Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

đề cương tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.92 KB, 25 trang )

Câu 1: Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước
Kế thừa truyền thống HCM thấy: Cn yêu nước là dòng chảy xuyên suốt của lịch sử VN
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của mọi dân tộc, đặc biệt với những dân
tộc đang mất độc lập, mất tự do…
Ở đâu có áp bức, bốc lột ở đó có đấu tranh
Do kinh tế ở các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam còn lạc hậu, sự phân hóa giai cấp của nó
còn chưa diễn ra gay gắt. Hơn thế nữa có sự tương đồng lớn là nỗi nhục chung của người dân
mất nước, HCM đã nhận thấy sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc
địa càng nặng nề, thí phản ứng của các dân tộc bị áp bức càng quyết liệt. Không chỉ quần chúng
lao động (công nhân và nông dân), mà cả các giai cấp và tầng lớp trong xã hội đều phải chịu nỗi
nhục của người dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập, tư do.
Tin tưởng vào con đường cách mạng vô sản, tin và đi theo quốc tế thứ 3. Vì vậy nên HCM đã
kiến nghị về cương lĩnh hoạt động của quốc tế công sản là: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ
nhân dnh quốc tế cộng sản…Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi…nhất định chủ nghĩa dân
tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.
HCM thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với tư cách là chủ nghĩa yêu nước chân chính của
các dân tộc thuộc địa. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào.
Theo HCM, “ Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta đã mấy năm trướng chịu
đựng tram đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian
phản quốc, kiên quyết xây dựng một nước VN độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường,
một nước VN dân chủ mới”
Tuy nhiên chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng HCM gắn liền với tinh thần quốc tế trong
sáng(79SBT), đối lập với chủ nghĩa dân tộc vị kỷ hẹp hòi, HCM đã đánh giá cao sức mạnh của
chủ nghĩ dân tộc mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, và Người cho đó là “ một
chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”
Tư tưởng đặc sắc của Hồ Chí Minh về “chủ nghĩa dân tộc” của Người đối với nhân dân Việt
Nam; về mối quan hệ khăng khít giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng vô sản
nói chung và cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam nói riêng; về khả năng, điều kiện và kết quả
của sự chuyển hoá từ chủ nghĩa dân tộc thành chủ nghĩa quốc tế… là những nội dung chính của
bài viết. Từ đó, bài viết khẳng định rằng, giá trị thời đại của những tư tưởng ấy vẫn luôn sáng
ngời và có tầm chỉ đạo chiến lược sống còn đối với tiến trình hiện tại của cách mạng Việt Nam.


Ra đi tìm đường cứu nước từ năm 1911, Nguyễn Tất Thành bôn ba hải ngoại và hoạt động cách
mạng dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc. Trở về nước năm 1941, Người đã trực tiếp lãnh đạo Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công và trở thành Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà. Đầu năm 1946, Người bày tỏ tâm tư của mình: "Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Năm 1969, 50 ngày trước lúc đi
xa, khi trả lời nữ phóng viên báo Granma (Cuba) - đồng chí Mácta Rôhát, Người đã nói: "Tôi
hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi". Có thể nói, động lực làm nên chí khí và sự nghiệp Hồ Chí Minh
chính là điều mà Người gọi là chủ nghĩa dân tộc. Đây là tư tưởng nền tảng và nhất quán trong hệ
tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh. Bởi vậy, trên thế giới vẫn còn có nghi vấn rằng, Hồ Chí
Minh là “một nhà dân tộc chủ nghĩa hay người cộng sản”? Đối với dân tộc Việt Nam và những
người tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh là một người cộng sản. Việc tìm hiểu người cộng sản
Hồ Chí Minh đã quan niệm như thế nào về chủ nghĩa dân tộc là một vấn đề quan trọng. Bởi lẽ,
có hiểu được đúng đắn quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa dân tộc thì mới có thể hiểu
được đầy đủ sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, để thấy được đóng góp to lớn của Người vào kho tàng lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Ai đã từng đọc Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) thì đều nhớ rằng, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã kết thúc tác phẩm nổi tiếng này bằng khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”. Trong
khẩu hiệu này, C.Mác nhấn mạnh đến yếu tố giai cấp trong sự đoàn kết quốc tế. 72 năm sau
(1920), V.I.Lênin đã bổ sung, phát triển thêm khẩu hiệu chiến lược này bằng yếu tố dân tộc như
sau: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đoàn kết lại”. Như vậy,
V.I.Lênin là người đã bảo vệ, kế thừa và phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác trong thời
đại mới - thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản. V.I.Lênin cũng chính là người đã đề
ra học thuyết cách mạng không ngừng đối với các nước thuộc địa, nửa thuộc địa và phụ thuộc;
vạch ra cho họ con đường tự giải phóng mình. Với phương Đông và châu Á, V.I.Lênin còn là tác
giả của học thuyết “châu Á thức tỉnh”, mở rộng là phương Đông thức tỉnh. Chính Nguyễn Ái
Quốc đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin mà tìm ra con đường giải phóng, con
đường cứu nước cho dân tộc mình.
Năm 1924, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam đang

đấu tranh giải phóng dân tộc hồi đầu thế kỷ XX, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ
gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là
động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho
những người culi biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp
dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh
tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những
nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917”. Tiếp
đó, Nguyễn Ái Quốc đã có những phân tích sâu sắc về sự biến đổi và phát triển của chủ nghĩa
dân tộc dưới tác động của chiến tranh như sau:
1. Chủ nghĩa dân tộc đã hiện đại hoá và người chỉ đạo chủ nghĩa dân tộc chính là giới thanh niên
An Nam.
2. Chủ nghĩa dân tộc ngày càng ăn sâu vào quần chúng.
3. Trong chủ nghĩa dân tộc có cả lòng căm ghét bọn xâm lược Trung Quốc và người Ấn Độ sinh
cơ lập nghiệp trên đất nước này.
4. Chủ nghĩa dân tộc có xu huớng hợp pháp hóa các hình thức biểu hiện và yêu sách của nó; và
lớp thanh niên ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn, có ý nghĩa hơn những lớp người già đi
trước.
Trong khoảng hơn một trang in (tiếng Việt), đã có ít nhất 16 lần Nguyễn Ái Quốc dùng tới thuật
ngữ “chủ nghĩa dân tộc”. Nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của chủ nghĩa dân tộc trong
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam khi đó, trong phần cương lĩnh và phương
hướng hành động chung, Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ của Nguyễn Ái Quốc đề nghị
“phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản… Giờ đây, người ta sẽ không
thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời
sống xã hội của họ”.
Ở Việt Nam khi đó, một phương hướng, nhiệm vụ như vậy là đúng đắn và phù hợp với lôgíc.
Bởi khi đó, ở phương Đông, Đông Dương và cụ thể là, ở Việt Nam, “cuộc đấu tranh giai cấp
không diễn ra như ở phương Tây”; người lao động, nhân dân bị áp bức tuyệt đại đa số là nông
dân; trí thức có vai trò đặc biệt quan trọng, ý thức dân tộc của họ rõ ràng mạnh hơn ý thức giai
cấp (vì ngay giai cấp công nhân Việt Nam trước năm 1924 cũng vẫn còn là giai cấp “tự phát”).
Cho nên, trong khi tuyên truyền giác ngộ ý thức giai cấp cho họ, thì đồng thời cũng phải “phát

