Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

giải pháp hoàn thiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 92 trang )


BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƢ
HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN
o0o




Trí Tuệ Và Phát Triển



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP



Đề tài:
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM
TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM




Giáo viên hƣớng dẫn : TS.Nguyễn Thạc Hoát
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Thu Hiền
Mã sinh viên : 5014013014
Khóa : I
Ngành : Tài chính Ngân Hàng
Chuyên ngành : Tài chính Công





Hà Nội, năm 2014
i

LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của
riêng em chƣa từng đƣợc công bố. Các số liệu, thông tin, kết quả trong luận
văn này là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Tác giả Luận văn



Nguyễn Thị Thu Hiền

















ii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG 4
1.1. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI 4
1.1.1. Tiền gửi và tiền gửi đƣợc bảo hiểm 4
1.1.2. Sự ra đời của bảo hiểm tiền gửi 9
1.1.3. Một số khái niệm về Bảo hiểm tiền gửi 11
1.1.4. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi 13
1.2. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM
TIỀN GỬI 15
1.2.1. Các hoạt động bảo hiểm tiền gửi chủ yếu 15
1.2.2. Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi và xu hƣớng lựa chọn 25
1.3. KINH NGHIỆM BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN
THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM 30
1.3.1. Bảo hiểm tiền gửi ở Mỹ 30
1.3.2. Bảo hiểm tiền gửi ở Đài Loan 32
1.3.3. Bài học đối với Việt Nam 33
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 36
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM 36
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 36
2.1.2. Tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 37
2.2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY 38

2.2.1. Cơ sở pháp lý 38
2.2.2. Mô hình tổ chức của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 40
2.2.3. Năng lực tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 43
2.2.4. Hoạt động nghiệp vụ chủ yếu của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 46
2.2.5. Mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thực hiện chính sách bảo hiểm
tiền gửi 60
iii

2.3. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM
TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM 62
2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc 62
2.3.2. Một số hạn chế 63
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế 65
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM
TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM 67
3.1. ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Ở VIỆT NAM 67
3.1.1. Định hƣớng chung 67
3.1.2. Một số mục tiêu cụ thể 68
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM TIỀN GỬI 69
3.2.1. Nhóm giải pháp chung 69
3.2.2. Nhóm giải pháp đối với ngƣời gửi tiền 72
3.2.3. Nhóm giải pháp đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi 73
3.2.4. Nhóm giải pháp đối với tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 75
3.3. KIẾN NGHỊ 81
3.3.1. Đối với Quốc hội 81
3.3.2. Đối với Chính phủ 81
3.3.3. Đối với các bộ ngành có liên quan 82
KẾT LUẬN 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85











iv



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ATM
Máy rút tiền tự động
BHTG
Bảo hiểm tiền gửi
BHTGVN
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
CAMELS
Bộ tiêu chuẩn đƣợc sử dụng để đánh giá hoạt động ngân hàng
FDIC
Tổng công ty BHTG Liên bang Mỹ
CDIC
Tổng công ty BHTG Trung ƣơng Đài Loan
FFIEC
Ủy ban Giám sát định chế tài chính Liên bang Mỹ

FSMIMS
Hệ thống thông tin quản lý và hiện đại hoá ngân hàng
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
IADI
Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi Quốc tế
NH
Ngân hàng
NHTM
Ngân hàng Thƣơng mại
NHTW
Ngân hàng Trung Ƣơng
NHNN
Ngân hàng Nhà nƣớc
QTDND
Quỹ tín dụng nhân dân
TCTD
Tổ chức tín dụng
v


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Các phƣơng pháp xử lý đổ vỡ của tổ chức BHTG
Bảng 1.2: So sánh mục tiêu chính sách công của các mô hình tổ chức BHTG
Bảng 2.1: Tình hình cấp mới, cấp đổi, cấp bổ sung chứng nhận BHTG
Bảng 2.2: Tổng số dƣ tiền gửi đƣợc bảo hiểm năm 2011-2013
Bảng 2.3: Số lƣợt đơn vị tham gia BHTG đƣợc kiểm tra từ 2008 – 2012
Bảng 2.4: Kết quả chi trả bảo hiểm của BHTGVN
Bảng 2.5: Các hình thức đầu tƣ của BHTGVN 2007 – 2013
Bảng 3.1: Các nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam


DANH MỤC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ
Đồ thị 1.1: Số lƣợng Ngân hàng đổ vỡ tại Mỹ giai đoạn 1935 – 2002
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy của BHTGVN
Đồ thị 2.1: Quy mô nguồn vốn của BHTGVN giai đoạn 2000-2012
Đồ thị 2.2: Số lƣợng tổ chức tham gia BHTG giai đoạn năm 2000-2013
Đồ thị 2.3: Kết quả thu phí BHTG giai đoạn năm 2000-2013

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Các mô hình bảo hiểm tiền gửi trên thế giới
Hình 2.1: Các hoạt động nghiệp vụ chủ yếu của BHTGVN
Hình 3.1: Các trụ cột phát triển bền vững của BHTGVN
1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm gần đây, sự bùng nổ về quy mô hoạt động cũng nhƣ
năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam bên cạnh những mặt tích
cực đã làm gia tăng rủi ro, gây ảnh hƣởng trực tiếp đến sự an toàn và lành
mạnh của hệ thống ngân hàng. Trƣớc bối cảnh đó, Việt Nam cần phải tái cấu
trúc hệ thống Ngân hàng nhằm duy trì năng lực phát triển và khả năng thích
nghi của các ngân hàng trƣớc những diễn biến phức tạp của thị trƣờng, ngăn
ngừa rủi ro hệ thống.
Tuy nhiên, tái cấu trúc có thể dẫn tới những xáo trộn trên thị trƣờng,
đặc biệt là tâm lý và niềm tin của ngƣời gửi tiền rất dễ bị tổn thƣơng trƣớc
nhiều luồng thông tin trái chiều. Nâng cao niềm tin của công chúng là nhiệm
vụ quan trọng của các cơ quan chức năng, trong đó có Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam (BHTGVN).
BHTGVN đƣợc thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày

