Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp ở nam đồng bằng sông hồng đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 83 trang )


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hình thức khu công nghiệp phát triển gắn liền với công cuộc đổi mới, mở
cửa nền kinh tế được khởi xướng từ Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng
sản Việt Nam lần thứ VI (năm 1986). Phát triển các KCN là một trong những
giải pháp quan trọng nhằm thu thút vốn đầu tư, thúc đẩy phát triển ngành công
nghiệp phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu đồng thời làm hạn chế ô
nhiễm do sản xuất đến môi trường sinh thái, đảm bảo phát triển hiệu quả và
bền vững của một quốc gia nói chung và các vùng, các tỉnh nói riêng.
Các Nghị quyết của Đảng tại các kỳ Đại hội từ năm 1986 đến nay đã
hình thành hệ thống các quan điểm nhất quán của Đảng về phát triển KCN;
khẳng định vai trò của KCN là một trong những nền tảng quan trọng để thực
hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại như Nghị quyết Đại hội X và XI đã nêu rõ. Trải qua hơn 20
năm xây dựng và phát triển kể từ năm 1991 cho tới nay, các KCN ở nước ta đã
đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vùng kinh tế Đồng bằng sông Hồng bao gồm hai tiểu vùng: các tỉnh
thuộc vùng KTTĐ Bắc Bộ (gồm 7 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc
Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh) và tiểu vùng Nam
Đồng bằng sông Hồng (gồm 4 tỉnh: Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh
Bình). Hiện nay đang có sự phát triển chênh lệch đáng kể giữa hai tiểu vùng:
trong khi Vùng KTTĐ Bắc Bộ là nơi tập trung các trung tâm kinh tế lớn của
vùng và của cả nước thì các tỉnh Nam Đồng bằng sông Hồng chủ yếu mang
đặc điểm của nền kinh tế thuần nông. Tái cơ cấu kinh tế là trọng tâm phát
triển, trong đó nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp sẽ góp
phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa hai tiểu vùng này.



2

Trong giai đoạn vừa qua, phát triển các KCN được kỳ vọng là động lực
quan trọng để phát triển kinh tế của các tỉnh Nam ĐBSH và thu hẹp khoảng
cách chênh lệch ngày càng lớn của Tiểu vùng so với Vùng KTTĐ Bắc Bộ.
Như vậy, việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các KCN đối với vấn đề phát
triển kinh tế - xã hội ở Nam Đồng bằng sông Hồng là cần thiết để có thể đưa
ra các chính sách và các giải pháp phù hợp trong thời gian tới
Xuất phát từ các lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài nghiên cứu : “ Giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp ở Nam Đồng bằng
sông Hồng đến năm 2020”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu
Mục tiêu của đề tài là đánh giá hiện trạng và hiệu quả hoạt động của
các khu công nghiệp ở tiểu vùng Nam Đồng bằng sông Hồng từ đó khuyến
nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công
nghiệp ở Tiểu vùng.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, tác giả xác định các nhiệm vụ
nghiên cứu trọng tâm của đề tài là:
1. Tổng quan cơ sở lý luận và thực tiễn về khu công nghiệp và ảnh hưởng
của chúng đến sự phát triển KT - XH của một vùng lãnh thổ.
2. Phân tích, đánh giá nguồn lực, hiện trạng phát triển và hiệu quả hoạt
động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển KT - XH ở tiểu vùng Nam
ĐBSH.
3. Khuyến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
KCN đối với quá trình phát triển KT-XH ở tiểu vùng Nam Đồng bằng sông Hồng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng

Đối tượng mà đề tài tập trung nghiên cứu là các khu công nghiệp. Đây là
một trong các hình thức của tổ chức lãnh thổ công nghiệp đang được ứng dụng
và đem lại nhiều kết quả tích cực trong thực tiễn.

3

3.2. Phạm vi
Trong đề tài này, tác giả tập trung nghiên cứu các khu công nghiệp phân
bố trên lãnh thổ các tỉnh Nam Đồng bằng sông Hồng (bao gồm 4 tỉnh: Thái
Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình). Tác giả cũng tập trung nghiên cứu các
khu công nghiệp trong giai đoạn 2005-2012. Mặc dù tính tới thời điểm hoàn
thành đề tài, các tỉnh thuộc tiểu vùng Nam Đồng bằng sông Hồng đều đã công
bố Niên giám thống kê năm 2013 song vì số liệu thống kê của năm 2013 chỉ ở
dạng ước tính nên các số liệu được tác giả sử dụng trong đề tài chủ yếu là số
liệu của năm 2012 trở về trước.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập, xử lý và tổng hợp tài liệu
Tác giả tiến hành tìm hiểu và tổng hợp các cơ sở lý luận từ các công trình
nghiên cứu mà các học giả trong và ngoài nước tiến hành đối với các hình thức tổ
chức lãnh thổ kinh tế nói chung và tổ chức các KCN nói riêng. Bên cạnh đó, xem
xét thực tiễn ứng dụng tổ chức các KCN tại các quốc gia trên thế giới và Việt
Nam, để học hỏi các kinh nghiệm phục vụ cho việc hoàn thành các nhiệm vụ đã
đặt ra của đề tài. Tác giả cũng tiến hành tổng hợp và xử lý các số liệu từ Niên
giám thống kê các tỉnh, các báo cáo của Ban Quản lý các KCN,… để phục vụ
cho đề tài.
4.2. Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã tham vấn ý kiến các chuyên gia
của các ngành hữu quan ở các Viện nghiên cứu và các địa phương, xem xét
các kết quả nghiên cứu về quy hoạch phát triển kinh tế của các địa phương
thuộc tiểu vùng Nam Đồng bằng sông Hồng để đưa ra các khuyến nghị, định

hướng nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN tại các tỉnh
thuộc Tiểu vùng.
4.3. Phương pháp thực địa
Đối chiếu với các vấn đề đã được lý giải trong phần cơ sở lý luận, căn
cứ vào kết quả phân tích các số liệu thống kê và kết quả tham vấn với các

4

chuyên gia ở địa phương cùng với việc nghiên cứu và khảo sát thực tế, tác giả
từng bước làm rõ những yêu cầu đã nêu trong phần mục đích của đề tài này.
5. Những đóng góp chủ yếu của đề tài
 Đúc kết và làm sáng tỏ được cơ sở lí luận và thực tiễn về khu công
nghiệp và vận dụng vào nghiên cứu ở tiểu vùng Nam Đồng bằng sông Hồng.
 Đánh giá được thực trạng phát triển các KCN của các tỉnh Nam Đồng
bằng sông Hồng trên cơ sở bộ chỉ tiêu đã đề xuất.
 Đề xuất được định hướng và khuyến nghị các giải pháp để phát triển có
hiệu quả hơn các KCN tại Nam Đồng bằng sông Hồng.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung của đề tài gồm 3 chương:
- Chương 1: Tầm quan trọng của việc phát triển các khu công nghiệp
đối với Nam Đồng bằng sông Hồng
- Chương 2: Thực trạng phát triển các khu công nghiệp ở Nam Đồng
bằng sông Hồng
- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công
nghiệp ở Nam Đồng bằng sông Hồng.















