Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

hạnh phúc bằng bất cứ giá nào (tập 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.22 KB, 39 trang )

Phần 2: Áp dụng các nguyên tắc
Chương 6: Các mối quan hệ
Bạn bè là người tôi gặp và họ chấp nhận con người thật của tôi.
— Henry David Thoreau
Đối với một số người, các mối quan hệ thường là vấn đề khó khăn. Tuy nhiên, khi
hiểu được bản chất của các mối quan hệ và cách áp dụng năm nguyên tắc, việc giao
tiếp sẽ không còn là vấn đề nữa, mà trái lại, còn đem đến những món quà lớn lao.
Bất kỳ mối quan hệ nào cũng đều bắt đầu từ chúng ta. Khi ở trạng thái cảm xúc tích
cực, chúng ta sẽ sẵn sàng đón nhận sự tôn trọng lẫn nhau, mối giao tiếp chân thành cởi
mở, và lòng yêu thương chân thành. Khi ta hài lòng, thỏa mãn với cuộc sống, những
người khác cũng được lợi từ thái độ tích cực của ta. Khi cảm thấy dễ chịu, ta không
cần phải chỉ trích hay phòng thủ quá mức, bởi chúng ta không còn cảm thấy bị bất kỳ
ai đe dọa nữa.
Những người giao tiếp với bạn đều đã cố gắng hết mình. Chẳng ai thức dậy vào
buổi sáng với ý định hủy hoại cuộc đời bạn cả (có lẽ trừ một số người tâm lý không
bình thường). Mọi người đều thành tâm mong muốn cố gắng hết sức để cuộc sống của
họ và mọi người suôn sẻ. Hầu hết mọi người, đặc biệt là những người gần gũi với
chúng ta, sẽ luôn tìm cơ hội giúp ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Tâm lý con người hoạt động giống hệt nhau. Chúng ta đều tư duy. Chúng ta đều có
tâm trạng. Bởi tư duy và tâm trạng của mỗi cá nhân là độc nhất, nên mỗi người đều
sống trong một thực tại riêng biệt. Và chúng ta đều có cảm xúc. Bốn thành tố của tâm
lý này đúng với tất cả mọi người trên thế giới. Chúng đúng với bạn, bạn đời, đồng
nghiệp và con cái bạn; chúng đúng với tôi, vợ tôi, các con gái tôi, khách hàng của tôi;
chúng đúng với tất cả mọi người.
Hãy xem xét nguyên tắc của tư duy. Mỗi chúng ta đều suy nghĩ không ngừng, và
chúng ta sẽ làm như vậy cho đến hết đời, và đó là một thành tố của cuộc sống cho dù
chúng ta muốn hay không. Nắng hay mưa, tư duy vẫn tiếp diễn trong đầu ta và tất cả
mọi người. Làm sao để tận dụng tốt nhất khả năng này?
Hệ tư tưởng của những người khác
Chúng ta đã biết tư duy với những khuôn mẫu mang tính chất định kỳ là một phần
trong hệ tư tưởng của mỗi cá nhân. Bởi hệ tư tưởng của chúng ta có chức năng tự


đánh giá (theo thuật ngữ tâm lý thì đó là một “hệ đóng”), nên chúng ta không thể nghi
ngờ chúng, và dường như chúng ta sẽ luôn cảm thấy mình đang nhìn cuộc sống một
cách chính xác và chân thực. Vì thế, và vì hệ thống tự đánh giá rất bảo thủ, nên chúng
ta thường nghi ngờ cách sống và làm việc của người khác. Những thông tin không
phù hợp với những niềm tin hiện thời sẽ bị coi là “không đúng sự thật,” “cách làm kỳ
lạ,” “kỳ quặc,” “bất bình thường,” “khác người,” và trong hầu hết các trường hợp là
“sai trái”.
Khi chúng ta càng hiểu rõ người khác hơn, xu hướng nghi ngờ hệ tư tưởng của họ
càng tăng lên, chứ không hề giảm đi. Càng có nhiều cơ hội tiếp xúc và ở bên những hệ
tư tưởng khác, nguy cơ xung đột càng cao. Đây là lý do tại sao mối quan hệ sóng gió
nhất đối với rất nhiều người chính là hôn nhân. Với những người chưa lập gia đình,
mối quan hệ khó khăn nhất thường là với những người gần gũi và thân mật nhất. Thật
mỉa mai làm sao khi những người ta muốn gần gũi nhất lại khiến ta cảm thấy buồn
phiền nhất. Nhưng chẳng còn cách nào khác, trừ khi và cho đến khi chúng ta hiểu
được hoạt động tâm lý của mình và của người đối diện. Khi đó, sẽ xảy ra điều ngược
lại. Khi có hiểu biết, chúng ta sẽ dành tình yêu và sự tôn trọng mới mẻ cho những ai
chúng ta lựa chọn ở bên phần lớn thời gian. Ta sẽ dành cho họ những cảm xúc tích
cực như những người đặc biệt và duy nhất. Vấn đề khác biệt giữa mọi người sẽ không
còn làm chúng ta lo ngại nữa mà có khi còn trở nên thú vị! Ta sẽ bắt đầu nhìn mọi
người như những cá thể với những cá tính khác nhau, chứ không phải là những kẻ thù.
Bạn cần hiểu một điều tối quan trọng là người bạn đời của chúng ta (hay bất cứ ai
bạn đang hẹn hò) cũng nhìn cuộc sống rõ ràng như bản thân chúng ta. Không ai có thể
nghi ngờ quan điểm của họ về cuộc sống, bởi suy nghĩ tạo ra trải nghiệm. Khi nhìn
nhận cuộc sống từ trong ra ngoài, tầm nhìn của chúng ta phải vượt qua hệ tư tưởng, và
ta sẽ luôn cảm thấy bất cứ ai cũng nhìn sự việc theo cách của ta, chỉ cần họ không quá
cứng đầu hay mù quáng. Nhưng điều đó là không thể và không bao giờ có thể − để có
mối quan hệ tích cực lâu dài, chúng ta cần chấp nhận sự thật này.
Sự chấp nhận ấy vừa thể hiện sự khiêm tốn vừa đem lại cái nhìn thấu đáo. Mặt
khác, chúng ta phải thừa nhận rằng thứ chúng ta vẫn gọi là “cuộc sống” không phải là
cuộc sống ở trạng thái chuẩn xác nhất. Phiên bản cuộc sống của bản thân ta và cách ta

nhìn nhận cuộc sống của người khác dựa vào quan điểm của mỗi cá nhân. Nếu những
thông tin lưu trữ trong bộ nhớ và hệ tư tưởng khác đi, cái nhìn trước cuộc sống và
cách phản ứng với người khác cũng theo đó mà thay đổi.
Tin mừng là phiên bản cuộc sống của bạn không sai. Nó cũng đúng đắn như bất kỳ
ai khác, bởi chúng ta đều hoạt động như nhau về mặt tâm lý. Khi hiểu được nhau theo
cách này, ta sẽ kỳ vọng nhìn cuộc sống của ta khác với mọi người. Bởi chúng ta đã
học cách chấp nhận nó, nên ta thường ngạc nhiên và vui mừng nếu ai đó nhìn sự việc
giống hệt chúng ta. Còn nếu không cũng chẳng sao cả. Chúng ta học cách tự nhủ: “Ồ,
đó là những gì họ làm trong thế giới của riêng họ.”
Tôi không nói rằng phải làm ngơ trước những khác biệt hoặc vờ như chúng không
làm phiền ta. Nếu đó là cảm giác của bạn, hãy đọc lại các chương về tư duy và thực
tại riêng biệt. Hệ tư tưởng của chúng ta là trung lập. Chúng ta không thể giả vờ là nó
không tồn tại, và cũng chẳng thể hạn chế nó. Việc tốt nhất ta có thể làm là hiểu rằng
chúng ta (và mọi người) đều có hệ tư tưởng riêng, và nó quyết định những gì chúng ta
nhìn thấy. Khi đó, ta sẽ không còn coi tất cả những gì ta nghĩ đều rõ ràng rành mạch,
mà nhìn sự việc một cách khôn ngoan và thận trọng hơn. Chúng ta sẽ thôi nghiêm
trọng hóa bản thân và những suy nghĩ của chính mình. Khi kiến thức sâu rộng hơn,
chúng ta sẽ thật sự không bị phiền lòng vì người khác, không còn nghiêm trọng hóa
hay cảm thấy bị xúc phạm bởi những suy nghĩ của họ nữa. Chúng ta có thể hoàn toàn
bất đồng với ai đó, và điều này chẳng vấn đề gì hết. Ta không cần phải đồng ý với mọi
người, bởi giờ đây ta đã có nhận thức mới.
Nuôi dưỡng cảm xúc tốt đẹp trong các mối quan hệ
Khía cạnh quan trọng nhất trong việc nuôi dưỡng các mối quan hệ là cảm giác tồn
tại giữa hai người. Nếu cảm giác dễ chịu, chúng ta nói mình có một mối quan hệ tốt
đẹp. Nếu cảm giác dễ chịu bị giảm bớt, chúng ta thấy khó chịu, chúng ta sẽ nói rằng
mình có một mối quan hệ tồi tệ. Tất cả các mối quan hệ đều bắt đầu với sự ấm áp và
cảm giác tích cực ở mức độ nào đó. Cảm giác tích cực là lý do tại sao mối quan hệ
hình thành lúc ban đầu. Cảm giác đó có được bởi những người có liên quan không suy
nghĩ theo kiểu chỉ trích nhau! Nếu bạn không tập trung chú ý đến những mặt tiêu cực
của một người, cảm giác yêu thương và trân trọng sẽ đến một cách tự nhiên.

Cảm giác trong chúng ta sẽ luôn gây ảnh hưởng đến người chúng ta đang trò
chuyện. Ví dụ, bạn có thể nói với con bạn rằng: “Tất nhiên là bố yêu con rồi. Bố là bố
của con mà.” Nếu bạn nói điều đó với giọng cay nghiệt, hẳn là con bạn sẽ không hiểu
câu nói đó theo nghĩa đen − con bạn sẽ nghe và cảm nhận được giọng điệu cũng như
cảm xúc đằng sau những lời nói đó. Có rất nhiều ví dụ tương tự chúng ta trải qua hàng
ngày. Dù chúng ta đang nói chuyện với con cái, vợ chồng, người yêu, bạn bè, cấp
trên, đồng nghiệp hoặc một người hoàn toàn xa lạ, thì chính cảm giác đằng sau lời nói
mới quyết định cách người khác hiểu và phản ứng, chứ không phải bản thân những lời
nói đó.
Để lấy lại cảm giác ấm áp dành cho người khác, đầu tiên ta phải hiểu được tầm
quan trọng của nó và coi nó là một ưu tiên. Khi có cảm tình với ai đó, bạn thường bỏ
qua rất nhiều điểm khác biệt. Khi những khác biệt thực sự cần phải được giải quyết,
bạn cũng hành động bình tĩnh và sáng suốt. Còn khi không có cảm tình với ai đó, bạn
liền phản ứng trực tiếp từ hệ tư tưởng theo thói quen, không ngừng chỉ ra những điểm
khác biệt và đổ lỗi cho chúng vì gây ra cảm giác bất mãn ở bạn. Nhưng như chúng ta
đã thấy, không phải những điều khác biệt mà chính suy nghĩ tạo ra cảm giác của
chúng ta. Hiểu được những suy nghĩ của bản thân có thể giúp ta thoát khỏi những ảnh
hưởng tiêu cực của nó.
Hướng đi thứ hai để lấy lại cảm giác tích cực dành cho người khác là nhìn thấy sự
vô hại trong hành vi của họ, và bỏ qua nó. Đằng sau những hành động tiêu cực của
mình, chúng ta đều muốn được là một con người giàu tình thương, hòa nhã và nồng
nhiệt. Tôi chưa bao giờ gặp hay làm việc với ai mà không tự coi mình là người tốt,
hoặc ít ra cũng có tiềm năng là một người tốt. Ngay cả những người đầy vẻ hung
hăng, cứng đầu và ích kỷ cũng tự cho mình (hoặc ước ao) là một người tốt.
Nguyên tắc tâm trạng dạy rằng mỗi chúng ta hoạt động như thể là hai người riêng
biệt. Khi ở trạng thái tốt nhất, chúng ta có được trí tuệ minh mẫn và khả năng thường
thức. Chúng ta hòa đồng, giúp đỡ và tốt bụng. Nhưng khi cảm giác tồi tệ, trạng thái
cân bằng của chúng ta không còn, chúng ta mất cân bằng, trở nên tiêu cực và thổi
phồng những lỗi lầm của người khác. Nhân tố quyết định chúng ta đang ở đâu ở bất
kỳ thời điểm nào cũng đều chính là mức độ (hoặc sự thiếu hụt) bất an mà chúng ta