động chủ nghĩa dân tộc” của họ, bởi vấn đề độc lập dân tộc là vấn đề chủ yếu, nổi lên hàng đầu ở
một nước thuộc địa, nửa phong kiến như Việt Nam thời thuộc Pháp. Chủ nghĩa dân tộc được
phát động như vậy sẽ là một trong những tiền đề, điều kiện vô cùng quan trọng cho một cuộc
khởi nghĩa vũ trang thắng lợi ở Đông Dương. Trong phần kết luận của mình, Báo cáo về Bắc Kỳ,
Trung Kỳ và Nam Kỳ đề cập tới “khả năng khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương”. Theo Nguyễn
Ái Quốc, yếu tố đầu tiên quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa đó là nó phải được sự ủng hộ
và tham gia của toàn thể nhân dân. Người viết: “Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ
trang ở Đông Dương: 1 - Phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một
cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng, nổ ra trong thành phố,
theo kiểu các cuộc cách mạng ở châu Âu, chứ không phải nổ ra đột ngột ở biên giới Trung Quốc,
theo phương pháp của những nhà cách mạng trước đây…”.
Ở đây, cần nhấn mạnh rằng, trong khi nêu cao vấn đề dân tộc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
không bao giờ hạ thấp hoặc coi thường vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhiều nhà nghiên
cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đều có chung nhận định rằng: “Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng
đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội
trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam”.
Theo Hồ Chí Minh, đối với Việt Nam, không thể giải quyết vấn đề giai cấp trước rồi mới giải
quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phát triển phương Tây. Mà ngược lại, chỉ có giải
phóng dân tộc thì mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải
phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp”. Sở dĩ như vậy là vì, “ở Việt Nam, cùng
với sự tồn tại của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp trong nội bộ dân tộc, nổi lên mâu
thuẫn dân tộc và đấu tranh giữa toàn dân tộc với chủ nghĩa thực dân đế quốc và bè lũ tay sai”.
Nói tóm lại, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh,
điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam để đề ra con đường cách mạng đầy sáng tạo của Việt Nam
là: “giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp), giải phóng con người với khẩu hiệu: “Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”.
Như vậy, vấn đề “chủ nghĩa dân tộc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là khá rõ ràng. Đối với
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản
thống nhất với nhau. Hơn thế, trong những điều kiện nhất định, chủ nghĩa dân tộc có thể phát
triển thành chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Nguyễn

Ái Quốc cho rằng, “khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi, thì đã lâu lắm rồi, phần lớn thế giới
sẽ xôviết hoá và lúc đó, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”. Bởi
vậy, “chủ nghĩa dân tộc theo Hồ Chí Minh, hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong
kiến, tư sản hay của Quốc tế II, (càng không phải là chủ nghĩa dân tộc cải lương), mà là chủ
nghĩa dân tộc chân chính, theo lập trường chủ nghĩa Mác – Lênin, gắn dân tộc với quốc tế, dân
tộc với giai cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con
người”. Như vậy, chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh dùng ở đây, nói như C.Mác, không phải
như giai cấp tư sản đã hiểu, mà là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của người
dân bản xứ.
Học thuyết về đấu tranh giai cấp là một nội dung quan trọng trong chủ nghĩa Mác. Khi vận dụng
học thuyết này vào Việt Nam, bằng sự hiểu biết và suy tư sâu sắc về thực tiễn phương Đông và
thực tiễn Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định suy nghĩ riêng của mình về vấn đề đấu tranh
giai cấp ở phương Đông. Ngay ở dòng đầu tiên của Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ,
Nguyễn Ái Quốc đã trình bày ngắn gọn và dứt khoát ý kiến cho rằng, ở phương Đông và ở Việt
Nam, “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như phương Tây” (phương Tây diễn ra quyết
liệt và đẫm máu hơn). Bởi vì, ở phương Tây, có đấu tranh giai cấp vì có xung đột về quyền lợi
giữa các giai cấp, nhưng ở phương Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng, theo Nguyễn Ái
Quốc, “sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu”. Vì sao giảm thiểu, Nguyễn Ái Quốc
đã phân tích rất cụ thể và thuyết phục như sau: ở Việt Nam, “nếu nông dân gần như chẳng có gì
thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn; nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì
đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao
nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc”. Để làm rõ quan điểm này,
Nguyễn Ái Quốc đã so sánh đặc điểm trên ở phương Đông với tình hình ở phương Tây, từ đó,
dựa trên một chuẩn chung theo học thuyết của Mác về giai cấp để nhìn nhận mức độ đấu tranh
giai cấp ở phương Đông. Nguyễn Ái Quốc đã phác họa ra kẻ bóc lột ở phương Đông là “những
kẻ mà ở đó được coi là địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ
ở châu Âu và châu Mỹ” và “những tên trọc phú ở đó thì ở đây chỉ là những kẻ thực lợi khá giả
thôi”.
Như vậy, khi tiếp thu học thuyết Mác về đấu tranh giai cấp, Nguyễn Ái Quốc cũng thừa nhận đấu
tranh giai cấp là một động lực trong xã hội có giai cấp, nhưng Người không cho đó là động lực

duy nhất. Xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, mất nước với nhiệm vụ cứu
nước giành độc lập dân tộc đang đặt lên hàng đầu, thì “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của
đất nước”. Bởi vì, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã
được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu
tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Hơn nữa, ở một nước thuộc địa nửa phong kiến,
nông nghiệp lạc hậu, sự phân hoá giai cấp đã bắt đầu nhưng chưa triệt để và sâu sắc, xung đột
giai cấp chưa gay gắt và mạnh mẽ, cả dân tộc đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giành độc
lập, tự do, thì chủ nghĩa dân tộc là động lực vĩ đại.
Xuất phát từ nhận thức chủ nghĩa dân tộc của người bản xứ là chủ nghĩa dân tộc chân chính, như
Ph.Ăngghen đã từng nói: “Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao
giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính”, Nguyễn Ái Quốc đi tới một kiến nghị có tính
cương lĩnh hành động đối với Quốc tế cộng sản và những nguời cộng sản là phải biết chủ động
nắm lấy, phát huy và “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản”. Làm
được điều đó, những người cộng sản sẽ thực hiện được “một chính sách mang tính hiện thực
tuyệt vời”; và ngược lại, nếu không làm được điều đó, “người ta sẽ không thể làm gì được cho
người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”.
Và, “khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi… nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ
nghĩa quốc tế”. Đề nghị này mới nghe qua có vẻ như một nghịch lý, nhất là vào thời điểm những
năm 20, khi Quốc tế cộng sản đang có xu hướng bị “xơ cứng hoá” về mặt lý luận. Nhưng thực ra,
nó lại rất hợp lý. Theo Nguyễn Ái Quốc, đó là “một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”,
bởi nếu nhân danh Quốc tế Cộng sản mà phát động thì sẽ không phải là chủ nghĩa dân tộc thuần
túy, mà sẽ là chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế. Về vấn đề này, khi kết thúc Báo
cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Sự nghiệp của người bản xứ
gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút
ít thắng lợi trong một nước nào đó, nhất là trong một quốc gia đế quốc chủ nghĩa (…) thì đó càng
là thắng lợi cả cho người An Nam” .
Qua nội dung trình bày trên, có thể thấy rằng, khi xác định con đường cách mạng Việt Nam là đi
theo cách mạng vô sản, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã nhận thức một
cách đúng đắn và giải quyết sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng dân
tộc dân chủ ở Việt Nam. Đây chính là một trong những cơ sở cho thắng lợi của cách mạng Việt

