Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

KẾT CẦU ĐỀ THI HẾT MÔN TRIẾT HỌC SAU ĐẠI HỌC KHÔNG CHUYÊN TRIẾT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.75 KB, 39 trang )

KẾT CẦU ĐỀ THI HẾT MÔN TRIẾT HỌC
SAU ĐẠI HỌC KHÔNG CHUYÊN TRIẾT
- 02 câu/đề gồm 01 câu phần lịch sử triết và 01 câu phần Triết Mác-Lênin
- Tỷ lệ điểm: 4-6 hoặc 5-5
- Câu thuộc phần Triết Mác-Lênin gồm lý thuyết và vận dụng (tỷ lệ điểm
thường 2-3 nếu câu 5 điểm và 3-3 nếu câu 6 điểm). Vì vậy, cần tập trung làm
phần vận dụng. Phần lý thuyết chỉ cần lược nội dung, không phân tích sâu, trình
bày rõ ràng, mạch lạc.
HỆ THỐNG CÁC VẤN ĐỀ CẦN ÔN TẬP
- Về nguyên tắc: Toàn bộ chương trình
- Tập trung vào Chương VIII (lý luận hình thái KT-XH) và đọc thêm các
chương về giai cấp, nhà nước, con người (nắm tinh thần cơ bản để vận dụng cho
lý luận hình thái KT-XH)
THƯỜNG MỘT BÀI LUẬN CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI GỒM CÁC PHẦN
- Dẫn luận (phổ thông gọi là mở bài): Nên đề cập trực tiếp đối tượng chính
của đề bài.
- Nội dung chính (phổ thông gọi là thân bài) gồm lý thuyết và vận dụng.
- Giá trị (tức kết luận): thường là khẳng định những yếu tố khoa học và
cách mạng của lý luận mà ta đang vận dụng và đánh giá sự vận dụng nó trong
đời sống hiện thời (được và chưa được, vấn đề đặt ra) => Ngắn gọn vài dòng.
CÁCH LÀM BÀI TRIẾT THEO CÁC FORM ĐỂ
1. LOẠI ĐỀ VỀ NGUYÊN TẮC (phương pháp luận) như nguyên tắc khách
quan, nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn, nguyên tắc toàn diện : Phần lý
thuyết rất ngắn gọn gồm các nội dung chính của phần LÝ THUYẾT là KHÁI
NIỆM (khách quan? ), CƠ SỞ LÝ LUẬN, NỘI DUNG NGUYÊN TẮC, Ý
NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC. Phần VẬN DỤNG (phải bám vào nội dung
nguyên tắc đê vận dụng. Chú ý phần này được 1/2 trên tổng số điểm của câu).
2. LOẠI ĐỀ VỀ 1 VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH NÀO ĐÓ CỦA TRƯỜNG PHÁI
TRIẾT HỌC NÀO ĐÓ (Ví dụ về vấn đề bản thể luận hoặc vấn đề con người
hoặc vấn đề nhận thức luận của triết học Phục hưng hoặc của triết học Ánh
sáng hoặc của triết học Cổ điển Đức ) thì cách làm: Khái lược HOÀN CẢNH


RA ĐỜI, NỘI DUNG, GIÁ TRỊ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIAI ĐOẠN SAU hoặc
ẢNH HƯỞNG ĐẾN 1 TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC CỤ THỂ NÀO ĐÓ (tùy
yêu cầu của đề bài), ĐÁNH GIÁ CỦA BẢN THÂN MÌNH VỀ ĐIỀU ĐÓ.
3. LOẠI ĐỀ VỀ SO SÁNH 1 VẤN ĐỀ GÌ ĐÓ GIỮA 2 TRƯỜNG PHÁI (ví dụ
vấn đề con người giữa triết họcPhật giáo và triết học Nho giáo ) hoặc GIỮA 2
PHƯƠNG PHÁP (siêu hình và biện chứng) thì cách làm là: TẠI SAO LẠI CÓ
NÓ, BẢN CHẤT CỦA NÓ LÀ GÌ, SO SÁNH CHÚNG VỚI NHAU để thấy
được giá trị và hạn chế của nó, ĐÁNH GIÁ CỦA BẢN THÂN VỀ ĐIỀU ĐÓ
hoặc ĐIỀU ĐÓ CÓ GIÁ TRỊ GÌ VỚI BẢN THÂN MÌNH (tùy yêu cầu của đề).
MỘT SỐ VÍ DỤ
Ví dụ 1: Phân tích làm sáng tỏ quan điểm sự phát triển của những
hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên. Theo anh (chị)
cần vận dụng quan điểm đó như thế nào trong công cuộc đổi mới của
Việt Nam
Xã hội loài người phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế-xã hội (KT-
XH) nối tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động, phát triển
khách quan của xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận: “Sự phát triển của những
hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử-tự nhiên”.
1. Những tiền đề xuất phát để xây dựng lý luận hình thái KT-XH
Theo quan điểm của C.Mác thì chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất ở
tính vật chất của nó; các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ với nhau. Thế giới
tồn tại và vận động một cách khách quan với quy luật của chính nó; không phụ
thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Xã hội là một bộ phận và hơn nữa là
2
một bộ phận đăc thù của thế giới. Là bộ phận của thế giới nên xã hội có mối
liên hệ nội tại với các bộ phận còn lại của thế giới và tuân theo các quy luật
chung của thế giới. Là bộ phận đặc thù của thế giới nên xã hội còn có quy luật
riêng của bản thân nó. Từ các quan điểm chung về thế giới và xã hội, C. Mác đã
tìm ra điểm xuất phát mới trong việc nghiên cứu xã hội là xuất phát từ con người
hiện thực tức là xuất phát từ đời sống hiện thực của họ. Trong việc xác định

quan điểm duy vật lịch sử (tức quan điểm duy vật biện chứng về xã hội), lý luận
bao trùm và mang tính nền tảng, cơ bản là lý luận hình thái KH-XH.
Xuất phát từ đời sống hiện thực của con người, C.Mác đã đi đến xác định
tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người và do đó là tiền đề của mọi
lịch sử đó là: “người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”.
Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc
sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra
bản thân đời sống, vật chất”. C. Mác cũng phát hiện ra, cái quy định hành vi
lịch sử đầu tiên và cũng là động lực thúc đẩy con người hoạt động là nhu cầu và
lợi ích. Nhu cầu của con người được hình thành một cách khách quan trong
đời sống và rất phong phú, đa dạng như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu giao tiếp và
sinh hoạt cộng đồng; nhu cầu phát triển về mặt thể chất và tinh thần… Nhu cầu
là động lực bên trong thúc đẩy con người hoạt động. Hoạt động của con người
thỏa mãn được nhu cầu này lại làm nảy sinh nhu cầu khác. Việc không ngừng
nảy sinh nhu cầu mới là động lực thúc đẩy con người hoạt động, là động lực
phát triển của xã hội.
Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Để
tồn tại và phát triển, con người không chỉ sản xuất ra của cải vật chất mà còn
sản xuất ra của cải tinh thần, ra bản thân con người và các quan hệ xã hội. Các
lĩnh vực sản xuất đó tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong đó, sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, là cái khác
biệt căn bản giữa con người với động vật. Sản xuất vật chất là quá trình
con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng
vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại
và phát triển của con người. Chính sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự
tồn tại và phát triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống
vật chất và tinh thần của xã hội với tất cả tính phong phú đa dạng của nó. Cho
nên xuất phát từ đời sống hiện thực của con người là phải xuất phát từ sản xuất
ra của cải vật chất để đi đến các mặt khác của đời sống xã hội, tìm ra các

