Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

những nội dung chủ yếu của tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.64 KB, 16 trang )

NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người, trong đó có tư
tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất
nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chuyên về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên Người viết để huấn
luyện những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề đầu tiên Người đề cập là tư cách
người cách mệnh. Tác phẩm sau cùng bàn sâu về vấn đề đạo đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày
thành lập Đảng (3-2-1969), đăng trên báo Nhân dân là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân. Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn dặn Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam đã được hình
thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư
tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tinh hoa
văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt
động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn diện về đạo đức, bao gồm:
vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những phẩm chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo
đức mới; yêu cầu rèn luyện đạo đức với mỗi người cách mạng.
1. Về vị trí, vai trò của đạo đức trong xã hội và trong đời sống của mỗi người.
- Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng. Trong tác phẩm Đường
Kách mệnh, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc “tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn
về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ: với mình, với người và với việc. Người viết: “Làm cách mạng
để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề,
một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
- Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây,
như ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài
giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách. Người viết :


“có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành
công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “lo hoàn
thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu
ngạo, không hủ hóa”.
- Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người đảng viên phải giữ gìn cho đúng, đó là:
+ Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
+ Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến
đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu.
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết.
+ Hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần
chúng.
- Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc
Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”.
Người thường nhắc lại ý của V. I. Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân
tộc và thời đại.
- Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu đạo đức đối với các
giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội,
trong cả ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc
biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền.
Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.

2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí
Minh
a. Trung với nước, hiếu với dân
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh
kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.
- Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát triển đất nước, làm cho
đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu". Nước là của dân, dân là chủ đất nước, trung với nước là trung với

dân, vì lợi ích của nhân dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”
- Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước “vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành
của dân”.
- Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng. Người dạy, đối với mỗi
cán bộ đảng viên, phải “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, và hơn nữa, phải “tận trung với nước, tận
hiếu với dân”.
- Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm
vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và
quyền lợi của người làm chủ đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan điểm của Người về mối quan hệ và
nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng, đất nước.
b. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân
tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương
con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá
nhân trong quan hệ xã hội.
- Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa số nhân dân, những người
lao động bình thường trong xã hội, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm
mọi việc để phát huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành”.
- Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì khoan
dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết
điểm.
- Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy, phải thực hiện phê
bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
- Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người.
Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ nghĩa Mác - Lênin để thương yêu
nhau hơn. Người viết: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu
sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được".
c. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất trung tâm của đạo đức
cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, là mối quan hệ “với tự mình”.
- Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con người, như trời có bốn mùa, đất
có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.
+ Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh
thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng
liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”.
+ Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình,
tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức ”.
Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác.
+ Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không xâm phạm một đồng xu,
hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; “không tham địa vị, không tham tiền tài , không tham tâng bốc mình ”.
+ Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với
người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối
với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được,
“việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”.
Liêm, chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ.
- Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư, thiên vị "tư ân, tư
huệ, hoặc tư thù, tư oán", đem lòng chí công, vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng
nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn "chí công,
vô tư" phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.
Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người "giữ cán cân công lý", không được vì lòng riêng mà chà đạp
lên pháp luật.
- Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công, vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ
dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực
hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan niệm đạo đức nhân đạo,
nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người là “người Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt
xuất của thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.

Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể hiện trong các điểm sau:
- Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp
bức, bóc lột.
- Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn phương vô sản đều
là anh em”.
- Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
- Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa
quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong xã hội và chính Người đã suốt
đời không mệt mỏi tự rèn mình, giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện. Đó là:
a. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
- Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.
- Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, của
lãnh đạo với nhân viên là rất quan trọng. Người yêu cầu, cha mẹ làm gương cho các con, anh chị làm gương
cho em, ông bà làm gương cho con cháu, lãnh đạo làm gương cho cán bộ, nhân viên
- Đảng viên phải làm gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết
lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực
thước cho người ta bắt chước” .
b. Xây đi đôi với chống
- Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những
biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới, đó là "chủ nghĩa cá nhân". Xây đi
đôi với chống là muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải
chống chủ nghĩa cá nhân.
- Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục, từ gia đình đến nhà trường, tập thể
và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể hoá sát hợp với các tầng lớp, đối tượng. Hồ Chí
Minh đã cụ thể hoá các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội. Trong
giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh của mọi người, để mọi người nhận thức
được và tự giác thực hiện.

- Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết phải chống chủ nghĩa cá nhân, phải phát hiện
sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
- Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu
dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc thi đua “ba xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc
tốt” để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.
c. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
- Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người
viết: “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát
triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
- Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người dạy: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày
hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
- Tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở,
chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự
lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục.
Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng
đồng, trong mọi mối quan hệ của mình.
Câu 1: Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng HCM?
“Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của CMVN; là
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CN mác-Lenin vào hoàn cảnh cụ thể của CMVN; kế thừa và phát
triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc VN; sự tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Cùng với chủ
nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng HCM là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của ĐCSVN.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và
cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của các đảng cộng sản và công nhân trong
đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa .
Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đối với Người, đến với chủ nghĩa
Mác - Lê-nin cũng có nghĩa là đến với con đường cách mạng vô sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường
cứu nước chân chính, triệt để: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản" và "chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng
này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới"(1).

Đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh có bước nhảy vọt lớn: kết hợp
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội; nâng chủ nghĩa yêu nước lên một trình độ mới trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chủ
nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất, "muốn cách mạng thành công, phải đi theo chủ nghĩa Mã
Khắc Tư và chủ nghĩa Lê-nin". Đối với Người, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận
khoa học để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Người không bao giờ xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một nguồn gốc - nguồn gốc chủ yếu nhất, của tư tưởng Hồ Chí Minh,
là một bộ phận hữu cơ - bộ phận cơ sở, nền tảng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Không thể đặt tư tưởng Hồ Chí
Minh ra ngoài hệ tư tưởng Mác - Lê-nin, hay nói cách khác, không thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi nền tảng
của nó là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Cho nên, có thể nói, ở Việt Nam, giương cao tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là
giương cao chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Muốn bảo vệ và quán triệt chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách có hiệu quả,
phải bảo vệ, quán triệt và giương cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là lịch sử mà cũng là lô-gíc của vấn đề. Nó giúp
chỉ ra sai lầm của quan niệm đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là "kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều
kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại" (2)
Ở luận điểm này, có hai vấn đề cần làm rõ:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm
nền tảng, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là sự kế thừa, phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, cả phương Đông
và phương Tây. Hồ Chí Minh đã từng tỏ rõ thái độ của mình đối với việc học tập, tiếp thu những học thuyết của
các lãnh tụ chính trị, xã hội, tôn giáo trong lịch sử. Người nói: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng
đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là
chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giê-su, C. Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn
"mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội ".
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy"(3).

Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác - Lê-nin, bắt nguồn chủ yếu từ chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà là sự tổng hòa, sự kết hợp giữa
tinh hoa văn hóa truyền thống Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-
nin Vậy sự vận dụng và phát triển sáng tạo đó như thế nào?
Ngay từ năm 1924, sau khi đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trở thành một cán bộ của Đảng Cộng sản
Pháp và của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã vạch rõ sự khác nhau giữa thực tiễn của các nước tư bản phát
triển ở châu Âu mà C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đã chỉ ra với thực tiễn Việt Nam - một nước thuộc địa,
nửa phong kiến, nông nghiệp, lạc hậu ở phương Đông. Do đó, cần bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác về cơ sở
lịch sử phương Đông. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng sản, Người viết: "Cuộc
đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung "cơ sở lịch
sử" của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã
xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà
châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố
nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô viết đảm nhiệm"(4).
Việc tiếp thu, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin của Hồ Chí Minh là cả quá trình gắn với hoạt
động thực tiễn, kết hợp lý luận với thực tiễn, xuất phát từ những yêu cầu của thực tiễn. Người nhấn mạnh rằng,
việc học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trước hết phải nắm vững "cái cốt lõi", "linh hồn sống" của nó là
phương pháp biện chứng; học tập "tinh thần, lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin
để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác
cách mạng của chúng ta". Người còn chỉ rõ: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin là phải sống với nhau có tình có
nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin"(5).
Từ những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận thể hiện tư duy độc lập, sáng tạo, Hồ Chí Minh trong suốt
cuộc đời của mình đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và tạo ra một
hệ thống luận điểm mới, sáng tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Luận điểm sáng tạo lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là luận điểm về chủ nghĩa thực dân và vấn đề giải
phóng dân tộc. Những tác phẩm của Người là "Bản án chế độ thực dân Pháp" (xuất bản năm 1925) và "Đây công
lý của thực dân Pháp ở Đông Dương" đã vạch trần bản chất và những thủ đoạn bóc lột, đàn áp, tàn sát dã man của
chủ nghĩa thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa; nêu rõ nỗi đau khổ, của kiếp nô lệ, nguyện vọng khát

khao được giải phóng và những cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Đây là những tài liệu “có một không
hai” về chủ nghĩa thực dân; ở đó, sự phân tích về chủ nghĩa thực dân của Hồ Chí Minh đã vượt hẳn những gì mà
những nhà lý luận mác-xít đề cập đến(6). Những luận điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa thực dân, đặc biệt là
hình ảnh về "con đỉa hai vòi", "con chim hai cánh", đã không chỉ có tác dụng thức tỉnh các dân tộc thuộc địa, mà
còn cảnh tỉnh các đảng cộng sản ở chính quốc.
Hồ Chí Minh là người chiến sĩ tiên phong trong phê phán chủ nghĩa thực dân, đồng thời cũng là người
lãnh đạo dân tộc mình thi hành bản án chôn vùi chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ sụp đổ của
chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.
Đề cương Về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lê-nin, viết năm 1920, đã thức tỉnh Nguyễn Ái Quốc,
đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vì đây là chủ nghĩa duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Nhưng
vượt trên những hạn chế lúc bấy giờ trong nhận thức và đánh giá về phong trào cách mạng thuộc địa: Cách mạng
thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, là "hậu bị quân" của cách mạng vô sản chính quốc; cách mạng
chính quốc thắng lợi thì các thuộc địa mới được giải phóng, Hồ Chí Minh vốn là người dân thuộc địa, hiểu sâu
sắc khát vọng và tiềm năng, sức mạnh to lớn của các dân tộc thuộc địa, nên đã nêu lên luận điểm: Cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ với cách mạng chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ
thuộc vào cách mạng chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể "chủ động đứng lên, đem
sức ta mà giải phóng cho ta", giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc và qua đó, thúc đẩy cách mạng chính
quốc.
b. Khi phân tích xã hội của các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng quan điểm giai cấp và
đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách sáng tạo, chủ yếu xuất phát từ mâu thuẫn cơ bản của các
nước thuộc địa, đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc, thực dân thống trị và bè lũ tay sai với toàn thể nhân dân,
dân tộc, không phân biệt giai cấp, tôn giáo Theo Người, ở Việt Nam cũng như ở các nước phương Đông, do
trình độ sản xuất kém phát triển nên sự phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp không giống như ở các nước
phương Tây. Từ đó, Người có quan điểm hết sức sáng tạo là gắn chủ nghĩa dân tộc chân chính với chủ nghĩa
quốc tế, và nêu lên luận điểm: "Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước". Người còn cho rằng, chủ nghĩa
dân tộc nhân danh Quốc tế Cộng sản là "một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời".
c. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp. Người khẳng định, phải đi từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp; dân tộc
không thoát khỏi kiếp ngựa trâu thì ngàn năm giai cấp cũng không được giải phóng. Đường lối của cách mạng
Việt Nam là đi từ giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội; kết

hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Động lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn kết
toàn dân trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
d. Cũng từ luận điểm cơ bản đó, Hồ Chí Minh đã có những phát hiện sáng tạo về Đảng Cộng sản ở một
nước thuộc địa nửa phong kiến, nông dân chiếm đa số dân cư; xác định quy luật hình thành của Đảng là kết hợp
chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước". Đảng vừa đại diện cho lợi ích của
giai cấp, vừa đại diện cho lợi ích của dân tộc.
e. Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của Cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế quốc, phong kiến,
giành chính quyền về tay nhân dân, ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã xác định: phải giành chính quyền bằng bạo lực,
bằng khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng nếu kẻ thù ngoan cố, không chịu hạ vũ khí.
g. Trên cơ sở kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, học tập kinh nghiệm hoạt động quân sự của thế
giới và của các Đảng anh em, tổng kết thực tiễn đấu tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng của nhân dân ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra học thuyết quân sự hiện đại của Việt Nam. Trong
đó, nổi bật là quan điểm về chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ; về xây dựng lực
lượng vũ trang toàn dân với ba thứ quân chủ lực, địa phương, dân quân tự vệ; về nền quốc phòng toàn dân, toàn
diện, hiện đại
h. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, sau khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản sẽ
thiết lập nên nền chuyên chính vô sản. Vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, một
cuộc cách mạng từ giải phóng dân tộc mà phát triển lên, Hồ Chí Minh cho rằng, "mục đích của Quốc tế Cộng sản
là làm thế giới vô sản cách mạng, thiết lập vô sản chuyên chính", nhưng chúng ta phải căn cứ vào trình độ chính
trị, kinh tế, xã hội của đất nước mà đề ra đường lối, chiến lược cách mạng phù hợp, "chứ không phải nước nào
cũng phải làm cách mạng vô sản, lập chuyên chính như nhau". Vì vậy, ngay từ Chánh cương vắn tắt (1930),
Người đã nêu: Thiết lập Chính phủ công nông binh; tổ chức ra quân đội công nông. Tại Hội nghị Trung ương 8
(tháng 5-1941), Người đề ra chủ trương thành lập "một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần Tân dân chủ.
Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng một giai cấp nào, mà của chung
toàn thể dân tộc".
i. Về vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trước hết, Người
khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, chúng ta nhất định phải quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Chỉ có xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới thực sự giải phóng được dân tộc, xã hội và con người. Vì
vậy, chủ trương tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam
tiếp tục hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng dân tộc dân chủ) là một sáng tạo lớn, có tính