Nam. Lịch sử dân tộc ta đã cho thấy, có nơi, có lúc, do không nắm vững, không xử lý tốt vấn đề
mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp nên đã có những sai lầm trong vấn đề tập hợp lực lượng,
gây tổn thất cho cách mạng.
Về chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Charles Fourniau - nhà sử học người Pháp đã
viết như sau: “vấn đề duy nhất đặt ra là cần hiểu rõ tại sao và thế nào mà một người dân thuộc
địa tất nhiên phải đi theo chủ nghĩa dân tộc? (làm sao lại không như thế được trước những sát
hạch của chủ nghĩa thực dân?) và tại sao lại tìm được chủ nghĩa cộng sản như là con đường duy
nhất để thực hiện độc lập cho Tổ quốc mình?”. Ông đã tự trả lời rằng: “Việc áp dụng một cách
độc đáo chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, chắc chắn đó là một trong những
nguyên nhân thắng lợi của Việt Nam, thể hiện một cách chính xác sự thống nhất đã đạt được của
truyền thống dân tộc và của cuộc cách mạng sâu xa mà việc áp dụng chủ nghĩa Mác đòi hỏi,
cũng là sự thống nhất một cuộc cách mạng dân tộc với phong trào cộng sản quốc tế, đó là những
dấu ấn riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên phong trào cách mạng Việt Nam”. Những ý kiến của
nhà sử học nước ngoài này đã góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
dân tộc.
Những luận điểm về chủ nghĩa dân tộc của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là một phát hiện
quan trọng và đặc sắc. Chúng không chỉ hoàn toàn đúng với hơn 80 năm qua của cách mạng Việt
Nam, mà còn có tầm chỉ đạo chiến lược sống còn đối với tiến trình phát triển của cách mạng Việt
Nam hiện nay. Trước những biến động mới và phức tạp của thế giới ngày nay, khi mà nhiều luận
đề cũ tưởng như là chân lý bất di bất dịch đã trở nên lạc hậu và cản trở sự phát triển, thì những
luận điểm trên của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cách đây 84 năm vẫn cần phải được tiếp tục
nghiên cứu một cách nghiêm túc và đầy đủ hơn./.
Ý nghĩa:
Đảng và nhà nước phải phát huy và khơi dậy tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc của toàn thể
dân tộc ta: phân tích để
+ Phát triển đất nước về mọi mặt: kinh tế…, để nước ta sánh với cường quốc năm châu: Thu
tuong Phan Van Khai cho rang, de phat trien kinh te manh me hon nua can phai khoi day va phat
huy tinh than yeu nuoc, y chi kinh doanh, giai phong cac luc luong san xuat, phat huy suc manh
toan dan, tri tue va tinh than nhan dan. Thu tuong nhan manh, thanh cong nhieu hay it trong su nghiep
doi moi va phat trien dat nuoc tuy thuoc vao muc do giai phong nguon suc manh vo tan nay.

Voi nhan thuc nay, nha nuoc ta dang no luc doi moi the che kinh te xa hoi, cai cach thu tuc hanh chinh
theo huong tao dieu kien thuan loi hon nua cho nhan dan va cho cac nha dau tu phat trien san xuat kinh
doanh, tao dung moi truong phap ly thong thoang thuan loi, doi xu binh dang, bao dam quyen tu do kinh
doanh cua cac nha dau tu, phat huy tinh dan chu, cong khai de khoi day tinh nang dong, sang tao cua dan
va cua doanh nghiep.
+ Bảo vệ chủ quyền độc lập của đất nước, của dân tộc: Trong ngày đầu kháng chiến chống Pháp,
quân ta ít ỏi nhưng lại được người dân ủng hộ. Tôi cho rằng sự ủng hộ của người dân có vai trò quyết
định trong việc bảo vệ chủ quyền đất nước. Bác Hồ đã khơi gợi được tinh thần dân tộc yêu nước, đoàn kết
của mọi tầng lớp nhân dân.
Tinh thần chủ đạo của Bác vẫn là hòa bình, hữu nghị nhưng luôn đề cao cảnh giác. Để thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ chủ quyền đất nước thì luôn luôn cảnh giác, chuẩn bị lực lượng vũ trang. Bác rất chú trọng việc
bồi dưỡng thế hệ trẻ, Bác cho đấy là trách nhiệm lớn của Đảng và cũng là tâm niệm của Người. Đảng phải
làm sao bồi dưỡng thế hệ trẻ tiếp nối cha anh, nâng sự nghiệp cách mạng lên.
Thời kinh tế thị trường, con người dễ chạy theo nhiều mục tiêu phù phiếm, cá nhân khiến lòng tự hào dân
tộc có phần phai nhạt. Đợt học tập Di chúc, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và làm theo lời Bác, một trong
những yêu cầu lớn là để nung nấu lại, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, đề ra trách nhiệm lớn trước mắt cho
thanh niên và các tầng lớp nhân dân.
Câu 2: Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
Phần 2 nhỏ SGK trang 64 (a, b, c, d)
Ý nghĩa:
Quán triệt tư tưởng HCM
Quán triệt trên tinh thần của giai cấp công nhân
Đảng phải đại diện cho quyền lợi của toàn thể dân tộc
Câu3: Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô
sản
Phần 2/ 73 sgk (a, b, c) or 37/ SBT
Câu 4: Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng lãnh đạo
Trong vở + 76 sgk+ tai lieu
• tính tất yếu phải có của Đảng ld( cơ sở hình thành): - Trước năm 1930, phong trào yêu
nước ở Việt Nam nổ ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, do bị khủng hoảng về đường lối cách

mạng. Tình hình đang đặt ra yêu cầu cần phải có đảng của giai cấp tiên tiến nhất với đường lối
đúng đắn để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Từ năm 1919 đến 1929, thông qua hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị các điều kiện về
tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự thành lập Đảng. Nguyễn Ái Quốc đã ra sức tuyên truyền
chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng chính trị. Thành lập Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên để thông qua tổ chức này truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam.
- Những năm 1928-1929, chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá sâu rộng vào Việt Nam, làm
cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Một yêu cầu cấp thiết đặt
ra là phải có đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo. Đáp ứng yêu cầu đó ở Việt Nam lần lượt xuất
hiện ba tổ chức cộng sản. Sự hoạt động riêng rẽ của ba tổ chức cộng sản gây ảnh hưởng không
tốt đến tiến trình cách mạng Việt Nam, cần phải hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành một đảng
duy nhất.
- Trước tình hình đó, được sự ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc về Hương Cảng
(Trung Quốc) chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
(3/2/1930).
vói tinh thần trên HCM đã:
- chuẩn bị xây dựng Đảng về mặt ly luận: Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc
triệu tập các đại biểu cộng sản Việt Nam họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930
[4]
đến ngày 8 tháng 2
năm 1930 tại Hương Cảng, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương (Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng; thành viên từ một nhóm thứ ba tên là Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn không kịp có mặt). Hội nghị hợp nhất này diễn ra tại căn nhà của
một công nhân ở bán đảo Cửu Long (Kowloon) từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 8 tháng 2 năm 1930,
đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ. Tham dự Hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng
(Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng (Nguyễn Thiệu và
Châu Văn Liêm) và 3 đại biểu ở nước ngoài (có Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn,
đại biểu của Quốc tế Cộng sản). Hội nghị quyết định thành lập một tổ chức cộng sản duy nhất,
lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một số văn kiện quan trọng như: Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi. Ngày 24

tháng 2 năm 1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
- xây dựng đảng về mặt tổ chức: Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp Hội nghị
lần thứ nhất tại Hồng Kông từ ngày 14 đến 31 tháng 10 năm 1930, tên của đảng được đổi thành
Đảng Cộng sản Đông Dương theo yêu cầu của Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản) và Trần Phú
được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên.
[5
-
==>
sự ra đời của ĐCSVN 1930
tiếp trong vở: từ trong quá trình…… đến lãnh đạo CMVN
Câu 5: Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc
SGK/ 82, 41/ SBT
Câu 6: Cách mạng giải phóng dân tộc cần phải được tiến hành bằng con đường bạo lực
• CM jai phong dt cần phải được tiến hành = con đường cm bạo lực( SGK 6/88)
- tính tất yếu của CM bạo lực trong CM giải phóng dân tộc( phan tich theo tai lieu)(trong sách)
- tiếp trong vở từ truyền thống đấu tranh…… đến tư tưởng nhân đạo và hòa bình
• phân tích HCM chủ trương bạo lực trong CM giải phóng dân tộc. song người chỉ
sử dụng đấu tranh khởi nghĩa vũ trang như 1 hình thức cuối cùng để giành và giữ chính quyền
khi những hình thức cuối cùng để giành và giữ chính quyền khi những hình thức khác không dạt
đựoc kết quả: Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: " tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh
cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu
tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng".
- Tuy nhiên, việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc khi không còn khả năng hòa
hoãn thì Hồ Chí Minh mới quyết định phát động chiến tranh.
Trong kháng chiến chống Pháp, Người đã bày tỏ quan điểm: " Chúng tôi mong đợi ở Chính phủ
và nhân dân Pháp một cử chỉ mang lại hòa bình. Nếu không, chúng tôi bắt buộc phải chiến đấu
đến cùng để giải phóng hoàn toàn đất nước". Hay trong kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã

nhiều lần gửi thông điệp cho các nhà cầm quyền Mỹ đề nghị đàm phán hòa bình để kết thúc
chiến tranh.
- Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo thống nhất biện chứng với nhau trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Người luôn tranh thủ mọi khả năng hòa bình để giải quyết xung đột, nhưng
một khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải dùng bạo lực cách mạng để bảo vệ độc lập, tự
do.
- tiếp trong vở: tư tưởng bạo lực cue HCM …………đến hàng binh và tù binh: ( ptích điều
này) : Sau chiến thắng Biên giới – 1950, số tù binh rất đông, có nhiều người bị thương rất nặng.
Đó là một gánh nặng quá lớn với ngành hậu cần. Bác đã chỉ thị phải cứu chữa tận tình cho
thương binh địch, không được để tù binh thiếu ăn trong lúc thuốc men lương thực ta không hề dư
dật. Bác chỉ thị cho Bộ chỉ huy chiến dịch thông báo cho phía Pháp rằng tựa sẽ trao trả tất cả số
tù binh bị thương tại Thất Khê.
và những việc làm của HCM đã cảm hóa được binh lính pháp. trong lửa trại theo kiểu Hướng
đạo sinh để bộ đội ta chào mừng chiến thắng giòn giã chiến dịch Biên giới. Trong đêm lửa trại,
hầu hết thương binh địch đều có mặt, kể cả thương binh nặng nằm trong lều nghe tiếng hát, tiếng
đàn, tiếng vỗ tay vọng vào cũng xin các anh chị hộ lý khiêng cáng ra dự cuộc vui. Quanh đống
lửa hồng bốc cao sáng rực, các chiến sỹ, bác sỹ, hộ lý, dân công hỏa tuyến ta hát vang các bài ca
Cách mạng. Các thương binh địch hát các bài ca quê hương mình bằng tiếng Pháp và các thứ
tiếng Âu, Phi. Một thương binh địch ôm cánh tay cụt đứng dậy nghẹn ngào nói bằng tiếng Pháp:
“Tôi là người Đức bị Pháp bắt làm tù binh rồi ép sang đây làm lính Lê dương. Năm năm rồi tôi
rất khổ mà không thèm khóc. Tối hôm nay tôi khóc vì sung sướng.
Tôi không bao giờ quên được buổi tối hôm nay. Mãi mãi khi nhớ tới buổi lửa trại này tôi sẽ lại
khóc. Cảm ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Những tiếng hô “Vive Ho-Chi-Minh!” lại rộ lên hưởng
ứng câu nói của anh thương binh người Đức.
Hôm sau, trong lúc đang tiến hành trao trả tù binh bị thương cho phía Pháp, một tù binh nằm trên
cáng xin được ở lại đi chuyến sau và xin được gặp người cán bộ quân đội Việt Nam phụ trách
việc trao trả và nói:
“Tôi suốt đời sống cô đơn, xung quanh tôi chỉ là sự lừa gạt. Tôi căm ghét tất cả, kể cả đàn bà
đẹp. Vì thế tôi vào lính Lê dương để bắn giết, để trả thù đời. Đêm hôm qua tôi không ngủ. Tôi
kêu khát năm lần. Cả năm lần cô y tá đều mang nước đến cho tôi với vẻ mặt dịu hiền.

Tôi hỏi cô vì sao cô không căm ghét tôi? Cô trả lời: “Nếu gặp anh ngoài mặt trận, tôi sẽ bắn anh
như bắn một con chó dại. Nhưng ở đây, anh là kẻ bại trận, anh đã bị thương, chúng tôi đối xử với
anh như những con người”.
Tôi chỉ còn sống ít ngày nữa, nhưng thời gian ngắn ngủi đó là quãng đời đẹp nhất của tôi. Quân
đội ông sẽ thắng quân đội Pháp. Ông hãy tự hào. Xin ông nhận lấy lời chúc mừng đầy kính trọng
của một kẻ bại trận, bại trận mà sung sướng! Vĩnh biệt ông”.
Ý nghĩa: trong vở
Câu 7: Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
trong thời kỳ quá độ
115 SGk or 62, 66, 69 SBT , trong vo
Câu 8: Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, có ý nghĩa quyết định đối với
thành công của Cách mạng
TL: Chiến lược là gì?Chiến lược cần thiết không chỉ với những kẻ có tham vọng là ngườichiến
thắng cuối cùng, hay là những kẻ mạnh, mà cần thiết với bất cứai. Đặc biệt, nếu bạn đang là một
hạt cát trong trận chiến nhưng lại muốn tồn tại và phát triển lớn mạnh thì càng không thể thiếu
một chiến lược.
Là phương cách để chiến thắng một cuộc chiến tranh, chiến lược cần mô tả được rõ ràng hình
thái và các diễn biến của cuộc chiến, những bên tham gia, tương quan lực lượng, các nguồn lực
và vị trí trọng điểm cần chiếm giữ. Chiến lược cũng phải vạch ra những phương hướng, những
bước đi và các chiến thuật cần thiết để giành ưu thế và thắng lợi trong các trận đánh. Chiến lược
cũng phải vạch ra cách phòng thủ, cách chiếm lĩnh và phát triển các nguồn lực cho mình
Cũng chính vì chiến lược quan trọng và bao gồm sự kết hợp nhiều yếu tố nên không thể nào
thiếu được sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc để thực hiện những chiến lược trong suốt cuộc
cách mạng của dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc thể hiện từ rất sớm và nó xuyên suốt quá trình
cách mạng Việt Nam. Trong mỗi giai đoạn khác nhau thì nó có sự điều chịnh phù hợp cho từng
giai đoạn, từng đối tượng nhưng nó luôn được Người nhận thức là vấn đề sống còn, quyết định
thành bại của cách mạng.
Để thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc, trước hết phải có cương lĩnh đúng đắn phù hợp với
thực tiễn của đất nước qua các thời kỳ cách mạng khác nhau. Ngay từ ngày đầu mới thành lập

Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng,
được hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930 thông qua, trong đó đã nêu cao khẩu hiệu “Việt
Nam độc lập”, Việt Nam tự do và chính sách đoàn kết dân tộc rộng rãi, uyển chuyển.
Thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong hơn 75 năm qua trước hết là thắng lợi của Cương lĩnh, chiến lược đường lối cách mạng
khoa học và sáng tạo, là thắng lợi của tư tưởng cách mạng cao cả và vĩ đại của Hồ Chí Minh - tư
tưởng độc lập, tự do.
Khối quần chúng đông đảo chỉ trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến
đấu cao cả, được tổ chức lại thành một khối vững chắc trên cơ sở của Mặt trận dân tộc thống
nhất, được hình thành và phát triển ngày càng hoàn thiện trong tiến trình cách mạng.
Năm 1941, cùng với chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng, Hồ Chí Minh đã quyết định
thành lập Mặt trận Việt Minh giữa lúc nhân dân Việt Nam đang sống quằn quại trong cảnh nước
sôi, lửa nóng, lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, ai cũng muốn độc lập, tự do.
Thành lập Mặt trận Việt Minh là một điển hình sáng tạo của Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn
kết dân tộc đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, một nhà nước của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc.
Tiếp đến trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc 1945 - 1954, mặt trận dân tộc thống nhất tiếp tục
được củng cố và mở rộng. Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam đã ra đời, thực hiện sự đoàn kết
quốc dân để làm cho nước Việt Nam được độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường. Hội ra đời
tạo điều kiện mới để đoàn kết và tranh thủ những ai có thể tranh thủ được nhằm thống nhất lực
lượng quốc gia dân tộc, chống chia rẽ.
Trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, Hồ Chí Minh đã giương cao ngọn cờ “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do” và chiến lược đại đoàn kết dân tộc để đẩy mạnh cuộc cách mạng ở miền
Nam, thống nhất đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra đời, kế tục sự nghiệp đại đoàn kết
dân tộc của Mặt trận Liên Việt.
Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã được thành lập nhằm tạo điều kiện để mở
rộng khối đoàn kết dân tộc dưới ngọn cờ của Mặt trận. Đầu năm 1968, Liên minh các lực lượng
Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình miền Nam Việt Nam ra đời. Đây là một tổ chức thích hợp để thu
hút các tầng lớp trung gian và thượng lưu ở thành thị miền Nam vào khối đại đoàn kết dân tộc
chống Mỹ cứu nước.