09/11/1999 và đã đƣợc điều chỉnh theo quyết định 1394/QĐ-TTg ngày
13/08/2013 của Thủ tƣớng Chính phủ. Đây là một cam kết mạnh mẽ của
Đảng và Nhà nƣớc ta trong chuyển dịch mô hình quản lý kinh tế tập trung bao
cấp sang mô hình kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong
bối cảnh hậu khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á. Hoạt động của
BHTGVN có nền tảng pháp lý vững chắc là Luật BHTG 06/2012/QH13 có
hiệu lực thi hành ngày 1/1/2013. Theo đó, BHTGVN đƣợc xác định là tổ chức
tài chính Nhà nƣớc hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời gửi tiền, thực hiện chính sách bảo hiềm
tiền gửi góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng
(TCTD), bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động ngân hàng.
2

BHTGVN qua 14 năm hoạt động, đến nay đã có những đóng góp đáng
ghi nhận trong việc bảo vệ ngƣời gửi tiền, ổn định thị trƣờng tài chính tiền tệ
và tạo dựng đƣợc niềm tin nơi ngƣời gửi tiền.
Tuy nhiên bên cạnh một số kết quả đạt đƣợc, thực tế hoạt động của
BHTGVN đang bộc lộ một số hạn chế về cơ chế, chính sách cần đƣợc khắc
phục. Cụ thể, mô hình chi trả với quyền hạn mở rộng của Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam chƣa phát huy đƣợc đầy đủ chức năng; ngoài ra còn có các hạn chế
về cơ sở pháp lý, năng lực tài chính, trình độ cán bộ cũng nhƣ cơ sở vật chất
kỹ thuật dẫn đến khó khăn cho BHTGVN trong quá trình triển khai thực hiện
nhiệm vụ. Bên cạnh đó công tác phối hợp giữa các bộ ngành trong việc duy trì
ổn định tài chính còn hạn chế; nhận thức của công chúng về hoạt động BHTG
chƣa cao.
Trƣớc những tồn tại đã nêu ở trên, BHTGVN đang đứng trƣớc yêu cầu
cải cách nhằm: i) thực hiện tốt nhất mục tiêu chính sách công theo luật
BHTG; ii) bảo vệ tốt nhất quyền lợi của ngƣời gửi tiền, nâng cao niềm tin
công chúng; iii) và duy trì ổn định hệ thống tài chính ngân hàng. Với các vấn
đề nhƣ trên, đề tài “Giải pháp hoàn thiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ở

Việt Nam” đƣợc lựa chọn làm nội dung nghiên cứu.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về hoạt động bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam kết hợp với nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về hoạt động BHTG.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chọn điển hình nghiên cứu cụ thể là
hoạt động của BHTGVN giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013. Trên cơ sở
đánh giá những kết quả đạt đƣợc và các mặt còn tồn tại, từ đó đƣa ra các giải
pháp nhằm hoàn thiện cơ chế bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam. Các giai đoạn
khác cũng đƣợc đề cập đến để hỗ trợ nghiên cứu các vấn đề đƣợc nêu trong
luận văn.
3

3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài “Giải pháp hoàn thiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ở Việt
Nam”, luận văn trình bày tổng quan về bảo hiểm tiền gửi và kinh nghiệm
quốc tế về tổ chức và hoạt động bảo hiểm tiền gửi; thấy đƣợc các kết quả đạt
đƣợc và hạn chế qua việc nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động bảo
hiểm tiền gửi ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đánh giá nguyên nhân để đƣa ra các
nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận vận dụng các phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học khác
nhƣ phân tích, tống họp, thống kê, so sánh dựa trên các tài liệu thu thập
đƣợc để một mặt phân tích thực trạng hoạt động Bảo hiểm tiền gửi của Việt
nam, mặt khác cũng tìm hiểu một số vấn đề trong quá trình hoạt động của các
tổ chức Bảo hiểm tiền gửi ở Mỹ và Đài Loan. Đây là hai tổ chức Bảo hiểm
tiền gửi tiêu biểu trên Thế giới và của khu vục Châu Á có nhiều kinh nghiệm
để Việt nam có thể học hỏi, áp dụng vào quá trình hoàn thiện chính sách Bảo
hiểm tiền gửi của mình.
5. Kết cấu của khóa luận

Tên đề tài: Giải pháp hoàn thiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ở
Việt Nam
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận bao gồm ba chƣơng cơ bản:
Chƣơng 1: Những vấn đề cơ bản về BHTG trong nền kinh tế thị trƣờng
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam
Chƣơng 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam






4

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG

1.1. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.1.1. Tiền gửi và tiền gửi đƣợc bảo hiểm
1.1.1.1. Khái niệm tiền gửi
Trong quá trình phát triển của văn minh nhân loại, đời sống kinh tế xã
hội tồn tại xuất hiện một số ngƣời tạm thời có tiền nhàn rỗi hoặc thừa vốn.
Đồng thời có một số cá nhân hoặc tổ chức tạm thời thiếu tiền để tiêu dùng
hoặc sản xuất kinh doanh dẫn đến xuất hiện hiện tƣợng ngƣời thừa vốn muốn
cho ngƣời thiếu vốn sử dụng vốn tạm thời nhàn rỗi của mình (việc làm này
mang dáng dấp của hoạt động cho vay) và ngƣời thiếu vốn muốn sử dụng tạm
thời số tiền nhàn rỗi đó (việc này mang dáng dấp của hoạt động đi vay) và
đồng ý trả cho ngƣời có vốn một khoản tiền nhất định (sau này gọi đó là lãi
suất).

Ban đầu hành vi đó mang tính tự phát trong kinh tế xã hội nhƣng do sự
phát triển của nền sản xuất, yêu cầu về vốn một số tổ chức đƣợc chuyên làm
công việc cho vay - đi vay ra đời, những tổ chức này đi vay của cá nhân, tổ
chức có tiền nhàn rỗi và cá nhân, tổ chức cần tiền vay lại. Đây là những tổ
chức trung gian nhằm nối ngƣời cho vay và đi vay lại với nhau và hình thức
các tổ chức này mang dáng dấp các tổ chức tín dụng, ngân hàng và hoạt động
ngân hàng ra đời. Nhƣ vậy, những ngƣời tạm thời thừa vốn họ mang tiền đến
gửi ngân hàng để họ đƣợc nhận lãi suất theo thoả thuận với ngân hàng, còn
ngƣời cần vốn tìm đến ngân hàng để vay tiền và họ cũng phải trả lãi suất cho
khoản vay đó. Ngƣời ta quan niệm số tiền tạm thời nhàn rỗi mà khách hàng
mang đến gửi ở ngân hàng là tiền gửi.
Trong hoạt động ngân hàng, khái niệm này đƣợc sử dụng để chỉ các
khoản tiền đƣợc gửi ở các tổ chức tín dụng (TCTD) dƣới nhiều hình thức
khác nhau của nhiều chủ thể khác nhau.
5