5

Chƣơng 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NAM ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

1.1. Quan niệm về khu công nghiệp và vai trò của các khu công nghiệp
1.1.1. Quan niệm, bản chất của khu công nghiệp
1.1.1.1. Quan niệm về khu công nghiệp trên thế giới
Khu công nghiệp là một trong các hình thức tổ chức lãnh thổ công
nghiệp được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trên thế giới.
Khu công nghiệp (industrial park hoặc industrial estate) là một khu vực
quy hoạch cho mục đích phát triển công nghiệp. Các khu công nghiệp thường
được đặt bên ngoài khu dân cư chính của thành phố và thường cung cấp các
dịch vụ vận chuyển tốt, bao gồm cả đường bộ và đường sắt. Các khu công
nghiệp thường nằm gần nút giao thông cơ sở, đặc biệt là nơi tập trung nhiều
loại hình vận tải: đường cao tốc, đường sắt, sân bay và các cảng.
Việc xây dựng khu công nghiệp dựa trên một số cơ sở:
+ Để có thể tập trung chuyên dụng kết cấu hạ tầng trong một khu vực được
giới hạn để giảm chi phí kinh doanh trên kết cấu hạ tầng đó. Như vậy kết cấu hạ
tầng bao gồm đường, đường sắt, cảng biển, cung cấp điện năng lượng cao, cáp
thông tin cao cấp, cung cấp lượng nước lớn và khối lượng khí lớn.

+ Để có thể thu hút các doanh nghiệp mới bằng cách cung cấp một kết
cấu hạ tầng tích hợp trong một địa điểm.
+ Việc đặt vị trí các KCN thường nằm bên ngoài khu vực đô thị để cố gắng
làm giảm tác động môi trường và xã hội trong những ứng dụng công nghiệp.
+ Có năng lực kiểm soát môi trường thích hợp với một khu vực công nghiệp.
Ngoài ra, mới đây người ta còn đề xuất quan niệm về “công viên công
nghiệp sinh thái”. Những đặc điểm chung của một công viên công nghiệp sinh
thái là: một cộng đồng các doanh nghiệp cộng tác với nhau và với cộng đồng địa
phương để chia sẻ một cách hiệu quả các nguồn (thông tin, nguyên vật liệu, nước,
năng lượng, kết cấu hạ tầng và nơi sinh cư tự nhiên), bằng cách hướng đến các

6

kết quả kinh tế, chất lượng môi trường, và củng cố các nguồn lực con người cho
các doanh nghiệp và cộng đồng địa phương.
Như vậy, quan niệm khu công nghiệp ở các nước phương Tây và các nước
phát triển không mang nhiều tính chất hàn lâm mà gắn với thực tiễn và nhấn
mạnh nhiều đến nội dung, đặc điểm cũng như quá trình hình thành khu công
nghiệp nhằm xác định hiệu quả thực tế của hình thức tổ chức lãnh thổ này.
1.1.1.2. Quan niệm về khu công nghiệp ở Việt Nam
Tại khoản 1, điều 2 của Nghị định của Chính phủ số 36/ CP ban hành
ngày 24/04/1997 quy định: "Khu công nghiệp" là khu tập trung các doanh
nghiệp KCN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho
sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh
sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, trong
khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất.
Theo Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 của Chính phủ quy
định về khu công nghiệp, khu kinh tế và khu chế xuất đã đưa ra khái niệm về khu
công nghiệp như sau: Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp
và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định; do

Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Ngoài ra, một hình thức khác của KCN là khu chế xuất. Đây là KCN
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo
điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với KCN quy định tại Nghị định số
29/2008/NĐ-CP của chính phủ ban hành ngày 14/03/2008.
Xu hướng hiện đại là phát triển các công viên công nghiệp sinh thái, đó là
các KCN, khu chế xuất thực hiện rất tốt và hài hòa mục tiêu thu hút đầu tư với giải
quyết vấn đề bảo vệ môi trường. Xu hướng tiến bộ này đều được các học giả như
PGS, TS. Ngô Doãn Vịnh, TS. Nguyễn Quốc Bình, TS. Hoàng Ngọc Phong, TS.
Trần Văn Thông, PGS.TS. Lê Thu Hoa, nhấn mạnh.



7

1.1.1.3. Đặc điểm của khu công nghiệp
Hiện nay, mỗi quốc gia đều đang nỗ lực tập trung phát triển khu công
nghiệp của riêng mình, đặc biệt là các nước đang phát triển. Mặc dù có sự
khác nhau về quy mô, địa điểm và phương thức xây dựng kết cấu hạ tầng ,
nhưng nói chung các khu công nghiệp có các đặc điểm chính như sau:
Thứ nhất, khu công nghiệp là nơi tập trung tương đối nhiều xí nghiệp
công nghiệp trên một khu vực có ranh giới rõ ràng, sử dụng chung kết cấu hạ
tầng sản xuất và xã hội;
Thứ hai, các xí nghiệp nằm trong khu công nghiệp được hưởng quy
chế, ưu đãi riêng nhằm mục đích thu hút vốn đầu tư từ các nguồn trong và
ngoài nước, tạo môi trường đầu tư thuận lợi; đặc biệt là chính sách về đất đai
(giá thuê đất, thời hạn cho thuê, ) và chính sách về thuế, cho phép các doanh
nghiệp có thể sử dụng các phạm vi đất đai nhất định để thành lập các nhà máy,
xí nghiệp giúp doanh nghiệp giảm bớt chi phí kinh doanh và giúp doanh

nghiệp nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Nguồn vốn xây dựng kết cấu
hạ tầng chủ yếu được thu hút từ các tổ chức, cá nhân trong nước và các nhà
đầu tư nước ngoài. Việt Nam là một nước đang phát triển, nhu cầu đầu tư lớn
nhưng vốn tích lũy nội bộ không nhiều nên vốn đầu tư cho phát triển kết cấu
hạ tầng chủ yếu được huy động từ nước ngoài.
Thứ ba, khu công nghiệp là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều
thành phần và tổ chức sở hữu khác nhau cùng tồn tại song song: doanh nghiệp
có vồn đầu tư nước dưới hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh, doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh và cả doanh nghiệp
100% vốn trong nước.
Thứ tư, sản phẩm được sản xuất ra từ các nhà máy trong khu công
nghiệp chủ yếu phục vụ xuất khẩu và phần còn lại cung cấp cho thị trường
trong nước;
Thứ năm, khu công nghiệp có ban quản lý thống nhất để thực hiện quy
chế quản lý;
Thứ sáu, Khu công nghiệp có phân cấp về quản lý và tổ chức sản xuất.