Trải qua hơn 20 năm chiến đấu, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thắng lợi hoàn toàn.
Non sông đã thu về một mối. Năm 1976, các tổ chức Mặt trận trong cả nước đã được thống nhất
lại thành một mặt trận chung lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện sứ mạng đại đoàn
kết dân tộc, cùng nhau xây dựng lại đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, làm cho
Việt Nam thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Sau khi cách mạng thành công, nhà nước của dân, do dân tộc và vì dân tộc được thành lập, chiến
lược đại đoàn kết quốc gia dân tộc không chỉ được thực thi bằng cách tập hợp lực lượng quần
chúng rộng rãi, phong phú về nội dung và hình thức tổ chức, mà còn phải liên hiệp quốc dân ở
trong Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan hành chính cao nhất của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Hồ Chí Minh đề
xuất và tổ chức thành công Quốc dân đại hội Tân Trào, lập ra Ủy ban Giải phóng Dân tộc tháng
8 năm 1945 trong đêm trước cuộc Tổng khởi nghĩa, đặc biệt là tổ chức cuộc Tổng tuyển cử toàn
dân vào tháng 1 năm 1946, để bầu ra quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Quốc hội của độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và của đại đoàn kết toàn dân, và Quốc hội đã
lập chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một chính phủ chung của cả dân tộc chứ
không phải là chính phủ riêng của một đảng phái, một giai cấp nào. Đây cũng là một điển hình
thành công sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong tổ chức nhà nước pháp
quyền của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc, là một bài học vô cùng quý báu của việc thực thi
chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực xây dựng, tổ chức nhà nước.
Hồ Chí Minh đã thực thi thắng lợi chiến lược đại đoàn kết dân tộc do Đảng Cộng sản là người
lãnh đạo duy nhất chính vì Người đã thành công trong việc sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản
Việt Nam thành một đảng đạo đức và văn minh, một “Đảng hiện thân cho trí tuệ, danh dự và
lương tâm của dân tộc, một đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động, của dân tộc Việt Nam”.
Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn tiềm ẩn tinh
thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức
mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ
Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích
hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng
cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn

dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị
quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay
Không những khẳng định được vai trò xuyên suốt của đại đoàn kết dân tộc trong tiến trình lịch
sử, Hồ Chí Minh còn đưa ra nhiều luận điểm mang tình chất chân lý về vai trò quyết định của đại
đoàn kết dân tộc trong cách mạng và cũng chính là những bài học quý báu trong suốt quá trình
giữ nước và dựng nước.
Đoàn kết làm ra sức mạnh. Hồ Chí Minh rất nhiều lần nhấn mạnh luận điểm này. Người viết: “
Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc phục
mọi khó khan, phát triển mọi thuận lợi và làm trọn nhiệm vụ nhân dân giao phó”; “ Đoàn kết là
một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khan, giành lấy thắng lợi”; “ Đoàn kết là
sức mạnh, là then chốt của thành công”…
“ Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra
con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết”
Cho đến ngày hôm nay những câu nói của Người vẫn là những chân lý mà trong mỗi kỳ họp
quan trọng, hay các ngày lễ kỉ niệm của đất nước các vị lãnh đạo vẫn nêu cao. Hay trong mỗi tổ
chức, mỗi hoạt động vẫn luôn tồn tại chân lý này:
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công.”
Câu 9: Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu
Câu 10: Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Câu 11: Xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động (105/SBT)
(trong vo)
Câu 12: Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc
của nhà nước ( 215/SGK or 107/ SBT)
Câu 13: Xây dựng nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ (108/SBT)
Câu 14: Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu qủa (111/SBT)
Câu 15: Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đủ tài, đủ đức
Câu 11: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức Cách mạng
TL: 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức Cách Mạng

- Vị trí vai trò của đạo đức Cách Mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của Cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn
của sông suối. Quan điểm “đức là gốc” của con người đã xuất hiện từ xa xưa trong học thuyết
“đức trị” của Nho giáo. Rõ ràng, quan điểm “đức là gốc” của Nho giáo chứa đựng những yếu tố
hợp lý nhất định, nhưng vấn đề ở đây là “đức” mà Nho giáo nói đến lại là những chuẩn mực đạo
đức phong kiến trói buộc con người vào những lễ giáo hủ bại, phục vụ cho chế độ đẳng cấp, tôn
ti trật tự hết sức hà khắc của giai cấp phong kiến. “Đức là gốc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
đạo đức mới – đạo đức cách mạng mang bản chất giai cấp công nhân, kết hợp truyền thống đạo
đức tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa của đạo đức nhân loại. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là
“gốc”, là nền tảng của người cách mạng. Người viết: “ Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn
giải phóng cho dân tộc, cho loài người là một công việc to tát mà tự mình không có đạo đức,
không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì. Đạo đức là gốc, là nền tảng
của Cách Mạng vì liên quan tới Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh trăn trở với nguy cơ của Đảng
cầm quyền, đó là sự sai lầm về đường lối và suy thoái về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên. Đảng cầm quyền lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo Nhà nước, nếu cán bộ, đảng viên của Đảng
không tu dưỡng về đạo đức cách mạng thì mặt trái của quyền lức có thể làm tha hóa con người.
Đạo đức là sức mạnh để giúp người cách mạng vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Người có đạo
đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại tạm thời cũng không rụt dè lùi bước, khi
gặp thuận lợi và thành công, vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, khiêm tốn, chất phác, không công
thần, địa vị, kèn cựa hưởng thụ, thật sự trở thành người “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, sẽ
vững tin vào Cách mạng khi Cách mạng lâm vào giai đoạn thoái trào, khi thành công cũng như
khi bước vào khúc quanh bước ngoặt.
Đạo đức Cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người. Theo quan điểm của Hồ Chí
Minh, mỗi người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ,
nhưng ai giữ được đạo đức Cách mạng đều là người cao thượng. Đạo đức Cách mạng là nhân tố
tạo nên sự hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội hấp dẫn trái tim nhân loại bởi những
giá trị đạo đức mà chủ nghĩa xã hội theo đuổi và ở phẩm chất cao đẹp của những người cộng sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một tấm gương đạo đức hết sức cao đẹp không những chỉ đối với

nhân dân Việt Nam chúng ta, mà còn đối với toàn thể nhân loại tiến bộ trên thế giới.
Tuy Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức là cái gốc, nhưng Người luôn gắn liền đạo đức với cái tài,
thể hiện qua hành động: gắn đạo đức đời thường với đạo đức Cách mạng, đặc biệt trong haòn
cảnh điều kiện đặc biệt của thời đại mới, đạo đức Cách mạng của Hồ Chí Minh đề cập đứng trên
lập trường của giai cấp Nhà nước nhân dân lao động. hồ Chí Minh từng nói: “ Người có tài mà
không có đức là người vô dụng. Người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”. Bởi người
nào có đức mà không có tài thì chẳng khác gì ông bụt ngồi trong chùa, không làm hại ai, nhưng
cũng chẳng ích gì, còn nếu có tài mà không có đức thì chỉ có hại cho dân cho nước còn sự nghiệp
bản thân thì sớm muộn cũng đổ vỡ. Hồ Chí Minh yêu cầu: tài lớn thì đức càng phải cao. Vì khi
đã có cái trí thì cái đức chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà
mình đã giác ngộ, đã chấp nhận và lựa chọn tin theo.
Sự thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức Cách mạng:
Gắn liền với chính trị, thể hiện qua việc đưa ra những khái niệm trung, hếu, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư. “ Trung” và” hiếu” vốn là những khái niệm đạo đức cũ chứa đựng nội
dung hạn hẹp:” Trung với vua, hiếu với cha mẹ”., phản ánh bổn phận, trách nhiệm của dân đối
với vua, của con đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đưa vào khái niệm cũa một nội dung mới, mang
tính cách mạng, đó là: trung với nước, hiếu với dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu. Từ chỗ trung với vua, hiếu với cha mẹ đến trung với nước, hiếu với dân là một
cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức. Hồ Chí Minh đã lật ngược quan niệm đạo dức cũ,
đạo đức Nho giáo, xay6 dựng đạo đức mới như “ người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu
ngửng lên trời”. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nước là của dân và dân là chủ của nước. Vì
vậy, trung với nước, hiếu với dân là thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước và giữ nước,
với con đường đi lên và phát triển của đất nước.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức cũ, được Hồ Chí Minh tiếp
thu, chọn lọc , đưa vào những yêu cầu và nội dung mới. Người chỉ ra rằng: phong kiến nêu ra
cần, kiệm, liêm, chính nhưng không thcự hiện; ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán
bộ thực hiện làm gương cho nhân dân. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một biểu hiện
sinh động của phẩm chất “ trung với nước, hiếu với dân.”Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố
gắng, dẻo dai. Kiệm là tiết kiệm vật tư, tiền bạc, của cải, thời gian, không xa xỉ, không hoang
phí. Liêm là trong sạch, không tham lam tiền của, địa vị, danh tiếng. Chính là không tà, là thẳng