3
quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội. Như vậy, xét đến cùng
sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản và nền tảng quyết định các vấn đề còn lại của
đời sống xã hội (giai cấp, dân tộc, nhà nước, con người, văn hóa…) cũng như sự
vận động, phát triển của nhân loại từ khi xuất hiện cho đến khi còn tồn tại.
Trong khi chỉ ra sự vận động, phát triển của xã hội diễn ra theo các quy luật
khách quan, triết học Mác đồng thời thừa nhận vai trò to lớn của nhân tố
chủ quan. Lịch sử phát triển xã hội phải thông qua hoạt động có mục đích của
con người. Sự hoạt động của con người là sự thống nhất giữa mặt khách quan và
mặt chủ quan. Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật
khách quan nhưng có khả năng nhận thức và vận dụng trong hoạt động thực
tiễn. Nhân tố chủ quan không làm thay đổi được xu hướng vận động, phát triển
của xã hội nhưng có thể đẩy nhanh hoặc chậm sự phát triển xã hội; làm cho sự
phát triển của xã hội mang hình thức này hay hình thức khác. Như vậy, lịch sử
vận động, phát triển của xã hội loài người là kết quả của sự tác động qua lại giữa
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của chủ thể lịch sử là con người với
hoạt động của chính mình (cơ bản và trước hết là hoạt động thực tiễn).
2. Phép biện chứng trong sự vận động, phát triển của các hình thái
KH-XH
Từ sản xuất, C.Mác lại phát hiện ra hai mặt không tách rời nhau: một mặt
là quan hệ giữa người với tự nhiên, mặt khác là quan hệ giữa người với người
trong sản xuất. Quan hệ giữa người với tự nhiên trong sản xuất chính là
lực lượng sản xuất (LLSX), còn quan hệ giữa người với người trong sản xuất
chính là quan hệ sản xuất (QHSX). Hai mặt đó thống nhất với nhau tạo thành
phương thức sản xuất (PTSX). Từ nghiên cứu các quan hệ hình thành trong
quá trình sản xuất ra của cải vật chất, C.Mác đi đến nghiên cứu các mặt khác của
đời sống xã hội như chính trị, pháp quyền, các hình thái ý thức xã hội…Trong
các mối quan hệ xã hội hết sức phức tạp và tác động qua lại một cách
biện chứng, C.Mác đã phát hiện ra: cơ sở hạ tầng (CSHT) quyết định kiến trúc
thượng tầng (KTTT); tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; PTSX quyết định

các mặt của đời sống xã hội. Lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử vận động,
phát triển, thay thế lẫn nhau giữa các hình thái KT-XH từ thấp lên cao. Sự
vận động, phát triển của các hình thái KT-XH là do sự tác động qua lại lẫn nhau
một cách biện chứng giữa LLSX với QHSX, giữa CSHT với KTTT.
a) Biện chứng giữa LLSX với QHSX
Sản xuất vật chất luôn luôn được tiến hành bằng một PTSX nhất định.
PTSX là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở từng
4
giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. PTSX lại là sự thống nhất giữa
LLSX ở một trình độ nhất định và QHSX tương ứng: sự vận động, phát triển của
PTSX do sự tác động qua lại một cách biện chứng giữa LLSX và QHSX.
LLSX là toàn bộ các lực lượng được con người sử dụng trong quá trình
sản xuất ra của cải vật chất. Nó bao gồm người lao động với một thể lực,
tri thức, kỹ năng lao động nhất định và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ
lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người kết hợp với
tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, tạo thành lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của LLSX, LLSX hàng đầu là “người lao động”. Cùng với
người lao động, công cụ lao động là yếu tố cơ bản của LLSX.
QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất
(sản xuất và tái sản xuất xã hội). QHSX gồm ba mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối
sản phẩm sản xuất ra. QHSX hình thành một cách khách quan trong quá trình
sản xuất. Ba mặt của QHSX thống nhất biện chứng với nhau. Trong đó, quan hệ
sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho
QHSX trong từng xã hội. Nó quyết định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và
quan hệ phân phối sản phẩm.
LLSX và QHSX tồn tại không tách rời nhau, thống nhất biện chứng
với nhau trong PTSX nhất định. Trong hai mặt đó, LLSX là nội dung,
thường xuyên biến đổi, phát triển; QHSX là hình thức xã hội của sản xuất,
tương đối ổn định. Sự tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng giữa

hai mặt đó tạo thành quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển
của LLSX-quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội. Sự vận động,
phát triển của LLSX quyết định QHSX, làm cho QHSX biến đổi phù hợp với
nó. Khi một PTSX mới ra đời, khi đó QHSX phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX. Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là trạng thái mà
trong đó QHSX là “hình thức phát triển” của LLSX. Song, sự phát triển của
LLSX đến một trình độ nhất định lại làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở thành
không phù hợp với sự phát triển của LLSX. Khi đó, QHSX trở thành
“xiềng xích” của LLSX, kìm hãm LLSX phát triển. Yêu cầu khách quan của sự
phát triển LLSX tất yếu sẽ dẫn đến thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp
với trình độ phát triển mới của LLSX, thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển.
Thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới cũng có nghĩa là PTSX cũ mất đi, PTSX
mới ra đời thay thế.
5
LLSX quyết định QHSX nhưng QHSX cũng có tính độc lập tương đối và
tác động trở lại sự phát triển của LLSX. QHSX quy định mục đích của sản xuất,
tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức
phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học vào sản xuất…
và do đó tác động đến sự phát triển của LLSX. QHSX phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX là động lực thúc đẩy LLSX phát triển. Ngược lại, QHSX
lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển
của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Khi QHSX kìm hãm sự
phát triển của LLSX thì theo quy luật chung, QHSX cũ sẽ được thay thế bằng
QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX để thúc đẩy LLSX tiếp tục
phát triển.
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là
quy luật cơ bản, phổ biến của xã hội. Nó chi phối sự vận động, phát triển của
toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
b) Biện chứng giữa CSHT với KTTT
CSHT là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một

xã hội nhất định. CSHT của mỗi xã hội cụ thể, trừ xã hội nguyên thủy, đều
bao gồm QHSX thống trị, QHSX tàn dư của xã hội cũ và QHSX mầm mống của
xã hội tương lai. Trong đó, QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo,
chi phối các QHSX khác, quy định xu hướng chung của đời sống KT-XH.
Bởi vậy, CSHT của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi QHSX thống trị trong
xã hội đó.
KTTT là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật… cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như
nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội… được hình thành trên
CSHT nhất định. Trong KTTT có nhiều yếu tố, mỗi yếu tố có đặc điểm riêng, có
quy luật phát triển riêng nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau. Tất cả các yếu tố đều hình thành, phát triển trên CSHT, song yếu tố
khác nhau có quan hệ khác nhau đối với CSHT.
CSHT và KTTT là hai mặt cấu thành của hình thái KT-XH, chúng
thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó CSHT
quyết định KTTT; song KTTT cũng có tác động tích cực trở lại CSHT.
Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT trước hết thể hiện ở chỗ: mỗi
CSHT sẽ hình thành nên một KTTT tương ứng với nó. Tính chất của CSHT
quyết định tính chất của KTTT. Tất cả các yếu tố của KTTT như nhà nước,
6
pháp quyền, triết học, tôn giáo… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào
CSHT, do CSHT quyết định.
Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT còn thể hiện ở chỗ: CSHT
thay đổi thì KTTT cũng thay đổi theo. Sự thay đổi của KTTT không chỉ diễn ra
trong giai đoạn thay thế hình thái KT-XH này bằng hình thái KT-XH khác
mà còn diễn ra trong quá trình biến đổi của mỗi một hình thái KT-XH.
Tuy CSHT quyết định KTTT, KTTT phải phù hợp với CSHT nhưng KTTT
lại có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động, phát triển và có tác động
tích cực trở lại CSHT. Tất cả các yếu tố của KTTT đều tác động đến CSHT.
Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động