8

1.1.2. Vai trò của khu công nghiệp
Khu công nghiệp có vai trò ngày càng quan trọng trong phát triển công
nghiệp nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung trên phạm vi tiểu vùng
Nam Đồng bằng sông Hồng, cụ thể như sau:
Một là, khu công nghiệp với vai trò thu hút và đa dạng hóa các nguồn
vốn đầu tư đã có đóng góp không nhỏ vào việc huy động được lượng vốn đầu
tư lớn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, phục vụ cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của các tỉnh trong Tiểu vùng. Trong các nguồn vốn
huy động đó, việc thu hút dòng vốn FDI tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng
cho phát triển kinh tế.
Hai là, khu công nghiệp là công cụ hữu hiệu thu hút các doanh nghiệp

công nghiệp và dịch vụ công nghiệp, đồng thời là nơi tiếp nhận công nghệ mới,
tập trung ngành nghề mới góp phần thực hiện các mục tiêu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của Tiểu vùng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ba là, khu công nghiệp góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc
làm, nâng cao dân trí và thực hiện các chính sách xã hội.
Bốn là, phát triển KCN tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng công nghiệp
mới, hiện đại, có giá trị lâu dài đồng thời góp phần hiện đại hoá hệ thống kết
cấu hạ tầng của Tiểu vùng.
Năm là, khu công nghiệp sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng và đẩy mạnh hợp
tác sản xuất, tăng cường mối liên kết ngành trong phát triển kinh tế của Tiểu vùng.
Sáu là, khu công nghiệp góp phần quan trọng vào việc bảo vệ môi
trường sinh thái.
Bảy là, các khu công nghiệp có tác dụng lan tỏa tích cực tới phát triển
các vùng, các ngành, lĩnh vực, thể hiện rõ vai trò của khu công nghiệp trong
quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn,…
1.2. Các nhân tố ảnh hƣởng và điều kiện hình thành các khu công nghiệp
1.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành các khu công nghiệp
Theo nguyên tắc chung, các hình thức tổ chức lãnh thổ kinh tế luôn
chịu tác động của các nhân tố trong suốt quá trình hình thành và phát triển. Từ

9

nghiên cứu qua thực tiễn và tham khảo các nguồn tài liệu để đúc rút những
vấn đề lý luận đã trình bày ở các phần trên, tác giả đề xuất các nhân tố chủ
yếu tác động tới sự hình thành và phát triển của khu công nghiệp, phục vụ
phương án tổ chức các hoạt động sản xuất trong KCN như sau:
1.2.1.1. Về vị trí địa lý
Trong điều kiện kinh tế thị trường và xu thế hội nhập ngày càng sâu
rộng, vị trí địa lý là yếu tố được quan tâm hàng đầu khi lựa chọn địa điểm để
xác định các cực tăng trưởng và cực phát triển nhằm thúc đẩy sự ra đời của

các khu công nghiệp. Ta xem xét yếu tố cụ thể là giao thông vận tải.
Giao thông vận tải là yếu tố quan trọng để cân nhắc quyết định việc lựa
chọn địa điểm đầu tư phát triển các hình thức tổ chức lãnh thổ kinh tế trong đó có
khu công nghiệp. Chi phí vận tải có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành của sản
phẩm. Nếu điều kiện vận tải thuận lợi thì thời gian vận gian vận chuyển được rút
ngắn lại kết quả sẽ kéo chi phí vận tải xuống thấp, từ đó làm giảm giá thành sản
xuất trung bình của sản phẩm, mang lại hiệu quả trong chuỗi quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là cơ sở quan trọng trong
quá trình hình thành và phát triển khu công nghiệp, nhất là ở giai đoạn đầu.
Tài nguyên thiên nhiên ảnh hưởng tới việc lựa chọn ngành công nghiệp và quy
mô tổ chức khu công nghiệp.
- Về nguồn nước
Trong mọi trường hợp, khi phát triển các nhà máy, xí nghiệp tại các KCN
đều cần đáp ứng nhu cầu về nước. Có thể coi nước là một trong những nguyên
liệu đầu vào hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất của các doanh nghiệp.
Chính vì thế, nếu việc cung cấp nước cho sản xuất dễ dàng và với chi phí thấp thì
cũng giúp doanh nghiệp hạ thấp được giá thành sản xuất trung bình cho mỗi sản
phẩm. Doanh nghiệp hạ được giá thành cho sản phẩm, từ đó họ sẽ có lợi thế cạnh
tranh hơn trên thị trường và tất nhiên hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp có một tương lai triển vọng hơn.

10

Trong khi lựa chọn để tổ chức phát triển của các hoạt động sản xuất kinh
doanh trong các khu công nghiệp, chúng ta phải tính tới khả năng đáp ứng nhu
cầu về nguồn nước cả trong ngắn hạn và dài hạn. Thực tế ở Việt Nam và các
quốc gia trên thế giới thì tình trạng khó khăn về cung cấp nước xảy ra ở hầu hết
các khu kinh tế ven biển (thực chất là hình thức tổng hợp khu trong khu), hải đảo.

Chính vì vậy khi phát triển hình thức KCN ở các lãnh thổ ven biển cần có các
biện pháp để đảm bảo nguồn nước.
- Về đất xây dựng
Khi đã có ý tưởng phát triển bất kỳ một hình thức tổ chức lãnh thổ kinh
tế nào thì đề phải tính toán đến mức độ đáp ứng về diện tích đất đai. Đất dành
cho các KCN phải được tính toán, bố trí sử dụng khoa học, đúng các mục đích
sử dụng sản xuất công nghiệp để mang lại giá trị cao trên mỗi hecta nhằm phục
vụ chính quyền, doanh nghiệp, người lao động trên cơ sở sử dụng tiết kiệm, bền
vững tài nguyên đất tại các KCN mà không làm mất giá trị sẵn có của đất các
KCN. Theo các chuyên gia của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để hình thành một khu
công nghiệp có hiệu quả thì quỹ đất dành cho KCN đó phải đạt ít nhất 200 ha.
Bên cạnh đó chúng ta cũng cần tính toán tới quỹ đất cho việc mở rộng diện tích
của KCN đó trong tương lai.
- Về khoáng sản: các loại khoáng sản với đặc điểm về số lượng, trữ lượng
và hàm lượng cùng sự kết hợp của chúng theo lãnh thổ sẽ chi phối quy mô, cơ
cấu và tổ chức các xí nghiệp công nghiệp theo lãnh thổ.
- Về khí hậu
Khí hậu chi phối việc lựa chọn kỹ thuật và công nghệ sản xuất; sự đa
dạng của các tập đoàn cây trồng, vật nuôi, thủy sản,… là cơ sở cho phát triển
các ngành công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản; các hiện tượng thời tiết
xấu, thiên tai,…ảnh hưởng tới việc định vị các cơ sở công nghiệp hợp lý theo
lãnh thổ và thời gian hoạt động.
1.2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
- Về kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật

11

+ Kết cấu hạ tầng bao gồm: hệ thống giao thông vận tải, bưu chính viễn
thông, cung cấp điện, cấp thoát nước,…
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật gồm: kho tàng, cơ sở; cơ sở nghiên cứu khoa

học; công trình bảo vệ môi trường,…
Các nhân tố trên sẽ làm thay đổi ảnh hưởng của nhiều nhân tố phân bố
công nghiệp và tạo ra bức tranh tổ chức các khu công nghiệp mới và tiến bộ hơn.
* Xét ví dụ cụ thể: mức độ đáp ứng về cung cấp năng lượng
Để hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục thì yếu tố năng
lượng đặc biệt là nguồn điện sản xuất giữ vai trò trọng yếu. Chính vì vậy việc
cung cấp điện sản xuất dễ dàng, liên tục với chi phí hợp lý luôn được nhà đầu
tư quan tâm khi quyết định tham gia vào dự án.
Thực tiễn hoạt động cho thấy tình trạng thiếu điện hay cúp điện xảy ra
phổ biến ở hầu hết các KCN đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho các đơn vị
sản xuất kinh doanh.
- Về trình độ phát triển của nền kinh tế
Trình độ phát triển của nền kinh tế có ý nghĩa quyết định tới tổ chức các
khu công nghiệp vì nó tạo ra phương tiện vật chất cho các khu công nghiệp; mở
rộng các nhu cầu mới và có thể hình thành các hình thức tổ chức lãnh thổ công
nghiệp mới.
- Nguồn vốn đầu tư đặc biệt là nguồn vốn FDI có ảnh hưởng quan trọng
tới quy mô của các KCN. Thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước có tác động
điều tiết và kích thích sự phát triển và thay đổi cơ cấu ngành nghề trong khu
công nghiệp.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm và tập quán sản xuất, tiêu dùng cũng ảnh
hưởng tới sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp.
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh làm ra sản phẩm và đồng thời họ
cũng tìm đầu ra tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp mình cũng như thực hiện
công tác nghiên cứu thị trường để đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Với
các ngành công nghiệp, nhà sản xuất và các đối tác cần xác định khả năng về
tiêu thụ sản phẩm hàng hóa. Một trong những yếu tố quan trọng tác động tới