Theo cách hiểu khác thì tiền gửi là tiền mà các doanh nghiệp và cá nhân
gửi vào ngân hàng thƣơng mại nhằm mục đích phục vụ các thanh toán không
dùng tiền mặt và có thể dễ dàng chuyển thành tiền mặt
Ngoài ra, tại Nghị định số 70/2000/NĐ-CP của Chính phủ về giữ bí mật
thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản của khách hàng gửi tại các TCTD
cũng đƣa ra quy định về tiền gửi nhƣ sau: "Tiền gửi của khách hàng bao gồm
tiền Đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ của các tổ chức và cá nhân dưới
hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn - kể cả tiền gửi tiết kiệm
và các hình thức tiền gửi khác".
Nói tóm lại, tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức tín
dụng hoặc các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng dƣới hình thức tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, tín phiếu và các hình thức tiền gửi khác. Tiền gửi đƣợc hƣởng lãi hoặc
không hƣởng lãi và theo nguyên tắc phải hoàn trả cho ngƣời gửi tiền.

1.1.1.2. Các loại tiền gửi
- Tiền gửi tiết kiệm: là khoản tiền của cá nhân đƣợc gửi vào tài khoản tiền gửi
tiết kiệm, đƣợc xác nhận trên thẻ tiết kiệm, đƣợc hƣởng lãi theo quy định của
tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng khá lớn
trong tổng nguồn vốn huy động (60-70%). Tiền gửi tiết kiệm có các loại chủ
yếu sau:
+ Tiết kiệm không kỳ hạn: là sản phẩm đƣợc thiết kế cho đối tƣợng
khách hàng cá nhân hoặc tổ chức có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi ngân
hàng vì mục đích sinh lợi và an toàn. Đây là loại tiết kiệm không xác định
thời hạn, thời gian gửi, với loại tiền gửi này khách hàng có thể gửi tiền và rút
tiền bất cứ lúc nào trong giờ giao dịch nhƣng không thực hiện đƣợc các giao
dịch thanh toán nhƣ tiền gửi thanh toán. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn tuy
không đƣợc coi là nguồn vốn có thời hạn dài nhƣng tƣơng đối ổn định do vậy
ngân hàng (NH) có thể sử dụng cho mục đích có thời hạn dài.
6

+ Tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là loại tiền đƣợc gửi vào NH trên cơ sở có
thoả thuận về thời hạn, lãi suất tiền gửi và do đó khách hàng chỉ đƣợc rút khi
đến hạn. Nếu rút trƣớc thì khách hàng phải chịu mức lãi suất thấp hơn.
- Tiền gửi thanh toán: Đây là loại tiền gửi không kỳ hạn tức là khách hàng có
thể rút ra bất cứ lúc nào và không cần báo trƣớc cho NH. Khách hàng có
quyền ký phát hành séc nên gọi là tài khoản séc. Mục đích của khách hàng khi
gửi tiền thanh toán là đảm bảo an toàn, tiện lợi, nhanh chóng trong thanh toán
và nhất là đƣợc NH đáp ứng các dịch vụ của NH. Vì vậy, thông thƣờng NH
thƣờng không trả lãi cho số dƣ trên tài khoản và nếu có thì rất nhỏ (<0,5%/
năm). Tài khoản này đƣợc phép dƣ có tức là khách hàng chỉ đƣợc sử dụng
trong phạm vi tiền ký gửi của mình tại NH. Việc rút tiền hoặc chi trả cho bên
thứ 3 đƣợc thực hiện bằng việc phát hành séc.
- Tiền gửi cá nhân: là hình thức ngân hàng mở tài khoản tiền gửi cho khách
hàng là cá nhân có nhu cầu nhận chuyển tiền vào tài khoản, ví dụ để nhận

lƣơng hàng tháng hay nhận tiền từ nƣớc ngoài hoặc từ cá nhân khác trong
nƣớc…
- Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền đƣợc uỷ thác vào NH trên cơ sở có sự thoả
thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và NH. Tiền gửi có kỳ hạn là một
nguồn vốn tín dụng mang tính ổn định, về mục đích của ngƣời gửi tiền là họ
muốn kiếm lời chứ không phải dùng để thanh toán.
Do đó, khác với tiền gửi không kỳ hạn yếu tố lãi suất càng cao thì
khách hàng gửi càng nhiều. Chính vì thế để tăng cƣờng khả năng huy động
của nguồn này trƣớc hết các NHTM thƣờng đƣa ra nhiều thời hạn khác nhau
nhƣ: 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, 24 tháng.
Mỗi loại ngân hàng thƣơng mại áp dụng một mức lãi suất tƣơng đƣơng
phù hợp với nguyên tắc thời hạn nhƣng không đƣợc vƣợt quá lãi suất mà
Ngân hàng nhà nƣớc quy định.
7

- Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi đƣợc sử dụng với mục đích chủ yếu
là thực hiện các giao dịch thanh toán qua ngân hàng bằng các phƣơng tiện
thanh toán nhƣ: séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, chuyển tiền điện tử
- Chứng chỉ tiền gửi: Là chứng nhận của ngân hàng phát hành để huy động
vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ cho một khoản tiền trong một thời gian
nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa Ngân hàng và
ngƣời mua chứng chỉ.
- Trái phiếu ghi danh: là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của ngƣời phát hành
phải trả cho ngƣời sở hữu trái phiếu đối với một khoản tiền cụ thể (mệnh giá
của trái phiếu), trong một thời gian xác định và với một lợi tức quy định.
Ngƣời phát hành có thể là doanh nghiệp (trái phiếu doanh nghiệp), một tổ
chức chính quyền (trái phiếu kho bạc), chính quyền (công trái hoặc trái phiếu
chính phủ). Ngƣời mua trái phiếu, hay trái chủ, có thể là cá nhân hoặc doanh
nghiệp hoặc chính phủ. Trên trái phiếu ghi danh có tên và địa chỉ của trái chủ.
1.1.1.3. Loại tiền gửi đƣợc bảo hiểm