cách mạng cao và phù hợp với thực tiễn đất nước.
Người chỉ rõ bản chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là "đánh thắng lạc hậu và bần
cùng, để xây dựng hạnh phúc muôn đời cho nhân dân ta, cho con cháu ta"(7). Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là "từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không
phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây
dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công
nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến"(8).
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin nằm trong sự thống nhất hữu cơ; cả hai đều là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Chúng ta không thể lấy chủ nghĩa Mác - Lê-
nin thay cho tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như không thể hiểu và quán triệt, vận dụng sâu sắc tư tưởng Hồ Chí
Minh nếu không nắm vững chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Câu 3: Tư tưởng HCM về Đảng cộng sản (Đảng cầm quyền)? Vì sao chúng ta phải xây dựng và chỉnh đốn
Đảng?
1. Tư tưởng HCM về Đảng cộng sản (Đảng cầm quyền)
Là Người sang lập Đảng cộng sản Việt Nam, HCM đã xây dựng và rèn luyện Đảng cộng sản thành một
Đảng cách mạng chân chính, bộ tham mưu sáng suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam,
để lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đưa cả nước
đi lên CNXH. Trong những di sản tư tưởng mà Người để lại, những luận điểm của Người về Đảng cộng sản, về
xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền là một phần cực kỳ quan trọng. Quán triệt và
vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người nhằm chỉnh đốn và đổi mới Đảng, làm cho Đảng thật sự trong sạch vững
mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, là một trong những nhiệm vụ chủ yếu nhất của toàn
Đảng, toàn dân ta. Đây thật sự là vấn đề then chốt đảm bảo thắng lợi cho công cuộc đổi mới đang được triển khai
rộng khắp trên cả nước hiện nay.
2. Theo chủ tịch HCM, chúng ta phải xây dựng và chỉnh đốn Đảng, bởi vì:
Đảng Cộng sản VN là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của dân tộc VN; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc. Tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và

sức chiến đấu của Đảng lên ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ của tình hình mới là đòi hỏi có ý nghĩa sống còn
đối với Đảng và nhân dân ta. Để xây dựng Đảng ta thành một Đảng cầm quyền thật sự trong sạch, vững mạnh,
tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức, lương tâm và danh dự của dân tộc, xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ trung
thành của nhân dân như lời dạy của Hồ Chí Minh, đòi hỏi toàn Đảng phải thực hiện triệt để, đồng bộ các giải
pháp
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Là người sáng
lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí
Minh không ngừng chăm lo xây dựng, rèn luyện Đảng ta thành một đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu
cho trí tuệ, đạo đức, lương tâm và danh dự của dân tộc, xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ trung thành
của nhân dân.
Để xứng đáng là một Đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp cách mạng to lớn của giai cấp và
dân tộc, một Đảng “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”, một Đảng tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân
tộc và thời đại, Đảng phải thường xuyên chăm lo đến việc chỉnh đốn và đổi mới bản thân mình. Chỉnh đốn và đổi
mới Đảng là làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức; làm cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu của nhiệm vụ cách
mạng.
Nói chuyện với Hội nghị bồi dưỡng chỉnh huấn đầu năm 1965, HCM đã nhận định, bên cạnh số đông
đảng viên xứng đáng với danh hiệu của mình thì vẫn có một số đảng viên thấp kém về tinh thần và đạo đức cách
mạng… Họ hững hờ như những người không có lý tưởng, đến đâu hay đến đó, qua tháng qua ngày… Họ ít gắn
bó với tổ chức, không tin ở lực lượng và trí tuệ của tập thể. Họ sống và làm việc một cách riêng lẻ, không đoàn
kết và hợp tác với người khác. Hễ có đôi chút hiểu biết, đôi chút thành công thì tự cao tự đại, vênh vang kiêu
ngạo, tự cho mình tài giỏi hơn người. Ở cương vị phụ trách thì tự cho mình có quyền hơn hết thảy, định đoạtmọi
việc; ở ngành nào, địa phương nào thì coi đó như một giang sơn riêng, không biết đến lợi ích toàn cục. Họ coi
thường những quyết định của tổ chức, họ là những “ông quan liêu”, chỉ thích dùng mệnh lệnh đối với đồng chí và
nhân dân… số đó coi Đảng như một cái cầu thang để thang quan phát tài. Họ không quan tâm đến đời sống của
nhân dân mà chỉ lo nghĩ đến lợi ích của riêng mình… Phải chỉnh đốn để tẩy rửa tất cả những lỗi lầm, sai trái ấy.
Đối với toàn Đảng, Người cũng chỉ rõ là Đảng sống trong toàn xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu ảnh
hưởng của xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái hay và cái dở. Chỉ có thể phát huy cái tốt, cái hay, lọc bỏ được cái
xấu, cái dở bằng việc rèn luyện thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên, thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn
Đảng.

Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề này trước những bước chuyển của cách mạng, vì đây là thời điểm
thường có những cái bất cập, bên cạnh đó là những chao đảo, suy thoái có thể xảy ra.
Những ngày đầu kháng chiến toàn quốc, để đáp ứng những yêu cầu của cuộc kháng chiến đang đặt ra,
Người đã nhấn mạnh: trước hết phải chỉnh nội bộ Đảng.
Khi chuyển mạnh sang tổng phản công (1952), Người đã nói: Muốn lãnh đạo vững thì trước hết cán bộ và
đảng viên phải có tư tưởng và lập trường vững chắc để lãnh đạo, để xung phong làm gương mẫu. Vì vậy chỉnh
Đảng là việc chính mà chúng ta phải làm ngay.
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, nhiều đợt học tập chính trị để quán triệt đường lối,
quan điểm của Đảng đã được tổ chức rộng khắp trong toàn Đảng. Phong trào “ba xây, ba chống” được phát động
sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, thực sự là một cuộc vận động nhằm chỉnh đốn Đảng trước những nhiệm vụ
cách mạng mới.
Trước lúc đi xa, Người còn để lại những lời tâm huyết, căn dặn toàn Đảng: “Việc cần phải làm trước tiên
là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng
giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”.
Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng chỉnh đốn Đảng lại được Người coi là
công việc thường xuyên của Đảng. Người đã nhìn thấy rất rõ hai mặt của quyền lực: một mặt, quyền lực có sức
mạnh rất to lớn để cải tạo cái cũ và xây dựng cái mới trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nếu biết sử
dụng đúng quyền lực. Mặt khác, nó cũng có sức phá hoại rất ghê gớm, vì con người nắm quyền lực có thể thoái
hóa biến chất rất nhanh chóng, nếu đi vào con đường tham muốn quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành
quyền lực và khi đã có quyền lực thì lợi dụng quyền lực, lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền đặc lợ … Vì vậy
Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn và đổi mới Đảng để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ
nạn do thoái hóa biến chất gây ra, trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền.
Vận dụng tư tưởng HCM vào cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn phải bằng hành động thực tế,
thể hiện vai trò cực kỳ quan trọng của Đảng trong đời sống xã hội. Trong cơ chế thị trường, càng cần tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng, bởi vì sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định cho thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Cần gắn bó chặt chẽ hơn nữa công tác xây dựng Đảng với việc phát triển kinh tế theo quan điểm phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 11 của Đảng đã khẳng định: … tiếp tục đẩy mạnh xây
dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, tiếp tục
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện

công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên CNXH.
Câu hỏi 4: Muôn việc thành hay bại chủ yếu do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không?
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người, trong đó có tư
tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất
nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chuyên về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên Người viết để huấn
luyện những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề đầu tiên Người đề cập là tư cách
người cách mệnh; Tác phẩm sau cùng bàn sâu về vấn đề đạo đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày
thành lập Đảng (3-2-1969), đăng trên báo Nhân dân là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân; Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn dặn Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Chính vì thế Người khẳng định “Muôn việc thành hay bại chủ yếu do
cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”.
TT HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của CM VN; là kết quả
của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CN Mác-Leenin vào hoàn cảnh cụ thể của CMVN; kế thừa và phát triển
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc VN, sự tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Đạo đức được hiểu theo nghĩa chung nhất là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc,
chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội công nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người
trong quan hệ với người khác và toàn xã hội. đối với mỗi cá nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang tính tự giác,
chủ yếu xuất phát từ nhu cầu bên trong, đồng thời chịu sự tác động của dư luận, xã hội, sự kiểm tra của những
người xung quanh.
Tư tưởng HCM về đạo đức CM là hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc của Người về những
chuẩn mực (tiêu chuẩn, quy tắc, quy phạm…) và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới, khác về chất so
với nền đạo đức cũ, nhằm phát triển toàn diện con người trong thời đại mới.
HCM xây dựng nền đạo đức CM với hai nội dung cơ bản, đó là xây dựng hệ thống những chuẩn mực của
nền đạo đức mới. Tổng hợp những chuẩn mực đó thành phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân, tập thể…; và xây
dựng những nguyên tắc trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức mới. Hai nội dung này nhằm mục đích phát triển
con người một cách toàn diện, hướng tới các giá trị cao đẹp chân – thiện – mỹ.
TT HCM về đạo đức CM được hình thành từ:
Giá trị đạo đức truyền thống, đó là truyền thống đạo đức của dân tộc được hình thành và phát triển trên cơ
sở của chủ nghĩa yêu nước (đạo lý yêu quê hương đất nước, yêu thương con người, đồng cam cộng khổ cứu giúp

lẫn nhau, cần cù trong lao động, thủy chung,…), những giá trị đạo đức ấy ảnh hưởng đến HCM từ khi còn nhỏ
thông qua lời hát ru của mẹ, thấm đượm khi trưởng thành và khi trở thành lãnh tụ, đạo đức truyền thống là yếu tố
nội sinh giúp HCM kế thừa, vận dụng tinh hoa đạo đức nhân loại và đến với CN Mác-lênin;
Tinh hoa đạo đức nhân loại, Người tiếp nhận nhiều nền văn hóa khác nhau không mặc cảm, không định
kiến và từ đó rút ra được những tinh hoa của các nền văn hóa đó như đạo tu thân của Nho giáo, tư tưởng tự do –
bình đẳng – bác ái của Tôn Dật Tiên, lòng bác ái cao cả của Chúa Giê-su…;
Đạo đức cộng sản được thể hiện trong học thuyết Mac-Lenin và phong trào cộng sản quốc tế, đạo đức mà
HCM vận dụng và kế thừa nhiều nhất là lí luận và thực tiễn. Thể hiện trên những phạm trù và tiêu chuẩn, mục
đích là giải phóng dân tộc, xã hội và con người, đem lại hạnh phúc cho cá nhân, cho mọi người.
Sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức không mệt mỏi của HCM, Người có tâm rất trong sáng, là một tấm gương
sáng, là bậc đại trí, đại dũng, đại nhân, đại liêm,… Người thường xuyên tu dưỡng và rèn luyện ở mọi nơi, mọi lúc
và mọi hoàn cảnh. Đạo đức cách mạng mang bản chất của giai cấp công nhân, phục vụ cho Tổ quốc, cho nhân
dân, cho Đảng, cho chế độ; Gắn liền với vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội; Là sự kết tinh giá trị truyền thống đạo
đức của dân tộc và tinh hoa đạo đức nhân loại; Cụ thể và dễ thực hiện, có những chuẩn mực riêng cho từng giai
cấp, từng tầng lớp, từng ngành,…; Tấm gương nói đi đôi với làm, lí luận gắn liền với thực hành của HCM.
HCM luôn đề cao vai trò của đạo đức CM. Bắt nguồn từ chức năng điều chỉnh sự suy nghĩ và hành vi của
con người, đạo đức CM tạo ra động cơ hành động đúng đắn, tạo ra ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của con
người. Từ đó, HCM coi đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của người CM. Người viết: “Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người CM phải có
đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho
dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự
mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì.”. Vai trò nền tảng của đạo đức CM được HCM khẳng định: “Làm
CM để cải tạo xh cũ thành xh mới là một sự nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ nặng nề, một cuộc
đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người CM phải có có
đạo đức CM làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ CM vẻ vang”. Bởi lẽ sự nghiệp độc lập dân tộc và
CNXH là sự nghiệp rất to lớn, khó khăn và nặng nề, con đường đi đến ĐLDT và CNXH là con đường dài không
phải một đại lộ thẳng tắp. Nó đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ, hơn nữa còn của
nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy phải là công việc thường xuyên của toàn
Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi người trong xã hội ta.
HCM luôn đánh giá cao cả hai mặt đức và tài ở mỗi con người. Trong mối quan hệ giữa đạo đức với tài

năng, Người khẳng định đạo đức là gốc, đạo đức tạo ra sức mạnh, là nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi
công việc. Quan điểm lấy đức làm gốc của Người không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Đức
là gốc, nhưng đức và tài, hồng và chuyên phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể có mặt này,
thiếu mặt kia. Như Người đã phân tích, người nào có đức mà không có tài thì cũng như ông bụt ngồi trong chùa,
không làm hại ai nhưng cũng chẳng ích gì. Ngược lại, người có tài mà không có đức thì chẳng khác gì anh kinh
doanh giỏi, đem lại nhiều lãi nhưng lãng phí, tham ô, ăn cắp của công thì như vậy chỉ có hại dân, hại nước. Người
thực sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực để hoàn thành mọi nhiệm
vụ được giao, sẵn sàng ủng hộ và nhường bước cho những ai có tài hơn mình vươn lên trước, ý nghĩa đức là gốc
chính là ở chỗ đó.
Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức luôn là yêu cầu, nền tảng của mỗi người trong cuộc sống cộng đồng, đặc
biệt cần thiết đối với mỗi cán bộ đảng viên. Đội ngũ cán bộ đảng viên có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp
CM, Người khẳng định “”Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ
tốt hay kém”. Người cho rằng cán bộ chính là người đem chính sách của đoàn thể thực thi trong nhân dân, nếu
cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được. Trên cơ sở đó Người khẳng định “Người cán bộ
cách mạng phải có đạo đức cách mạng, phải giữ vững đạo đức cách mạng mới là người cán bộ chân chính. Mọi
việc thành hay bại chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức CM hay là không”.
Theo Bác, cán bộ là người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và
thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho
đúng.
Yêu cầu đối với cán bộ CM được HCM chỉ ra một cách cụ thể phải hội tụ đầy đủ những vấn đề: Có đạo
đức CM, đây là yêu cầu đầu tiên cần phải có của người CM, phải là người tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự
nghiệp CM, không phải làm cán bộ để “thăng quan phát tài”, để làm “quan cách mạng” mà để làm người đầy tớ
trung thành với nhân dân; Phải liên hệ mật thiết với nhân dân, phải vừa có đức vừa có tài, nhất là không vi phạm
khuyết điểm tham ô, lãng phí, quan liêu.; Phải có năng lực tổ chức, triển khai thực hiện đường lối, chủ trương,
nghị quyết, chính sách của Đảng và nhà nước; Phải là người luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt
như về lý luận Mac-lenin, về nhận thức đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, về chuyên
môn nghiệp vụ. Việc học tập được Bác nhấn mạnh là công việc thường xuyên, học mọi lúc, mọi nơi, cả trên ghế
nhà trường, tự học, học trong thực tế. Cán bộ phải có phong cách công tác tốt, chống bệnh quan liêu, đại khái,
phô trương hình thức, chỉ tay năm ngón, theo Bác người cán bộ phải là người mắt thấy, tai nghe, chân đi, miệng
nói, tay làm, sâu sát, tỉ mỉ, kế hoạch thiết thực. Bác thường nhắc nhở cán bộ đảng viên rằng “Đảng ta là đội tiên