12


khả năng tiêu thụ của sản phẩm là: quy mô người tiêu dùng và giới hạn sức
mua của họ. Các thị trường tiêu dùng nhộn nhịp nhất thường tập trung ở các
đô thị và các vùng dân cư có mức thu nhập cao.
- Nguồn lao động: Yếu tố lao động xét về cả số lượng và chất lượng đều
ảnh hưởng quan trọng tới sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp.
Trong bất kỳ lãnh thổ kinh tế nào khi phát triển các KCN đều cần tới lao
động. Chính vì vậy mà khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu về lao động cả về số
lượng và chất lượng (tùy thuộc vào đặc thù của từng ngành) đều ảnh hưởng rất lớn
tới tiến độ đi vào vận hành sản xuất của các nhà máy, xí nghiệp một cách nhanh
chóng và là điều kiện tiền đề mang lại kết quả sản xuất kinh doanh hiệu quả.
Khi doanh nghiệp có được lực lượng lao động có kỹ năng và trình độ
chuyên môn cao thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi để công nhân thực sự làm chủ
được công nghệ sản xuất, trong dài hạn họ sẽ có khả năng phát triển những
ngành có công nghệ cao, mang lại hiệu quả kinh tế nhiều hơn.
Việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu
cầu nguồn nhân lực của các KCN phải được tiến hành thực hiện ngay khi có
chủ trương phát triển và cả trong quá trình phát triển của các KCN.
- Về môi trường chính sách và môi trường kinh tế vĩ mô
Các chiến lược và đường lối phát triển công nghiệp thúc đẩy có tác
động thúc đẩy hay kìm hãm phát triển công nghiệp và các khu công nghiệp.
Các khoản chi phí dành cho phí tổn bôi trơn, dịch vụ tài chính, dịch vụ hải
quan, thuế, giá đất cho thuê, thời hạn thuê đất, dịch vụ hỗ trợ đầu tư, …và nhiều
nhân tố thứ yếu khác với chi phí càng thấp thì càng hấp dẫn các nhà đầu tư đồng
nghĩa với cơ hội lãnh thổ đó càng có nhiều điều kiện để phát triển và khai thác
tốt các KCN. Các quy định về tỷ lệ giữ lại địa phương của khoản thu ngân sách
từ các KCN có thể tạo ra động lực để các cấp địa phương quan tâm hơn tới công
tác quản trị các KCN.
Ngoài ra, sự phát triển của các ngành kinh tế khác như nông nghiệp và
dịch vụ cũng tác động đến sự phân bố và tổ chức công nghiệp nói chung và
các khu công nghiệp nói riêng. Đồng thời sự phát triển của công nghiệp lại


13

thúc đẩy nhanh hơn các quá trình công nghiệp hoá trong nông nghiệp, nông
thôn như hoạt động cơ giới hóa, điện khí hóa.
Theo các chuyên gia Nhật, chìa khóa cho sự thành công của các KCN là vị
trí, dịch vụ hạ tầng và năng lực quản lý. Điều kiện đầu tiên để đảm bảo cho KCN
thành công là phải có nhà đầu tư đến thuê đất để xây dựng KCN, nhà máy, xí
nghiệp Xu hướng chung là họ thường tìm đến những nơi có hệ thống hạ tầng
kỹ thuật, xã hội phát triển và đảm bảo ổn định, gần các đầu mối giao thông như
sân bay, bến cảng, gần các trung tâm kinh tế, thương mại, các dịch vụ tài chính,
ngân hàng, vận tải, hải quan ; là nơi đảm bảo nguồn nhân lực tại chỗ có chất
lượng, gần các thị trường lớn.
Tóm lại, khu công nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nguồn lực,
chúng không tác động riêng lẻ mà tác động tổng hợp, đồng thời. Tuy nhiên, ở
một lãnh thổ cụ thể có một hay một vài nhân tố chủ đạo, đóng vai trò quyết định.
Các trung tâm kinh tế và mạng lưới đô thị luôn có những điều kiện thuận
lợi cho sự ra đời và phát triển các khu công nghiệp. Bởi lẽ, nơi đây thường hội
tụ những thế mạnh về kết cấu hạ tầng, nguồn lao động có chất lượng cao, thị
trường tiêu thụ rộng lớn do dân đông và thị hiếu tiêu dùng cũng đa dạng.
1.2.2. Điều kiện hình thành các khu công nghiệp
Theo khoản 2, điều 1 của Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21 tháng 8
năm 2006 và điều 5, chương 2 của Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày
14/03/2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu
kinh tế thì:
(1). Điều kiện thành lập khu công nghiệp là:
* Phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp đã được
phê duyệt:
- Có các điều kiện thuận lợi hoặc có khả năng xây dựng hệ thống kết
cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, triển khai đồng bộ và kết hợp chặt chẽ

giữa quy hoạch phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất với quy hoạch phát

14

triển đô thị, phân bố dân cư, nhà ở và các công trình xã hội phục vụ công
nhân trong khu công nghiệp, khu chế xuất;
– Có quỹ đất dự trữ để phát triển và có điều kiện liên kết thành cụm các
khu công nghiệp; riêng đối với các địa phương thuần tuý đất nông nghiệp, khi
phát triển các khu công nghiệp để thực hiện mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế
cần tiến hành phân kỳ đầu tư chặt chẽ nhằm đảm bảo sử dụng đất có hiệu quả;
– Có khả năng thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong nước và nhà
đầu tư nước ngoài;
– Có khả năng cung cấp và đáp ứng nhu cầu về lao động;
– Đảm bảo các yêu cầu về an ninh, quốc phòng;
* Tổng diện tích đất công nghiệp của các khu công nghiệp đã được thành
lập trên địa bàn lãnh thổ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã cho các dự án
đăng ký đầu tư, cấp Giấy chứng nhận đầu tư thuê đất, thuê lại đất ít nhất là 60%.
(2). Điều kiện mở rộng khu công nghiệp là:
- Phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp đã được
phê duyệt;
- Tổng diện tích đất công nghiệp của khu công nghiệp này đã cho các
dự án đăng ký đầu tư, cấp Giấy chứng nhận đầu tư thuê đất, thuê lại đất ít nhất
là 60%;
- KCN đã xây dựng và đưa vào sử dụng công trình xử lý nước thải tập trung.
(3). Đối với khu công nghiệp có quy mô diện tích từ 500 ha trở lên và có
nhiều nhà đầu tư tham gia đầu tư xây dựng - kinh doanh kết cấu hạ tầng theo
từng khu riêng biệt hoặc khu công nghiệp gắn liền với khu đô thị, khu kinh
doanh tập trung khác trong một đề án tổng thể phải lập quy hoạch chung xây
dựng theo hướng dẫn của Bộ Xây dựng trước khi lập quy hoạch chi tiết.
(4). Đối với khu công nghiệp có quy mô diện tích từ 500 ha trở lên hoặc

có vị trí cạnh các tuyến quốc lộ, gần các khu vực quốc phòng, khu bảo tồn di
tích lịch sử, khu danh lam thắng cảnh, khu bảo tồn sinh thái của vùng và quốc
gia, nằm trong các đô thị loại II, loại I và loại đặc biệt phải có ý kiến bằng văn