Một trong các hoạt động của ngân hàng thƣơng mại là đi vay và cho
vay. Đối với hoạt động cho vay, khi tổ chức, cá nhân phát sinh nhu cầu vay
vốn ngân hàng họ phải đến ngân hàng thực hiện các thủ tục hành chính cũng
nhƣ phải chứng minh rằng họ có tài sản bảo đảm để thế chấp cho khoản vay.
Ngƣợc lại, khi ngân hàng đi vay dƣới hình thức huy động tiền gửi của
khách hàng thì ngân hàng lại không cần có tài sản đảm bảo, vì vậy khi ngân
hàng xảy ra các loại rủi ro nhƣ ngân hàng bị phá sản, mất niềm tin của công
chúng hay bị ảnh hƣởng bởi các điều kiện nhƣ thiên tai, địch hoạ, khủng
hoảng kinh tế-tài chính có nghĩa là khoản tiền gửi của ngƣời gửi tiền cũng
bị rủi ro. Bởi vậy, để ổn định cho hoạt động của hệ thống ngân hàng, của các
tổ chức tín dụng, tạo lập niềm tin cho ngƣời gửi tiền và ổn định kinh tế - xã
hội phải có hoạt động bảo hiểm đối với khoản tiền gửi của khách hàng. Hoạt
động đó là nhằm hạn chế và khắc phục rủi ro cho ngƣời gửi tiền khi hoạt động
8

ngân hàng hoạt động không ổn định. Từ đó phát sinh nhu cầu hoạt động bảo
hiểm tiền gửi (BHTG).
Tùy theo mỗi quốc gia mà có những quy định khác nhau về chủ thể
đứng ra thực hiện nhiệm vụ bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên, theo khảo sát từ hệ
thống BHTG thế giới thƣờng là tổ chức của nhà nƣớc đứng ra làm nhiệm vụ
BHTG (gọi là tổ chức BHTG) và đây là tổ chức phi lợi nhuận. Tiền gửi đƣợc
tổ chức BHTG đứng ra bảo hiểm gọi là tiền gửi đƣợc bảo hiểm.
Tuy nhiên không phải tất cả các loại tiền gửi đều đƣợc tổ chức BHTG
nhận bảo hiểm mà chỉ hạn chế ở một số loại tiền gửi và điều này phụ thuộc
vào quy định của các nƣớc.
Cam kết BHTG thể hiện dƣới hình thức là hợp đồng ràng buộc quyền
lợi và nghĩa vụ của 3 đối tác gồm: tổ chức BHTG, tổ chức tham gia BHTG và
khách hàng gửi tiền. Tiền gửi thuộc đối tƣợng đƣợc bảo hiểm là cơ sở để xác
định trách nhiệm của tổ chức BHTG đối với ngƣời gửi tiền và tổ chức tham
gia BHTG.

Tiền gửi được bảo hiểm đƣợc quy định rõ ràng sẽ tránh đƣợc những
kiện tụng tiềm ẩn và rủi ro đạo đức phát sinh khi có một tổ chức tham gia
BHTG mất khả thanh toán và bị đóng cửa. Đồng thời tạo điều kiện cho tổ
chức tham gia BHTG tính và nộp đúng, đủ số phí cũng nhƣ hoạt động kiểm
tra của tổ chức BHTG đối với việc tính và nộp phí của tổ chức tham gia
BHTG. Vì vậy, hầu hết các nƣớc thƣờng quy định loại tiền gửi đƣợc bảo hiểm
và loại tiền gửi không đƣợc bảo hiểm nhƣ Đài Loan hoặc Mỹ.
Tuy việc quy định tiền gửi nào đƣợc bảo hiểm phụ thuộc vào chính sách
của mỗi quốc gia nhƣng theo một nghiên cứu của Quỹ tiền tệ Quốc tế, những
loại tiền gửi thƣờng đƣợc hầu hết các hệ thống BHTG bảo hiểm bao gồm:
- Tiền gửi nội tệ của cá nhân bao gồm tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn,
tiền gửi tiết kiệm bằng nội tệ;
- Kỳ phiếu do tổ chức tham gia BHTG phát hành và đƣợc quy định bởi
luật hoặc các quy định của tổ chức BHTG nhƣ là một loại tiền gửi;
9

- Chứng chỉ tiền gửi nội tệ ghi danh vì đây là một loại giấy biên nhận có
hƣởng lãi, xác nhận về khoản vốn gửi ngân hàng hoặc tại tổ chức tiết kiệm
với mục đích chính là tạo vốn cho ngân hàng;
- Tiền gửi ngoại tệ: Việc quyết định lựa chọn tiền gửi ngoại tệ là đối
tƣợng bảo hiểm phụ thuộc rất nhiều vào tình hình sử dụng ngoại tệ của từng
quốc gia. Ở những nƣớc tiền gửi ngoại tệ đƣợc sử dụng rộng rãi và đặc biệt
những nƣớc mà tiền tệ bị đô la hoá, hệ thống BHTG có thể bảo hiểm cả ngoại
tệ để thúc đẩy ổn định tài chính.
Nhiều quốc gia đã loại khỏi đối tƣợng đƣợc bảo hiểm các loại tiền gửi sau:
+ Tiền gửi liên ngân hàng;
+ Chứng chỉ tiền gửi không ghi danh;
+ Tiền gửi của các cơ quan chính quyền các cấp và tổ chức kinh tế lớn.
1.1.2. Sự ra đời của bảo hiểm tiền gửi
Hoạt động tài chính, ngân hàng luôn gắn liền với sự nhạy cảm và tiềm