khác nhau. Sự tác động của các yếu tố KTTT đối với CSHT thường diễn ra theo
nhiều xu hướng khác nhau. Sự tác động của KTTT đối với CSHT diễn ra theo
hai chiều. Nếu KTTT tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì
nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, sẽ
kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm tiến bộ xã hội. Tuy KTTT có tác động
mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế nhưng không làm thay đổi được xu hướng
phát triển khách quan của xã hội. Xét đến cùng, nhân tố kinh tế quyết định
KTTT, kinh tế quyết định chính trị. Nếu KTTT kìm hãm phát triển kinh tế thì
sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, KTTT cũ sẽ được thay thế bằng
KTTT mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
c) Sự phát triển của các hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử-
tự nhiên
Hình thái KT-XH là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác động
qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của
xã hội. Khẳng định “sự phát triển của những hình thái KT-XH là một quá trình
lịch sử-tự nhiên” là khẳng định các hình thái KT-XH vận động, phát triển theo
các quy luật khách quan, chứ không phải theo ý muốn chủ quan của con người.
Sự vận động, phát triển của các hình thái KT-XH vừa bị chi phối bởi các
quy luật phổ biến, vừa bị chi phối bởi các quy luật riêng, đặc thù. Các quy luật
vận động phát triển phổ biến của xã hội là quy luật về sự phù hợp của QHSX với
trình độ phát triển của LLSX, quy luật CSHT quyết định KTTT và các quy luật
khác. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái KT-
XH vận động, phát triển từ thấp đến cao.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động, phát triển của các hình thái KT-XH là ở
sự phát triển của LLSX. Chính sự phát triển của LLSX quyết định làm thay đổi
QHSX. Đến lượt mình, QHSX thay đổi sẽ làm cho KTTT thay đổi theo và do đó
7
mà các hình thái KT-XH vận động, phát triển từ thấp đến cao, từ hình thái KT-
XH này lên hình thái KT-XH khác cao hơn. Sự tác động của các quy luật
khách quan làm cho các hình thái KT-XH phát triển thay thế nhau từ thấp đến

cao, đó là con đường phát triển chung của nhân loại.
Tuy nhiên, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi
các quy luật chung mà còn bị tác động bởi các điều kiện phát triển cụ thể của
mỗi dân tộc, như về điều kiện tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về
tác động quốc tế… Vì vậy, lịch sử phát triển nhân loại vừa tuân theo những
quy luật chung, vừa rất phong phú, đa dạng. Tính phong phú đa dạng nói lên
tính độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mỗi dân tộc. Tính phong phú
đa dạng đó, một mặt, thể hiện ở chỗ, cùng một hình thái KT-XH nhưng ở
các nước khác nhau có những hình thức cụ thể khác nhau; mặt khác ở chỗ có
những dân tộc lần lượt trải qua tất cả các hình thái KT-XH từ thấp đến cao
nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái KT-XH nào đó.
Việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử-tự nhiên chứ không phải
theo ý muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử-tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những
diễn ra theo con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong
những điều kiện nhất định, một hoặc một số hình thái KT-XH nhất định. Lý luận
hình thái KT-XH vừa chỉ ra quy luật phát triển chung của nhân loại, vừa chỉ ra
mỗi dân tộc do điều kiện lịch sử-cụ thể mà có con đường phát triển riêng,
đặc thù. Điều đó cho thấy, để nhận thức đúng đắn con đường phát triển của mỗi
dân tộc phải kết hợp chặt chẽ giữa việc nghiên cứu những quy luật chung với
việc nghiên cứu một cách cụ thể điều kiện cụ thể của mỗi dân tộc về điều kiện
tự nhiên, về truyền thống văn hóa, về quan hệ giai cấp, về điều kiện quốc tế…
3. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vận dụng sáng tạo lý luận hình thái KT-XH và căn cứ vào
điều kiện thực tiễn của nước tam, Đảng và Bác Hồ đã xác định con đường
phát triển của dân tộc sau khi giành được độc lập dân tộc là xây dựng CNXH
bỏ qua phát triển hình thái KT-XH tư bản chủ nghĩa (TBCN). Độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH là con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn
từ năm 1930. Và việc lựa chọn con đường tiến lên CNXH là phù hợp với
xu hướng của thời đại.

Về con đường đi lên CNXH ở nước ta, Đảng ta chỉ rõ: “Con đường đi lên
của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của QHSX và KTTT TBCN nhưng tiếp thu,
8
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt
về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế
hiện đại.
Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của
xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.
Và gần đây nhất, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta,
là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
4. Vận dụng quan điểm sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội
là một quá trình lịch sử-tự nhiên trong công cuộc đổi mới của Việt Nam
Sau thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, cả nước ta bước vào thời kỳ
quá độ lên CNXH trong bối cảnh có những thuận lợi to lớn song cũng gặp nhiều
khó khăn nghiêm trọng. Quá độ lên CNXH xuất phát từ một nước nông nghiệp
lạc hậu, kinh tế chậm phát triển, hậu quả chiến tranh nặng nề, lại bị bao vây
cấm vận, tình hình quốc tế có những diễn biến bất lợi đòi hỏi công cuộc
xây dựng CNXH ở nước ta phải trải qua nhiều bước đi cụ thể thích hợp. Trong
bối cảnh đó, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới đưa đất nước vượt qua
khủng hoảng kinh tế-xã hội, giành được những thành tựu to lớn, toàn diện.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp năm 1986 tại Hà Nội.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật,
Đại hội đã đi sâu phân tích những tồn tại, nghiêm khắc tự phê bình những
sai lầm, khuyết điểm và khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của

Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học. Báo cáo chính trị tại Đại hội đã
tổng kết một trong những bài học kinh nghiệm lớn là phải luôn xuất phát từ
thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đại hội cũng xác định
các mục tiêu cụ thể về kinh tế-xã hội cho những năm còn lại của chặng đường
đầu tiên và một trong những mục tiêu đó là xây dựng và hoàn thiện một bước
QHSX mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Đại hội cũng
đề ra hệ thống các giải pháp để thực hiện mục tiêu, trong đó có nội dung
xây dựng và củng cố QHSX XHCN, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần
kinh tế. Coi nền kinh tế có nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá
độ; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, dứt khoát xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung
9
quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức
hạch toán kinh doanh XHCN.
Thắng lợi bước đầu trong công cuộc đổi mới của Việt Nam có ý nghĩa
hết sức quan trọng. Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng đã ghi nhận:
“Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986-2011) đã tạo ra cho
đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước”; đồng thời
khằng định: “Thực tiễn phong phú và những thành tựu đạt được qua 25 năm
đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo; đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp với quy luật khách quan
và thực tiễn cách mạng Việt Nam”.
Báo cáo chính trị cũng chỉ rõ: “Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phải tiếp tục đổi mới toàn diện,
mạnh mẽ với chất lượng và hiệu quả cao hơn; đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức…” và “Đặc biệt chú trọng xử lý
và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và
phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và
định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng,
hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa…”.