15

bản của Bộ Xây dựng và các Bộ, ngành có liên quan về quy hoạch chi tiết xây
dựng khu công nghiệp trước khi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt.
1.3. Sự cần thiết về phát triển các khu công nghiệp đối với tiểu vùng Nam
Đồng bằng sông Hồng
Nam Đồng bằng sông Hồng là khu vực đất chật, người đông, có nền
kinh tế quy mô nhỏ, mang đặc điểm thuần nông. Mật độ dân số trung bình của
Tiểu vùng vào khoảng 976 (người/km
2
) cao hơn mức trung bình của Đồng
bằng sông Hồng (961 người/km
2
) và Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (955
người/km
2
). Quy mô kinh tế của Nam Đồng bằng sông Hồng năm 2012 chỉ
bằng khoảng 19% GDP của ĐBSH và bằng khoảng 23,8% GDP của Vùng
KTTĐ Bắc Bộ.
Cơ cấu kinh tế của Tiểu vùng tuy đã có bước chuyển dịch nhanh chóng
nhưng cơ cấu kinh tế vẫn chưa hiện đại: tỷ trọng của Khu vực 1 trong GDP giảm
từ 35,5% năm 2005 xuống còn 25,1% vào năm 2012 nhưng tỷ trọng sản xuất nông
nghiệp vẫn còn khá cao so với Vùng KTTĐ Bắc Bộ vào khoảng 8,8% năm 2012.
Tỷ trọng của Khu vực 2 năm 2005 khoảng 29,6% và tăng lên 41,8 % vào năm
2012 trong khi chỉ số tương ứng của Vùng KTTĐ Bắc Bộ năm 2012 là 47,7%.
Mức thu nhập bình quân theo đầu người của Tiểu vùng thấp, thua hơn so với Vùng

KTTĐ Bắc Bộ và chỉ bằng khoảng 50% thu nhập bình quân của vùng này.
Các tỉnh Nam ĐBSH có mức thu ngân sách rất thấp, thu không đủ chi và
hằng năm phải nhận trợ cấp từ Trung ương khoảng 70% - 80%. Tổng thu ngân
sách của tiểu vùng Nam Đồng bằng sông Hồng chỉ chiếm một phần rất nhỏ
khoảng 5 % trong lượng thu ngân sách của ĐBSH và chiếm khoảng 5,3%
khoản thu ngân sách của vùng KTTĐ Bắc Bộ.
Cơ cấu lao động phân theo ngành nghề trong Tiểu vùng đã có sự thay
đổi theo chiều hướng tiến bộ. Lao động trong Khu vực 1 giảm từ 68% (năm
2005) xuống còn 48,7% (vào năm 2012) đồng thời khối ngành Khu vực 2,
Khu vực 3 cũng tăng tương ứng từ 17% và 14% (năm 2005) lên 26,7% và
khoảng 24,6% (vào năm 2012). So với các tỉnh thuộc Vùng KTTĐ Bắc Bộ
mức chuyển dịch cơ cấu lao động như trên là chậm hơn và là một trong những

16

khó khăn để cải thiện kinh tế của Tiểu vùng.
Như vậy, hiện nay đang có sự phát triển chênh lệch đáng kể giữa hai tiểu
vùng. Trong khi Vùng KTTĐ Bắc Bộ là nơi tập trung các trung tâm kinh tế
lớn của vùng và của cả nước thì các tỉnh Nam Đồng bằng sông Hồng chủ yếu
mang đặc điểm của nền kinh tế thuần nông với mức thu nhập bình quân theo
đầu người hạn chế.
Nhận thấy vai trò quan trọng của các KCN trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và phát triển các lãnh thổ kinh tế nói
riêng, các tỉnh Nam Đồng bằng sông Hồng đã nghiên cứu và đề xuất xây dựng
các khu công nghiệp tập trung. Các KCN trong giai đoạn vừa qua được kỳ
vọng là động lực quan trọng để phát triển ngành công nghiệp và nền kinh tế
của Tiểu vùng từ đó thu hẹp khoảng cách chênh lệch ngày càng lớn của Tiểu
vùng so với Vùng KTTĐ Bắc Bộ. Như vậy, việc đánh giá hiệu quả hoạt động
của các KCN đối với vấn đề phát triển kinh tế - xã hội ở Nam Đồng bằng sông
Hồng là cần thiết để có thể đưa ra các chính sách và các giải pháp phù hợp

phát triển các khu công nghiệp trong thời gian tới.
1.4. Bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp ở
tiểu vùng Nam Đồng bằng sông Hồng
1.4.1. Quan niệm về hiệu quả hoạt động của khu công nghiệp
Theo quan niệm của tác giả, khu công nghiệp được coi là hoạt động hiệu
quả là khu công nghiệp có sự bố trí, tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh
đúng mục đích phục vụ sản xuất công nghiệp; mang lại giá trị gia tăng cao
nhằm phục vụ chính quyền, doanh nghiệp và người lao động trên cơ sở sử dụng
tiết kiệm những đầu vào giới hạn trong quá trình sản xuất, kinh doanh trong khu
công nghiệp.
Đánh giá hiệu qủa hoạt động của KCN nói chung thường theo ba quan
điểm: hiệu quả về kinh tế; hiệu quả về xã hội; hiệu quả về môi trường.
Thứ nhất, hiệu quả về kinh tế: xem xét mối quan hệ tương quan giữa
giá trị của sản phẩm đầu ra so với chi phí của các nguồn lực đầu vào, chúng ta
phải xem xét cả giá trị tương đối và giá trị tuyệt đối.