cảm thấy bên trong.
Hãy bỏ chút thời gian nghĩ về bản thân. Bạn thường hành động và suy nghĩ về cuộc
sống như thế nào khi cảm thấy bất an? Bạn có vô lo vô nghĩ, thanh thản và đầy ắp
những mối quan hệ tích cực? Tất nhiên là không. Đúng vậy, tất cả mọi người, bao
gồm cả những người chúng ta yêu thương, đều hoạt động theo một cách giống hệt
nhau. Khi chúng ta hiểu và khiêm tốn chấp nhận sự thật đó của con người, chúng ta có
thể xem xét hành vi của họ. Chẳng ai có thể đạt được phong độ tốt nhất khi cảm thấy
mất an toàn cả.
Hãy nghĩ về ai đó mà theo bạn là một người khắt khe hoặc khó chịu – người mà
bạn khó lòng giữ được mối thiện cảm với họ. Bây giờ, bất chấp những trở ngại đó,
bạn biết có những người vẫn quan hệ tốt với con người này. Họ làm thế bằng cách
nào? Chẳng lẽ họ không thấy thực tế sao? Không. Họ cũng làm những việc tương tự
như những gì chúng ta làm cho những người chúng ta quan tâm, mà thậm chí còn
không nhận ra điều đó. Họ nhìn xa hơn hành xử của người đó. Con người mà họ yêu
quý, nhân cách của họ không tĩnh tại, không được tạc muôn đời vào đá, mà cư xử của
họ cũng thăng giáng tùy mức độ bất an họ cảm nhận được. Họ nói: “Ôi, Jim không
định nói thế đâu. Anh ấy chỉ mất bình tĩnh, và thỉnh thoảng nói những điều không nên
nói thôi.” Họ hiểu Jim, trong khi bạn chỉ nhìn thấy hành xử của anh ấy.
Tất cả chúng ta đều có khả năng nhìn xa hơn hành xử của người khác, và làm điều
đó thông qua trực giác bất cứ lúc nào. Chúng ta cho qua hoặc bảo vệ hành vi của
những người ta yêu quý bởi chúng ta hiểu rằng họ chỉ đang cảm thấy bất an. Để phát
triển các mối quan hệ, chúng ta cần chủ động làm điều tương tự, phải có cảm giác ấm
áp dành cho ai đó ngay cả khi ta nghĩ họ không xứng đáng. Khi luyện tập như thế,
chúng ta sẽ phát triển được các mối quan hệ và cảm giác tôn trọng lẫn nhau.
Tầm quan trọng của cảm giác tích cực trong các mối quan hệ không hề bị phóng
đại. Nếu biết cách đạt tới cảm giác này, chúng ta sẽ mang đến những gì tốt đẹp nhất,
không chỉ cho bản thân mà còn cho những người xung quanh nữa. Câu hỏi không phải
là liệu người đối diện có lại cảm thấy bất an và hành động theo cách ta không thích
hay không. Chắc chắn điều đó sẽ xảy ra. Bài học quan trọng ở đây là chúng ta phải
duy trì cảm giác tích cực dành cho họ. Nếu ta làm được như vậy, họ sẽ tự tin hơn, và

khi cảm giác an toàn tăng lên, hành xử của họ cũng sẽ cải thiện. Mọi người đều chiến
thắng! Họ sẽ trân trọng tình yêu, lòng vị tha của bạn, và sẽ học hỏi qua trải nghiệm.
Mặt khác, nếu chúng ta không thể duy trì cảm giác tích cực với người đối diện thì cảm
giác an toàn (vốn đã thấp) với họ nay lại càng giảm. Khi cảm giác bất an tăng lên,
hành xử của họ sẽ vẫn khó chịu (hoặc thậm chí còn tồi tệ hơn), và cảm giác của họ
vẫn tệ hại.
Trong các mối quan hệ tồi tệ, mọi người thường sai lầm ở chỗ họ dễ cảm thấy bị
xúc phạm bởi những hành xử tiêu cực của người khác. Khi chúng ta bắt đầu cảm nhận
được sự thanh thản, khả năng thường thức và tính thiết thực của việc duy trì cảm giác
tích cực với mọi người (ngay cả trong nghịch cảnh), thì những khoảnh khắc chúng ta
cảm thấy bị tổn thương sẽ giảm đi cả về số lượng lẫn tính chất. Mọi người sẽ cảm
nhận được cảm xúc tốt đẹp ta dành cho họ và cảm thấy an toàn trở lại, cùng với những
cảm xúc tốt đẹp và gần gũi.
Cổ ngữ có câu, “Vấn đề không phải bạn nói gì, mà là nói như thế nào.” Vế “nói
như thế nào” chính là cảm xúc đằng sau những lời bạn nói. Hãy tìm kiếm cảm giác
tích cực bên trong trước khi bạn nói, nếu bạn muốn tương tác một cách tích cực. Ngay
cả khi cảm thấy mình có lý do chính đáng để buồn bực, bạn vẫn nên đợi đến lúc cảm
giác tích cực xuất hiện. Khi đó, phản ứng của bạn sẽ luôn đúng đắn và hiệu quả hơn.
Điều đó không có nghĩa là chờ đợi để nghĩ ra những câu nói hay ho, mà là chờ đợi
cho đến khi cảm giác tích cực xuất hiện. Khi đó, ta sẽ không phải lo lắng về những gì
mình nói nữa. Câu nói có thể dễ chịu hoặc không, tùy thuộc vào hoàn cảnh. Nhưng
nếu bạn đợi cảm giác tích cực đến trước khi lên tiếng, mối quan hệ của bạn sẽ được
cải thiện vô cùng đáng kể.
Ở những thời điểm khi dường như bạn không thể tìm được cảm giác nồng nhiệt,
hãy hiểu rằng cảm xúc trong bạn ảnh hưởng rất nhiều đến người đối diện. Bạn hoàn
toàn có thể cảm thấy nồng nhiệt bất chấp những hành xử tồi, để trí tuệ và tình thương
được sản sinh. Việc này tạo ra sự tôn trọng và thấu hiểu, giúp tháo gỡ mọi khúc mắc
trong các mối quan hệ. Cả hai người sẽ đều nhìn nhận tình huống một cách rõ ràng
hơn, với tầm nhìn rộng mở hơn.
Thay vì khổ sở bởi “bản chất khoan dung” của bản thân, ta bắt đầu nhận về nhiều

hơn những thứ vẫn đang tìm kiếm: tình yêu và sự tôn trọng của mọi người cũng như
của chính chúng ta. Con người tôn trọng và ngưỡng mộ những ai hiểu được trạng thái
tinh thần của họ (đặc biệt là khi họ cảm thấy tồi tệ), và trân trọng những người có thể
giữ thái độ bình thản khi người khác đã “mất tinh thần”. Bạn muốn ở cạnh ai – một
người luôn buồn bực và lo lắng, hay một người giữ được bình tĩnh và cố gắng xử sự
tốt nhất, cho dù hoàn cảnh có khó khăn đến mức nào?
Việc tạo cảm giác tích cực hay nồng ấm cho ai đó khó bao nhiêu thì những tiêu cực
trong suy nghĩ của ta về họ, dù ở hiện tại hay trong ký ức, nhiều bấy nhiêu. Nếu ta bỏ
qua những suy nghĩ và ký ức ấy, cảm giác tích cực dành cho người đó sẽ trở lại. Mặc
dù điều đó tưởng như bình thường, nhưng không phải tự nhiên mà con người suy nghĩ
tiêu cực, thất vọng và cáu bẳn với người khác. Đó là một dấu hiệu cho thấy bạn đã
chuyển sang nhìn cuộc sống và con người thông qua hệ tư tưởng quen thuộc của
mình.
Hãy nghĩ một chút xem chuyện gì sẽ xảy ra nếu bạn đang cãi nhau với người bạn
yêu thương – và ngay giữa cuộc cãi cọ, nhà của bạn bị cháy, tính mạng của mọi người
gặp nguy hiểm. Chuyện gì sẽ xảy ra với cuộc cãi cọ đó? Nó không còn quan trọng nữa
mà tạm thời bị lãng quên, và được thay thế bằng ý nghĩ về sự sống còn và lo lắng cho
nhau. Mối quan tâm duy nhất của bạn là đưa nhau đến nơi an toàn. Cảm giác giữa hai
người sẽ thay đổi ngay lập tức, vì giờ đây bạn tập trung vào chuyện khác.
Rất nhiều bậc cha mẹ đã trải qua tâm lý tương tự đối với con cái mình. Phút trước
họ giận dữ – khi nghĩ đến việc con mình về nhà muộn – nhưng phút sau họ lại thở
phào mừng rỡ vì nó còn sống sót, sau khi nghe điện thoại thông báo có vụ tai nạn
nghiêm trọng suýt giết chết con họ. Tất cả chúng ta đều đã nghe hoặc trải qua vụ việc
tương tự.
Trong cả hai ví dụ trên, các cá nhân đều quên mất họ đang giận dữ vì việc gì, và
điều đó tạo ra sự thay đổi trong cảm giác của họ dành cho người đang khiến họ phiền
muộn. Có lẽ ví dụ điển hình nhất của việc này là người vợ hoặc chồng trong một mối
quan hệ sóng gió được chẩn đoán mắc bệnh ở giai đoạn cuối. Ngay lập tức cặp đôi đó
nhận ra sự lãng phí và ngu xuẩn khi họ luôn cáu giận thay vì yêu thương nhau. Những
năm tháng cãi cọ gay gắt bị lãng quên, tình thương và sự nồng ấm quay trở lại trong