Để bảo vệ và phát huy các thành quả đã đạt được trong công cuộc đổi mới
suốt 25 năm qua nhằm tạo động lực để tiếp tục phát triển đất nước, từ bài học
kinh nghiệm mà Đại hội lần thứ VI của Đảng đã rút ra là phải luôn xuất phát từ
thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, chúng ta cần vận dụng
sáng tạo quan điểm sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá
trình lịch sử-tự nhiên trong công cuộc đổi mới của Việt Nam. Ở trên, chúng đã
biết các hình thái KT-XH vận động, phát triển theo các quy luật khách quan,
chứ không phải theo ý muốn chủ quan của con người. Sự vận động, phát triển
của các hình thái KT-XH vừa bị chi phối bởi các quy luật phổ biến, vừa bị chi
phối bởi các quy luật riêng, đặc thù. Các quy luật vận động phát triển phổ biến
của
xã hội là quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX,
quy luật CSHT quyết định KTTT và các quy luật khác. Việt Nam với vai trò là
một hình thái KT-XH trong quá trình phát triển cũng không nằm ngoài những
quy luật đó. Xét riêng quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển
của LLSX, như ta đã biết sự vận động, phát triển của LLSX quyết định QHSX,
làm cho QHSX biến đổi phù hợp với nó. Mà LLSX bao gồm người lao động với
10
một thể lực, tri thức, kỹ năng lao động nhất định và tư liệu sản xuất, trước hết là
công cụ lao động. Trong các yếu tố của LLSX, LLSX hàng đầu là “người lao
động”. Cùng với người lao động, công cụ lao động là yếu tố cơ bản của LLSX.
Như vậy, suy cho cùng, người lao động và công cụ lao động là yếu tố quyết định
nhất đối với QHSX.
Cùng với sự phát triển của đất nước trong công cuộc đổi mới, công nghệ
thông tin và truyền thông (CNTT-TT) là động lực quan trọng góp phần bảo đảm
sự tăng trưởng và phát triển bền vững, nâng cao tính minh bạch trong các
hoạt động của cơ quan nhà nước, tiết kiệm thời gian, kinh phí cho các cơ quan,
tổ chức, doanh nghiệp và người dân. Xét ở góc độ triết học, CNTT-TT có thể coi
là công cụ lao động; còn người lao động với một thể lực, tri thức, kỹ năng
lao động nhất định ở đây chính là nguồn nhân lực CNTT. Vì vậy, để phát triển

LLSX trước hết cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực CNTT. Trong xu thế
hội nhập ngày càng cao, đòi hỏi phải phát triển nguồn nhân lực CNTT đạt
tiêu chuẩn quốc tế; tăng tỷ lệ số lượng sinh viên công nghệ thông tin, điện tử,
viễn thông sau khi tốt nghiệp ở các trường đại học có đủ khả năng chuyên môn
và ngoại ngữ để có thể tham gia thị trường lao động quốc tế; tăng số nhân lực
tham gia hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ thông tin, trong đó
bao gồm nhân lực hoạt động trong nước và nhân lực tham gia xuất khẩu. Bên
cạnh đó, cần không ngừng đưa ra các giải pháp nhằm tăng tỷ lệ người dân
sử dụng Internet; đẩy mạnh phổ cập thông tin đến hộ gia. Để làm được điều đó
cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Ưu tiên nguồn lực để xây dựng và triển khai các kế hoạch dài hạn
phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin;
- Tăng cường khả năng thông tin, dự báo và định hướng phát triển nguồn
nhân lực công nghệ thông tin Việt Nam theo nhu cầu thị trường trong nước và
quốc tế;
- Ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, tạo cơ chế đặc thù để tăng quyền tự chủ cho
một số cơ sở đào tạo, nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin đạt trình độ
quốc tế. Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao,
các chuyên gia tư vấn, phân tích thiết kế, xây dựng và quản lý hệ thống
công nghệ thông tin;
- Tăng cường đào tạo kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin trong xã hội,
góp phần nâng cao dân trí;
- Khuyến khích việc giảng dạy bằng tiếng Anh đối với các sinh viên
công nghệ thông tin trong các trường đại học;
11
- Mở rộng loại hình đào tạo trực tuyến trên cơ sở hạ tầng viễn thông
băng rộng.
Để phát triển CNTT-TT với vai trò là công cụ lao động, một số nhiệm vụ
cần thực hiện là:
- Ưu tiên nguồn lực để triển khai các chương trình phát triển công nghiệp

phần mềm, nội dung số và phần cứng, điện tử;
- Ưu tiên đầu tư hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động và sức cạnh tranh cho
các doanh nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông của Việt Nam; xây dựng
thương hiệu Việt Nam về công nghệ thông tin;
- Khuyến khích các doanh nghiệp viễn thông chủ đạo tăng cường đầu tư
cho phát triển công nghiệp công nghệ thông tin;
- Hoàn thiện hạ tầng viễn thông băng rộng;
- Tiếp tục hoàn thiện mạng viễn thông dùng riêng phục vụ các cơ quan
Đảng, Nhà nước;
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ phát triển Chính phủ
điện tử;
- Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật bảo đảm an toàn thông tin số quốc gia.
Như đã phân tích ở trên, tuy LLSX quyết định QHSX nhưng QHSX cũng
có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của LLSX. Vì vậy, bên
cạnh việc không ngừng phát triển CNTT-TT như một công cụ lao động chủ yếu,
phát triển nguồn nhân lực CNTT thì việc xây dựng và hoàn thiện thể chế về
CNTT-TT cũng cần được chú trọng như:
- Ban hành các văn bản pháp luật trong lĩnh vực công nghệ thông tin và
truyền thông để phát huy nội lực, thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện cho mọi
thành phần kinh tế cùng tham gia đầu tư phát triển.
- Bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý đầu tư phù hợp với đặc
thù của lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông.
- Tạo môi trường pháp lý thông thoáng và thuận lợi cho việc đầu tư ra
nước ngoài của các tập đoàn, doanh nghiệp chủ đạo về công nghệ thông tin và
truyền thông của Việt Nam.
- Có chính sách bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ của các sản phẩm công nghệ
thông tin để bảo vệ quyền lợi và khuyến khích các doanh nghiệp tạo ra các sản
phẩm mới.
12
- Nhà nước thực hiện các chính sách hỗ trợ sử dụng các sản phẩm, dịch vụ

công nghệ thông tin cho các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách xã hội khác.
Ví dụ 2: Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
phân tích một hoạt động chuyên môn của anh (chị)
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con
người với thế giới khách quan. Con người luôn tác động tích cực vào thế giới
khách quan-tự nhiên và xã hội, cải biến thế giới khách quan bằng thực tiễn.
Trong quá trình đó, sự phát triển nhận thức của con người và sự biến đổi thế giới
khách quan là hai mặt thống nhất. Điều đó quy định sự thống nhất biện chứng
giữa lý luận với thực tiễn trong hoạt động sinh tồn của cá nhân và cộng đồng.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn có ý nghĩa phương pháp luận
to lớn trong công tác văn thư, lưu trữ của Cục Ứng dụng CNTT.
I. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết học Mác-
Lênin
1. Phạm trù thực tiễn và phạm trù lý luận
a) Phạm trù thực tiễn
Theo triết học Mác-Lênin, thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục
đích mang tính lịch sử-xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và
bản thân con người.
Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động tinh
thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất. Hoạt động vật chất là những hoạt động
mà chủ thể sử dụng phương tiện vật chất tác động vào đối tượng vật chất nhất
định nhằm cải tạo chúng theo nhu cầu của con người. Kết quả của quá trình hoạt
động thực tiễn là những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh
thần của cá nhân và cộng đồng. Mỗi một hoạt động của con người đều mang
tính lịch sử, cụ thể; chỉ diễn ra trong một giai đoạn lịch sử nhất định nào đó và
chịu sự chi phối của mỗi giai đoạn lịch sử. Hoạt động thực tiễn không tách rời
các quan hệ xã hội. Xã hội quy định mục đích, đối tượng, phương tiện và lực
lượng trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn mang tính tất yếu có nhận
thức, có ý thức về kết quả, phương pháp, đối tượng, mục đích của quá trình hoạt

động.
13
Hoạt động thực tiễn rất phong phú đa dạng, song có thể chia ra ba hình
thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị-xã hội, hoạt động
thực nghiệm khoa học. Các hình thức hoạt động thực tiễn tuy có sự khác nhau
tương đối nhưng chúng thống nhất, có chung chủ thể hoạt động, có cùng mục
đích; chúng hỗ trợ, ảnh hưởng lẫn nhau. Trong các hình thức hoạt động thực tiễn
thì hoạt động sản xuất vật chất là cơ bản nhất; tác động sâu sắc, toàn diện đến
các hoạt động khác.
b) Phạm trù lý luận
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh
những mối liên hệ bản chất, những quy luật của các sự vật, hiện tượng. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng
hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”.
Để hình thành lý luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh
nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi, lặp lại diễn biến
của các sự vật, hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh
nghiệm.
Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ
bản là chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp
luận cho hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng
những quy luật chung hay chung nhất. Tri thức kinh nghiệm cũng như tri thức lý
luận đều phản ánh hiện thực khách quan nhưng ở phạm vi, lĩnh vực và trình độ
khác nhau. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan để làm phương pháp luận
nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan bằng hoạt động thực tiễn.
2. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn
a) Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý
luận; lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng
yêu cầu thực tiễn

Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Xét một cách trực tiếp, những tri thức được
khái quát thành lý luận là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của con
người. Quá trình hoạt động thực tiễn còn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh
những lý luận đã được khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người
làm nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải
quyết. Thông qua đó, lý luận được bổ sung, mở rộng.
14
Thực tiễn là động lực của lý luận. Lý luận được vận dụng làm phương pháp
cho hoạt động thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người càng kích thích con
người tích cực bám sát thực tiễn để khái quát lý luận. Quá trình đó diễn ra không
ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong
phú và sâu sắc hơn.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Mục đích chủ yếu của lý luận là nâng
cao năng lực hoạt động của con người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi
ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý
luận không thể tạo nên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu
cầu đó chỉ được thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến
đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích của con người. Vì vậy, lý luận phải đáp
ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận chính
là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm
nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận đối với hoạt động thực tiễn của con
người. Do đó, mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Thông qua
thực tiễn, những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức
nhân loại; những kết luận chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung
hoặc nhận thức lại. Giá trị của lý luận nhất thiết phải được chứng minh trong
hoạt động thực tiễn. Không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý;
thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn của
nó. Do đó, chỉ những lý luận nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì
mới đạt đến chân lý.

b) Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải
được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Ban đầu, hoạt động của con người chưa có lý luận chỉ đạo, song con người
phải hoạt động để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Thông qua đó, con người
khái quát thành lý luận. Từ đó, những hoạt động của con người muốn có hiệu
quả nhất thiết phải có lý luận soi đường. Chính nhờ có lý luận soi đường, hoạt
động thực tiễn của con người mới trở thành tự giác, có hiệu quả và đạt được mục
đích mong muốn.
Lý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định
hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận
còn dự báo được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự
báo được những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế, những thất bại có thể có
trong quá trình hoạt động. Như vậy, lý luận không chỉ giúp con người hoạt động
15
hiệu quả mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt
động của con người. Mặt khác, lý luận còn có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý
tưởng, liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn
của quần chúng trong cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội.
Lý luận có thể lạc hậu so với thực tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi
hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung
những khiếm khuyết của lý luận hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với
thực tiễn.
3. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn
a) Lý luận phải luôn luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu
của thực tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn
Thực tiễn là cái được phản ánh, lý luận là cái phản ánh. Bản thân thực tiễn
luôn luôn vận động, phát triển và biến đổi. Quá trình đó diễn ra có lúc tuân theo
quy luật, có lúc không, có lúc khá phức tạp. Để hình thành lý luận, nhận thức
phải bám sát quá trình đó. Nếu lý luận không phản ánh đúng nhu cầu của thực

tiễn, không phù hợp với thực tiễn thì sớm hay muộn, lý luận đó sẽ bị bác bỏ.
Kinh nghiệm hoạt động của con người là cơ sở để hình thành lý luận. Lý
luận phải khái quát được kinh nghiệm của loài người thì mới có tính khoa học và
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
b) Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, khi vận dụng lý luận
phải phù hợp với điều kiện lịch sử-cụ thể
Lý luận được hình thành không chỉ là sự tổng kết thực tiễn mà còn là mục
đich cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Sự phát triển của thực tiễn trong lịch sử
luôn được lý luận khái quát. Chính vì lý luận phản ánh thực tiễn dưới dạng quy
luật mà lý luận có khả năng trở thành phương pháp luận cho thực tiễn.
c) Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự
vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Bệnh kinh nghiệm là sự tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thực tiễn trước
đây và áp dụng một cách máy móc vào hiện tại khi điều kiện đã thay đổi. Kinh
nghiệm là rất quý, nó đã góp phần thành công trong điều kiện, hoàn cảnh nhất
định và là cơ sở để khái quát lý luận. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm
một nơi, một lúc nào đó, xem thường lý luận sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm và sẽ
16
thất bại trong thực tiễn khi điều kiện, hoàn cảnh đã thay đổi. Để khắc phục bệnh
kinh nghiệm có hiệu quả phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn, tức là bám sát thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ
lý luận, bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp thực tiễn.
Trái với bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều lại tuyệt đối hóa lý luận, tuyệt
đối hóa kiến thức đã có trong sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn, vận dụng
lý luận một cách máy móc, không tính toán đến điều kiện lịch sử-cụ thể mỗi nơi,
mỗi lúc. Để khắc phục bệnh giáo điều, chúng ta phải quán triệt sâu sắc nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận phải luôn luôn gắn liền với thực
tiễn, phải khái quát từ thực tiễn, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, kiểm tra trong
thực tiễn và không ngừng phát triển sáng tạo cùng với thực tiễn.

II. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật
Công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật là một trong những
nhiệm vụ chính của các cơ quan nhà nước. Với chức năng quản lý nhà nước về
ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), Cục Ứng dụng CNTT trực thuộc Bộ
Thông tin và Truyền thông thường xuyên phải thực hiện nhiệm vụ xây dựng các
văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực ứng dụng CNTT. Trong công tác này
cần quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Trước hết, văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) là văn bản do cơ quan
nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành trong đó có quy tắc xử sự chung, có
hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Do có tác động điều chỉnh các quan hệ xã hội với hiệu lực
bắt buộc vì vậy quá trình xây dựng các văn bản QPPL phải luôn xuất phát từ
thực tiễn. Ở góc độ triết học, nội dung của văn bản QPPL có thể coi là các
lý luận. Theo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, trong quá trình
xây dựng văn bản QPPL, phải xin ý kiến các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân
về dự thảo văn bản; tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp
của văn bản. Các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản chính là cơ sở
thực tiễn để xây dựng văn bản. Các ý kiến tham gia về dự thảo văn bản đều được
nghiên cứu, tiếp thu trong quá trình chỉnh lý dự thảo. Trước khi xây dựng
văn bản QPPL mới đều phải tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá các
văn bản QPPL hiện hành có liên quan đến văn bản sắp xây dựng; khảo sát,
đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến nội dung chính của văn bản.
Việc khảo sát, đánh giá này chính nhằm mục đích tìm hiểu nhu cầu của thực tiễn
để hình thành các lý luận phù hợp thể hiện trong nội dung của các văn bản
17
QPPL sẽ xây dựng. Ngoài ra còn phải tổ chức đánh giá tác động và xây dựng
báo cáo đánh giá tác động của dự thảo văn bản; thể hiện rõ hơn sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận trước khi đưa vào áp dụng thực tiễn phải được
đánh giá tác động bao gồm cả tích cực và tiêu cực đối với thực tiễn.