17

Thứ hai, hiệu quả về mặt xã hội: xem xét về khả năng tạo công ăn
việc làm cho người lao động, tạo mức thu nhập cao, góp phần đẩy nhanh tốc
độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như chuyển dịch cơ cấu lao động của
vùng theo hướng tích cực, góp phần xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng
cách giàu nghèo giữa các khu vực và ổn định chính trị.
Thứ ba, hiệu quả môi trường: KCN được đầu tư hạ tầng cơ sở đồng bộ
trong đó có hệ thống sử lý chất thải, các nhà máy hoạt động trong KCN sẽ tiết
kiệm được chi phí sử lý môi trường và tạo môi trường sạch đối với các KCN.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại bốn tỉnh thuộc tiểu vùng Nam Đồng
bằng sông Hồng và kế thừa các công trình nghiên cứu của các tác giả như
PGS, TS. Ngô Doãn Vịnh, TS. Hoàng Ngọc Phong (về Tổ chức lãnh thổ công
nghiệp), TS. Ngô Thúy Quỳnh (về Tổ chức lãnh thổ kinh tế trên địa bàn tỉnh

Vĩnh Phúc), TS. Cao Ngọc Lân (về Tổ chức tổ hợp sản xuất chè),…tác giả lựa
chọn bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của các KCN tới sự phát triển
kinh tế - xã hội của tiểu vùng Nam Đồng bằng sông Hồng, cụ thể như sau:
1.4.2.Nhóm chỉ tiêu phản ánh trực tiếp
Chỉ tiêu thứ nhất, tổng lượng vốn của các doanh nghiệp đầu tư vào các
KCN;
Chỉ tiêu thứ hai, tổng GDP hoặc giá trị sản xuất do các KCN tạo ra. Chỉ
tiêu này có được bằng việc sử dụng phương pháp thống kê và phân tích dự
báo. Trên cơ sở doanh thu và chi phí trung gian để hoạt động của doanh
nghiệp, ta xác định được giá trị GDP của chúng;
Chỉ tiêu thứ ba, tổng việc làm do các KCN trên lãnh thổ tạo ra. Đối với
chỉ tiêu này, tác giả đặc biệt quan tâm tới số lao động địa phương được thu hút
vào làm việc trong các KCN;
Chỉ tiêu thứ tư, tổng giá trị xuất khẩu do các KCN tạo ra;
Chỉ tiêu thứ năm, tổng mức đóng góp vào thu ngân sách của vùng.
1.4.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh gián tiếp
a. Nhóm chỉ tiêu phản ánh gián tiếp thông qua các biểu hiện vai trò của
KCN đối với nền kinh tế

18

Chỉ tiêu thứ nhất, tỷ lệ đóng góp vào tổng GDP của Vùng (Tg).
Tg =
GDP
kcn
x 100%
GDP
vùng
Chỉ tiêu thứ hai, tỷ lệ đóng góp vào giá trị xuất khẩu của vùng ( Txk).
T

xk
=
XK
kcn
x 100%
XK
vùng
Chỉ tiêu thứ ba, tỷ lệ đóng góp vào số việc làm trong các ngành kinh tế
quốc dân đặt trong phạm vi lãnh thổ nghiên cứu.
T
l
=
L
kcn
x 100%
L
vùng
Chỉ tiêu thứ tư, điểm phần trăm mà các khu công nghiệp đóng góp vào
tốc độ tăng trưởng về giá trị sản xuất công nghiệp của Tiểu vùng.
Chỉ tiêu thứ năm, phần trăm mà các khu công nghiệp đóng góp vào tốc
độ tăng trưởng về giá trị kim ngạch xuất khẩu của Tiểu vùng.
b. Nhóm chỉ tiêu phản ánh gián tiếp thông qua các biểu hiện chủ yếu của nền
kinh tế
* Tăng trưởng kinh tế của tỉnh ổn định và đạt hiệu quả ở mức cao
Tổ chức hoạt động kinh tế tại các khu công nghiệp đạt hiệu quả khi nó
đem lại tăng trưởng kinh tế ổn định ở mức cao cả về quy mô và chất lượng và
được thể hiện ở các chỉ tiêu cụ thể sau đây:
 Tốc độ tăng năng suất lao động cao: năng suất lao động tại các khu
công nghiệp tập trung cao hơn so với năng suất lao động tại các doanh nghiệp
nằm phân tán ngoài các KCN.

 Suất đầu tư thấp và có xu hướng giảm. Nhờ phân bố và đầu tư có trọng
tâm, các doanh nghiệp có thể sử dụng chung các hạ tầng cơ sở và các dịch vụ
hỗ trợ nên suất đầu tư sẽ thấp hơn so với đầu tư hạ tầng cơ bản cho các xí
nghiệp, nhà máy nằm phân tán. Chính điều này làm cho hiệu suất đầu tư cao
hơn so với trường hợp các doanh nghiệp hoạt động riêng lẻ ngoài các KCN.
* Xã hội được phát triển tiến bộ

19

 Các khu công nghiệp hình thành đã tạo ra khối lượng việc làm mới rất
lớn giải quyết việc làm cho cả lao động trực tiếp và gián tiếp. Các lao động bị
hút về các khu công nghiệp ngày càng nhiều kéo theo tổng sản lượng làm ra
nhều hơn, giá trị đem lại cho nền kinh tế cũng tăng lên.
 Đời sống vật chất của dân cư được cải thiện. Lao động có việc làm kéo
theo thu nhập bình quân của cả lao động trực tiếp và lao động gián tiếp. Thu
nhập tăng tạo điều kiện cho sức mua tăng theo từ đó tạo động lực thúc đẩy quá
trình sản xuất phát triển. Xét một cách tổng thể thì kết quả sẽ tốt nếu đời sống
vật chất và tinh thần của cộng đồng dân cư được cải thiện.
 Thu nhập bình quân trên đầu người tăng lên. Các KCN hoạt động hiệu
quả sẽ đóng góp vào tổng GDP từ đó quy mô của nền kinh tế quốc dân sẽ tăng
lên cả về số lượng và chất lượng. Nếu tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn tốc độ
tăng của dân số thì mức GDP/người sẽ được nâng cao hơn. Khi đó phúc lợi xã
hội tăng lên, đời sống của dân được cải thiện. Tiết kiệm gia tăng, dòng tiền
nhàn rỗi chảy vào các kênh đầu tư ngày càng nhiều, đây là một trong các kênh
huy động vốn ổn định và lâu bền cho tái sản xuất mở rộng trong tương lai.
 Về vấn đề an ninh, an toàn xã hội. Khi các KCN được quản lý tốt và
phát triển một cách hợp lý lao động dư thừa được giải quyết thì vấn đề tệ nạn
sẽ được kiểm soát và có xu hướng giảm thiểu. Nếu chỉ mải mê phát triển các
KCN mà thiếu quan tâm tới cộng đồng dân cư nằm ngoài các KCN đó thì
cũng rất dễ làm cho tệ nạn xã hội gia tăng. Trong trường hợp các tệ nạn xã hội

đó phát triển thì các hoạt động của KCN không thể tốt được.
 Liên kết cộng đồng được tăng cường. Các hình thức tổ chức lãnh thổ
kinh tế luôn hoạt động trong một thể thống nhất và có quan hệ tác đông qua lại
lẫn nhau. Nếu các KCN phát triển hợp lý sẽ tạo được sức lan tỏa và hình thành
các cụm tương hỗ (cluster) cần thiết để phát triển.
* Môi trường sinh thái của vùng lãnh thổ đó được giữ vững
Vấn đề ô nhiễm môi trường ở mức thấp và có xu hướng duy trì ở
ngưỡng cho phép như trước khi đặt KCN tại lãnh thổ đó. Đây là chỉ tiêu rất
quan trọng để đánh giá các KCN có hoạt động hiệu quả hay không.