phong của giai cấp công nhân; đồng thời đại biểu cho quyền lợi của dân tộc”, Bác yêu cầu người CM thấy rõ điều
đó và phải phấn đấu cho sự nghiệp cao cả và sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó. HCM luôn quan tâm và giải quyết vấn
đề cán bộ một cách căn bản và toàn diện, Người ví cán bộ như một dây chuyền của bộ máy, nếu dây chuyền
không tốt không chạy thì động cơ dù tốt toàn bộ máy cũng bị tê liệt. trong tiêu chuẩn chung của cán bộ, HCM
nhấn mạnh hai mặt đó là đức và tài, hai mặt này là một thể thống nhất, quan hệ biện chứng không thể thiếu, trong
đó đức là gốc. Vì vậy, theo HCM, những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức CM VN gồm những điểm sau:
Một là, trung với nước hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các
phẩm chất khác. Từ khái niệm cũ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo đức truyền thống của xã hội phong
kiến phương Đông, HCM đưa vào đó 1 nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “trung với
nước hiếu với dân”, đó là 1 cuộc CM trong quan niệm đạo đức. “Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu
hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ
thù nào cũng đánh thắng”. câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị đạo
đức cho mỗi người VN không phải chỉ trong cuộc đấu tranh CM trước mắt mà còn lâu dài về sau.
Hai là, yêu thương con người. quan niệm của HCM về con người rất toàn diện và độc đáo, HCM đã xác
định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Với tấm lòng của một người
cha, Người căn dặn chúng ta”Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong
mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người CM. Đối với những
người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm
sao cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”. Trong Di
chúc, Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ đảng viên luôn luôn
chú ý đến phẩm chất yêu thương con người. Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Theo quan điểm HCM đây
là phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của con người mới, đồng thời là chuẩn mực cơ bản của nền đạo đức mới của
dân tộc ta, của mỗi cán bộ CM. dù ở bất kỳ địa vị nào, công tác gì, cán bộ CM chúng ta đều là đầy tớ của nhân
dân, mọi mặt sinh hoạt đời sống hàng ngày của chúng ta đều do mồ hôi, nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy
cán bộ CM cần phải cố gắng thực hiện “Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Bốn là, tinh thần quốc tế trong
sáng. Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà HCM đã nêu lên bằng mệnh đề “bốn phương vô sản đều là anh
em”; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước mà HCM đã dày công vun
đắp bằng hoạt động CM thực tiễn của mình và bằng sự nghiệp CM của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân
dân VN với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xh, vì những mục tiêu lớn của
thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các

dân tộc. Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong xã hội và chính Người đã suốt
đời không mệt mỏi tự rèn mình, giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện. Đó là: Tu
dưỡng đạo đức bền bỉ suốt đời, chủ yếu trong thực tiễn CM. Theo Hồ Chí Minh “đạo đức cách mạng không phải
trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng
mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Vì vậy muốn có được những phẩm chất đạo đức đòi hỏi cán bộ CM
phải gian nan rèn luyện, kiên trì và nhẫn nại; phải giáo dục mới thành công. Tu dưỡng đạo đức CM phải trên tinh
thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người và dư luận quần chúng. Nêu gương đạo đức, nói đi đôi
với làm. Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm. Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự
làm gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với nhân viên là rất quan trọng. Người yêu cầu,
cha mẹ làm gương cho các con, anh chị làm gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu, lãnh đạo làm gương
cho cán bộ, nhân viên Đảng viên phải làm gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt quần chúng, không
phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách,
đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” . Xây dựng nền đạo đức
CM mới đi đôi với đấu tranh chống những hiện tượng phi đạo lý, nhất là chống chủ nghĩa cá nhân. Cùng với việc
xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức,
sai trái, xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới, đó là "chủ nghĩa cá nhân". Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội thì phải chống chủ nghĩa cá nhân. Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục, từ gia
đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể hoá sát hợp với các
tầng lớp, đối tượng. Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa
tuổi và nhóm xã hội. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh của mọi
người, để mọi người nhận thức được và tự giác thực hiện. Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã
hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc thi đua
“ba xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, đa số cán bộ đảng viên và dân ta đã luôn ghi nhớ và thực hiện lời dạy
của Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới VN XHCN mà yếu tố hàng đầu là nâng cao đạo đức CM. tuy
nhiên, nước ta cũng đang đứng trước nhiều thách thức, yếu kém cần phải vượt qua. Một trong những thách thức
đó là “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ,
chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng lãng phí trong 1 bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức còn diễn ra
nghiêm trọng”. những suy thoái này kéo theo những suy thoái về đạo đức trong gia đình, nhà trường và trong xh.
Những suy thoái đó đang là “nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”.

Qua nghiên cứu, học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, tôi tự đặt ra cho mình phương hướng phấn đấu,
rèn luyện, tu dưỡng đạo đức lối sống theo tấm gương của Người. Đó là:
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trước hết phải học tập và làm theo phong cách sống
và làm việc của Người vì đó là những chuẩn mực đạo đức, văn hóa vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa mang tính
thời đại;
Trung thành với mục tiêu lý tưởng của Đảng, tin tưởng tuyệt đối vào sự nghiệp CM mà Đảng và nhân dân
ta lựa chọn; thực hiện đúng lời dạy của Bác đó là “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”; Nêu cao ý thức dân chủ,
kỷ luật, sống hòa đồng với quần chúng nhân dân; Phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng, tích cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế;
Phấn đấu học tập không ngừng nhằm tiếp thu những kiến thức mới, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ
chính trị để hiểu rõ hơn con đường phát triển của đất nước, qua đó hiểu rõ hơn nhiệm vụ của bản thân, củng cố
thêm niềm tin và lý tưởng chân chính; phát huy thế mạnh của tuổi trẻ và sáng tạo nhằm đáp ứng tốt hơn công việc
chuyên môn, phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước; Chủ động lắng nghe, tiếp thu những kiến thức, kỹ năng
nghiệp vụ công tác chuyên môn đang làm. Tiếp cận và làm chủ kiến thức khoa học công nghệ tiên tiến đáp ứng
được quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay; Gương mẫu đi đầu thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế làm việc của cơ quan, những quy định tại khu dân cư và vận động,
giáo dục những người trong gia đình thực hiện theo; Tâm huyết và yêu mến công việc đang làm, biết trăn trở suy
nghĩ, tìm tòi, sáng tạo những cách làm hay, làm việc phải có tính khoa học và chủ động trong cộng việc, thể hiện
vai trò trách nhiệm của bản thân trong công việc, thực hiện chức năng tham mưu cho cấp ủy và thực hiện nhiệm
vụ cấp ủy giao, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên ngày càng vững mạnh. Tư tưởng
đạo đức của chủ tịch HCM là tài sản tinh thần vô giá không chỉ đối với dân tộc ta mà còn đối với thời đại. Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người phải bắt nguồn từ nhận thức và phải được thể hiện trong hành
động, trong các quan hệ từ trong phạm vi gia đình ra ngoài xã hội. Đó là cả một quá trình tu dưỡng nghiêm túc
của mỗi con người, trước hết là các cán bộ đảng viên. Mỗi cán bộ đảng viên phải gương mẫu trong sinh hoạt,
công tác, không ngừng nâng cao bản lĩnh trí tuệ, nói đi đôi với làm, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, điều lệ,
nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời kiên quyết khắc phục các mặt suy thoái đạo đức, những
tiêu cực trong xã hội. Mỗi cán bộ đảng viên phải luôn ghi nhớ lời dạy của Người: “Người cán bộ cách mạng phải
có đạo đức cách mạng, phải giữ vững đạo đức cách mạng mới là người cán bộ chân chính. Mọi việc thành hay
bại, chủ chốt do cán bộ có thấm nhuần đạo đức CM hay là không”.
Câu 5: Vì sao phải học tập, vận dụng đạo đức HCM? Theo anh chị nội dung nào của TT HCM là