Khi văn bản QPPL được ban hành và có hiệu lực pháp luật thì lúc đó
lý luận đã được áp dụng vào thực tiễn. Các quan hệ xã hội thuộc phạm vi
điều chỉnh của văn bản đều phải tuân theo các quy định trong văn bản; nghĩa là
thực tiễn đã được chỉ đạo bởi lý luận. Các văn bản QPPL áp dụng trong thực tế
sau một thời gian nhất định sẽ dần phát sinh những bất hợp lý do quan hệ xã hội
bị điều chỉnh đã thay đổi. Khi đó, văn bản QPPL sẽ được sửa đổi, bổ sung hoặc
thay thế bằng văn bản khác phù hợp hơn với thực tiễn.
Như vậy, công tác xây dựng văn bản QPPL đòi hỏi phải luôn thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn; xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn. Vì vậy, việc
vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công tác này là
đặc biệt quan trọng và cần thiết.
Ví dụ 3: Chỉ ra và phân tích tiền đề thực tiễn để C.Mác xây dựng lý luận
hình thái KT-XH
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong những phát kiến vĩ đại nhất của
C.Mác. Trong việc xác định quan điểm duy vật lịch sử (tức quan điểm duy vật
biện chứng về xã hội), lý luận bao trùm và mang tính nền tảng, cơ bản là lý luận
hình thái KH-XH.
Theo quan điểm của C.Mác thì chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất ở
tính vật chất của nó; các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ với nhau. Thế giới
tồn tại và vận động một cách khách quan với quy luật của chính nó; không phụ
thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Xã hội là một bộ phận và hơn nữa là
một bộ phận đăc thù của thế giới. Là bộ phận của thế giới nên xã hội có mối
liên hệ nội tại với các bộ phận còn lại của thế giới và tuân theo các quy luật
chung của thế giới. Là bộ phận đặc thù của thế giới nên xã hội còn có quy luật
riêng của bản thân nó. Từ các quan điểm chung về thế giới và xã hội, C. Mác đã
tìm ra điểm xuất phát mới trong việc nghiên cứu xã hội là xuất phát từ con người
hiện thực tức là xuất phát từ đời sống hiện thực của họ. C.Mác đã viết: “…
chúng ta xuất phát từ những con người đang hành động, hiện thực và chính là
cũng xuất phát từ quá trình đời sống hiện thực của họ mà chúng ta mô tả sự
18

phát triển của những phản ánh tư tưởng và tiếng vang tư tưởng của quá trình
đời sống ấy”.
Xuất phát từ đời sống hiện thực của con người, C.Mác đã đi đến xác định
tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người và do đó là tiền đề của mọi
lịch sử đó là: “người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”.
Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc
sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra
bản thân đời sống, vật chất”. C. Mác cũng phát hiện ra, cái quy định hành vi
lịch sử đầu tiên và cũng là động lực thúc đẩy con người hoạt động là nhu cầu và
lợi ích. Nhu cầu của con người được hình thành một cách khách quan trong
đời sống và rất phong phú, đa dạng như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu giao tiếp và
sinh hoạt cộng đồng; nhu cầu phát triển về mặt thể chất và tinh thần… Nhu cầu
là động lực bên trong thúc đẩy con người hoạt động. Hoạt động của con người
thỏa mãn được nhu cầu này lại làm nảy sinh nhu cầu khác. Việc không ngừng
nảy sinh nhu cầu mới là động lực thúc đẩy con người hoạt động, là động lực
phát triển của xã hội.
Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Để
tồn tại và phát triển, con người không chỉ sản xuất ra của cải vật chất mà còn
sản xuất ra của cải tinh thần, ra bản thân con người và các quan hệ xã hội. Các
lĩnh vực sản xuất đó tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong đó, sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, là cái khác
biệt căn bản giữa con người với động vật. Sản xuất vật chất là quá trình
con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng
vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại
và phát triển của con người. Chính sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự
tồn tại và phát triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống
vật chất và tinh thần của xã hội với tất cả tính phong phú đa dạng của nó. Cho
nên xuất phát từ đời sống hiện thực của con người là phải xuất phát từ sản xuất
ra của cải vật chất để đi đến các mặt khác của đời sống xã hội, tìm ra các

quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội. Như vậy, xét đến cùng
sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản và nền tảng quyết định các vấn đề còn lại của
đời sống xã hội (giai cấp, dân tộc, nhà nước, con người, văn hóa…) cũng như sự
vận động, phát triển của nhân loại từ khi xuất hiện cho đến khi còn tồn tại.
Từ sản xuất, C.Mác lại phát hiện ra hai mặt không tách rời nhau: một mặt
là quan hệ giữa người với tự nhiên, mặt khác là quan hệ giữa người người với
19
người trong sản xuất. Quan hệ giữa người với tự nhiên trong sản xuất chính là
lực lượng sản xuất (LLSX), còn quan hệ giữa người với người trong sản xuất
chính là quan hệ sản xuất (QHSX). Hai mặt đó thống nhất với nhau tạo thành
phương thức sản xuất (PTSX). Sự tác động qua lại một cách biện chứng giữa
LLSX với QHSX tạo thành quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX.
Từ nghiên cứu các quan hệ hình thành trong quá trình sản xuất ra của cải
vật chất, C.Mác đi đến nghiên cứu các mặt khác của đời sống xã hội như chính
trị, pháp quyền, các hình thái ý thức xã hội… Trong các mối quan hệ xã hội hết
sức phức tạp và tác động qua lại một cách biện chứng, C.Mác đã phát hiện ra: cơ
sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội; PTSX quyết định các mặt của đời sống xã hội. Từ đó cho thấy xã hội là một
hệ thống, trong đó các mặt có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, làm cho xã
hội vận động, phát triển theo các quy luật khách quan.
Trong khi chỉ ra sự vận động, phát triển của xã hội diễn ra theo các quy luật
khách quan, triết học Mác đồng thời thừa nhận vai trò to lớn của nhân tố
chủ quan. Lịch sử phát triển xã hội phải thông qua hoạt động có mục đích của
con người. Sự hoạt động của con người là sự thống nhất giữa mặt khách quan và
mặt chủ quan. Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật
khách quan nhưng có khả năng nhận thức và vận dụng trong hoạt động thực
tiễn. Nhân tố chủ quan không làm thay đổi được xu hướng vận động, phát triển
của xã hội nhưng có thể đẩy nhanh hoặc chậm sự phát triển xã hội; làm cho sự
phát triển của xã hội mang hình thức này hay hình thức khác. Như vậy, lịch sử

vận động, phát triển của xã hội loài người là kết quả của sự tác động qua lại giữa
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của chủ thể lịch sử là con người với
hoạt động của chính mình (cơ bản và trước hết là hoạt động thực tiễn).
Như vậy, xuất phát từ sản xuất, C.Mác đã phân tích một cách khoa học mối
quan hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời sống xã hội và phát hiện ra các quy luật
vận động, phát triển của xã hội. Từ đó, C. Mác đã đi đến khái quát khoa học về
lý luận hình thái KT-XH.
Ví dụ 4 (Bài tập 1 làm theo nhóm): So sánh sự giống và khác nhau giữa thế
giới quan duy vật siêu hình và thế giới quan duy vật biện chứng. Nêu ví dụ
và phân tích
20
Ví dụ 5 (Bài tập 2 làm theo nhóm): Phân tích nội dung và vai trò của vấn đề
lý luận nhận thức trong triết học Tây Âu cận đại.
Bước sang thời kỳ cận đại thế kỷ XVII-XVIII, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đạt được những thành tựu to lớn, đặc biệt là về
mặt kỹ thuật. Cuộc Cách mạng công nghiệp ở Anh từ thế kỷ XV đến thế kỷ
XVIII đánh dấu bước quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản chủ nghĩa
với những phát minh của người Anh: năm 1764 phát minh mát dệt vải; năm
1769 phát minh ra máy kéo sợi bằng hơi nước; năm 1785 phát minh ra máy dệt
vải bằng hơn nước và đặc biệt năm 1776, Jame Watt phát minh ra máy hơi nước.
Những thành tựu về mặt kỹ thuật này góp phần thúc đẩy phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa phát triển. Về mặt xã hội, do sự phát triển về mặt kinh tế mà
xã hội tư bản tạo nên dẫn đến một mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp vô sản với
giai cấp tư sản; tức là mâu thuẫn giữa những người đại biểu cho lực lượng
sản xuất tiên tiến, phát triển với những người đại diện cho quan hệ sản xuất
lạc hậu, lỗi thời đang kìm hãm sự phát triển đó của lực lượng sản xuất.
Mâu thuẫn này phát triển lên đỉnh cao dẫn đến đấu tranh giai cấp, cách mạng
xã hội. Tiêu biểu nhất là Cách mạng tư sản Anh (1642-1648) và Cách mạng
tư sản Pháp (1789-1794)… Theo lời Mác, đó là những cuộc cách mạng có
quy mô toàn châu Âu, đánh dấu thắng lợi của trật tự tư sản mới đối với trật tự