thắn, đứng đắn. Các đức tính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cần, kiệm, liêm, chính càng cần
thiết đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì, nếu cán bộ, đảng viên mắc sai lầm, khuyết điểm thì sẽ ảnh
hưởng đ6én nhiệm vụ chung của Cách mạng, ảnh hưởng đếnh uy tín của đảng. mặt khác, “
những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm,
liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”. Cần, kiệm, liêm, chính còn là
thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh tiến bộ của mọi dân tộc.
Cần, kiệm, liê7m chính là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua yêu nước , là cái cần
để: “ làm việc, làm người, làm người cán bộ, để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân
dân, phụng sự tổ quốc và nhân loại.”
Gắn liền với tài năng( như đã phân tích ở trên phần đức và tài).
Thống nhất với hành động. Nếu nghĩ mà không làm thì khôing làm được gì cả. Đạo đức là đạo
đức dấn thân thể hiện qua hành động. Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng tuyệt vời về nói đi
đôi với làm. Người quan tâm đặc biệt hàng đầu tới vấn đề đạo đức đạo đức không phải chỉ để
dừng lại ở những bài nói, nhhững bài viết mà quan trọng hơn là Người thực hiện trước hết, nhiều
nhất những tư tưởng ấy. Ngay trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản, bàn về tư cách
một người cách mện, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “ nói là phải làm”. Người còn làm nhiều hơn
những điều người nói. Mỗi việc làm, mỗi hành vi của Người đều tiềm ẩn những tư tưởng đạo
đức sáng ngời.
Thống nhất với hoạt động đời thường. Muốn làm việc lớn thì phải làm được việc nhỏ. Vì việc
nhỏ làm không xong thì làm sao làm được chuyện đại sự. Cho nên người có đạo đức cách mạng
là người phaỉ sống tốt trong cuộc sống đời thường. Phải biết giữ những giá trị đạo đức thông
thường như hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương con cái, sống chan hòa, tốt đẹp với mọi người
xung quanh mình, kính trọng người già, yêu quý trẻ nhỏ…
Đạo đức phải thể hiện ở số đông người:
Nói đến mọi lực lượng:
Đạo đức của học sinh- sinh viên: Bác cho rằng nhiệm vụ chính của thanh niên là học:
Bác đặt vấn đề rõ ràng để giúp thầy giáo và sinh viên nghiên cứu: “Phải hiểu rõ học thế nào”
Học cái gì? Học để làm gì?”. Tại Đại hội sinh viên lần thứ hai, ngày 7.5.1958, một lần nữa Bác
nhắc lại và nhấn mạnh: “Đối với thanh niên trí thức như các cháu ở đây thì cần đặt hai câu hỏi:
Học để làm gì? Học để phục vụ ai? Đó là hai câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát thì mới có

phương hướng”. Bác chỉ rõ: “Dưới chế độ thực dân, phong kiến, mục đích đi học là cốt được
mảnh bằng để làm ông thông, ông phán, lĩnh lương nhiều, ăn ngon, mặc đẹp. Thế thôi. Số phận
dân tộc thế nào, tình hình thế giới biến đổi thế nào, không hay, không biết gì hết. Mục đích giáo
dục nô lệ hầu hạ chúng. Ngày nay ta đã được độc lập, tự do, thanh niên mới thật là người chủ
tương lai của nước nhà. Muốn xứng đáng vai trò là người chủ thì phải học tập. Học bây giờ với
học dưới chế độ thực dân, phong kiến khác nhau”, “Học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hoá,
khoa học kỹ thuật và quân sự” và “Học để phụng dự ai? Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân
dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, tức là để làm tròn nhiệm vụ người chủ của nước nhà”.
Đạo đức của thiếu niên- nhi đồng: thể hiện qua 5 đều Bác Hồ dạy: yêu tổ quốc, yêu đồng bào;
học tập tốt- lao động tốt; đoàn kết tốt- kỉ luật tốt; giữ gìn vệ sinh thật tốt; khiêm tốn, thật thà-
dũng cảm.
Đạo đức của bộ đội- chiến sĩ: thể hiện qua 6 điều Bác dạy chiến sĩ công an nhân dân:
Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính
Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành
Đối với nhân dân, phải kính trọng lễ phép
Đối với công việc, phải tận tụy
Dối với địch, phải cương quyết khôn khéo
Đạo đức của nhà báo: Bác Hồ cho rằng: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút,
trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”. Nhiều lần, Người nhấn mạnh ý tưởng này: “Cây bút là vũ
khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng động viên quần chúng đoàn kết, đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân cũ và mới ”, “Ngòi bút là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà ”.
Bác Hồ mong muốn báo chí ta phải luôn luôn “gần gũi quần chúng”. Nhà báo suốt đời tâm niệm:
“Vì ai mình viết? Viết cho ai, viết để làm gì?”. Văn phong báo chí phải “giản đơn, dễ hiểu, phổ
thông, hoạt bát ”. Yêu cầu ấy tuyệt nhiên không bao hàm ý thông tục. Bác Hồ căn dặn các nhà
báo cố gắng “viết cho văn chương, cho người đọc thấy hay, thấy văn chương mới thích đọc ”.
Nói đến nhiều phạm vi:
Trong gia đình, cha mẹ phải nuôi dạy con cái chu đáo, làm tấm gương sáng cho con cái noi theo,
con cái phải ngoan ngoàn vâng lời cha mẽ, không được ngang bướng, lúc nào cũng cãi lời cha
mẹ.