ẩn rủi ro, chính vì vậy mỗi quốc gia cần phải có tổ chức đứng ra bảo vệ ngƣời
gửi tiền trong trƣờng hợp ngân hàng xảy ra đổ vỡ để ổn định tình hình an ninh
xã hội. Trong thực tế, khi các quốc gia chƣa hình thành tổ chức BHTG thì họ
cũng đã sử dụng công cụ “bảo vệ ngầm”.
Hình thức “bảo vệ ngầm” là việc Ngân hàng Trung Ƣơng (NHTW) hay
Chính phủ không cam kết công khai trƣớc công chúng về việc đảm bảo hoàn
trả tiền gửi cho ngƣời gửi tiền nếu xảy ra hiện tƣợng đóng cửa ngân hàng và
ngân hàng đó không có khả năng thanh toán cho ngƣời gửi tiền.
Tuy nhiên, việc bảo vệ ngầm đó không thực sự mang lại lợi ích cho
quốc gia cũng nhƣ không mang lại niềm tin của công chúng đối với hệ thống
tài chính ngân hàng, vì vậy hệ thống BHTG công khai đã ra đời.
Nguồn gốc ra đời của BHTG xuất phát từ hoạt động “bảo vệ tiền gửi
công khai”. Bảo vệ tiền gửi công khai là chính sách đảm bảo tất cả hoặc một
phần tiền gửi cùng với tiền lãi nhập gốc trên tài khoản tiền gửi sẽ đƣợc thanh
10

toán cho ngƣời gửi tiền khi ngân hàng đổ bể theo hợp đồng hoặc cam kết
công khai. Việc bảo hiểm tiền gửi công khai đầu tiên đƣợc thành lập ở Mỹ với
tên gọi “Chương trình bảo hiểm trách nhiệm ngân hàng” đƣợc thực hiện ở
New York vào năm 1829. “Trách nhiệm” đƣợc hàm ý trong chƣơng trình này
muốn đề cập đến tiền gửi ngân hàng và chứng chỉ tiền gửi. Tiếp theo chƣơng
trình này, từ năm 1831 đến 1858 các bang tiếp theo là Vermont, Indiana,
Michigan, Ohio và Iowa đã triển khai chƣơng trình BHTG với hai mục đích
là: i) bảo vệ cộng đồng khi có ngân hàng đổ bể; ii) bảo vệ ngƣời gửi tiền cá
thể và ngƣời giữ các công cụ huy động tiền gửi. Các tổ chức BHTG này đều
hoạt động rất thành công và đã có tác dụng rất lớn đối với hệ thống ngân hàng
Mỹ thời kỳ đó.
Trong giai đoạn 1930 – 1933, nƣớc Mỹ phải đối mặt với khủng hoảng
tài chính, mỗi năm có hơn 1.000 Ngân hàng thƣơng mại (NHTM) ngừng hoạt
động, đỉnh cao là năm 1933 có 4.000 NHTM phải ngừng hoạt động [13]. Hiện

tƣợng đổ vỡ ngân hàng trở nên phổ biến, và số lƣợng ngân hàng mất khả năng
chi trả ngày càng tăng dẫn tới niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân
hàng bị sụp đổ, nền kinh tế Mỹ bị rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng.
Trƣớc tình hình đó, tổng công ty BHTG liên bang Mỹ (FDIC) đã ra đời vào
1/1/1934. Đây là mô hình tổ chức BHTG công khai đầu tiên trên thế giới.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của hoạt động BHTG đối với hệ thống
ngân hàng cũng nhƣ nền kinh tế, Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI) đã đƣợc
thành lập ngày 05/06/2002 tại Thụy Sỹ theo sáng kiến của Ngân hàng thế
giới, Quỹ tiền tệ Quốc tế, Cộng đồng tài chính Quốc tế. Mục tiêu hoạt động
của IADI là góp phần bảo đảm sự ổn định của hệ thống tài chính quốc tế, đẩy
mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực BHTG, khuyến khích giao lƣu quốc tế
giữa các tổ chức thực hiện hoạt động BHTG và các tổ chức liên quan, tăng
cƣờng phối hợp khi xảy ra khủng hoảng tài chính trên toàn cầu. Tính đến năm
2013 đã có 72 tổ chức BHTG trong tổng số 113 tổ chức BHTG trên thế giới là
thành viên của IADI.
11

Việc gia tăng mạnh số lƣợng tổ chức BHTG trong thời gian gần đây
khẳng định xu hƣớng rõ ràng là các nhà hoạch định chính sách đã coi tổ chức
BHTG nhƣ một công cụ hữu hiệu để ngăn ngừa rủi ro, ngăn ngừa khủng
hoảng, bảo vệ ngƣời gửi tiền và giảm gánh nặng xử lý đổ vỡ cho ngân sách
Quốc gia.
1.1.3. Một số khái niệm về Bảo hiểm tiền gửi
1.1.3.1. Bảo hiểm tiền gửi
Theo tài liệu "xây dựng hệ thống BHTG hiệu quả" của Diễn đàn ổn
định tài chính (Financial Stability Forum) tháng 9/2001: “BHTG là một sự
đảm bảo rằng số dư tiền gửi và lãi cộng dồn của các tài khoản tiền gửi nhất
định khi các ngân hàng có khoản tiền gửi đó lâm vào tình trạng phá sản và
mất khả năng thanh toán sẽ được thanh toán” [12].
Theo Luật về BHTG của nhiều nƣớc trên thế giới và cả Luật BHTG của

Việt Nam thì khái niệm bảo hiểm tiền gửi đƣợc hiểu nhƣ sau: Bảo hiểm tiền
gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho ngƣời đƣợc bảo hiểm tiền gửi trong
hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào
tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho ngƣời gửi tiền hoặc phá sản.
1.1.3.2. Ngƣời gửi tiền thuộc đối tƣợng đƣợc bảo hiểm
Quan niệm chung của đa số các nƣớc thực hiện chính sách BHTG trên
thế giới cho rằng ngƣời gửi tiền đƣợc bảo hiểm là khách hàng có tiền gửi
thuộc đối tƣợng đƣợc bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Những ngƣời gửi
tiền này không phải đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG nhƣng có quyền
yêu cầu tổ chức BHTG thanh toán tiền gửi, kể cả tiền lãi tích lũy trên tiền gửi
đó trong hạn mức chi trả tiền BHTG (nếu chi trả tiền BHTG có xác định hạn
mức), hoặc thanh toán toàn bộ tiền gửi (nếu chỉ trả tiền BHTG không xác
định giới hạn).
Luật bảo hiểm tiền gửi Việt Nam giải thích: “Người được bảo hiểm
tiền gửi là cá nhân có tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi” [6, tr.1].
12

1.1.3.3. Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
Luật BHTG của nhiều nƣớc trên thế giới quy định tổ chức tham gia
BHTG là các ngân hàng và các trung gian tài chính phi ngân hàng có hoạt
động huy động tiền gửi theo quy định của pháp luật. Các tổ chức này khi
đƣợc tham gia BHTG có trách nhiệm đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG
và đƣợc quyền yêu cầu tổ chức BHTG chi trả tiền bảo hiểm cho ngƣời gửi
tiền tại tổ chức đó trong trƣờng hợp tổ chức này mất khả năng thanh toán
hoặc cơ quan có thẩm quyền chấm dứt hoạt động.
Luật bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam quy định: “Tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành lập
và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng được nhận tiền gửi của cá
nhân”[6, tr.1].