phong kiến cũ. Nhiệm vụ chính của tư tưởng triết học lúc bấy giờ là phải
chống lại thế giới quan duy tâm tôn giáo và những tàn dư của chủ nghĩa
kinh viện.
Triết học thời kỳ này ra đời trong điều kiện khoa học tự nhiên được tách ra
khỏi triết học và phát triển. Nhưng vấn đề cần là làm sao tìm cho được
phương pháp khoa học chung của nhận thức và phải khái quát, hệ thống hóa các
khoa học đã tách ra. Chính xuất phát từ đó, nhiệm vụ trọng tâm của triết học
cận đại đại thế kỷ XVII-XVIII là lý luận nhận thức, là tìm ra phương pháp của
tri thức chân lý cho tất cả các khoa học. Những vấn đề ấy đã được các nhà
tư tưởng thời kỳ này nghiên cứu, họ đã đi tìm các quy luật của lý tính mà
khả năng của lý tính được biểu hiện một cách vô hạn. Nhưng xét lý tính của
thời đại mà các nhà triết học đang sống theo như Phranxi Bêcơn thì còn nhiều
khái niệm, quan niệm sai lầm. Các nhà triết học hăng hái đi tìm phương pháp
chân lý cơ bản của nhận thức và các phương pháp ấy sẽ dẫn con người đến
chân lý vĩnh hằng, đầy đủ, tuyệt đối. Cơ sở của phương pháp mới ấy được các
21
nhà triết học xem là kinh nghiệm cảm tính (Bêcơn, Hốpxơ, Lốccơ) hoặc là
lý tính nó đem lại tri thức lôgic toán học - diễn dịch không bị quy định bởi
kinh nghiệm của con người (Đềcáctơ, Lépních, Xpinôda…).
Ph. Bêcơn, T. Hốpxơ, J. Lốccơ - những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm
cho rằng nguồn gốc duy nhất của tri thức là kinh nghiệm. Kinh nghiệm liên quan
đến cảm tính, cảm giác, tri giác, biểu tượng. Nội dung của mọi tri thức
con người nói cho cùng đều quy về kinh nghiệm. Phương châm của những
người này là “không có gì trong nhận thức mà trước đó không do cảm giác
thu nhận”. Trong tâm hồn và lý tính của con người không hề có những tri thức,
biểu tượng hoặc ý niệm bẩm sinh. Tâm hồn, trí tuệ của con người từ đầu vốn
thuần khiết, như cái bảng trắng, nhưng khi có tri giác, cảm giác thì những
sự kiện đó đã “viết lên những bức thư của mình”. Do cảm giác có thể đánh lừa,
chúng ta kiểm tra chúng bằng thực nghiệm, qua đó chỉnh lý lại các cơ quan
cảm tính của mình. Tri thức cần phải đi từ cái cụ thể, cái kinh nghiệm

(thực nghiệm) đến những khái quát và đưa ra lý thuyết. Đó là phương pháp
quy nạp của sự vận động trí tuệ đồng hành với thực nghiệm và nó chính là
phương pháp chính xác trong triết học và khoa học. C. Mác đã đánh giá Ph.
Bêcơn là ông tổ thực sự của chủ nghĩa duy vật Anh và tất cả những khoa học
thực nghiệm hiện tại.
Ph. Bêcơn là nhà triết học Anh, sống vào thời kỳ tích lũy tiền tư bản. Ông
đặt cho triết học của mình nhiệm vụ tìm kiếm con đường nhận thức sâu sắc giới
tự nhiên. Ông đặc biệt đề cao vai trò của tri thức. Ông nói: Tri thức là sức mạnh
mà thiếu nó, con người không thể chiếm lĩnh được của cải của giới tự nhiên.
Phương pháp nhận thức tốt nhất, theo Bêcơn là phương pháp quy nạp - đi từ cái
đơn nhất đến sự khái quát, đến khái niệm. Phải so sánh đối chiếu các sự vật và
các mặt của một sự vật để rút ra những nhận xét, những kết luận mang tính
khái quát. Ông phê phán phương pháp triết học của các nhà tư tưởng trung cổ
chỉ biết ngồi rút ra sự thông thái của mình từ chính bản thân mình, muốn
thay thế việc nghiên cứu giới tự nhiên và những quy luật của nó bằng những
luận điểm trừu tượng, bằng việc rút ra kết quả riêng từ những kết luận
chung chung, không tính đến sự tồn tại thực tế của chúng. Ông gọi phương pháp
ấy của họ là phương pháp “con nhện”. Bêcơn cũng phê phán phương pháp
nghiên cứu của các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa. Ông ví họ như những con kiến
tha mồi, không biết chế biến, không hiểu gì cả. Ông coi những tri thức,
kinh nghiệm khi chưa được khái quát thì chỉ như những sợi rơm chưa kết thành
chổi. Do đó, khác với các nhà kinh nghiệm giống như con kiến chỉ biết tha mồi
22
và các nhà kinh viện giống như con nhện chỉ biết nhả tơ, chăng lưới, các nhà
khoa học chân chính phải như con ong vừa biết kiếm nguyên liệu trong các
loài hoa, vừa biết chế ra sản phẩm tinh khiết. Ông còn nói rằng, trở ngại lớn nhất
đối với nhận thức lý tính của con người là những “bóng ma định kiến”. Chỉ có
gạt đi được những “bóng ma” đó thì người ta mới đi theo con đường lao động
tư duy đúng đắn, mới sử dụng được nghiên cứu mới - phương pháp phân tích
thực nghiệm.

T. Hốpxơ là nhà triết học duy vật Anh nổi tiếng, người kế tục và hệ thống
hóa triết học của Bêcơn. Về phương pháp nhận thức, Hốpxơ hiểu như là
nghệ thuật kết hợp giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy danh. Ông giải thích
bước chuyển từ cái riêng đến cái chung, từ tri giác cảm tính đến khái niệm theo
quan điểm duy danh luận. Theo ông, khái niệm chỉ là tên của những cái tên.
J. Lốccơ mở đầu nhận thức luận của mình bằng việc phê phán học thuyết
thừa nhận tồn tại các tư tưởng bẩm sinh của Đềcáctơ và môn phái theo
học thuyết trên. Ông tìm cách luận chứng sự vô lý của nó. Thừa nhận tư tưởng
bẩm sinh tức là thừa nhận con người mới sinh ra đã có những tư tưởng nào đó.
Nhưng nhiều trẻ em, Lốccơ khẳng định, thậm chí nhiều người lớn tuổi nhưng
vô học, đều không biết cả những điều sơ đẳng. Hơn nữa nếu khẳng định trong
chúng ta có tư tưởng bẩm sinh (tức là các chân lý hiển nhiên) thì như vậy
toàn bộ quá trình nhận thức trở nên thừa, bởi vì điều đó “chẳng khác gì
khẳng định rằng suy lý đã khám phá cho con người những điều mà anh ta đã biết
từ trước rồi”. Theo ông, toàn bộ các tri thức, chân lý đều là kết quả nhận thức
của con người chứ không phải là bẩm sinh. Ngay giữa các nước, các dân tộc
cũng không có các quan niệm giống nhau về các chuẩn mực đạo đức,
pháp luật… Nếu chúng là bẩm sinh thì phải là như nhau. Lốccơ đưa ra
nguyên lý tabula rasa (tấm bảng sạch): “Linh hồn chúng ta khi mới sinh ra,
có thể nói như một tờ giấy trắng, không có một ký hiệu hay ý niệm nào cả”.
Theo cách hiểu của ông, những nguyên lý này khẳng định: thứ nhất, mọi tri thức
của con người không phải là bẩm sinh, mà là kết quả của nhận thức con người;
thứ hai, mọi quá trình nhận thức đều phải xuất phát từ các cơ quan cảm tính;
thứ ba, linh hồn con người không phải đơn thuần là “tấm bảng sạch” hoàn toàn
thụ động đối với mọi hoàn cảnh xung quanh, mà có vai trò tích cực nhất định.
Trong số những người được giáo dục như nhau, Lốccơ nhận xét, tồn tại một sự
bất bình đẳng rất lớn về khả năng trí tuệ của họ. Trong việc phê phán học thuyết
về các tư tưởng bẩm sinh, cũng như trong sự khẳng định nguyên lý tabula rasa,
Lốccơ đứng trên lập trường duy vật. Việc phê phán của Lốccơ đối với
23