mối quan hệ của họ.
Hiểu biết mới này về việc bảo vệ và nuôi dưỡng các mối quan hệ đẩy chúng ta vào
trạng thái bấp bênh. Giờ ta đã biết quá nhiều về hoạt động tâm lý của bản thân và
không thể quay trở lại, ít nhất là không thể quay lại từ đầu. Chúng ta phải lựa chọn
giữa việc lấy lại cảm xúc tích cực hơn nữa và cải thiện các mối quan hệ, hoặc tiếp tục
nghĩ theo cách không bình thường khiến chúng ta cảm thấy bất mãn.
Ở đây tôi không nói đến cảm giác tích cực hoặc bắt buộc bản thân phải nghĩ đến
điều tốt đẹp, mà tôi muốn đề cập một thực tế là chính hành động suy nghĩ mới tạo ra
khổ đau hay thiếu vắng hạnh phúc. Bạn có quyền tiếp tục nghĩ những gì bạn thích, và
trong bao lâu cũng được, nhưng khi hiểu được tư duy tạo ra mọi trải nghiệm trong
cuộc sống, chắc chắn bạn sẽ dừng những suy nghĩ đưa bạn xa khỏi nơi bạn muốn đến.
Tôi muốn “đúng” hay muốn “hạnh phúc”?
Nếu nhân tố quan trọng nhất trong mối quan hệ cá nhân là cảm giác tồn tại giữa
chúng ta và người đối thoại, thì việc đúng sai chẳng quan trọng, nếu không muốn nói
là nó làm mất đi tình cảm giữa hai người. Khi hiểu được cách mà hệ thống niềm tin
khuyến khích ta đánh giá quan điểm của bản thân về cuộc sống, ta sẽ hiểu điều này
cũng đúng với tất cả mọi người. Với kiến thức này, ta sẽ không phải to tiếng hay buồn
bực vì những điều khác biệt.
Khi cảm giác hạnh phúc giữa mọi người tăng lên, vấn đề đúng sai sẽ không còn
quan trọng. Chúng ta vẫn có thể giữ vững quan điểm hay những ưu tiên của bản thân,
nhưng ta hiểu rằng những quan điểm đó được tạo ra từ ý nghĩ, chứ không phải từ sự
thật vĩnh hằng. Cảm giác tích cực lúc này trở nên quan trọng hơn những quan điểm cá
nhân. Khi chúng ta trân trọng niềm hạnh phúc trong các mối quan hệ hơn, ta sẽ để ý
đến những điều đẩy ta ra khỏi cảm giác này. Chất xúc tác chính là mong muốn chứng
tỏ mình đúng.
Một ý kiến được quan trọng hóa quá mức sẽ tạo ra những điều kiện mà bạn cần đạt
tới trước khi cảm thấy hạnh phúc. Trong các mối quan hệ, điều này có thể giống như:
“Em phải đồng ý hoặc nhìn sự việc theo quan điểm của anh thì anh mới yêu và tôn
trọng em.” Trong trạng thái cảm xúc tích cực hơn, thái độ này sẽ trở nên ngớ ngẩn và
tai hại. Chúng ta có thể bất đồng, thậm chí trong những vấn đề quan trọng, mà vẫn yêu

thương nhau. Đó là khi hệ tư tưởng không điều khiển cuộc sống của chúng ta nữa, và
chúng ta nhận ra sự bất đồng quan điểm thực chất chẳng gây hại gì.
Nhu cầu được chứng tỏ mình đúng xuất phát từ một mối quan hệ không lành mạnh
với những suy nghĩ của bản thân. Bạn có tin rằng suy nghĩ của bạn đại diện cho thực
tế, và cần được bảo vệ, hay bạn nhận ra mỗi người nhìn nhận hiện thực một cách khác
nhau? Câu trả lời của bạn cho câu hỏi trên sẽ gần như quyết định bạn có khả năng duy
trì trạng thái cảm xúc tích cực hay không.
Trong số những người tôi biết, tất cả những ai đặt cảm xúc tích cực lên trên nhu
cầu được chứng tỏ là “đúng” trong danh sách ưu tiên của họ đều hiểu rằng không cần
quan tâm đến sự khác biệt về quan điểm. Trạng thái cảm xúc tích cực cho phép ta nhìn
từ vị trí của người khác, biết lắng nghe hơn, và thể hiện niềm tin của ta cẩn trọng và
giàu yêu thương hơn. (Chúng ta thậm chí còn học hỏi được điều gì đó!) Nó cho phép
ta bình thản trước những quan điểm bất đồng.
Tâm trạng trong các mối quan hệ
Mỗi chúng ta đều cảm thấy như mình đang sống cuộc sống của bác sĩ Jekyll và
ngài (hoặc quý bà) Hyde . Khi tâm trạng vui vẻ, mọi người dường như đều dễ chịu.
Chúng ta nhận ra vẻ đẹp trong các mối quan hệ. Chúng ta có trí tuệ và thận trọng cân
nhắc. Chúng ta có khả năng thỏa hiệp, nhìn sự việc theo quan điểm của người khác, và
duy trì khiếu hài hước. Chúng ta có khả năng thường thức và biết mình cần làm gì khi
nghịch cảnh xảy ra dựa vào bản năng.
Khi tâm trạng tồi tệ, chúng ta mất khả năng suy xét (hoặc chịu đựng), và cuộc sống
dường như khó khăn và làm nản lòng người. Các mối quan hệ trở thành gánh nặng và
mọi người xung quanh dường như đang chọc tức hoặc cố tình cản trở ta. Khi tâm
trạng tồi tệ, chúng ta có cảm giác bị sỉ nhục nếu mọi người không nhìn sự việc theo
cách của mình, đồng thời luôn cảm thấy cấp bách và bất hạnh. Khi tâm trạng tồi tệ,
những vấn đề nhỏ nhoi cũng trở thành to tát.
Khi vui vẻ trở lại, đầu óc chúng ta sẽ không còn căng thẳng. Cuộc sống và các mối
quan hệ dường như trôi chảy và tự vận hành ổn thỏa. Khi tâm trạng chùng xuống, đầu
óc ta lại chứa đầy những lo âu. Vào lúc tâm trạng tiêu cực nhất, ít được chuẩn bị nhất,
thì chúng ta lại thường cố gắng giải quyết những khó khăn hoặc rắc rối với mọi người.

Hiểu về tâm trạng của bản thân và mọi người xung quanh là điều tối quan trọng nếu
chúng ta mong muốn duy trì những mối quan hệ hài hòa và tốt đẹp. Hãy coi chừng
nếu tâm trạng chúng ta không tốt mà ta lại không nhận ra! Chúng ta sẽ tự chuốc lấy
rắc rối mà không hề hay biết, bởi cuộc sống lúc đó sẽ trở nên cấp bách.
Nếu tín hiệu cảnh báo bên trong (cảm giác) của ta kêu lên báo động (tâm trạng tồi
tệ), và ta hiểu điều gì sẽ xảy ra khi ta ở trạng thái đó, thì theo bản năng, ta sẽ trì hoãn
tranh luận về những khó khăn và lo lắng (nếu có thể). Không ai có thể đưa ra những
quyết định khôn ngoan khi đang ở trạng thái tinh thần đó, bởi chúng ta không nhìn
người khác như họ vốn thế, hoặc không thể nhận định tình huống một cách rõ ràng.
Chúng ta trở nên bảo thủ, bướng bỉnh, cáu giận và hẹp hòi, bốn thành tố chính tạo nên
một mối quan hệ tiêu cực. Khi bạn cảm thấy tốt hơn, vấn đề không còn có vẻ nghiêm
trọng nữa, và kết quả là cảm giác tồi tệ sẽ giảm đi và qua nhanh hơn, nếu không bị
những quyết định tệ hại hoặc phản ứng thái quá làm cho thêm phức tạp.
Bạn không thể tránh được tâm trạng khó chịu, nhưng nếu bạn nhận ra khi nào mình
ở trong tâm trạng đó và hiểu chuyện gì đang diễn ra, thì bạn chỉ cần ngồi xuống và đợi
đến khi cảm giác tích cực hơn xuất hiện trước khi phản ứng với các vấn đề quan
trọng.
Dưới đây là một ví dụ thực tế cho thấy kiến thức này đã giúp vô hiệu hóa sự thiếu
hòa hợp trong cuộc sống của tôi như thế nào. Tôi nhận thấy tâm trạng mình rất tồi tệ.
Tôi mệt mỏi và đã làm việc cả ngày với khách hàng. Chẳng hiểu sao mọi chuyện
dường như diễn ra không hề suôn sẻ suốt cả ngày. Ngay khi trở về nhà, tôi nhận được
một cuộc điện thoại khẩn cấp của một người muốn nói về một vấn đề nào đó. Tất cả
những gì tôi muốn lúc này là được ngâm mình trong bồn tắm nước nóng, hoặc được
ôm vợ con, nhưng người đó cứ tiếp tục nói và nói.
Nếu không hiểu về tâm trạng, cảnh tượng đó sẽ khiến tôi phát điên! Tôi có thể sẽ
phản ứng bằng nỗi giận dữ và thất vọng, rồi kết cục là phản ứng thái quá và đưa ra
những quyết định khó nghe, để sau đó hoặc sẽ phải xin lỗi vì hành động của mình,
hoặc nếu vẫn cứng đầu, tôi sẽ cảm thấy mình hành động chính đáng − “tôi có quyền
tức giận”. Tôi sẽ trút ít nhất một phần thất vọng của mình lên vợ mà không hề hay
biết. Nhưng ngày đó tôi nhận ra tâm trạng của mình cực kỳ không tốt, và tôi biết chắc

chắn cảm giác về mọi việc lúc này rồi sẽ tồi tệ hơn. Vì thế tôi lắng nghe thông tin một
cách chăm chú nhất, rồi nói với anh ta rằng tôi sẽ cân nhắc những lựa chọn anh ta đưa
ra và gặp anh ta sau. Tôi gạt hết những thông tin đó sang một bên, bởi tôi biết mình sẽ
quay lại với nó khi tâm trạng khá hơn. Rõ ràng là vài tiếng đồng hồ tiếp theo, sau khi
không nghĩ về nó nữa, tôi cảm thấy dễ chịu hơn nhiều, và câu trả lời dường như cũng
thật hiển nhiên.
Điều quan trọng cần nhớ là nếu ta nhận ra có vấn đề thực sự khi đang trong trạng
thái tinh thần không tốt, thì vấn đề sẽ vẫn ở đó khi tâm trạng chúng ta tốt hơn. Và khi
đó, khả năng giải quyết vấn đề trước nghịch cảnh của chúng ta sẽ hiệu quả hơn nhiều.
Ngoài ra còn có một điểm quan trọng khác. Tôi không phủ nhận có những lúc bạn
không thể chờ cho đến khi tâm trạng tốt lên. Hiển nhiên tâm trạng tích cực đem đến
câu trả lời chính xác hơn, cùng với sự kiên nhẫn và trí tuệ cần thiết để giải quyết vấn
đề. Chúng ta không thể cố tạo ra tâm trạng tốt, nhưng nếu hiểu về tâm trạng thì mọi
thứ sẽ không còn là vấn đề. Chúng ta chỉ cần cố gắng hết sức và biết được mình đang
ở trạng thái tinh thần nào. Nếu cần phải ra quyết định ngay lập tức trong tình huống
trên, tôi sẽ vẫn ra quyết định, nhưng tôi biết mình đang không tỉnh táo để nhìn nhận sự
việc. Nếu vấn đề có vẻ khẩn cấp, tôi sẽ vẫn cố gắng đưa ra quyết định sáng suốt nhất,
nhưng tôi hiểu đó là một quyết định trong hoàn cảnh không lý tưởng. Nhận thức rõ
tâm trạng của bản thân giúp bạn ra quyết định chính xác hơn so với khi bạn (sai lầm)
cho rằng mình đang nhìn cuộc sống (và hiện thực) một cách chính xác. Nếu biết đồng
lòng với trạng thái tinh thần của chính mình, thái độ của bạn sẽ mềm mỏng hơn. Đây
là một phần quan trọng của trí tuệ và kiến thức để ra quyết định khi đang trong tâm
trạng tồi tệ.
Điều quan trọng là phải biết khi nào ta đang ở trong tâm trạng khó chịu, và khi nào
tâm trạng người khác không tốt. Với hầu hết chúng ta, không khó để nhận ra tâm trạng
của người khác, đặc biệt là những người thân thiết. Thực tế, tâm trạng của người khác,
nhất là tâm trạng không tốt, thường dễ nhận biết hơn tâm trạng của chính chúng ta.
Khi cảm nhận được tâm trạng tồi tệ của người khác, hãy hiểu và tôn trọng sức mạnh
của tâm trạng đủ để không bị chúng quấy nhiễu hay gây ảnh hưởng.
Khi những người ta quen biết, yêu thương hay cùng làm việc có tâm trạng không