quan trọng nhất cần học tập và vận dụng? Vì sao?
Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của CMVN, từ
CM dân tộc dân chủ nhân dân đến CM XHCN; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển CN Mác-Leenin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tại ĐH IX của Đảng CSVN đã khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước VN theo
con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng HCM”. Về sự cần thiết phải học tập, vận dụng
và phát triển TT HCM, Văn kiện ĐH IX viết: “Toàn Đảng nghiêm túc học tập CN Mac-Lenin, tư tưởng HCM”.
Quan điểm trên của Đảng ta không chỉ khẳng định tư tưởng HCM không chỉ là một nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của CM VN hơn 80 năm qua, trong đó hơn 20 năm đổi mới, chứng tỏ rằng bước sang thế kỷ XXI tư tưởng
HCM càng trở nên quan trọng, cần thiết hơn bao giờ hết. Trong hành trang của mỗi người VN trước sự đổi mới
đất nước không thể thiếu TT HCM, nói cách khác việc học tập, vận dụng và phát triển tư tưởng của Người vẫn là
nhân tố quyết định thắng lợi của toàn bộ sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Chủ nghĩa Mac-Lenin, TT HCM có một vị trí và vai trò vô cùng quan động, đó chính là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và CM VN.
* HCM bàn về nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và CM VN.
Vấn dề nền tảng TT của một Đảng CM chân chính được các nhà sáng lập CNXH khoa học và HCM đặt
ra, luận giải từ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, những người lao động, các dân tộc bị áp bức chống giai
cấp tư sản và thực dân đế quốc. Theo Ăngghen cuộc đấu tranh của Đảng xã hội – dân chủ không chỉ diễn ra dưới
hai hình thức mà còn mà trên thực tế cuộc đấu tranh đó diễn ra dưới ba hình thức và Awngghen xếp đấu tranh lý
luận ngang hàng với đấu tranh chính trị, đấu tranh giai cấp.
CN Mác-Lenin, TT HCM đặc biệt coi trọng vai trò của lý luận CM đối với Đảng CM. trong tác phẩm “àm
gì” Lenin viết: “Không có lý luận CM thì không có phong trào CM… chỉ đảng nào có một lý luận tiên phong
hướng đẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”. Trong tác phẩm năm 1927 của Người mang
tên “Đường Cách mệnh”, HCM dẫn lời của Leenin: “Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận
động… chỉ có theo lý luận cách mệnh tiên phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm tiên phong”.
Trong TT HCM, phá cái cũ, xây cái mới, phá cái xấu xây cái tốt tức là phá bỏ xã hội phong kiến, thực dân
tồn tại hàng trăm năm để xây dựng xã hội mới là cách mạng. CM là một quá trình khó khăn và lâu dài, muốn
thắng lợi cần phải có nhiều nhân tố. HCM đặt câu hỏi: CM trước hết phải có cái gì?, Người tự trả lời: Trước hết
phải có Đảng CM vững mạnh. Người nói: “Muốn sống thì phải làm cách mạng”.

Để đưa CM đến thành công trước hết cần phải có đảng vững mạnh. Nhưng một đảng chỉ được coi là chân
chính, vững mạnh khi có lý luận tiên phong, có một chủ nghĩa mang bản chất cách mạnh và khoa học dẫn đường
chỉ lối. HCM thể hiện mối quan hệ khắng khít ấy thông qua cách diễn đạt giàu hình tượng, khoa học chặt chẽ:
cách mạng trước hết cần có đảng vững mạnh, đảng muốn vững mạnh phải có chủ nghĩa làm cốt, đảng mà không
có chủ nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài (1911 – 1941), HCM tìm hiểu và nghiên cứu nhiều chủ nghĩa, nhiều
học thuyết. quá trình tìm kiếm và lựa chọn đó, theo HCM, sự sống còn của dân tộc VN đòi hỏi phải có đảng cách
mạng chân chính, Người lựa chón CN Mác-Lenin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của đảng
trước hết là để cứu giống nòi VN. Sự lựa chọn đó không xuất phát từ ý muốn chủ quan, không phải chủ yếu vì lợi
ích của giai cấp công nhân, càng không phải chỉ vì lợi ích của những người cộng sản mà trước hết, trên hết là vì
lợi ích của toàn thể quốc dân VN.
Như vậy, vấn đề CMVN cần có sự lãnh đạo của một đảng, lấy chủ nghĩa Mac-Lenin làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động đã được HCM luận giải và khẳng định cách đây hơn 80 năm.
* Gắn liền với cuộc đời hoạt động CM phong phú, sáng tạo của mình, Tư tưởng HCM từng bước hình
thành, phát triển và ngày càng có giá trị quan trọng đối với Đảng, lịch sử dân tộc VN.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, cùng với CN mác-Lenin, TT HCM đã đi sâu vào phong trào công nhân
và phong trào yêu nước VN. HCM và TT của người đã đóng vai trò quyết định trong việc thống nhất các tổ chức
đảng, thành lập Đảng CSVN. Sự kiện ĐCSVN ra đời vào mùa xuân năm 1930 và việc hội nghị hợp nhất thông
qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do HCM soạn thảo đã chứng tỏ HCM là người đã mang đến cho
CMVN những vấn đề về lý luận, chính trị, chiến lược, sách lược cùng một tổ chức cách mạng và khoa học. Từ đó
trở đi, qua các thời kỳ mốc son lịch sử của dân tộc; các phong trào đấu tranh nổi dậy giành chính quyền; có
những lúc tình hình CM gặp khó khăn gian khổ như ngàn cân treo sợi tóc… nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, tư
tưởng HCM ngày càng được bổ sung phát triển, soi đường chỉ lối cho CMVN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác, giành được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,… chúng ta luôn khẳng định
bước đi lên như ngày hôm nay. Vì vậy, cùng với CN Mác-Lenin, Đảng CSVN luôn coi việc học tập, bảo vệ, vận
dụng sáng tạo tư tưởng HCM là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng , của cán bộ, đảng viên và của cả dân tộc.
Tại ĐH lần thứ II của Đảng CSVN tháng 2/1951, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định đường lối, tác phong,
đạo đức HCM là đường lối chính trị, nề nếp làm việc và đạo đức CM của Đản. Để đưa CMVN đến thắng lợi, toàn
đảng, toàn quân và toàn dân phải học tập đường lối, tác phong đạo đức HCM. Từ đó trở đi trong các văn kiện của
Đảng, nhận thức của Đảng ta về tư tưởng HCM ngày càng toàn diện và sâu sắc.