Đối với nhà trường, nhà trường phải kết hợp chặt chẽ với gia đình trong việc nuôi dạy con cái.
Giáo viên cần quan tâm sâu sát đến học trò, vì nhà trường là gia đình thứ hai của các em, và thầy
cô cũng như là những người cha, người mẹ thứ hai của các em.
Đối với dân tộc, các tổ chức đoàn thể: phải góp phần giáo dục cho các thanh thiếu niên bước vào
đời. Phải hỗ trợ nhiệt tình cho sự nghiệp xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Trong lĩnh vực:
Trong học tập: Bác rất coi trọng việc học. Bác từng nói: “Non sông Việt Nam có trở lên tươi đẹp
hay không , dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cuơng quốc năm
châu được hay không, chính nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Vì vậy, hyọc sinh-
sinh viên cần tích cực trau dồi kiến thức, học đi đôi với hành,thì sau này mới góp công góp sức
xây dựng đất nước được.
Trong sản xuất: Về vai trò, nhiệm vụ của giới doanh nhân trong các giai tầng xã hội ở Việt Nam,
Bác viết: “Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn
độc lập của nước nhà thì giới công thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài
chính vững vàng và thịnh vượng”. Như vậy, Bác đã xác định rõ nhiệm vụ xây dựng kinh tế là
nhiệm vụ của doanh nghiệp, doanh nhân. Bác luôn căn dặn các doanh nhân phải đoàn kết: đoàn
kết nội bộ, đoàn kết trên dưới, đoàn kết giữa cán bộ công nhân và đồng bào địa phương; Phải
chăm lo đào tạo nguồn nhân lực, phải xây dựng văn hóa doanh nghiệp, nâng cao đời sống vật
chất tinh thần của cán bộ công nhân viên, đặc biệt, phải chăm lo đến cán bộ và công nhân nữ
Phải phát huy sáng kiến và cải tiến kĩ thuật, tăng cường kỉ luật lao động, phải nâng cao năng suất
và thực hành tiết kiệm. Bác dặn phải dân chủ, phải công khai, phải xây dựng và phát huy tốt vai
trò của các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp. Bác phê phán bệnh hội họp quá nhiều cũng như
xu hướng chạy theo số lượng trong sản xuất, ít chú trọng chất lượng. Bác dặn sản xuất phải
“nhanh, nhiều, tốt, rẻ”, người sản xuất phải thực thà, sản xuất hàng hóa tốt cho đồng bào dùng,
không nên trưng bày hàng tốt mà bán hàng xấu. Bác yêu cầu phải đẩy mạnh phong trào thi đua
trong các doanh nghiệp, thường xuyên tổng kết những kinh nghiệm tốt, những điển hình hay để
nhân rộng trong cả nước. Bác thường xuyên nhắc nhở phải nhìn ra nước ngoài để học tập kinh
nghiệm của các nước tiên tiến trong quản lý sản xuất
Trong chiến đấu: phải tích cực, hết mình. “ Quân đội ta trung với đảng, hiếu với dân, sẵn sàng

chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng chiến thắng.”
Trong nhiều mối quan hệ:
Đối với bản thân: cần, kiệm, liêm , chính.
Đối với người thân, đồng chí, đồng bào: phải sống chan hòa, chung thủy, hết lòng vì đồng bào,
đồng chí, nhân dân.
Đối với kẻ thù: Bác lấy lòng khoan dung để đối với kẻ thù.Đối với những tù binh ăn năn hối cải,
Bác sẵn sàng trả tự do cho họ về nước. Bác chỉ sử dụng bao5 lực trong trường hợp cần thiết để
bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước.
Đối với công việc: phải hết lòng, siêng năng chăm chỉ hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Câu 12: Những phẩm chất của đạo đức:
TL: Vị trí và vai trò đạo đức trong tư tưởng HCM
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái
gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Đạo đức là sức mạnh để giúp con người vượt qua khó khăn thử thách. Người quan niệm đạo đức
tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc
thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Người có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian
khổ, thất bại tạm thời cũng không rụt dè lùi bước, khi gặp thuận lợi và thành công, vẫn giữ
vững tinh thần gian khổ, khiêm tốn, chất phác, không công thần, địa vị, kèn cựa hưởng thụ, thật
sự trở thành người “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Là thước đo lòng cao thượng của con người, là nhân tố tạo nên sự hấp dẫn của CNXH. Hồ Chí
Minh cho rằng: Đạo đức là mẫu số chung, là thước đo lòng cao thượng của mỗi con người:
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt động cách mạng,
mỗi người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng
bất cứ ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
Đạo đức gắn liền với cái tài. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là

tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng
nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài
phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Bởi người nào có đức mà không có tài
thì chẳng khác gì ông bụt ngồi trong chùa, không làm hại ai, nhưng cũng chẳng ích gì, còn nếu
có tài mà không có đức thì chỉ có hại cho dân cho nước còn sự nghiệp bản thân thì sớm muộn
cũng đổ vỡ. Hồ Chí Minh yêu cầu: tài lớn thì đức càng phải cao. Vì khi đã có cái trí thì cái đức
chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã
chấp nhận và lựa chọn tin theo. Bên cạnh đó, Đức là gốc” vì trong đức đã có tài, có cái đức sẽ đi
đến cái trí. Bởi người thật sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, rèn
luyện năng lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Và khi đã thấy sức không vươn lên được
thì sẵn sàng nhường bước, học tập và ủng hộ người tài đức hơn mình, để họ gánh vác việc nước
việc dân. Như vậy, “đức là gốc” ở đây phải là “đức lớn” – đức tận tâm, tận lực phấn đấu hy sinh
vì cách mạng, vì nước vì dân, nó không đồng nhất với những phẩm chất đạo đức thông thường
cụ thể, như hiền lành, ngoan ngoãn, tốt bụng trong đời sống hàng ngày.
Từ những nhận định trên, ta thấy đạo đức cách mạng có vai trò và sức mạnh vô cùng to lớn.
Nhưng trong thực tế những năm gần đây, sự xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức của một bộ
phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, đang làm băng hoại nền đạo đức xã hội, băng
hoại truyền thống nhân văn của dân tộc. Có thể nói,đây là những thách thức lớn nhất của công
cuộc đổi mới đất nước, là nguy cơ đe doạ sự sống còn của chế độ ta, làm mất thanh danh uy tín
của Đảng, Nhà nước, làm xói mòn lòng tin của dân chúng vào Đảng, vào chế độ. Đó là những
điều hết sức nguy hại đối với Đảng, vì cán bộ, đảng viên có vai trò rất quan trọng đối với sự
nghiệp cách mạng. Đảng viên là tế bào của Đảng. Sức mạnh của Đảng là do sức mạnh của đội
ngũ đảng viên tạo nên. Người thường nhắc nhở: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh.
Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do đảng viên đều tốt”
(7)

. Vậy mà, cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân lại thoái hoá, biến chất thì ảnh hưởng rất lớn đến sự lãnh đạo của Đảng.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc rèn luyện đạo đức mới ở
Việt Nam.

- Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân, với dân
tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất.
+ Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương
Đông, song có nội dung hạn hẹp, phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ: “Trung
với vua, hiếu với cha mẹ”.
+ Hồ Chí Minh đã mượn khái niệm cũ và đưa vào nội dung mới: “Trung với nước, hiếu với
dân”, tạo nên một cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành với
con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng.
Trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là nước của dân, còn nhân dân là chủ của
đất nước. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Hiếu với dân thể hiện ở
chỗ thương dân, tin dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập nhân dân, lấy dân làm gốc, phục
vụ nhân dân hết lòng.
Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường
xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đây là những phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của con người. Hồ Chí Minh cũng
dùng những phạm trù đạo đức cũ, lọc bỏ những nội dung lạc hậu, đưa vào những nội dung mới đáp
ứng nhu cầu cách mạng.
+ Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao động với
tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.
+ Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của đất nước,
của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; “Không xa xỉ, không hoang phí, không bừa
bãi”, nhưng không phải là bủn xỉn. Kiệm trong tư tưởng của Người còn đồng nghĩa với năng suất
lao động cao.
+ Liêm là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt
thóc của nhà nước, của nhân dân”. Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng,

sung sướng.
Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với
chữ liêm là: cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của riêng. Dìm
người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy
hiểm, không dám làm là tham uý lạo. Cụ Khổng nói: người mà không liêm, không bằng súc vật.
Cụ Mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.
+ Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn đối với mình, với người, với việc.
Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để
phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành,
khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó,
nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Theo Hồ Chí Minh, Cần, kiệm, liêm, chính là “tứ đức” không thể thiếu được của con người.
Người viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”.
Bác cũng nhấn mạnh: Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên.
Nếu đảng viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng.
Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn
minh của dân tộc. “Nó” là cái cần thiết để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn
thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
+ Chí công vô tư là ham làm những việc ích quốc, lợi dân, không ham địa vị, không màng công
danh, vinh hoa phú quý; “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu
thiên hạ chi lạc nhi lạc).
Thực hành chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch

chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc
nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm.
Hồ Chí Minh viết: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp
dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không
trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Người cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa
cá nhân.
Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo
đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để người cách mạng vững vàng qua mọi thử thách :
“Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”.
- Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
+ Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động
thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp
nhất.
+ Tình yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh có phạm vị rất rộng lớn, đó là tình
thương bao la dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột không
chỉ ở Việt Nam mà còn trên khắp thế giới.
+ Yêu thương con người là nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác; phải có tình nhân ái
với cả những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong
mỗi con người. Người nói “cần làm cho phần tốt trong con người nảy nở như hoa mùa xuân và
phần xấu mất dần đi”. Bác căn dặn, Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên
nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành, thẳng thắn, không “dĩ hoà vi quý”, không hạ thấp
con người, càng không phải vùi dập con người.
- Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
+ Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cộng sản chủ
nghĩa. Nó được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân.
+ Nội dung của chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự
tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với tất cả các dân
tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn
thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sô vanh, chủ nghĩa

bành trướng, bá quyền.
Người khẳng định: “Bốn phương vô sản đều là anh em”; giúp bạn là tự giúp mình; thắng lợi của
mình cũng là thắng lợi của nhân dân thế giới.
Người đã góp phần to lớn, tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, kiến
tạo một nền văn hoá hoà bình cho nhân loại.
c. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
- Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức
+ Nói đi đôi với làm được Hồ Chí Minh coi là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng
một nền đạo đức mới.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại hiệu quả thiết thực cho chính
bản thân và có tác dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều, làm ít, nói mà không làm, hơn nữa,
nói một đằng, làm một nẻo thì chỉ đem lại hiệu quả phản tác dụng mà thôi. Nói mà không làm
gọi là đạo đức giả.
+ Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp trong truyền thống phương Đông. Hồ Chí Minh khẳng
định: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương
sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”[2]. Nói đi đôi với làm phải gắn với
nêu gương về đạo đứcHồ Chí Minh cho rằng, trong việc xây dựng một nền đạo đức mới, đạo đức
cách mạng phải đặc biệt chú trọng đạo làm gương. “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày
giáo dục lẫn nhau là một cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây
dựng con người mới, cuộc sống mới”
2
. Phải luôn chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình
người tốt, việc tốt trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Nêu gương về đạo đức phải diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi. Trong gia đình, đó là tấm gương của bố
mẹ đối với con cái, của anh chị đối với các em, của ông bà đối với con cháu; trong nhà trường,
đó là tấm gương của thầy cô giáo đối với học sinh; trong tổ chức, tập thể là tấm gương của người
lãnh đạo, của cấp trên đối với cấp dưới; trong xã hội là tấm gương của người này đối với người
kia, của thế hệ trước đối với thế hệ sau, …
Tấm gương đạo đức của Hồ Chủ tịch là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các thế hệ người
Việt Nam mãi mãi về sau.

- Xây đi đôi với chống
+ Xây dựng đạo đức mới là phải giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới cho
con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, từ gia đình, nhà trường, đến
xã hội. Phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người. Bên cạnh đó, phải không ngừng
chống lại những cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức. Xây đi đôi với chống, muốn chống phải xây,
chống nhằm mục đích xây.
+ Để xây và chống có kết quả phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự
trong sạch, lành mạnh về đạo đức, phải kiên quyết loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
+ Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi
người.
+ Theo Hồ Chí Minh, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ tốt, chỗ xấu, ai cũng có
thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào mình, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện
để phát huy, thấy cái xấu, cái dở để mà quyết tâm khắc phục, không tự lừa dối, huyễn hoặc.
+ Đối với mỗi người, việc tu dưỡng đạo đức phải thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong
mọi quan hệ xã hội, phải chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày. Phải làm kiên
trì, bền bỉ, suốt đời. Bởi vì: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh,
rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong
CÂU 5: ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC LÀ MỤC TIÊU CỦA CÁCH MẠNG, ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC LÀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHẢI THỰC HIỆN KẾ THỪA TRUYỀN
THỐNG ĐOÀN KẾT CỦA DÂN TỘC TRÊN LẬP TRƯỜNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN.
Nguồn gốc hình thành tư tưởng đại đoàn kết của HCM được bắt nguồn từ truyền thống đoàn kết,
nhân nghĩa của dân tộc. Trên cơ sở từ những nguyên lí của Chủ nghĩa Mác- Leenin nói về sức
mạng của nhân dân trong lịch sử. Từ kinh nghiệm của phong trào CMTG
Đại đoàn kết trước hết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết định đến thành công của cách mạng.
Chiến lược là tập hợp các hoạt động, phương thức được vạch ra để đi đến mục tiêu nhất định.
Tư tưởng đại đoàn kết của HCM mang ý nghĩa chiến lược vì nó là tư tưởng nhất quán và xuyên
suốt tiến trình của CM Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được để
nhằm hình thành nên sức mạnh vĩ đại của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ

nước.
Đại đoàn kết là vấn đề sống còn của CM vì đoàn kết là sống chia rẽ là chết, đoàn kết làm nên sức
mạnh, đoàn kết làm nên chiến thắng như Bác Hồ vẫn thường kêu gọi: “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết. Thành công, thành công đại thành công”
- Đại đoàn kết là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của CM
Tư tưởng đại đoàn kết phải được quán triệt trong mọi đường lối chủ trương chính sách của Đảng
thực hiện trong 8 chữ “Đoàn kết toàn dân phụng sự tổ quốc”
Đại đàon kết không chỉ là mục tiêu nhiệm vụ hàng đầu của Đất nước nó còn là mục tiêu nhiệm
vụ của toàn thể dân tộc. Như vậy đại đoàn kết chính là sự đòi hỏi khách quan của toàn thể dân
tộc và quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Đảng phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng nhân dân vào tổ chức cách
mạng để trờ thành 1 lực lượng có tổ chức, có lãnh đạp thì mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của
lịch sử giao phó.
- Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân:
Trong tư tưởng HCM những khái niệm dân tộc, nhân đân,con người có nội hàm rất rộng. Người
dùng những khái niệm này để chỉ mọi con dân nước Việt không phân biệt với tinh thần đoàn kết
dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Muốn thực hiện được khối đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa được truyền thống yêu nước nhân
nghĩa đoàn kết của dân tộc ta phải có tấm lòng độ lượng khoan dung đối với con người.
Sở dĩ HCM khăng định quan điểm đại đoàn kết toàn dân rộng rãi như vậy là vì người có lòng tin
vào con người, có lòng tin vào nhân dân.
Và mẫu số chung để đại đoàn kết toàn dân đó là những mục tiêu như độc lập thống nhất, dân
giàu nước mạnh, ấm no hạnh phúc.
Muốn xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân cần phải xác địh đâu là nền tảng của khối đại
đoàn kết. HCM đã chỉ rõ nền tảng đó là sự liên minh của 2 giai cấp công nhân và nông dân và
phải thành lập được mặt trận giải phóng dân tộc thống nhất trên cơ sở khối liên minh công nông
làm nền tảng và do Đảng lãnh đạp thì mới có khả năng đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết
muốn trở thành sức mạnh vô địch khi toàn dân được giác ngộ về mục tiêu về lý tưởng về mục
đíchh và được tổ chức thành một khối vững chắc hoạt động theo một đường lối đúng đắn mà bao
trùm lên tất cả các hội tổ chức là mặt trận dân tộc thống nhất.

- Đại đoàn kết toàn dân phải phát huy và kế thừa truyền thống đại đoàn kết dân tộc dựa
trên lập trường của giai cấp công nhân.
Vì giai cấp công nông là giai cấp khổ cực nhất, lấy nỗi đau mà họ đã nếm trải để biến thành sức
mạnh, đề chiến đấu với kẻ thù, để đoàn kết toàn dân. Thêm vào đó là chủ nghĩa yêu nước chân
chính, mà theo HCM chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân, khi đi tìm con đường cứu nước HCM đã sớm xác đinh CMVN là
một bô phận của CMTG
HCM còn thể hiện rõ quan điểm đại đoàn kết, không chỉ đoàn kết dân tộc, mà đoàn kết các dân
tộc trên thế giới, đoàn kết quốc tế “ Trong ấm thì ngoài êm”

×