tốt, họ chẳng còn hài hước hay biết suy xét nữa. Trong tâm trạng tồi tệ, vợ/chồng,
đồng nghiệp, con cái, nhân viên, bạn bè và tất cả mọi người sẽ nói và làm những việc
mà họ không thể tưởng tượng nổi khi tâm trạng vui vẻ. Nếu không hiểu về tâm trạng
và ảnh hưởng của nó tới con người, ta sẽ buồn phiền và bị tổn thương bởi những nhận
xét hay hành động lệch lạc của họ.
Điều này có nghĩa là chúng ta nên tha thứ cho những hành động tiêu cực? Đúng và
sai. Vấn đề ở đây không phải là nhìn theo cách khác, hoặc vờ như sự việc không ảnh
hưởng gì đến bạn, mà là cho phép một người có tâm trạng được là một con người trọn
vẹn. Phản ứng thái quá trước hành xử của người có tâm trạng khó chịu cũng giống
như phản ứng trước thời tiết xấu, một việc mà chúng ta không thể thay đổi được. (Tất
nhiên là chúng ta vẫn muốn người khác ít bảo thủ và chỉ trích hơn dù tâm trạng họ
đang tồi tệ!)
Những gì chúng ta có thể làm là đem những hiểu biết về tâm trạng ra áp dụng trong
cuộc sống và tạo ra một tiền lệ tích cực. Chúng ta có thể học cách chấp nhận tâm trạng
tồi tệ của người khác, không để bụng những gì họ nói và làm khi đó. Bạn nhận định
tình hình, sau đó nảy sinh lòng thương cảm đủ để giúp họ thoát khỏi tâm trạng không
vui và đạt được trạng thái tinh thần tích cực hơn.
Chúng ta không thể một tay kéo ai đó ra khỏi tâm trạng tiêu cực, nhưng nếu ta duy
trì được trạng thái cân bằng và cảm giác hạnh phúc thì cũng có nghĩa là ta đang giúp
họ. Tâm trạng buồn chán của người đối thoại sẽ qua nhanh hơn và ít nghiêm trọng đi
nếu chúng ta không chịu ảnh hưởng nặng nề từ đó.
Đừng cố đưa lời khuyên cho người khác khi họ đang có tâm trạng khó chịu! Chẳng
ai trong chúng ta có xu hướng tiếp nhận thông tin khi đang ở trạng thái này. Nhưng
cũng đừng bỏ mặc họ, bạn chỉ cần thấu hiểu và đồng cảm với họ thôi. Tất cả mọi thứ
còn lại sẽ ở đúng chỗ của nó.
Thực tại riêng biệt trong các mối quan hệ
Theo nguyên tắc thực tại riêng biệt, không có hai người nào nhìn cuộc sống theo
cách hoàn toàn giống nhau. Chúng ta đều nhìn cuộc sống thông qua bộ lọc riêng, hệ tư
tưởng cá nhân của mỗi chúng ta. Mặc dù nhiều người trong chúng ta hiểu nó ở mức
độ kiến thức, nhưng nguyên tắc thực tại riêng biệt không chỉ đơn thuần là kiến thức

thực tế, mà còn là một hiện thực tâm lý. Khi chấp nhận thực tế đó, chúng ta sẽ được tự
do trải nghiệm và học hỏi những khác biệt của nhau, trong đó có những điều chúng ta
có thể không hiểu.
Bởi mỗi chúng ta đều có một khung tham chiếu riêng, nên nhận thức của mỗi người
về cuộc sống cũng khác biệt. Dường như ta luôn cảm thấy mình nhìn tình huống với
cái nhìn thực tế, nhưng nguyên tắc thực tại riêng biệt không tán thành cũng không
nghi ngờ bất kỳ quan điểm nào, cũng không phán xét xem nó đúng hay sai. Đơn giản,
nó chỉ ra rằng thực tế là thứ xuất hiện từ một khung tham chiếu nhất định. Thực tại
riêng biệt giống như mỗi chúng ta là một quốc gia riêng vậy!
Ông A chắc chắn rằng thế giới này rất an toàn. Ông B lại tin rằng thế giới thật nguy
hiểm. Ai đúng? Cả hai – trong khung tham chiếu riêng của họ. Cả hai đều có thể chỉ
ra vô số các ví dụ xác đáng để chứng minh cho luận điểm của mình, và cả hai đều tin
chắc vào điều đó.
Khi hiểu cách thức các hệ tư tưởng riêng hoạt động để hình thành quan điểm của
mỗi người về thế giới, chúng ta sẽ được tự do phát triển vượt ra ngoài những giới hạn
đó. Chúng ta sẽ cảm thấy ít bị đe dọa hơn khi ai đó bất đồng hoặc thất vọng với ta, bởi
ta hiểu rằng đây là điều không thể tránh khỏi. Ta sẽ thấy rõ sự vô hại trong những
niềm tin và suy nghĩ tiêu cực của bản thân, cũng như trong những lời phủ nhận của
người khác. Ta sẽ nhận ra niềm tin là kết quả của sự luyện rèn trong quá khứ. Hiểu
biết về thực tại riêng biệt cho phép chúng ta bớt suy nghĩ chủ quan hơn, bởi ta hiểu
được bản chất của những thành kiến, đức tin và triết lý về cuộc sống.
Khi hiểu rằng mọi người đều nhìn đời theo những cách riêng biệt, chúng ta có thể
mở rộng tầm mắt để coi điều đó thật đẹp đẽ và đúng đắn, và mở cánh cửa cho những
mối quan hệ thành công hơn, tốt đẹp hơn cho cả hai bên. Chúng ta tự nhiên sẽ trở nên
ít bảo thủ và chỉ trích mọi người hơn, bởi ta không còn phải ra sức bảo vệ cho quan
điểm mang tính cá nhân nữa, thay vào đó, ta quan tâm nhiều tới việc đem đến cảm xúc
tích cực cho mọi người.
Chương 7: Stress
Suy nghĩ thứ hai bao giờ cũng khôn ngoan hơn.
— Euripides

Hầu hết các chuyên gia nghiên cứu về stress ngày nay đều nói với bạn rằng công
việc của họ rất “căng thẳng”. Bởi chúng ta sống trong một thế giới căng thẳng nên
điều tốt nhất chúng ta có thể hy vọng là những phương pháp tốt hơn để đối mặt với
nó: đó chính là tư duy của tâm lý học hiện đại. Stress là một “hiện thực cuộc sống”
đối với hầu hết mọi người – một thực tế phũ phàng mà chúng ta phải đối mặt. Stress
phổ biến tới nỗi những người khác có thể bị xúc phạm nếu chúng ta không tỏ ra đang
bị stress giống như họ. Stress được coi là một phần thiết yếu của thành công, các mối
quan hệ, sự nghiệp và cuộc sống. Bản thân từ stress cũng trở nên quá bao quát đến nỗi
chúng ta có thể dùng nó để miêu tả, xác nhận và giải thích cho hầu hết các vấn đề
không hay xảy ra trong cuộc sống. “Nếu tôi không bị stress đến vậy thì cuộc sống của
tôi đã tốt hơn rồi” quả thực là một niềm tin phổ biến.
Stress là nguyên nhân chính dẫn đến sự lo âu trong cuộc sống, nhưng chúng ta
không cần phải đầu hàng nó. Nếu chúng ta biết stress xuất phát từ đâu (trong chính
tâm trí chúng ta), và mối quan hệ của nó với tư duy, chúng ta có thể bắt đầu loại bỏ
nó, bất kể hoàn cảnh ra sao. Stress chỉ là một dạng bệnh lý về tinh thần được xã hội
chấp nhận, và phần lớn có thể ngăn chặn được.
Stress không phải là thứ gì đó “xảy ra với chúng ta” mà là một thứ hình thành từ
bên trong suy nghĩ. Từ trong ra ngoài, chúng ta quyết định được việc gì sẽ tạo ra stress
và việc gì không. Cá độ có thể là trò gây hứng thú với người này, nhưng lại là nguyên
nhân gây suy nhược thần kinh với người khác. Với người này, việc có con là mục tiêu
cuộc sống, nhưng với người kia dường như đó lại là một trách nhiệm quá lớn lao. Làm
việc với những nạn nhân bị cưỡng hiếp đối với người này là mục tiêu cao cả, nhưng
lại gây căng thẳng cho người khác. Mỗi ví dụ ở trên, cũng như mọi trường hợp khác
trong cuộc sống, thực sự đều mang tính trung lập chứ về bản chất không hề gây căng
thẳng.
Khi cho rằng stress đến từ đâu đó chứ không phải từ bên trong mỗi người, chúng ta
đã tự chuẩn bị để sẵn sàng trải qua stress – và lúc này đã quá muộn để ngăn chặn nó.
Mỗi khi chúng ta cho rằng stress “ở ngoài kia” là một lần chúng ta xác nhận nó tồn
tại. Sau đó chúng ta lại phải tìm cách đương đầu, kiểm soát hoặc điều khiển bất cứ thứ
gì mà chúng ta cho rằng gây ra stress. Do đó, nếu ta cho rằng có mối quan hệ với một

người chuyên làm ca đêm (hoặc phải làm nhiều giờ) sẽ gây căng thẳng, chúng ta sẽ
tìm cách đối phó với tình huống đó. Chúng ta có thể bỏ công sức cố gắng thuyết phục
người đó thay đổi nghề nghiệp. Sau đó, khi không nhận được sự chấp thuận, ta sẽ nói:
“Đấy, rõ ràng là mối quan hệ của chúng ta có vấn đề mà. Ngay từ đầu mình đã biết
đây là một tình huống gây căng thẳng rồi.”
Hoặc chúng ta có thể đi theo một con đường khác hoàn toàn, dành hết tâm trí để
giải quyết vấn đề đó. Chúng ta tham dự các lớp học và hội thảo, đọc sách hoặc gặp
các nhà tư vấn hôn nhân để cố gắng đương đầu với mối quan hệ căng thẳng của mình.
Bất kể chiến thuật là gì, chúng ta cũng đang xác nhận nhu cầu đương đầu với tình
huống – và nó chỉ gây căng thẳng khi chúng ta xác định nó như vậy. Chúng ta chưa
bao giờ dừng lại để nghi ngờ về nhận định của bản thân; tất cả các lớp học, hội thảo,
sách vở, tư vấn viên mà chúng ta tìm kiếm đều cho rằng giả định ban đầu của chúng ta
là đúng, và thực sự chúng ta cần đối phó với stress. Với mỗi lớp học ta tham dự hoặc
mỗi cuốn sách ta đọc, niềm tin của ta vào tình huống căng thẳng sẽ được củng cố và
kết quả là stress càng tăng thêm. Càng nghĩ về nó hoặc cố gắng thay đổi nó, tình hình
lại càng trở nên tệ hại hơn, bởi ta đang cho rằng stress tồn tại bên ngoài bản thân
mình.
Tư tưởng đó phát triển và ngày càng trở nên sâu sắc dù chúng ta tin rằng stress đến
từ công việc, thế giới, các mối quan hệ, tình hình tài chính, hoàn cảnh, tình hình chính
trị, hay bất kỳ thứ gì. Nếu không biết stress bắt nguồn từ đâu, chúng ta sẽ hoặc tìm
cách thay đổi thứ gọi là “ngọn nguồn” của vấn đề (môi trường sống chẳng hạn), hoặc
sẽ tìm cách đương đầu với chúng. Trong cả hai trường hợp, chúng ta đều phải tham
gia một trận chiến không bao giờ kết thúc. Nếu không thay đổi được hoàn cảnh, chúng
ta có thể tiếp tục sử dụng nó như một cách bào chữa cho sự bất hạnh của bản thân; còn
nếu ta cố gắng thay đổi hoàn cảnh, điều này chứng minh cho một niềm tin sai lầm
rằng chúng ta phải làm như vậy mới có được cuộc sống hạnh phúc, thoát khỏi căng
thẳng. Lần sau, khi lại có việc xảy ra không như mong muốn, ta sẽ lại nghĩ phải thay
đổi hoàn cảnh, và tự đưa bản thân vào một vòng xoáy bất tận của stress.
Xét trường hợp bạn cho rằng sự bận rộn vốn đã căng thẳng. Theo đó, nếu bạn
không thể điều chỉnh lại kế hoạch làm việc của mình, thì thật không may là bạn không