học thuyết duy tâm có nhiều ý nghĩa tích cực. Ông đã đưa ra nhiều chứng cứ
thực tế và xác thực để bác bỏ sự sai trái của nó, từ đó lý giải nguồn gốc của các
tri thức con người một cách duy vật. Theo tinh thần duy vật của nguyên lý
tabula rasa, Lốccơ khẳng định: “Mọi tri thức đều dựa trên kinh nghiệm và suy
cho cùng đều xuất phát từ đó”. Coi kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi
tri thức, Lốccơ hiểu kinh nghiệm không chỉ là khả năng nhận thức cảm tính (tức
kinh nghiệm bên ngoài) mà cả bản thân lý tính (được ông gọi là kinh nghiệm
bên trong). Toàn bộ các tri thức mà con người có được nhờ nhận thức đều được
Lốccơ gọi là “ý niệm”. Quá trình nhận thức được ông miêu tả như sau: Ở
giai đoạn thứ nhất, các sự vật tác động vào các giác quan của chúng ta (tức
kinh nghiệm bên ngoài). Từ đây, con người có được các tư liệu về những
đặc tính cá biệt, về bên ngoài của các vật dưới dạng đơn nhất. Tất cả các tri thức
này được Lốccơ gọi chung là các “ý niệm đơn giản”. Tiếp đến là giai đoạn hai:
trên cơ sở các tư liệu mà cảm tính đem lại, lý tính bắt đầu quá trình so sánh,
phân tích… tạo ra các phạm trù, khái niệm chung thể hiện các đặc tính
giống nhau của một nhóm sự vật nhất định, chẳng hạn như vật chất, con người,
thực thể… những cái được ông gọi là các “ý niệm phức tạp”. Tuy vậy, Lốccơ
tách biệt cả hai giai đoạn nhận thức trên. Hơn nữa, theo lập trường duy danh,
ông chỉ thừa nhận mọi sự vật trong giới tự nhiên tồn tại dưới dạng đơn nhất.
Vì vậy, “các ý niệm đơn giản… là các sản phẩm tự nhiên và mang tính quy luật
của các sự vật xung quanh ta và thực sự tác động vào chúng ta”. Nhưng đối với
các “ý niệm phức tạp” tức các phạm trù, khái niệm chung… thì ông lại coi đó là
kết quả hoạt động của riêng lý tính hoàn toàn chủ quan của con người, chứ
không phản ánh đặc tính nào của sự vật cả.
R. Đềcáctơ, B. Xpinôda, H. Lépních và một số người khác theo chủ nghĩa
duy lý cho rằng kinh nghiệm dựa trên cảm giác con người không thể trở thành
cơ sở phương pháp chung cho mọi khoa học được. Tri giác và cảm giác là ảo.
Chúng ta có thể cảm giác được cái không có - chẳng hạn sự đau đớn ở đầu các
chi và chúng ta có thể cảm giác được một số âm thanh, màu sắc… Những
kinh nghiệm cho trước cũng như các kết quả thực nghiệm bao giờ cũng bị

nghi vấn, chưa được khẳng định. Tuy vậy, trong lý tính, trong chính tâm hồn của
con người hàm chứa những tư tưởng rõ nét một cách trực giác - (tức những
tư tưởng không phụ thuộc vào kinh nghiệm, không phải dựa trên cơ sở cảm giác
mà có trước cảm giác). Theo nguyên tắc của phép diễn dịch - đi từ cái chung đến
cái cụ thể, khi phát triển những tư tưởng có sẵn trong đầu ấy, con người có thể
thu được tri thức chính xác về thế giới. Dù những bằng chứng về thế giới là do
chúng ta thu được từ cảm giác, vì vậy cả kinh nghiệm và thực nghiệm đều là
24
những cái cấu thành tri thức về thế giới, song cần phải tìm cơ sở của
phương pháp chính xác trong trí tuệ. Tư duy đều dựa trên trực giác và diễn dịch.
Tư duy xuất hiện trước cảm giác và không phụ thuộc vào cảm giác, song tư duy
lại phải đi kèm với cảm giác. Phương pháp chính xác của mọi khoa học và
triết học đều giống phương pháp toán học.
R. Đềcáctơ là nhà triết học và khoa học nổi tiếng người Pháp. Ông đã được
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đánh giá là một trong những người
sáng lập nên khoa học và triết học của một thời đại mới chống lại tôn giáo,
chống lại chủ nghĩa kinh viện và cũng xây dựng nên một tư duy mới có thể giúp
cho việc nghiên cứu khoa học. Ông muốn sáng tạo một phương pháp khoa học
mới nhằm đề cao sức mạnh lý tưởng của con người, đem lý tính khoa học
thay thế cho niềm tin tôn giáo mù quáng. Theo ông, nghi ngờ là điểm xuất phát
của phương pháp khoa học. Nghi ngờ có thể giúp con người tránh được những
ý kiến thiên lệch, xác định được chân lý. Đềcáctơ nhấn mạnh rằng, dù anh
nghi ngờ mọi cái nhưng không thể nghi ngờ rằng anh đang nghi ngờ. Và ông đã
đi đến một kết luận nổi tiếng: “Tôi suy nghĩ vậy tôi tồn tại”. Điểm tiến bộ của
luận điểm này là phủ nhận một cách tuyệt đối tất cả những cái gì mà người ta
mê tín. Trong luận điểm đó cũng thể hiện chủ nghĩa duy lý, vì ông nhấn mạnh
sự suy nghĩ, tư duy. Ông cho rằng không phải cảm giác, mà tư duy mới chứng
minh được sự tồn tại của chủ thể. Và tư duy rõ ràng, mạch lạc là tiêu chuẩn của
chân lý. Nhưng luận điểm này cũng bộc lộ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của
Đềcáctơ vì ông đã lấy tư tưởng, lấy sự suy nghĩ của chủ thể làm khởi điểm của

sự tồn tại. Về nhận thức luận, Đềcáctơ là người sáng lập chủ nghĩa duy lý;
nhưng theo chủ nghĩa duy lý của ông, trong lý trí của con người có những
tư tưởng bẩm sinh. Ví dụ, ông nói: “Nếu con người có ý nghĩ bẩm sinh về
Thượng đế thì Thượng đế là tồn tại, không cần phải chứng minh”. Những
định đề toán học, theo ông, là những cái bẩm sinh.
B. Xpinôda là nhà triết học Hà Lan nổi tiếng, nhà duy vật và vô thần, nhà
tư tưởng của tầng lớp dân chủ tư sản. Về nhận thức luận, Xpinôda theo
chủ nghĩa duy lý một cách mạnh mẽ. Ông đối lập chủ nghĩa duy lý (sử dụng
lý tính) như là nguồn gốc duy nhất của những chân lý đáng tin cậy với nhận thức
cảm tính. Theo ông, những chân lý đáng tin cậy chỉ đạt được ở giai đoạn lý tính,
bởi vì linh hồn của con người như là một dạng tư duy có thể nắm được tất cả
những gì của thực thể. Chân lý cũng có thể đạt được trên nguyên tắc đồng nhất
tư duy và tồn tại, còn tồn tại là sự thể hiện của tư duy. Ông nói: trật tự liên hệ
của tư tưởng và trật tự liên hệ của các sự vật là một.
25

×