1.1.3.4. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi
Tổ chức BHTG là đối tác nhận đóng góp tài chính từ tổ chức tham gia
BHTG và có trách nhiệm thực hiện chi trả tiền bảo hiểm tới ngƣời có tiền gửi
thuộc đối tƣợng đƣợc bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG khi tổ chức đó
chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán.
Ngoài ra, tổ chức bảo hiểm tiền gửi còn thực hiện một số vai trò, chức năng
vận hành hoạt động BHTG theo các quy định của Nhà nƣớc và thực hiện các
nhiệm vụ khác có liên quan đến các hoạt động BHTG, đồng thời góp phần bảo vệ
hệ thống các trung gian tài chính và đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng.
Luật BHTG Việt Nam giải thích: “Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức
tài chính Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện chính
sách bảo hiểm tiền gửi, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các Tổ chức
tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân
hàng”[6, tr.4].
13

1.1.3.5. Chính sách bảo hiểm tiền gửi
“Chính sách bảo hiểm tiền gửi” đƣợc hiểu là cách thức tổ chức và vận
hành hoạt động bảo hiểm tiền gửi trong khuôn khổ pháp luật cho phép nhằm
đạt đƣợc các mục tiêu cụ thể của quốc gia.
Cách thức tổ chức và vận hành đó phải có sự liên hệ, phối hợp của các
bên có liên quan tới hoạt động bảo hiểm tiền gửi nhƣ: Tổ chức BHTG; tổ
chức tham gia BHTG; Ngƣời gửi tiền; Cơ quan quản lý Nhà nƣớc về BHTG,
Cơ quan giám sát.
1.1.4. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi
Là sản phẩm của nền kinh tế thị trƣờng và chỉ xuất hiện trong nền kinh
tế thị trƣờng, vai trò của BHTG xuất phát từ bản chất của của hoạt động tài
chính luôn gắn liền với yếu tố niềm tin và mang tính nhạy cảm, lan truyền
cao. Trong hoạt động ngân hàng, nếu niềm tin của ngƣời gửi tiền vào ngân
hàng bị khủng hoảng thì nó không chỉ ảnh hƣởng đến hoạt động của một

TCTD đơn lẻ mà còn tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Vai trò của BHTG
đƣợc thể hiện rõ nét qua các khía cạnh sau đây:
1.1.4.1. Đối với ngƣời gửi tiền
Tạo niềm tin cho người gửi tiền
Để thu hút đƣợc vốn trong dân tức là ngƣời dân cần có hành động gửi
tiền vào các ngân hàng thay vì cất giữ dƣới dạng vàng, bất động sản hoặc cất
giữ ở nhà thì ngƣời dân cần phải có niềm tin đối với hệ thống tài chính ngân
hàng. Khi biết có tổ chức BHTG thay mặt Chính phủ để bảo vệ tiền gửi của
họ thì ngƣời gửi tiền sẽ yên tâm hơn khi gửi tiền vào ngân hàng.
Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền
Mặc dù mỗi quốc gia có mô hình tổ chức BHTG khác nhau nhƣng tất
cả hoạt động BHTG đều hƣớng tới mục tiêu đầu tiên là bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của ngƣời gửi tiền; tiếp sau đó mới là các mục tiêu khác của
quốc gia. Hoạt động BHTG nhằm mục đích bảo vệ những ngƣời gửi tiền nhỏ
vì họ là những ngƣời bị bất lợi trong việc tiếp cận thông tin. Bảo vệ quyền lợi
14

ngƣời gửi tiền còn là giải quyết nhanh chóng và đảm bảo an toàn tiền gửi của
ngƣời gửi tiền tại ngân hàng khi ngân hàng gặp rủi ro, mất khả năng thanh
toán, hoặc ngân hàng bị phá sản.
1.1.4.2. Đối với hệ thống ngân hàng
Thứ nhất, hoạt động BHTG có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự
phát triển lành mạnh an toàn cho hoạt động ngân hàng.
Nếu nhƣ không có hoạt động BHTG, các ngân hàng nhỏ hoặc mới đi
vào hoạt động khó có cơ hội thu hút đƣợc nhiều khách hàng vì ngƣời dân có
tâm lý lo ngại có thể mất tiền gửi do ngân hàng nhận tiền gửi "bị đóng cửa".
Tuy nhiên, khi các tổ chức này tham gia bảo hiểm tiền gửi thì tâm lý đó
sẽ đƣợc giải toả. Các ngân hàng mới gia nhập thị trƣờng tiền tệ cũng sẽ có cơ
hội phát triển, tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng lớn, thúc đẩy nhau
nâng cao chất lƣợng hoạt động.

BHTG còn tạo động lực để các ngân hàng giám sát lẫn nhau. Điều này
sẽ giúp cho hệ thống ngân hàng ngày càng phát triển an toàn, lành mạnh.
Thứ hai, nhờ có hoạt động BHTG mà các ngân hàng thu hút đƣợc
nhiều hơn nguồn vốn tiết kiệm nhàn rỗi trong dân cƣ.
Thứ ba, nhờ có hoạt động BHTG, các ngân hàng sẽ có đƣợc sự giám
sát, cảnh báo sớm và từ đó tránh đƣợc những rủi ro.
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt bên cạnh những
cơ hội, các ngân hàng luôn đứng trƣớc nhiều khó khăn, thách thức. Chắc chắn
cuộc đua để tăng vốn, thu hút chất xám, đa dạng hóa sản phẩm, tăng đầu tƣ
mạo hiểm ở trong nƣớc và trên thị trƣờng tài chính quốc tế sẽ dẫn đến các
mức độ rủi ro khác nhau giữa các ngân hàng. Nhiệm vụ hàng đầu và quan
trọng nhất của tổ chức BHTG là giám sát thƣờng xuyên, phát hiện và cảnh
báo sớm khi các ngân hàng đi “chệch đƣờng ray” các quy định an toàn, không
để các sai sót, sai phạm của các ngân hàng tích tụ tới mức không thể sửa chữa
đƣợc nữa.
15