bao giờ thoát khỏi cảm giác stress! Nếu bạn có thể thay đổi kế hoạch thì thực sự bạn
đã làm phức tạp hóa vấn đề − chứ không phải là giải quyết nó − bởi giờ đây bạn đã
xác nhận (trong tâm trí mình) rằng giả định của bạn là chính xác (“Mình phải thay đổi
kế hoạch làm việc để không cảm thấy stress trong cuộc sống”). Ngay cả khi việc thay
đổi kế hoạch công việc là đúng đắn, thì lần sau khi cảm thấy stress, bạn sẽ kết luận
một điều tương tự rằng bạn phải thay đổi hoàn cảnh hay môi trường để cảm thấy tốt
hơn.
Bạn không thể giải quyết hiệu quả những thứ không tồn tại trên thực tế. Stress
không tồn tại bên ngoài tư duy của chúng ta. Những suy nghĩ căng thẳng không hề
“thật” hơn những suy nghĩ bình thường; chúng chỉ là suy nghĩ mà thôi. Để loại bỏ
stress trong cuộc sống, đầu tiên cần phải hiểu rằng stress là cảm nhận của bạn về tình
huống, chứ không phải điều gì vốn có. Chẳng có mối quan hệ “nhân quả” nào giữa
những sự kiện trong cuộc sống của bạn và cảm giác stress cả.
Đối với những người bận rộn như chúng ta, kế hoạch làm việc không nhất thiết liên
quan đến cảm giác stress – bởi có rất nhiều người thậm chí còn bận rộn hơn ta nhưng
vẫn không hề cảm thấy stress! Vấn đề không phải là kế hoạch công việc, mà nằm ở tư
duy của người lập ra kế hoạch đó. Khi bạn hiểu rằng không tồn tại thứ gọi là stress,
mà chỉ có những suy nghĩ căng thẳng, bạn sẽ thấy mình thay đổi ngay lập tức và có
thể chịu trách nhiệm trước cuộc sống của chính mình. Khi định nghĩa lại stress, rằng
đó là thứ bạn có thể kiểm soát được, thì bạn hoàn toàn có thể duy trì cảm giác tích
cực, dù hoàn cảnh có tồi tệ đến đâu đi nữa.
Những suy nghĩ phát triển và gây “đau thần kinh” như thế nào
Suy nghĩ đối với stress cũng giống như nước và ánh mặt trời đối với khu vườn: khi
chúng ta suy nghĩ, nghiền ngẫm hay tập trung vào điều gì, thì nó sẽ lớn lên trong tâm
trí chúng ta. Cảm giác bất mãn dường như lại càng chính đáng hơn. Kh cảm thấy có
thứ gì đó gây bực mình, ta có thể biến cảm giác vớ vẩn đó thành ngọn nguồn lớn lao
gây ra stress, nếu ta nghĩ về nó quá nhiều. Đây là lý do tại sao rất nhiều người cảm
thấy phiền muộn vì những việc vặt vãnh. Nếu không hiểu được động lực của tư duy,
ta rất dễ khiến cho mọi thứ mất cân bằng.
Bạn bắt đầu với suy nghĩ: “Mình thực lòng không quan tâm lắm đến Joann.” Khi

suy nghĩ đó xuất hiện trong đầu, có hai khả năng xảy ra. Hoặc là bạn để ý đến nó, sau
đó gạt bỏ nó như một suy nghĩ thoáng qua. Hoặc là bạn tập trung vào nó và khiến nó
lớn dần lên. Nếu bạn bỏ qua, nó chấm dứt và bạn chuyển sang suy nghĩ khác. Giờ bạn
có thể bình tĩnh quyết định có dành thêm thời gian với Joann không và có nên làm gì
hay không. Còn nếu bạn tập trung vào suy nghĩ đó, nó sẽ phát triển và bạn sẽ cảm
nhận được sự căng thẳng nó gây ra. Bạn sẽ để ý rằng giọng của Joann nghe thật khó
chịu, và cô ấy còn có vài thói quen xấu nữa. Bạn nghĩ tới những lúc cô ấy đối xử tệ
với bạn, và đã làm những việc bạn không thể chấp nhận. Giờ bạn đã phát triển một
cơn “đau thần kinh” đỉnh điểm.
Bạn bắt đầu cảm thấy có chút tức giận và căng thẳng. “Hừ, cô ta nghĩ mình là ai
chứ?” Bạn nói chuyện với bạn bè về cô ấy xem họ có đồng ý với bạn hay không. Một
số người đồng ý, một số người thì không. Bạn buồn rầu nên chỉ muốn nói chuyện với
những người có cùng quan điểm với bạn về Joann. Những cảm giác khó chịu của
người khác càng củng cố cho cảm giác của bạn, và Joann nhanh chóng trở thành
“người xấu”, kẻ gây ra stress cho bạn.
Trong bất kỳ môi trường hay hoàn cảnh nào, những động lực cũng hoạt động tương
tự như vậy. Hẳn chúng ta đều đã nghe câu chuyện về việc đơn giản như cách bóp kem
đánh răng cũng trở thành ngọn nguồn của những bất hòa trong hôn nhân. Thực tế,
kem đánh răng hay cách người ta bóp kem chẳng liên quan gì đến mối bất hòa kia.
Chính những suy nghĩ và sự chú ý của chúng ta vào nó mới là nguyên nhân gây căng
thẳng. Ý nghĩ “Chẳng lẽ cô ấy không bóp kem theo kiểu khác được sao,” biến thành
một chuỗi suy nghĩ và kết nối với quá khứ. “Cô ấy lúc nào cũng làm việc vô tổ chức,”
“Mình cá cô ấy làm thế chỉ để chọc tức mình,” “Việc này đã xảy ra kể từ ngày mình
gặp cô ấy,” “Mọi thức cô ấy làm đều khiến mình khó chịu,” “Có lẽ những hành động
của cô ấy ám chỉ điều gì đó,” “Mình tin là những người đang yêu khác sẽ không bao
giờ làm như vậy,” “Chẳng ai phải chịu đựng những chuyện như mình,” v.v Dòng
suy nghĩ này xuất hiện ngay lập tức và tự động − trong hầu hết các trường hợp chúng
ta còn không nhận ra mình đang làm điều đó.
Lần đầu tiên mọi người nghe về lý thuyết mô tả stress xảy ra như thế nào trong
cuộc sống, họ thường tin rằng giải pháp đẩy lùi stress là vờ như mọi thứ không làm

phiền chúng ta. Tôi đảm bảo với bạn là không phải như vậy! Mà là, dù thế nào bạn
cũng phải thực sự không thấy bị bực mình, khó chịu vì những chuyện từng quấy rầy
bạn trong quá khứ. Khi bạn hiểu sâu hơn về quy trình này, bạn sẽ biết rằng nghiền
ngẫm những ý nghĩ căng thẳng cũng khiến việc truyền đạt suy nghĩ của bạn cho người
khác kém hiệu quả hơn.
Hầu hết mọi người có thể chấp nhận khi bạn đời của họ gợi ý thay đổi cách làm
một việc gì đó (với điều kiện người yêu cầu không trong tình trạng căng thẳng). Bạn
càng ít cảm thấy hoặc ít tỏ ra căng thẳng, người khác càng dễ chấp nhận các yêu cầu
của bạn hơn. Ngược lại, mức độ căng thẳng càng cao, bạn càng gay gắt với mọi người
và khiến họ chẳng muốn đáp ứng những yêu cầu của bạn.
Chẳng hạn, bạn có một người bạn thường xuyên đến muộn. Gần đây bạn nhận ra
“thói” này ngày một tệ hơn và quyết định nói với anh ta về chuyện đó. Nếu bạn giận
dữ, căng thẳng và bực tức nhắc cho anh ta tất cả những lần anh ta đến muộn, diễn tả
bạn cảm thấy thất vọng như thế nào… thì gần như bạn đang khiến anh ta phản ứng lại
đầy phòng thủ. Anh ta sẽ cảm nhận được sự hối thúc từ bạn và thấy chẳng việc gì phải
lắng nghe hay học hỏi từ bạn cả. Vì thế, anh ta tiếp tục đến muộn – hoặc thậm chí còn
muộn hơn thế nữa.
Tuy nhiên, nếu bạn duy trì được cảm giác thoải mái và bình tĩnh khi đưa ra vấn đề,
thì kết quả có thể ngược lại. Người đối diện sẽ lắng nghe bạn, và bạn sẽ giữ được cảm
giác tốt đẹp và sự tôn trọng của người đó.
Chi tiết những suy nghĩ của chúng ta
Những chi tiết cụ thể trong suy nghĩ là nguồn nuôi dưỡng sự chú ý của chúng ta, và
chúng có thể hòa lẫn với cảm giác căng thẳng. Nếu tâm trạng của bạn không tốt, và
bạn nghĩ, “Tôi không thích công việc của mình cho lắm,” thì có hai trường hợp xảy ra:
Bạn có thể vứt bỏ suy nghĩ đó và/hoặc quyết định nghĩ về nó sau, khi bạn cảm thấy tốt
hơn. Hoặc bạn có thể thêm vào từng chi tiết nhỏ − nghĩ về lý do tại sao bạn không
thích công việc của mình, do sếp của bạn hay do việc đi lại, v.v Ở đây, như nó
thường xảy ra, chi tiết trong suy nghĩ của bạn sẽ biến thành quả cầu tuyết – gia tăng
dần cảm giác căng thẳng của bạn. Giải pháp tốt hơn trong trường hợp này là loại bỏ
mọi suy nghĩ về công việc ra khỏi đầu. Đợi đến lúc sau này.