Tiếp tục đến Đại hội VI, ĐH đổi mới, TT HCM đã trở thành nền tảng cho đổi mới tư duy lý luận của
Đảng. Văn kiện ĐH VI viết: Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất CM và khoa học của CN
Mác-Lenin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận của Chủ tịch HCM.
Điểm mới được khởi đầu từ ĐH VII (1991) là việc Đảng ta nêu cao tư tưởng HCM và khẳng định cùng
với chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng HCM, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. nghị quyết 09 Bộ chính trị ngày
18/2/1995 đã chỉ rõ đây là bước phát triển hết sức quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của ĐCSVN.
Việc Đảng ta nêu cao tư tưởng HCM không chỉ là sự tổng kết lịch sử, chỉ rõ nguyên nhân mọi thắng lợi của
CMVN thời gian qua mà còn là thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước trên những cơ sở vững chắc.
Có thể nói, tư tưởng HCM là bước phát triển mới của CN Mác-Lenin trong thế kỷ XX. Thực tiễn CMVN
hơn 80 năm qua đã chứng tỏ, trong khi giải quyết những vấn đề của CMVN HCM đã góp phần phát triển CN
Mác-Lenin trên nhiều vấn đề quan rọng, đặc biệt là lý luận về CM dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên CHXH ở
các nước thuộc địa và phụ thuộc. do đó cùng với CN Mác-Lenin, tư tưởng HCM là lý luận cách mạng và khoa
học, là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc ta. ĐCSVN nêu cao tư tưởng
HCM là hoàn toàn đúng đắn. Điều đó phù hợp với những đóng góp vĩ đại và tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt
vời của Người. việc làm đó đáp ứng đòi hỏi chính đáng, tình cảm vô cùng thân thiết, gần gũi mà nhân dân việt
nam và bạn bè quốc tế dành cho HCM. Do đó, tư tưởng HCM không chỉ là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng và CMVN mà còn trở thành giá trị bền vững, đã và đang và sẽ lan tỏa ngày càng rộng rãi,
sâu sắc trên thế giới.
* Thời cơ thách thức đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt nam:
Trước khi nghiên cứu nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng HCM chúng ta đã xem xét
hoàn cảnh lịch sử trong nước và quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Việc học tập, vận dụng và phát triển tư
tưởng HCM trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước hôm nay đồi hỏi chúng ta phải tìm hiểu cả thuận lợi,
khó khăn của CMVN gắn liền với hoàn cảnh trong nước và quốc tế những năm đầu thế kỷ XXI.
Về những thời cơ, thuận lợi:
Hiện nay trên thế giới vẫn còn nhiều điểm nóng, khủng bố, chiến tranh vẫn còn diễn ra ở một số nơi. Tuy
vậy, nhìn chung các quốc gia đều mong muốn có hòa bình, ổn định để tập trung vào sự nghiệp xây dựng, phát
triển đất nước. Sự nghiệp đổi mới ở VN, lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trọng tâm phù hợp với xu thế chung
của thế giới, được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân các nước. Văn kiện đại hội IX của Đảng dự báo: “Trong một
vài thập kỷ tới ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới. nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột
tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố còn xảy ra ở nhiều nới với tính chất phức tạp

ngày càng tăng. Hòa nình, hợp tác và phát triển vẫn là một xu thế lớn, phản ảnh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia,
dân tộc”.
Nhân loại đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ. Trong hoàn cảnh đó các
nước phát triển đều có nhu cầu xuất khẩu công nghệ và chuyển vốn đầu tư sang các nước đang phát triển. với
chính sách đối ngoại độc lập, dân chủ, “VN sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, chúng ta có nhiều khả năng tranh thủ được vốn, kỷ thuật từ bên
ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. cũng do điều kiện quốc tế nêu trên, bên cạnh bước đi
tuần tự thông qua sự hợp tác, liên kết quốc tế, trên một số lĩnh vực chúng ta có thể đi tắt, đón đầu tiến thẳng lên
tiên tiến hiện đại.
Một lợi thế, thuận lợi nữa là tài nguyên thiên nhiên của VN phong phú, lực lượng lao động đông đảo,
tương đối rẻ, khéo tay. Đây là một thuận lợi để kết hợp nội lực với ngoại lực, mở rộng đầu tư, liên kết với nước
ngoài.
Thuận lợi cơ bản khi nước ta bước vào thế kỷ XXI là nhân dân VN có Đảng CSVN, Đảng lấy chủ nghĩa
Mác-Leenin, tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lãnh đạo. Sự nghiệp đổi mới
diễn ra trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Leenin, tư tưởng HCM, dưới sự lãnh đạo của Đảng thời gian qua đã thu
được kết quả rất quan trọng. kết quả đó tạo niềm tin để toàn đảng, toàn dân, toàn quân vững vàng, tiếp tục sự
nghiệp đổi mới của mình. Thành tựu to lớn hơn 20 năm đổi mới đã tạo nên thời cơ, thuận lợi cơ bản để chúng ta
tiếp tục vận dụng, bảo vệ và phát triển tư tưởng HCM trong thời kỳ mới.
Về những thách thức, khó khăn:
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng tháng 1/1994, Đảng ta đã nêu lên bốn
nguy cơ đối với sự nghiệp đổi mới: một là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và
trên thế giới; hai là nguy cơ chệch hướng XHCN; ba là nguy cơ nạn tham nhũng và tệ quan liêu; bốn là nguy cơ
diễn biến hòa bình.
Bốn nguy cơ này có tác động, liên hệ chặt chẽ với nhau, đều nguy hiểm như nhau, không thể xem nhẹ
nguy cơ nào. Thực tế lãnh đạo đất nước đã giúp Đảng ta nhìn nhận những thách thức đối với sự nghiệp đổi mới
một cách đầy đủ, chính xác hơn: tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên; nước ta vẫn còn là nước kinh tế kém phát triển, cuộc cạnh tranh
kinh tế ngày càng quyết liệt nếu chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì sẽ ngày càng tụt hậu xa hơn về kinh tế.
tóm lại, chúng ta vẫn đang đứng trước một tình hình thuận lợi và khó khăn, thách thức và thời cơ đan xen nhau.
Trong điều kiện đó chúng ta phải vận dụng tư tưởng và phương pháp HCM như thế nào để có thể “dĩ bất biến

ứng vạn biến”, nắm lấy vận hội, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thách thức một cách sáng tạo, phát triển tư tưởng
HCM phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện nay.
* Những quan niệm có tính chất định hướng, chỉ đạo trong việc học tập, vận dụng tư tưởng HCM:
Quan điểm lý luận gắn liền với thực tiễn:
HCM ra đi tìm đường cứu nước, Người đến với CN mác-Lenin không chỉ để tìm lời giải cho những vấn
đề về lý tưởng, lý luận mà còn tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người. trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, HCM đặc biệt coi trọng lời của Lenin căn dặn các nhà
cách mạng phương đông: “Trước mắt các bạn đang có nhiệm vụ mà trước kia những người cộng sản toàn thế giới
không có; dựa vào lý luận và thực tiễn chung của chủ nghĩa cộng sản áp dụng vào những điều kiện đặc biệt,
không có ở các nước châu Âu, các bạn phải biết vận dụng lý luận và thực tiễn ấy vào điều kiện khi nông dân là
quần chúng cơ bản, khi cần giải quyết nhiệm vụ đấu tranh không phải chống tư bản mà chống những tàn tích thời
trung cổ”. HCM luôn nhắc nhở mọi người và chính mình cần quán triệt nguyên lý “học đi đôi với hành”, “lý luận
gắn liền với thực tiễn”, “lời nói đi đôi với việc làm”. Người nhấn mạnh: chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về
chủ nghĩa Mác-Lenin, dùng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lenin mà tổng kết kinh
nghiệm, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới dần hiểu được quy
luật phát triển của CM, mới định ra được đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của CMVN.
Quan điểm lịch sử - cụ thể:
HCM để lại cho dân tộc VN và nhân loại di sản tinh thần to lớn, phong phú với hàng nghìn trang sách tập
hợp các tác phẩm, bài nói, bài viết của người trải dài 50 năm. Chúng ta tìm thấy trong di sản của Người những
vấn đề cơ bản của CMVN, Người lý giải một cách toàn diện, sâu sắc. điều cần đặc biệt lưu ý là những lời căn dặn
gần đây nhất của Người đã cách nay hàng chục năm, do đó việc nghiên cứu tư tưởng HCM cần quán triệt quan
điểm lịch sử - cụ thể, tránh những khuynh hướng hiện đại hóa, đơn giản hóa hoặc suy diễn chủ quan. Khi nghiên
cứu tư tưởng HCM, chúng ta cần chú ý tìm hiểu: tư tưởng của Người ra đời trong hoàn cảnh nào? Và mục đích,
đối tượng để HCM đề cập tới tư tưởng đó. Nghĩa là phải nghiên cứu tư tưởng HCM trong hoàn cảnh lịch sử - cụ
thể.
Quan điểm toàn diện, hệ thống: Tính toàn diện, hệ thống và sâu sắc của tư tưởng HCM đòi hỏi mọi người
phải đối xử với tư tưởng đó như một khoa học; nó có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo quá trình vận dụng và
phát triển TT HCM. Trong hệ thống TT HCM, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; dân chủ luôn gắn với tập
trung, gắn với chuyên chính; quyền công dân không thể tách rời nghĩa vụ công dân; bốn lĩnh vực: kinh tế, chính
trị văn hóa xã hội liên quan mật thiết với nhau không thể tách rời.