Thứ tư, hoạt động BHTG giúp các ngân hàng thực sự yếu kém, không
thể tiếp tục duy trì hoạt động có thể rút khỏi lĩnh vực kinh doanh ngân hàng
một cách có trật tự, không ảnh hƣởng tới các ngân hàng khác và tới toàn hệ
thống ngân hàng.
Trong trƣờng hợp một ngân hàng hoạt động yếu kém, không hiệu quả
thì tổ chức BHTG sẽ có thể triển khai một số biện pháp hỗ trợ nhƣ: (1) đƣa ra
phƣơng án sát nhập với ngân hàng khác; (2) chi trả BHTG cho ngƣời gửi tiền
thuộc đối tƣợng bảo hiểm; (3) tham gia vào quá trình thanh lý tài sản của
ngân hàng đó để tiếp tục bảo vệ quyền lợi của ngƣời gửi tiền có tiền lớn hơn
hạn mức chi trả BHTG.
1.1.4.3. Đối với việc phát triển kinh tế, ổn định chính trị và trật tự xã hội
Hoạt động BHTG giúp các ngân hàng huy động vốn nhiều hơn, qua đó
các ngân hàng sẽ cấp tín dụng, mở rộng các hoạt động cung ứng sản phẩm,

dịch vụ trên cơ sở nguồn vốn huy động đƣợc. Nguồn vốn đƣợc luân chuyển
một cách hợp lý sẽ giúp cho nền kinh tế phát triển.
Ngoài ra, BHTG góp phần giảm thiểu gánh nặng cho Chính phủ trong
trƣờng hợp xử lý đổ vỡ của các TCTD (Vì không phải sử dụng ngân sách Nhà
nƣớc để xử lý đổ vỡ).
Nhƣ vậy, BHTG là công cụ gián tiếp giúp nền kinh tế phát triển một
cách an toàn và bền vững, qua đó giúp ổn định chính trị và trật tự xã hội.
1.2. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG BẢO
HIỂM TIỀN GỬI
1.2.1. Các hoạt động bảo hiểm tiền gửi chủ yếu
1.2.1.1. Tham gia bảo hiểm tiền gửi và việc cấp, thu hồi chứng nhận bảo
hiểm tiền gửi
Tham gia bảo hiểm tiền gửi là việc các Ngân hàng, các trung gian tài
chính phi ngân hàng có hoạt động huy động tiền gửi theo quy định của pháp
luật trở thành thành viên của tổ chức BHTG.
16

Tùy thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ ở mỗi quốc gia mà cơ
chế tham gia vào hệ thống BHTG đƣợc quy định nhƣ thế nào cho phù hợp.
Có hai hình thức tham gia BHTG là hình thức tham gia tự nguyện và hình
thức tham gia bắt buộc:
- Hình thức tham gia BHTG tự nguyện là hình thức mà tổ chức đƣợc
phép hoạt động nhận tiền gửi thuộc đối tƣợng bảo hiểm, đƣợc quyền lựa chọn
có hay không tham gia BHTG.
- Hình thức tham gia BHTG bắt buộc là hình thức mà tổ chức đƣợc
phép hoạt động nhận tiền gửi thuộc đối tƣợng bảo hiểm phải tham gia BHTG
bắt buộc.
Một tổ chức BHTG chỉ có thể hoạt động tốt nhất khi có nhiều thành
viên để chia sẻ rủi ro và chi phí. Vì thế, hầu hết các nƣớc đều quy định tham
gia BHTG là bắt buộc. Ở Việt Nam hiện nay, việc tham gia BHTG là bắt buộc

đối với các TCTD có nhận tiền gửi cá nhân.
Cấp chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi
“Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi” là hình thức văn bản chứng
nhận việc tham gia BHTG của một tổ chức thành viên.
Việc cấp Giấy chứng nhận tham gia BHTG cho các tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi có ý nghĩa rất quan trọng đối với các chủ thể tham gia hoạt
động ngân hàng cũng nhƣ đối với cơ quan quản lý Nhà nƣớc trong lĩnh vực
tài chính - tiền tệ.
Thời điểm tổ chức thành viên đƣợc ghi trong Giấy chứng nhận tham
gia BHTG, quan hệ pháp luật bảo hiểm tiền gửi đƣợc phát sinh giữa các bên.
Đây là cơ sở pháp lý khẳng định ngƣời gửi tiền tại các tổ chức nhận tiền gửi
đƣợc tổ chức BHTG đảm bảo quyền lợi. Mặt khác, từ thời điểm đƣợc cấp
Giấy chứng nhận tham gia BHTG, tổ chức tham gia BHTG có nghĩa vụ tuân
thủ pháp luật về hoạt động BHTG, khắc phục những hạn chế, nâng cao hiệu
quả hoạt động nghiệp vụ của mình.
17

Thu hồi chứng nhận bảo hiểm tiền gửi
Ở hầu hết các quốc gia, tƣ cách thành viên của hệ thống BHTG bị chấm
dứt một cách tự động khi giấy phép hoạt động của tổ chức đó bị thu hồi hay tổ
chức đó đóng cửa. Bên cạnh chế độ chấm dứt tự động, các tổ chức có thể bị
chấm dứt tƣ cách thành viên trong mô hình giảm thiểu rủi ro vì một vài lí do:
tổ chức đã hoặc sắp bị mất khả năng thanh toán; có hoạt động không lành
mạnh và không an toàn; hoặc vi phạm quy định của pháp luật.
Tại Việt Nam, Luật BHTG quy định: “Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi bị thu hồi Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi khi Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam có văn bản thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của
TCTD, giấy phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định
của pháp luật”[6, tr.5].
1.2.1.2. Nộp và thu phí bảo hiểm tiền gửi