Trái với quan niệm thông thường, càng phân tích lý do khiến ta cảm thấy tồi tệ và
mọi việc khiến ta phiền muộn như thế nào, chúng ta sẽ càng cảm thấy nặng nề, và vấn
đề càng trầm trọng hơn chứ không hề thuyên giảm. Chỉ một cảm giác bứt rứt nhỏ
cũng có thể biến thành ngọn nguồn của stress trong cuộc sống.
Hãy tưởng tượng trong siêu thị, một nhân viên bán hàng to tiếng giục bạn khẩn
trương để viết hóa đơn. Sau đó bạn kể cho một người bạn nghe về sự việc xảy ra (thực
sự là một ý tưởng tồi). Bạn kể lại chi tiết giọng điệu của người đó như thế nào, chính
xác từng lời một, vẻ mặt cô ta, cảm giác của bạn, bạn muốn làm gì để trả đũa, vân vân
và vân vân. Khi bạn càng miêu tả chi tiết, sự việc càng giống như đang lặp đi lặp lại.
Cảm giác của bạn khi sự việc diễn ra chẳng là gì so với những gì bạn đang cảm thấy
lúc này, cho dù sự việc đã kết thúc và giờ bạn đang cố gắng ngồi chuyện trò vui vẻ
với bạn bè. Bởi lúc này bạn cảm thấy tức giận và bực bội, nên việc tiếp tục nói và
nghĩ về sự việc đó lại càng có lý do chính đáng. Hơn nữa, giờ bạn chắc chắn rằng tay
nhân viên đó chính là nguyên nhân gây ra cảm giác căng thẳng trong bạn! Vòng tròn
luẩn quẩn dường như không bao giờ kết thúc, bởi bạn luôn phó mặc sự định đoạt cho
mọi người và mọi việc. Trừ khi và cho đến khi thế giới cho bạn mọi thứ bạn ao ước và
khát khao thì bạn mới thôi buồn bực. Chính bạn tạo ra điều đó bằng cơn “đau thần
kinh.”
Để phá vỡ vòng luẩn quẩn này, cần hiểu rằng chính những suy nghĩ là nguyên nhân
khiến ta lo lắng, và chúng ta là chủ nhân suy nghĩ. Nếu bạn không nghĩ về sự việc ở
siêu thị, mà thay vào đó nói với bạn bè về chuyện khác, thì tay nhân viên đâu còn
trong tâm trí và chẳng thể làm bạn bực mình. Còn nếu bạn nghĩ ngợi và tái diễn nó,
suy nghĩ sẽ làm cho sự việc sống lại. Mọi chi tiết bạn nhớ sẽ tiếp tục kích thích vào
cảm giác.
Để chống lại xu hướng này, chúng ta không cần dùng đến sức mạnh ý chí hay vờ
như chưa từng có suy nghĩ tiêu cực. Tất cả chúng ta đều có những suy nghĩ tiêu cực
xuất hiện trong đầu hết lần này đến lần khác. Điều chúng ta có thể làm là bỏ qua
chúng thường xuyên hơn, thay vì theo đuổi chúng, mặc dù ta đã làm điều này vô số
lần trong quá khứ. Nếu bạn có những suy nghĩ tức giận về người bán hàng, hãy hiểu
rõ bản chất của chúng: chỉ là những suy nghĩ giận dữ. Bạn không cần phải làm gì với

chúng cả − chỉ cần để chúng qua đi.
Một ví dụ của tôi
Vài năm trước, tôi tin rằng nói chuyện trước đám đông là việc vô cùng căng thẳng.
Mỗi lần phải nói chuyện với một nhóm người, tôi sẽ để ý và nghĩ về tất cả những điều
gây áp lực cho bản thân. Tôi để ý mình toát mồ hôi như thế nào và lo lắng ra sao; sau
bài nói chuyện, tôi nghĩ đến tất cả những điều đã quên không nhắc tới, và nhớ lại
những khán giả không tỏ ra lắng nghe mình. Cuối cùng, tôi thậm chí còn đọc những
cuốn sách về giả định “chính xác” của tôi rằng nói chuyện trước công chúng là việc
vốn đã khó khăn và đầy căng thẳng, tôi cũng lắng nghe bạn bè, đồng nghiệp hay bất
cứ ai ủng hộ niềm tin hiện hữu của mình.
Tất nhiên là kết luận của tôi luôn giống nhau: “Mình đã đúng, nói chuyện trước
công chúng rất căng thẳng.” Càng nghĩ nhiều về nó, tôi càng lo lắng nhiều hơn, và
việc diễn thuyết càng trở thành ngọn nguồn chính gây ra stress cho tôi. Tôi không hề
biết rằng mình đang tạo ra stress bằng suy nghĩ của chính bản thân. Tôi tin rằng việc
diễn thuyết vốn đã căng thẳng nên tôi không thể hy vọng điều gì, ngoài việc làm quen
với nó.
Cho đến khi tôi nhận ra stress thực chất chỉ đến từ chính những suy nghĩ và niềm
tin của mỗi người về nó, khả năng diễn thuyết của tôi bắt đầu được cải thiện. Tôi suy
nghĩ ít hơn về kết quả và những căng thẳng khi thuyết trình, thay vào đó, tôi nghĩ về
những gì mình chuẩn bị nói và cách thức trình bày các vấn đề. Thay vì tập trung vào
những người không lắng nghe mình, tôi tập trung vào những người có vẻ thích thú
trước những gì tôi nói. Quên đi những áp lực mà mình tưởng tượng ra, tôi thoải mái
đầu óc và thư giãn. Huyết áp giảm xuống, tôi bắt đầu cảm thấy vui vẻ và trở thành
một diễn giả tốt hơn.
Hoạt động tâm lý lành mạnh
Stress sẽ luôn xảy đến (bất chấp hoàn cảnh) khi chúng ta nghiêm trọng hóa những
suy nghĩ trong đầu − và thổi phồng chúng lên. Ví dụ, sếp nói với bạn rằng bạn phải
hoàn thành một dự án mới trong hai tuần, và bạn còn vài việc khác nữa đang đến hạn.
Hoạt động tâm lý lành mạnh bao gồm việc tiếp nhận thông tin ở tai này, để nó đi
qua não và đi ra ở tai kia. Việc này cho phép bạn thực hiện một quy trình hành động

hợp lý nhất. Phản ứng của bạn với những nhiệm vụ trước mắt sẽ khác nhau, tùy thuộc
vào việc bạn muốn bắt đầu sớm hay muộn. Hoạt động tâm lý lành mạnh không cho
phép bạn mất bình tĩnh, lo lắng, chán nản, giận dữ hoặc tự thương hại mình. Thay vào
đó, nó cho phép bạn nhìn sự việc với đầu óc thư thái để có giải pháp tốt nhất cho tình
huống đặt ra.
Hoạt động tâm lý không lành mạnh (stress) cũng bao gồm việc tiếp nhận thông tin,
nhưng thay vì để nó trôi qua, bạn sẽ bị “đau thần kinh” – tập trung và phân tích dữ
liệu rồi cảm thấy thất vọng. Rốt cuộc bạn sẽ bảo, “Mình lúc nào cũng ngập trong
những thời hạn công việc,” hoặc “Mình sẽ chẳng bao giờ làm xong được,” hoặc “Tại
sao lại là mình?”.
Hoạt động tâm lý không lành mạnh có thể biến ngay cả những việc nhỏ nhất thành
một cơn ác mộng. Tôi từng thấy một người đưa thư hoảng hốt và giận dữ khi anh ta
phải đưa thư thêm cho hai nhà nữa – từ ba mươi lên ba mươi hai! Với hầu hết mọi
người, con số tăng thêm này hoàn toàn có thể giải quyết được; nhưng với anh ta, đó
lại là một tình huống cực kỳ căng thẳng.
Chìa khóa để loại bỏ stress khỏi cuộc sống của chúng ta là hiểu rằng chính ta tạo ra
stress, giống như trường hợp của người đưa thư vậy. Mỗi khi để thứ gì đó bùng nổ
trong đầu là khi chúng ta tự tạo tiền đề cho stress. Chỉ cần hiểu được động lực tâm lý
này, ta có thể bắt đầu gạt bỏ những suy nghĩ can thiệp vào hoạt động tâm lý lành
mạnh và trở lại với trạng thái tự nhiên nhất của mình: trạng thái hài lòng, mãn nguyện.
Mục đích của stress
Stress là một cảm giác không dễ chịu. Cảm giác là những chỉ dẫn về phương
hướng, hay chiếc la bàn cho chúng ta biết tại mỗi thời điểm, tâm lý của chúng ta đang
như thế nào. Chúng ta có đang cảm thấy hài lòng hay không? Chúng ta có hạnh phúc
với những gì đang có trong tay? Hay chúng ta đang nghiêm trọng hóa những suy nghĩ
của bản thân và bị mắc kẹt trong hệ tư tưởng của chính mình?
Mục đích của stress là để cảnh báo chúng ta mỗi khi ta hướng tới mối nguy hiểm về
tâm lý. Mức độ stress càng cao, ta càng phải nhanh chóng vứt bỏ những suy nghĩ
trong đầu. Stress có thể là một người bạn – khi cho chúng ta biết trước khi nào ta đang
lạc hướng hạnh phúc, rời xa tư duy mạch lạc.

Stress về mặt sinh lý cho thấy điều đó một cách rõ ràng nhất. Ví dụ, nếu cảm thấy
cơn lạnh đang kéo đến (stress về mặt sinh lý mức độ thấp), chúng ta có thể quyết định
xin nghỉ phép một ngày. Khi stress về mặt sinh lý tăng lên, chúng ta chú ý hơn tới
cảm giác của mình và đưa ra những quyết định nhằm tống khứ stress ra khỏi cơ thể.
Vì thế một vận động viên bị trật mắt cá chân có thể sẽ quyết định ngừng luyện tập để
chờ nó lành lại. Cảm giác càng tồi tệ, nhu cầu nghỉ ngơi càng tăng lên.
Stress về mặt tâm lý cũng có mục đích tương tự. Cảm giác càng nặng nề, nhu cầu
sống càng chậm lại hoặc dừng hẳn lại không chỉ những gì bạn đang làm, mà quan
trọng hơn là cả những gì bạn đang nghĩ. Nhưng vì lý do nào đó, không phải lúc nào
chúng ta cũng nhìn thấy rõ điều này. Thực tế, khi mọi người cảm thấy stress cũng
thường là khi họ xắn tay lên làm việc. Nếu cảm thấy có vấn đề trong mối quan hệ, họ
sẽ cố gắng “hiểu nguyên nhân của vấn đề”, hoặc nếu suy nghĩ chuyện gì trong đầu, họ
sẽ quyết tâm tìm ra bằng được; nếu có việc cần làm, họ sẽ đặt chân lên bàn đạp ga và
nhấn ga.
Động lực của stress về mặt thể chất và tinh thần hoạt động giống hệt như nhau. Khi
mệt mỏi, chúng ta không có phong độ tốt nhất, và khi stress về mặt cảm xúc cũng vậy.
Khi cảm thấy căng thẳng, chúng ta mất sức chịu đựng về mặt tâm lý, cũng như trí tuệ
và khả năng thường thức; chúng ta có xu hướng nghiêm trọng hóa vấn đề; chúng ta
không còn cái nhìn bao quát và thường lạc lối trong những tiểu tiết.
Giảm sức chịu đựng với stress
Thật ngạc nhiên, giải pháp cho stress là phải giảm sức chịu đựng với stress. Điều
này trái ngược với những gì hầu hết chúng ta được dạy, nhưng đó là sự thật. Việc
giảm sức chịu đựng stress dựa trên một nguyên tắc đơn giản là mức độ stress bên
trong luôn cân bằng đúng với sức chịu đựng của chúng ta ở thời điểm hiện tại. Đó là
lý do tại sao những người có khả năng đối phó với stress cao độ luôn phải làm như
vậy.
Những người quá dung túng cho stress có thể kết thúc bằng một cơn đau tim liên
quan đến stress trước khi để ý và nhận ra stress muốn nói với họ điều gì. Những người
khác có thể kết thúc cuộc hôn nhân của họ hoặc đang trong trại phục hồi vì nghiện
rượu hay chất kích thích. Những ai có sức chịu đựng stress thấp hơn có thể chú ý đến