20

Đa dạng sinh học được đảm bảo. Khi phát triển các KCN hợp lý phải tính
tới công tác bảo vệ môi trường sinh thái, đáp ứng các chỉ tiêu về cây xanh, nguồn
nước, …để hình thành các công viên công nghiệp sinh thái không chỉ phục vụ
hoạt động sản xuất công nghiệp mà còn tạo cảnh quan đẹp thu hút khách du lịch
đến thăm quan, góp phần làm thay đổi bộ mặt xã hội tại các địa phương.
Các tiêu chí này được sử dụng linh hoạt để phân tích, đánh giá xem các
KCN có hoạt động hiệu quả như thế nào.
1.5. Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam trong phát triển khu công nghiệp
1.5.1. Thế giới
Các hình thức TCLT công nghiệp nói chung và KCN nói riêng rất đa
dạng và phong phú. Thực tế phát triển khẳng định: khu công nghiệp tập trung
là một trong những hình thức TCLT công nghiệp rất phổ biến tại các quốc gia
trên thế giới.
Khu công nghiệp là hình thức tổ chức lãnh thổ được thiết kế chuyên phục
vụ các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ công nghiệp. Các khu công
nghiệp thường được đặt ngoài khu dân cư chính của thành phố và thường cung
cấp các dịch vụ vận chuyển tốt, bao gồm cả đường bộ và đường sắt. Các khu
công nghiệp thường nằm gần nút giao thông cơ sở, đặc biệt là nơi tập trung

nhiều loại hình vận tải: đường cao tốc, đường sắt, sân bay và các cảng. Việc
xây dựng khu công nghiệp dựa trên một số cơ sở nhất định.
Tại Đài Loan các công viên công nghiệp không có hàng rào ngăn cách, chỉ
có phố và cây. Ở Vương Quốc Anh khu công nghiệp nhỏ có một phần dùng để
kinh doanh bất động sản. Một "phiên bản" khác của công viên công nghiệp là
công viên kinh doanh hoặc công viên văn phòng, trong đó có văn phòng và công
nghiệp nhẹ, hơn là công nghiệp nặng.
Khu công nghiệp khác nhau thực hiện các tiêu chí này ở mức độ khác
nhau. Nhiều cộng đồng nhỏ đã thành lập các khu công nghiệp chỉ thỏa mãn điều
kiện gần một loại phương tiện giao thông duy nhất như đường cao tốc hay
đường sắt và với kết cấu hạ tầng cơ bản nhất, thậm chí không có một đảm bảo
nào cho môi trường. Từ những năm 1970 đến 1990, hàng loạt những công viên

21

công nghiệp ở Mỹ phát triển và cho đến bây giờ nhiều công viên đã trở nên vô
ích. Các công viên công nghiệp này bị chỉ trích do biệt lập với đời sống đô thị và
có nhiều công viên đã phá hủy các vùng đất nông nghiệp màu mỡ không những
thế các công viên công nghiệp ngày càng xa rời với thị trường lao động.
Gần đây người ta còn đề xuất khái niệm "công viên công nghiệp sinh thái”.
Nó được xác định là loại hình công viên tuân thủ các nguyên tắc sinh thái học công
nghiệp, trong đó các hoạt động công nghiệp được gắn kết với nhau và chúng hỗ trợ
chứ không phá hủy hệ sinh thái. Người ta chấp nhận những đặc điểm chung của
một công viên công nghiệp sinh thái là: một cộng đồng các doanh nghiệp cộng tác
với nhau và với cộng đồng địa phương để chia sẻ một cách hiệu quả các nguồn
(thông tin, nguyên vật liệu, nước, năng lượng, kết cấu hạ tầng và nơi sinh cư tự
nhiên), bằng cách hướng đến các hiệu quả kinh tế, chất lượng môi trường, cải thiện
chất lượng lao động cho các doanh nghiệp và cộng đồng địa phương. Một ví dụ
điển hình là hệ thống công viên công nghiệp hiện đại tại Thành phố Cao Hùng của
Đài Loan.

Tại khu vực châu Á, hơn 40 năm qua, một số nước đã có nhiều thành công
trong việc xây dựng những KCN, khu thương mại tự do, KKT cửa khẩu,…Chúng
đã có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế của các nước này như Đài Loan,
Inđônêxia, đảo Hải Nam của Trung Quốc.
Việc phát triển các KCN, khu chế xuất ở một số nước châu Á đã góp phần
thúc đẩy những nước này tăng trưởng xuất khẩu cả trực tiếp và gián tiếp. Các KCN
không chỉ đẩy mạnh sản xuất công nghiệp đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa mà
còn có tác dụng giảm nhập khẩu. Bên cạnh đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất,
tiếp thu công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý tiên tiến đã tạo ra lợi nhuận cao, đẩy
mạnh đô thị hoá, phát triển kinh tế - xã hội từng vùng và thúc đẩy quá trình hội
nhập quốc tế.
1.5.2. Kinh nghiệp phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam
* Kinh nghiệm thu hút đầu tư và phát triển hạ tầng cơ sở các khu công
nghiệp ở các tỉnh Duyên hải miền Trung:
Thứ nhất, cần hoàn thiện công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch các

22

KCN trên cơ sở đánh giá tiềm năng, lợi thế từng địa phương và của Vùng, gắn kết
với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch khu đô thị, quy hoạch khu dân cư, quy
hoạch nhà ở.
Thứ hai, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng KCN, gắn kết cấu hại tầng
trong và ngoài hàng rào KCN, đặc biệt cần hoàn thiện hệ thống giao thông đường
bộ gắn kết các KCN ở các địa phương.
Thứ ba, cần định hướng các ngành nghề tập trung cần thu hút vào từng
KCN trên cơ sở tư duy cơ cấu kinh tế vùng, lợi thế so sánh và điều kiện phát triển
thực tiễn của từng địa phương.
Thứ tư, cần xây dựng cơ chế chính sách ưu đãi thu hút đầu thư thống nhất
giữa các tỉnh/ thành phố Vùng duyên hải Miền Trung; tổ chức các chương trình
xúc tiến đầu tư chung cho các KCN trong Vùng để tăng tính hiệu quả, tránh chồng

chéo; tăng cường liên kết phát triển giữa các doanh nghiệp trong KCN, các KCN
trong vùng thông qua hỗ trợ trong sản xuất, tiêu thụ và đào tạo lao động, chuyển
giao công nghệ.

Thứ năm, hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích xây dựng kết
cấu hạ tầng xã hội phục vụ người lao động và dân cư ở những lãnh thổ có
ảnh hưởng của KCN.
* Kinh nghiệm phát triển các khu công nghiệp tại Long An
Đánh giá lại những gì đã và chưa thực hiện được sau chặng đường 15
năm đầu tư, xây dựng và phát triển các KCN của tỉnh Long An, Ban Quản lý
Khu kinh tế rút ra một số bài học kinh nghiệm bước đầu như sau:
Một là, việc lựa chọn vịtrí quy hoạch xây dựng KCN phải đảm bảo đầy
đủ các điều kiện sau:
+ Gần đầu mối giao thông như các tuyến đường quốc lộ, bến cảng, sân
bay, khu vực được cung cấp đủ và ổn định điện, nước, hệ thống thông tin
+ Gần vùng dân cư tập trung để có nguồn cung cấp lao động, nhất là
lao động có tay nghề thích hợp và giảm chi phí đi lại;