Theo cách hiểu trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế hiện nay, phí
BHTG là khoản tiền mà tổ chức tham gia BHTG phải nộp cho tổ chức BHTG
để bảo hiểm cho tiền gửi của ngƣời đƣợc BHTG tại tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi.
Mục tiêu của việc thu phí BHTG là nhằm hình thành nguồn Quỹ BHTG
có sẵn để xử lý đỗ vỡ ngân hàng và thực hiện mục tiêu bảo vệ ngƣời gửi tiền.
Để đảm bảo sự ổn định cho nguồn vốn BHTG, các khoản nộp phí BHTG phải
đủ bù đắp cho các chi phí tổn thất của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, đảm bảo hạn
chế hoặc không phải sử dụng ngân sách Nhà nƣớc hỗ trợ xử lý khi tổ chức
tham gia BHTG gặp vấn đề, từ đó giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nƣớc.
Về vấn đề thu phí, có hai hình thức thu phí chủ yếu là hệ thống phí cố định
và hệ thống phí điều chỉnh theo mức độ rủi ro.
Hệ thống phí cố định (Phí đồng hạng) là hệ thống phí trong đó tất cả các tổ
chức tham gia BHTG đều đóng mức phí theo tỷ lệ đồng nhất (đồng hạng). Ƣu điểm
của phƣơng pháp tính phí này là dễ tính toán, tƣơng đối dễ dàng trong việc áp dụng,
đặc biệt là thuận lợi đối với tổ chức BHTG mới hoạt động. Tuy nhiên, nó cũng hạn
18

chế là tạo ra sự bất bình đẳng giữa các tổ chức tham gia BHTG và không thể hiện
đƣợc nguyên tắc thị trƣờng trong quá trình áp dụng.
Hệ thống phí điều chỉnh theo mức độ rủi ro (Phí theo rủi ro): là hệ thống
phí trong đó các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đóng góp phí cho tổ chức
BHTG theo nguyên tắc tổ chức có rủi ro cao hơn phải nộp tỷ lệ phí cao hơn
và ngƣợc lại.
Thông thƣờng các quốc gia khi mới thành lập tổ chức bảo hiểm tiền gửi
áp dụng phí bảo hiểm đồng hạng, sau đó mới chuyển sang phí theo rủi ro. Một
số quốc gia hiện đang áp dụng mức phí trên cơ sở rủi ro nhƣ Nhật Bản,
Philipine hoặc chuyển dần từ phí đồng hạng sang mức phí trên cơ sở rủi ro
nhƣ Indonesia.
Một khi quốc gia quyết định áp dụng các khoản nộp phí BHTG theo rủi

ro, các nƣớc này phải hội đủ điều kiện để triển khai hệ thống đó thành công.
Các điều kiện này gồm có: đủ thông tin về nguy cơ rủi ro của những tổ chức
nhận tiền gửi và đủ số lƣợng nhân viên có năng lực và công cụ phân tích hiệu
quả. Ngoài ra, cần có môi trƣờng và cơ chế phối hợp trao đổi thông tin giữa tổ
chức BHTG và các cơ quan giám sát khác mới có thể thành lập một hệ thống
phí điều chỉnh theo mức độ rủi ro hiệu quả.
Các quốc gia áp dụng hệ thống phí theo rủi ro vì những mục tiêu chủ
yếu sau đây:
- Giảm bớt hoạt động rủi ro quá mức của các tổ chức tham gia BHTG và
đảm bảo sự công bằng cho các tổ chức tham gia BHTG. Mức phí khác biệt thúc
đẩy các tổ chức tham gia BHTG phấn đấu để đƣợc xếp hạng tốt hơn, hƣởng
mức phí thấp hơn bằng cách giảm rủi ro trong hoạt động của mình.
- Đẩy nhanh quá trình tích lũy của Quỹ BHTG tại các quốc gia. Thông
thƣờng, việc triển khai phƣơng pháp tính phí theo mức độ rủi ro khi nền kinh
tế và hệ thống ngân hàng trong điều kiện thuận lợi sẽ làm cơ sở đẩy nhanh tốc
độ tích lũy của Quỹ BHTG, bởi vì mức phí BHTG thu đƣợc nhiều hơn khi ít
phải chi trả bảo hiểm, làm cho quy mô của Quỹ BHTG tăng lên.
19

- Nâng cao vai trò của tổ chức BHTG trong vấn đề xếp hạng, đánh giá
và giám sát rủi ro.
Tuy nhiên, bên cạnh những ƣu điểm và mục tiêu đã đƣợc đề cập ở trên,
hệ thống phí theo rủi ro cũng có những nhƣợc điểm nhất định. Cụ thể, tổ chức
tham gia BHTG hoạt động yếu kém, rủi ro cao lại phải chịu mức phí cao hơn
và nhƣ vậy, áp lực rủi ro tiếp tục tăng cao đối với nhóm tổ chức này. Việc xác
định rủi ro của từng TCTD lại rất phức tạp, đòi hỏi trình độ quản lý rất cao và
liên quan đến vấn đề bảo mật tin tức ngân hàng.
1.2.1.3. Giám sát rủi ro
Giám sát rủi ro ngân hàng liên tục bao gồm việc kết hợp giữa các quy
trình giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ. Giám sát rủi ro là một trong những

nghiệp vụ quan trọng nhất của tổ chức BHTG. Vì thông qua nghiệp vụ này tổ
chức bảo hiểm tiền gửi đóng vai trò là một kênh quan trọng để góp phần bảo
vệ triệt để ngƣời gửi tiền, nâng cao niềm tin công chúng vào hệ thống tài
chính ngân hàng.
Giám sát từ xa là công cụ tối thiểu của hoạt động giám sát liên tục. Cơ
quan giám sát không có quy định hoặc không có đủ nguồn lực để kiểm tra tại
chỗ định kỳ thì chủ yếu sử dụng giám sát từ xa để giám sát các điều kiện tài
chính và hoạt động ngân hàng và để xác định những tổ chức nào cần quan tâm
ở mức đặc biệt. Giám sát từ xa bao gồm phân tích và xem xét các thông tin tài
chính định kỳ và các thông tin khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.
Hoạt động giám sát từ xa đƣợc tiến hành thƣờng xuyên trên cơ sở các
nguồn thông tin, dữ liệu về hoạt động của tổ chức tham gia BHTG (nhƣ báo
cáo về bảng tổng kết tài sản, báo cáo thu nhập, chi phí, hồ sơ của ngân hàng,
đầu tƣ, nguồn vốn, thanh khoản, tín dụng, trích lập dự phòng rủi ro) và các
nguồn thông tin đƣợc thu thập khác.
Qua kết quả giám sát từ xa, tổ chức BHTG có điều kiện thực hiện các
nghiệp vụ khác nhƣ: kiểm tra tại chỗ, hỗ trợ tài chính, mua lại nợ, thu phí
theo mức độ rủi ro.

×