stress ngay từ sớm, khi công việc của họ bắt đầu có vẻ lu bù hoặc khi họ đang quát
mắng con cái. Còn có những người không thể chịu đựng được một chút stress nào, họ
cảm thấy phải sống chậm và lấy lại bình tĩnh khi họ bắt đầu có suy nghĩ tiêu cực về
bạn bè hay gia đình.
Mức độ chịu đựng stress càng thấp, tâm lý chúng ta càng ổn định hơn. Khi mục
tiêu của chúng ta là nhận ra stress càng sớm càng tốt, ta có thể “bóp chết nó ngay từ
trong trứng nước” và nhanh chóng quay lại với trạng thái cảm xúc tích cực hơn.
Chúng ta có quyền lựa chọn; thực chất, chúng ta có một loạt “các lựa chọn” trong bất
cứ tình huống nào. Càng đợi lâu để xóa đi những suy nghĩ căng thẳng, ta càng khó
quay lại trạng thái tâm lý bình thường. Cuối cùng, chỉ cần luyện tập thì bất cứ ai trong
chúng ta cũng có thể nhận ra những suy nghĩ tiêu cực của bản thân trước khi chúng
kéo ta đi chệch hướng. Hãy nhớ rằng thứ ngăn cách giữa bạn và cảm giác tích cực chỉ
là một ý nghĩ mà thôi.
Cách hiểu mới này về stress không phải là liều thuốc cho sự lười biếng hay thờ ơ −
thực tế là ngược lại. Càng cảm nhận được sự yên bình và hạnh phúc bên trong, và
càng ít bị phân tâm bởi những suy nghĩ của chính mình, chúng ta càng hoạt động hiệu
quả và năng suất trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Chương 8: Giải quyết các vấn đề
Vấn đề chung của bạn, tôi và tất cả mọi người là không thích những thứ vốn công
bằng trong cuộc sống, mà trước hết là tìm kiếm những điều có thể rồi tìm cách làm
cho nó công bằng theo ý của riêng ta.
Thành một thứ hoàn toàn khác lạ!
— Robert Browning
Có một vài điểm quan trọng mà bạn cần xem xét khi cố gắng giải quyết bất kỳ vấn
đề nào trong cuộc sống. Trong chương này, chúng ta sẽ thảo luận cách giải quyết các
vấn đề bằng những kiến thức về năm nguyên tắc của hoạt động lành mạnh.
Điển hình là mọi người thường nghĩ rằng giải pháp cho các vấn đề đến từ sự thay
đổi của hoàn cảnh hoặc từ một quá trình tư duy gian khổ. Nhưng có một giải pháp
khác – những hiểu biết về các vấn đề không phải ngẫu nhiên và để áp dụng khái quát
vào tất cả các vấn đề. Đầu tiên, chúng ta sẽ học cách xử lý vấn đề bằng cách nhìn vào

những hạn chế của các phương pháp tiếp cận điển hình này, sau đó tìm ra cách hiệu
quả nhất để vượt qua các vấn đề hay sự đau khổ.
Xem xét quan điểm phổ biến cho rằng thay đổi hoàn cảnh là phương thức cơ bản để
giải quyết vấn đề. Rõ ràng có những thời điểm trong cuộc sống, hoàn cảnh của chúng
ta không được như mong đợi. Nhưng cách nhìn của chúng ta với hoàn cảnh sẽ thay
đổi dựa vào mức độ của cảm xúc và tâm trạng. Chúng ta sẽ nhìn hoàn cảnh theo vô số
cách khác nhau, tùy theo cảm xúc của bản thân. Khi tâm trạng khó chịu, chúng ta có
thể coi cuộc hôn nhân của mình là gánh nặng hoặc là một cái bẫy. Còn khi cảm xúc
tích cực, tâm trạng phấn khởi, chúng ta lại thấy đó là một cuộc hôn nhân tuyệt vời.
Lúc tâm trạng không tốt, ta thấy công việc của mình tẻ nhạt và tầm thường, nhưng khi
tâm trạng tốt lên, nó lại là một công việc đáng hài lòng, vững chắc và là một cách
kiếm sống lương thiện. Trong cả hai ví dụ trên (cũng như rất nhiều ví dụ khác), hoàn
cảnh không thay đổi chút nào. Thứ thay đổi là mức độ tâm trạng – cảm xúc của chúng
ta. Khi nhận ra mối quan hệ giữa tâm trạng hiện tại và vấn đề ta đang đối mặt, chúng
ta sẽ hiểu rằng câu trả lời cho các vấn đề không nhất thiết phải gắn chặt với sự thay
đổi hoàn cảnh. Khi tâm trạng và cảm giác tốt lên, chúng ta không chỉ nhìn hoàn cảnh
theo cách hoàn toàn khác biệt, mà còn đưa ra lời giải cho các vấn đề mà ta không thể
tìm ra khi đang buồn bực trong lòng.
Hãy nhớ rằng tâm trạng là nguồn gốc của trải nghiệm, chứ không phải kết quả của
trải nghiệm. Khi tâm trạng tồi tệ nhất, chúng ta sẽ luôn nhìn thấy các vấn đề và lý do
chúng tồn tại. Điều này sẽ chẳng có gì ngạc nhiên, khi chúng ta hiểu được sức mạnh
của tâm trạng đối với nhận thức con người; chúng ta thường gây ra vấn đề khi tâm
trạng không tốt. Nhưng ta cũng biết chờ đợi nó qua đi, thay vì lắng nghe hoặc tin vào
cảm giác của mình lúc đó. Hoàn cảnh sẽ trở nên vô cùng khác biệt khi chúng ta cảm
thấy dễ chịu hơn, và sẽ tìm được những câu trả lời mới mẻ.
Thay đổi hoàn cảnh và giải quyết vấn đề
Hoàn cảnh luôn mang tính trung lập. Nếu chúng là nguồn gốc của mọi vấn đề thì
chúng phải luôn tác động lên chúng ta theo cùng một hướng. Nhưng tất nhiên không
phải như vậy. Chính suy nghĩ và nhận thức của chúng ta về hoàn cảnh mới gắn ý
nghĩa cho chúng.

Giả sử bạn cho rằng bạn đời của mình quá khắt khe với bạn. Theo mô hình giải
quyết vấn đề bằng cách “thay đổi hoàn cảnh”, phương án duy nhất là cố gắng thay đổi
hành vi của người đó. Bạn đem vấn đề ra để chỉ trích, bạn đời của bạn không đồng ý
với bạn và nói: “Chỉ là anh/em quá nhạy cảm thôi.” Giờ thì sao đây?
“Hiệp hai” – bạn đề cập vấn đề một lần nữa. Tuy nhiên lần này, người bạn đời
không bình tĩnh nữa mà buộc tội bạn châm ngòi cho chiến tranh. Bạn đáp trả,
“Anh/em thấy chưa? Chính anh/em đang chỉ trích rồi đấy.” Và sự việc cứ thế tiếp
diễn. Trừ khi bạn có thể khiến cho người đó thay đổi (một việc rất khó khăn), nếu
không, bạn không thể giải quyết được vấn đề.
Hãy xét một ví dụ tiêu biểu khác. Vấn đề của bạn là bạn tin rằng mình quá già hoặc
quá trẻ để làm một việc gì đó. Giờ thì thay đổi hoàn cảnh ư? Không thể nào! Nếu vấn
đề của bạn là tiền bạc (quá túng thiếu chẳng hạn)? Bạn không thể thay đổi hoàn cảnh,
vậy thì lúc đó bạn sẽ làm gì? Tiếp tục sống trong bất hạnh cho đến khi có nhiều tiền
hơn?
Trong mỗi ví dụ trên, vấn đề luôn liên quan đến tâm trạng. Khi tâm trạng không tốt,
bạn sẽ thấy người bạn đời của mình quá khắt khe, mỗi gợi ý đều là một đòn công kích.
Khi tâm trạng tốt hơn, cũng những từ đó thốt ra từ miệng vợ/chồng bạn, nhưng bạn lại
chẳng hề thấy phiền lòng. Khi tâm trạng không tốt, một số yếu tố như tuổi tác, giới
tính, dân tộc hay tôn giáo dường như cản trở những trải nghiệm của bạn, và làm hại
bạn một cách phi lý. Nhưng khi tâm trạng tốt hơn, bạn không còn chú tâm đến đặc
điểm và hoàn cảnh của bản thân nữa, mà chỉ cố gắng hết sức với con người thật của
chính mình. Bạn sẽ hướng về những hoạt động phù hợp nhất với mình. Khi trạng thái
cảm xúc tốt hơn, bạn sẽ nhận ra sự chân thành và lo lắng cho bạn trong những đề nghị
từ người khác, thay vì cảm thấy bị xúc phạm.
Khi tâm trạng tồi tệ, nếu vấn đề là thiếu tiền, thì có vẻ điều đáng giá và đem lại
niềm vui đều cần rất nhiều tiền để thực hiện. Nhưng khi cảm thấy dễ chịu hơn, bạn sẽ
không nghĩ theo cách đó, bạn sẽ tìm ra những hoạt động thú vị trong khả năng tài
chính của mình, dù nó có eo hẹp đến mức nào. Khi tâm trạng tốt lên, chúng ta đã có
đủ những thứ ta cần để cảm thấy vui vẻ, thoải mái. Những thứ chúng ta không có
dường như không còn quan trọng nữa, và chúng ta cảm thấy dễ chịu với những gì

đang có. Chúng ta vẫn theo đuổi những mục tiêu, nhưng chúng không gây áp lực hay
hủy hoại cuộc sống của chúng ta. Thay vào đó, chúng ta có thể hướng tới những gì ta
muốn trong khi vẫn tận hưởng được những gì đã có.
Cái nhìn của chúng ta trước hoàn cảnh sẽ luôn thay đổi cùng với tâm trạng và cảm
xúc thất thường của bản thân. Do đó, những lúc thay đổi tích cực là việc nên làm,
nhưng ta không nên coi đó là đáp án duy nhất.
Hầu hết mọi người đều trải qua những giai đoạn cảm thấy “không thích những gì
mình đang làm”. Tuy nhiên, rất nhiều người không nhận ra rằng phần lớn thời gian họ
thích những việc mình làm. Bởi họ tin vào những cảm giác của bản thân khi tâm trạng
không vui; họ nhảy hết từ việc này sang việc khác và nghĩ rằng những thứ mới mẻ sẽ
đem lại cho họ cảm giác hài lòng hơn. Nhưng khi tâm trạng khó chịu, chính người này
cũng sẽ không thích công việc mới của mình nữa. Lập luận này cũng áp dụng cho
những tình huống khác trong cuộc sống.
Chờ đợi tâm trạng thay đổi là việc dễ dàng và thực tế hơn nhiều so với chờ đợi
hoàn cảnh thay đổi. Vậy thì đừng cố gắng giải quyết các vấn đề cho đến khi chúng ta
cảm thấy dễ chịu hơn. Khi trạng thái cảm xúc tích cực hơn, chúng ta mới vận dụng
được trí tuệ và khả năng thường thức của mình. Khi cảm giác dễ chịu, những câu trả
lời mà chúng ta không thể tìm ra khi tâm trạng không tốt bỗng trở nên hiển hiện.
Người vợ/chồng từng khiến chúng ta phát điên cách đây một tiếng đồng hồ giờ lại trở
nên vui vẻ. Chúng ta tìm những cách mới để giao tiếp; khi tâm trạng vui vẻ, chúng ta
thậm chí còn nhận ra tâm trạng ảnh hưởng đến hiệu quả giao tiếp như thế nào.
Nếu một tiếng trước (khi tâm trạng khó chịu) tuổi tác của bạn làm bạn thấy vô cùng
buồn chán, thì giờ đây tuổi tác với bạn chẳng thành vấn đề. Trong trạng thái tích cực
này, bạn nhìn ra những cách thức sáng tạo mới mẻ để biến tuổi tác của mình thành lợi
thế. Bạn nhận ra những kỹ năng của mình là độc nhất. Còn khi tâm trạng không vui,
mọi thứ dường như vô vọng.
Khi tinh thần dễ chịu, bạn nghĩ ra cách mới để tạo thu nhập. Bạn sáng tạo hơn, hiểu
biết sâu sắc hơn và trân trọng những kỹ năng của mình. Bạn thấy được những lựa
chọn từng là vô hình với bạn khi tâm trạng không vui.
Do đó, một trong những điều then chốt để giải quyết vấn đề là phải hiểu rằng “cảm

