loại yếu;
+ Dưới 40 điểm loại kém: với các biểu hiện là:
a) Có sai phạm với tính chất nghiêm trọng hoặc lặp lại nhiều lần trong việc
thực hiện các nội dung, được giáo dục nhưng chưa sửa chữa.
b) Vô lễ, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể của giáo viên,
nhân viên nhà trường.
c) Gian lận trong học tập, kiểm tra, thi cử.
d) Xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bạn hoặc của người khác; đánh nhau,
gây rối trật tự, trị an trong nhà trường hoặc ngoài xã hội.
Hai là, điều chỉnh và yêu cầu nội dung nhận xét, cách thức đánh giá, xếp loại
học sinh của giáo viên chủ nhiệm ghi trong học bạ với những nội dung cụ thể, sát
thực hơn hiện nay, thực tế hiện nay trong học bạ, mục nhận xét của giáo viên chủ
nhiệm do không yêu cầu giáo viên chủ nhiệm phải ghi cụ thể nên phần lớn các học
bạ giáo viên chủ nhiệm chỉ ghi một hai dòng chung chung: “chăm ngoan”, “học
khá”, “có tiến bộ”… Đọc học bạ của học sinh chúng ta không thể biết mức độ rèn
luyện phấn đấu về mặt hạnh kiểm của học sinh ở từng năm học như thế nào? Đánh
giá nhằm ghi nhận một thực tế hay chủ yếu phải đạt mục tiêu nhằm khích lệ, định
hướng để học sinh có thể hoàn thiện nhân cách?
Trong học bạ hiện nay chưa có vị trí nhận xét đánh giá của giáo viên bộ môn
giáo dục công dân theo tinh thần thông tư 58/2011 của Bộ giáo dục và đào tạo quy
định. Do đó nên quy định lại việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm của học sinh theo
24
tinh thần: Giáo viên chủ nhiệm nên ghi lại trung thực những mặt cố gắng cũng như
một số mặt rèn luyện chưa tốt của học sinh theo các nội dung chủ yếu sau:
+ Rèn luyện phẩm chất đạo đức: ghi rõ những phẩm chất nổi trội của học sinh

như: trung thực, lễ độ, giản dị, khiêm tốn, khoan dung, nhân ái hoặc cách ứng xử,
giao tiếp với mọi người.
+ Ý thức phấn đấu rèn luyện trong học tập: mức độ chuyên cần, ý thức chủ
động sáng tạo, tích cực vượt khó trong học tập? đã biết tự học chưa?
+ Ý thức tôn trọng nội quy kỷ luật của nhà trường, pháp luật nhà nước: Về
mức độ tôn trọng nội quy kỷ luật của lớp, trường; tôn trọng luật lệ giao thông; ứng
xử có văn hóa nơi công cộng; tôn trọng giữ gìn tài sản của lớp, trường, nơi công
cộng
+ Ý thức rèn luyện thân thể, bảo vệ môi trường: Về việc rèn luyện thân thể,
giữ gìn vệ sinh môi trường
+ Ý thức tham gia hoạt động tập thể, xây dựng tập thể: Thái độ tham gia các
hoạt động giáo dục theo Kế hoạch của trường, các hoạt động chính trị, xã hội do
trường, lớp tổ chức.
Những nội dung trên được ghi sẵn trong học bạ để bắt buộc Giáo viên chủ
nhiệm phải ghi tỉ mỉ đối với từng học sinh đã phấn đấu đạt được những điểm chủ
yếu nào, còn những mặt nào còn yếu, sẽ có lời khuyên để học sinh rút kinh nghiệm
cần rèn luyện tốt hơn hoặc có những lời khen để khẳng định, động viên, chỉ ra
những hướng phấn đấu tiếp theo.
Ba là, cuối mỗi năm học, nhà trường cần tổ chức cho giáo viên chủ nhiệm ghi
lại những đặc điểm nổi bật của lớp, danh sách những học sinh chưa ngoan (ở khối
10 và 11) để làm cơ sở cho việc giáo dục của giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ
môn trong năm học mới tiếp theo.
II. Khảo sát mức độ cần thiết và khả thi của các giải pháp
1. Mục đích khảo nghiệm
Tác giả đề tài tiến hành khảo nghiệm nhằm mục đích khẳng định tính cần
thiết và tính khả thi của các biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường trung
học phổ thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
2. Nội dung khảo nghiệm
Khảo nghiệm về mức độ cần thiết và tính khả thi của các biện pháp giáo dục
đạo đức cho học sinh ở trường trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai mà

đề tài đã đề xuất.
3. Phương pháp khảo nghiệm
Bản thân sử dụng bảng hỏi, kết hợp trò chuyện với các chuyên gia giáo dục,
cán bộ quản lý ở các cơ sở giáo dục, giáo viên chủ nhiệm và những giáo viên trực
tiếp tham gia làm công tác giáo dục đạo đức cho học sinh nhằm thu thập thông tin
về đánh giá của họ đối với công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay.
25

×