Quan điểm đổi mới và phát triển: Đổi mới và phát triển gắn bó với cách mạng. Cách mạng đòi hỏi phải
thường xuyên đổi mới và phát triển.
Cách đây hơn nữa thế kỷ, HCM đã đề cập tới đổi mới. Một mặt Người phê bình những cán bộ không có ý
chí đổi mới, sáng tạo, những cán bộ nhát gan, dễ bảo, “đập đi hò đứng”. Mặt khác, Người thường xuyên khuyến
khích động viên, kịp thời biểu dương những “cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”, “có gan phụ trách, có gan
làm việc”. cuộc đời và sự nghiệp HCM là sự tiếp nói của quá trình đổi mới và phát triển để tìm ra con đường cứu
nước cùng các nguyên lý, phương pháp cách mạng và khoa học.
Công cuộc đổi mới do Đảng CSVN khời xướng và lãnh đạo xuất hiện nhiều vấn đề mà HCM chưa có
điều kiện đề cập. sự trung thành với tư tưởng HCM, trên cơ sở đổi mới có nguyên tắc, Đảng và nhân dân VN cần
vận dụng sáng tạo, phát triển tư tưởng của Người cho phù hợp với tình hình hiện nay.
* Vận dụng và phát triển tư tưởng HCM là một lĩnh vực rộng lớn. Theo tôi, trong sự nghiệp đổi mới đất
nước hiện nay, tư tưởng kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” của Người là quan
trọng nhất, chủ yếu nhất cần được Đảng ta tiếp tục vận dụng và phát triển. Bởi vì:
Tư tưởng HCM về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được hình thành và phát triển gắn liền với quá
trình tìm đường cứu nước và lãnh đạo cách mạng VN của Người. tư tưởng đó được hình thành từ những cơ sở lý
luận và thực tiễn VN và thế giới ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đối với mỗi dân tộc, không có gì quan trọng
hơn là tìm cho mình một con đường đúng đắn. trọng trách này thuộc về những ai tiêu biểu nhất cho dân tộc, biết
kết hợp nhuần nhuyễn các nhân tố chủ quan và khách quan, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế,… Kinh
nghiệm lịch sử còn chỉ rõ, cách mạng chỉ giành thắng lợi khi có con đường đúng đắn và trong mọi tình huống,
trước mọi thử thách luôn luôn kiên định con đường đã lựa chọn.
Điều đầu tiên để HCM, từ người ra đi tìm đường cứu nước trở thành người dẫn đường cho dân tộc VN , là
người đã tìm ra con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người đúng đắn nhất đó là con
đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Từ một nhà yêu nước vĩ đại, bắt gặp CN Mác-Lenin, HCM đã tìm ra
con đường giải phóng cho nước VN thuộc địa nữa phong kiến. con đường đó được khẳng định rất rõ ràng ngay
trong Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930 “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng là thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”. Từ đó trở đi, bất chấp mọi khó khăn cản trở, HCM không bao giờ dao động, xa rời
mục tiêu đã chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là điều cốt lõi nhất của tư tưởng HCM. Cũng có
thể nói bản chất của con đường cách mạng HCM là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Mọi hoạt động, mọi bài
viết của Người đều tập trung vào một mục tiêu, vào một chủ đề: chống đế quốc, chống phong kiến, tuyên truyền
độc lập dân tộc và CNXH. Chủ đề này được HCM thể hiện đậm nét trong Bản di chúc của Người, từ điều “trước

hết nói về Đảng” đến “điều mong muốn cuối cùng” của Người đều xoay quanh chủ đề này. Với HCM độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH đã được xây dựng thành lý luận cách mạng xuyên suốt và nhất quán. Đây chính là
đóng góp quan trọng nhất của HCM vào kho tàng lý luận Mác-Lenin.
ĐCSVN và nhân dân VN thể hiện lòng trung thành với lựa chọn của HCM là kiên định con đường độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH qua các văn kiện của Đảng. Tại ĐH VI của Đảng đã nêu lên nhận định mang tính
tổng kết: “Trong quá trình lãnh đạo CM, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta từ khi ra đời đến nay
vẫn luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn
gốc mọi thắng lợi của CMVN. Các Đại hội tiếp theo vẫn khẳng định và hoàn chỉnh thêm quan điểm đó. Văn kiện
ĐH IX viết: “15 năm đổi mới (1986-2000) đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Những bài học đổi mới
do các ĐH VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn có giá trị lớn, nhất là những bài học chủ yếu sau
đây…, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng CN Mác-Lenin và
tư tưởng HCM”
Hơn 80 năm qua, đó là khoảng thời gian đủ để mỗi người VN kiểm nghiệm và rút ra kết luận về sự sáng
tạo đúng đắn con đường CM HCM. Đối với VN chỉ có độc lập thật sự mới tạo điều kiện đi lên CNXH và chỉ có
CNXH mới thực sự có độc lập cho tổ quốc,tự do hạnh phúc cho nhân dân. ĐCSVN khẳng định, ở VN độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn duy nhất đúng; đó là sự lựa chọn của lịch sử, sự lựa chọn này đã được
khẳng định từ năm 1930. quan điểm đó thể hiện sự trung thành và quán triệt sâu sắc tư tưởng HCM về độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH của Đảng ta.
Tư tưởng HCM soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân. trong sự nghiệp đổi mới đất nước, thời kỳ
đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, tư tưởng của Người mà cốt lõi là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH tiếp tục soi
sáng con đường cho dân tộc ta, là kim chỉ nam cho mọi hành động. đòi hỏi Đảng ta phải chú ý những tư tưởng
của Người về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH ; đẩy mạnh nghiên cứu tuyên truyền, giáo dục tư tưởng HCM;
mỗi người VN cần có sự thống nhất, gắn bó chặt chẽ giữa nghiên cứu học tập với bảo vệ, vận dụng sáng tạo và
hành động theo tư tưởng HCM. Đối với mỗi cán bộ đảng viên chúng ta trong thời đại hôm nay phẩm chất hàng
đầu là trung thành với mục tiêu lý tưởng cách mạng, chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
với CNXH. Đó là con đường duy nhất đúng đắn để đưa VN tiến đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.

×