giác dễ chịu” vô cùng thiết thực. Cảm giác dễ chịu đến trước. Giải quyết vấn đề đến
sau. Điều này trái ngược với ý tưởng “thay đổi hoàn cảnh”, trong đó hạnh phúc phụ
thuộc vào những kết quả nhất định. Khả năng giải quyết vấn đề của chúng ta gắn chặt
với khả năng sử dụng trí tuệ và khả năng thường thức, và cả hai chỉ đến trong trạng
thái tinh thần hoặc cảm xúc tích cực mà thôi.
Bạn chỉ cần nghĩ lại hàng nghìn lần hoàn cảnh của bạn thay đổi để nhận ra rằng sự
thay đổi tự nó không phải là chìa khóa cho hạnh phúc hay giải quyết các vấn đề của
bạn. Nếu đúng là như vậy thì tất cả chúng ta đã đều hạnh phúc và chẳng còn khó khăn
nào rồi! Nhưng không phải vậy. Tất cả chúng ta đều thay đổi hoàn cảnh để hướng tới
những điều tốt đẹp hơn: chúng ta nhận bằng đại học, có việc làm, được ghi nhận, được
thăng chức, tưởng thưởng hoặc những thứ tương tự mà chúng ta tưởng sẽ làm mình
hạnh phúc. Nhưng ngay sau khi nhận được chúng, ta lại mất đi cảm giác hạnh phúc,
và lại tiếp tục tìm kiếm những cách tốt hơn để thay đổi hoàn cảnh và cải thiện cuộc
sống.
Cách để thoát khỏi cái bẫy tâm lý này là hiểu rằng các vấn đề được tạo ra từ cách
cảm nhận của chúng ta, chứ không phải từ hoàn cảnh. Thời khắc chúng ta ngừng cố
gắng thay đổi hoàn cảnh và tập trung nâng cao trạng thái tinh thần, những khó khăn sẽ
dần dần biến mất. Những người sống trong hạnh phúc nhìn thấy những đáp án họ
chưa từng thấy khi buồn chán. Họ bắt đầu có khả năng đối phó với mọi thử thách, bởi
họ không còn lãng phí năng lượng để cố giải quyết vấn đề khi tâm trạng không vui
nữa – đó là lúc câu trả lời không bao giờ xuất hiện.
Phân tích vấn đề
Phương pháp “phân tích” mà mọi người thường sử dụng để giải quyết vấn đề đòi
hỏi sự cân nhắc kỹ càng, với hy vọng đưa ra giải pháp. Với cách tiếp cận này, chúng
ta cố gắng suy nghĩ, tính toán, giải nghĩa và phân tích các vấn đề ta đang gặp phải.
Tuy nhiên, bản chất của vấn đề lại nằm ở chỗ, chúng ta thường bị “mắc kẹt” vào
một thứ gì đó. Và chẳng hiểu sao chúng ta không thể tìm ra câu trả lời. Giải pháp chỉ
đến khi chúng ta nhìn sự việc theo một cách mới mẻ và tươi sáng – để trí tuệ nổi lên
và phát huy vai trò của nó. Nghe có vẻ châm biếm, nhưng chúng ta cần ngừng suy
nghĩ về vấn đề hòng tìm ra giải pháp mới! Chúng ta cần dùng “bộ truyền dẫn” thay

cho “máy tính”. Khi đầu óc chúng ta không còn vướng bận những lo toan, câu trả lời
sẽ xuất hiện theo cách chúng ta chẳng thể nào tưởng tượng được. Trí tuệ thần bí ở chỗ
nó có thể nhìn những sự việc cũ kỹ theo lối hoàn toàn khác lạ − một cách nhìn mới mẻ
và tươi sáng.
Qua cuốn sách này, chúng ta đã thấy suy nghĩ của con người lớn lên như thế nào
khi chúng ta chú ý đến nó, và chúng ta càng nghĩ về một tình huống thì sự việc dường
như càng trở nên hiện hữu và khủng khiếp hơn. Tất nhiên, những vấn đề cũng không
phải là ngoại lệ!
Câu chuyện của Fred
Fred là một khách hàng cần tôi tư vấn về vấn đề tiền bạc. Ông cho rằng dù đã cố
gắng không ngừng, nhưng ông không bao giờ có đủ tiền để lo cho gia đình. Hai mươi
năm gần đây ông luôn lo lắng, cố hết sức để “nghĩ” ra một giải pháp tốt đẹp. Ông lật
đi lật lại một chuỗi những sự việc trong đầu, và mỗi lần như vậy, ông lại trở nên chán
nản và tuyệt vọng.
Chán nản không phải là trạng thái tinh thần hiệu quả nhất – mà đó có lẽ là trạng
thái “vô tích sự” nhất của chúng ta. Suy nghĩ về điều gì đó khi chúng ta đang chán nản
là việc làm vô ích, bởi vấn đề quá gần khiến ta không thể nghĩ ra giải pháp. Nỗi ám
ảnh với tiền bạc của Fred chỉ gây thêm buồn chán, chứ không giúp đưa ra câu trả lời.
Khi Fred bắt đầu nhận thấy những suy nghĩ đó đang chống lại thay vì giúp ích cho
mình, Fred đã lùi một bước, sống chậm lại để đầu óc thư giãn. Khi sự rối loạn giảm
xuống, trạng thái cảm xúc của Fred tích cực hơn và có được đáp án cho vấn đề của
mình. Fred nhận ra rằng ông luôn có khả năng giải quyết vấn đề về tiền bạc, chỉ cần
ông đừng quá chú ý đến nó.
Hóa ra “giải pháp” lại nằm trong chính một sở thích mà Fred đã theo đuổi nhiều
năm nay. Với tâm hồn thanh thản hơn và nhận thức khoáng đạt hơn, ông thấy mình
cần phải biến sở thích đó thành cơ hội kinh doanh – và ông đã làm đúng như vậy. Giờ
đây, ông đã luôn dư giả tiền bạc.
Gần như tất cả chúng ta đều từng trải qua một quy trình tương tự, trong đó ta cố
gắng giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Một người bạn của tôi gọi quy trình này là
“hiệu ứng quả cầu tuyết”. Khi chúng ta nghĩ về một vấn đề, nó lớn dần lên trong tâm

trí chúng ta. Khi đó, ta cho rằng vấn đề trở nên trầm trọng hơn, bởi giờ đây chúng ta
thấy nó càng chi tiết và “rõ ràng” hơn. Càng suy xét vấn đề, nó càng lớn hơn, vì vậy ta
nói chuyện với bạn bè và gia đình về nó. Họ nhanh chóng đồng ý. Giờ thì chúng ta
thực sự có vấn đề rồi!
Einstein từng nói, “Giải pháp cho một vấn đề sẽ không bao giờ đến từ cùng một
mức độ nhận thức so với lúc ban đầu khi vấn đề được tạo ra.” Tôi tin điều ông muốn
ám chỉ chính là chúng ta cần lùi xa vấn đề nếu muốn kiếm tìm giải pháp. Lùi lại là
cách diễn đạt khác cho việc “ngừng tập trung vào nó”.
Có lẽ bạn cũng đã từng trải qua việc suy nghĩ đến mức ám ảnh về chuyện gì đó,
trong nỗ lực thật sự tìm kiếm câu trả lời. Bạn không ngừng nghĩ về nó, rồi cuối cùng
bạn bỏ cuộc, nhìn ra cửa sổ và chú ý đến cảnh đẹp bên ngoài, hoặc ngâm mình trong
bồn tắm để thư giãn. Ngay lúc đó, lời giải đến với bạn. “Đúng rồi!” bạn hoan hỉ, “Đó
chính là câu trả lời mình đang tìm kiếm.” Thật không may, như tôi đã đề cập ở phần
đầu cuốn sách, bạn có thể đã kết luận sai lầm rằng chính những suy nghĩ ám ảnh đó
cuối cùng đã tạo ra câu trả lời. Không hề! Câu trả lời đến với bạn chính là nhờ nguồn
gốc trí tuệ của bạn – nơi vượt ra ngoài suy nghĩ – từ một cảm giác hài lòng và thư thái
trong chốc lát. Bạn đã nắm mọi thông tin và có đủ dữ liệu cần thiết. Việc cuối cùng
bạn cần làm là dọn đường cho câu trả lời xuất hiện. Bạn phải ra khỏi lối mòn của
mình!
Quy trình “không nghĩ quá nhiều về các vấn đề” này phát huy tác dụng trong tình
huống về quan hệ hôn nhân và các mối quan hệ tình cảm. Tôi đã thấy rất nhiều cặp
đôi thường xuyên gây lộn, cãi vã suốt nhiều năm xung quanh một vấn đề. Ai cũng thú
nhận rằng họ dành phần lớn thời gian trong ngày để nghiền ngẫm về cuộc hôn nhân
tồi tệ của mình. Họ không hề biết rằng, chính vì quá chú ý tới những suy nghĩ đó mà
họ không thể có một cuộc hôn nhân hạnh phúc: họ tập trung quá nhiều vào việc cuộc
hôn nhân của mình tồi tệ đến mức nào. Những cặp đôi này đã dành nhiều năm để “gọt
giũa” hình ảnh một cuộc hôn nhân không hạnh phúc trong đầu – họ nghĩ đi nghĩ lại
chừng ấy vấn đề nhằm cố gắng “sửa chữa người khác”.
Hầu như không có ngoại lệ, những ai hiểu được quy trình của tư duy đều có thể
nhận ra động lực này và gần như ngay lập tức cải thiện mối quan hệ của họ. Nhận

thức mới mẻ đó không phải là vờ như mọi chuyện không làm họ bận tâm, mà là hiểu
được tại sao ban đầu mọi thứ lại khiến họ cảm thấy khó chịu. Phải tạo ra những giải
pháp khôn ngoan cho các vấn đề thường ngày.
Vấn đề của chúng ta trở thành đề tài cho các cuộc bàn luận
Tập trung vào những vấn đề khó khăn là một thói xấu. Chúng ta quá quen với việc
ngẫm nghĩ về những chuyện “không hay” đến mức lấy chúng làm đề tài khi trò
chuyện với mọi người. Tập trung vào những điều phiền muộn (dù là điều gì) không
làm ta cảm thấy dễ chịu hơn. Nếu thấy ai đó đối xử không phải với mình, thì nói về nó
đâu có ích gì. Nếu chúng ta có “một ngày tệ hại” ở công sở hoặc ở nhà, thì nghĩ ngợi
về nó cũng vô ích! Nếu hoàn cảnh dường như vô vọng, thì nghiền ngẫm về chúng
cũng không khiến sự việc tốt hơn. Việc thực sự có ích là tăng cường trạng thái tích
cực của bản thân bằng cách ngừng tập trung vào vấn đề, không cung cấp thêm cho
chúng năng lượng và sự chú ý cần thiết để chúng lớn dần lên trong tâm trí ta nữa –
việc này chỉ khiến tinh thần thêm tồi tệ mà thôi. Chúng ta làm như vậy không phải để
tránh đối mặt với vấn đề, mà là để dành chỗ cho những giải pháp nảy sinh.
“Sân sau” của bạn sẽ đưa ra câu trả lời
Đôi khi, giải quyết vấn đề có nghĩa là chúng ta có một câu hỏi trong đầu cần lời
giải đáp. Có thể chúng ta cần đưa ra một quyết định quan trọng hoặc lựa chọn giữa hai
giải pháp có vẻ ngang bằng nhau. Hãy để “sân sau” giúp bạn.

×