23

+ Không nên xây dựng ở những nơi có kết cấu hạ tầng quá yếu kém, vì
việc xây dựng mới và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng rất khó khăn, đòi hỏi
thời gian dài, nguồn vốn lớn, kỹ thuật công nghệ cao
+ Gần các vùng nguyên vật liệu địa phương;
+ Không nên đặt KCN ở những khu vực kinh tế quá kém phát triển
Hai là, việc lựa chọn thời điểm để xây dựng KCN phải đúng thời cơ,
thích hợp với tình hình phát triển chung của khu vực. Đối với Long An, thời
điểm bắt đầu từ năm 2000 khi dưới áp lực phát triển đô thị và công nghiệp tại
thành phố Hồ Chí Minh và nguy cơ thiếu hụt lao động tại các KCN của tỉnh
Đồng Nai và Bình Dương, đồng thời cùng với việc Chính phủ quyết định cho

Long An gia nhập vào vùng kinh tế trọng điểm phía Nam của cả nước đã tạo
ra làn sóng đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN tràn về tỉnh Long An.
Ba là, cần có chính sách cụ thể, linh hoạt trên cơ sở đảm bảo lợi ích
thoả đáng cho các bên trong việc thực hiện thu hồi đất, giải phóng mặt bằng
cho KCN vì thu hồi đất và giải phóng mặt bằng cho KCN hiện nay được coi
là khâu mấu chốt quyết định sự thành công của các KCN và là khâu có nhiều
khó khăn nhất được ghi nhận trong thời gian qua vì:
+ Thứ nhất, các cơ chế chính sách liên quan đến thu hồi đất và bồi
thường giải toả còn nhiều bất cập, chính sách tái định cư không được chú
trọng đúng mức, dẫn đến người dân không ủng hộ, đôi khi dẫn đến bất hợp
tác, cản trở việc triển khai dự án KCN, ảnh hưởng đến khả năng phát triển bền
vững KCN.
+ Thứ hai, nhận thức tốt vai trò của chính quyền địa phương trong tổ
chức đền bù, giải toả, bố trí vốn ngân sách hỗ trợ, hoặc hỗ trợ được vay vốn
ưu đãi để triển khai công tác giải phóng mặt bằng KCN, là rất quan trọng,
giúp việc đền bù giải toả tạo ra “đất sạch” nhanh chóng, xoá bỏ tình trạng quy
hoạch “treo”, giải toả “treo”, thiếu “đất sạch”phục vụ các nhà đầu tư.
+ Thứ ba, sự phát triển bền vững của các KCN phải gắn liền với sự phát
triển của các khu dân cư xung quanh KCN. Quy hoạch KCN mới cần phải theo
xu thế: (1). Chuyển từ KCN sản xuất sản phẩm sử dụng nhiều lao động, tài

24

nguyên sang sử dụng nhiều vốn và công nghệ kỹ thuật cao; (2).Chuyển từ KCN
có ngành sản xuất gây ô nhiễm môi trường sang sản phẩm công nghiệp sạch;
(3). Chuyển từ KCN sản xuất, kinh doanh đơn thuần sang KCN kết hợp sản
xuất kinh doanh với nghiên cứu khoa học công nghệ và triển khai kỹ thuật công
nghệ cao.
Bốn là, nâng cao tính hấp dẫn về cơ sở hạ tầng, về chính sách ưu đãi về
thuế, giá thuê, thời gian thuê đất của KCN có ý nghĩa then chốt trong thu hút

đầu tư Sức hấp dẫn của KCN phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trong đó,
vai trò của cơ quan nhà nước trong thiết lập cơ chế quản lý thông thoáng, đơn
giản hoá các thủ tục hành chính và hết sức quan tâm công tác xúc tiến đầu tư
đóng vai trò hết sức quan trọng.
Ngoài việc thiết lập các kênh thông tin tập trung (website, các chương
trình xúc tiến đầu tư, thiết lập các đoàn vận động đầu tư, cùng với việc liên
kết chặt chẽ với các tổ chức, các nhà đầu tư quốc tế) để nâng cao tính hấp dẫn
trong thu hút đầu tư vào các KCN thì công tác xúc tiến đầu tư phải được tập
trung vào công việc chính là đẩy nhanh tiến độ đầu tư mà không nên quá chú
trọng vào các công tác bỗ trợ khác như vận động đầu tư, tiếp thị đầu tư. Các
cơ quan Nhà nước phải đóng vai trò như người bạn đồng hành với các doanh
nghiệp trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Năm là, cần có chính sách đồng bộ về đào tạo cán bộ quản lý, đào tạo
lao động kỹ thuật tại chỗ, đáp ứng cho nhu cầu phát triển dài hạn của các
KCN. Mặc dù, thời gian qua, Long An vẫn chưa đáp ứng kịp nhu cầu, nhưng
đây là kinh nghiệm rút ra sau quá trình phát triển KCN, đó là:
+ Thứ nhất, cần mở rộng qui mô đào tạo lao động kỹ thuật để có thể tạo
nguồn lao động tại chỗ, đáp ứng nhu cầu phát triển dài hạn của các KCN trên
địa bàn.
+ Thứ hai, cơ cấu đào tạo có thể dựa trên dự báo nhu cầu theo quy
hoạch phát triển KCN và theo đơn đặt hàng trực tiếp của các doanh nghiệp
trong KCN.

25

+ Thứ ba, cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp
trong KCN tự đào tạo lao động tại chỗ hoặc gửi đi đào tạo tại nước ngoài, góp
phần giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động, đặc biệt là lao động kỹ thuật.
Sáu là, KCN là một thực thể kinh tế và việc quản lý KCN là một hình
thức quản lý đa ngành. Vì vậy, để quản lý có hiệu quả rất cần thống nhất mô

hình tổ chức quản lý nhà nước ở cấp Trung ương và địa phương theo nguyên
tắc quản lý “một cửa, tại chỗ”.
Bảy là, vấn đề kết nối hạ tầng giao thông, cấp nước và xử lý chất thải,
vấn đề thiếu lao động và vấn đề cân bằng năng lượng, trọng tâm là điện năng,
phục vụ cho phát triển KCN phải được giải quyết mang tính toàn cục bằng cơ
chế điều phối chung cấp Vùng và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải
đặt trên quan điểm cơ cấu của Vùng chứ không phải cơ cấu của một tỉnh hay
thành phố.
Tám là, nhất quán trong nhận thức của các cấp quản lý về tầm quan
trọng và vai trò của các KCN trong công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế; trong nhận thức phải thống nhất KCN là một dự án đầu
tư quy mô lớn, dài hạn; trong tổ chức thực hiện cần kiên trì và đặc biệt Ban
Quản lý cần có sự quan tâm chỉ đạo, phối hợp của chính quyền với các ban,
ngành của tỉnh.
1.5.3. Bài học kinh nghiệm về xây dựng và phát triển các khu công nghiệp ở
tiểu vùng Nam Đồng bằng sông Hồng
Từ kinh nghiệm quản lý KCN của các nước trên thế giới và khu vực và
thực tiễn quản lý KCN gần 20 năm qua, chúng ta có thể rút ra những bài học
kinh nghiệm chủ yếu sau:
- Cần thống nhất nhận thức KCN là một dự án đầu tư quy mô lớn, dài
hạn. Từ khi có quyết định thành lập phải mất vài năm để đền bù, giải phóng
mặt bằng, phát triển hạ tầng mới có điều kiện thu hút đầu tư và sau đó cũng
phải nhiều năm mới lấp đầy được. Đó là việc phát triển có tính toán cho một
quãng thời gian dài. Trong tổ chức thực hiện cần kiên trì và cùng hiệp lực thì
mới bảo đảm phát huy hiệu quả của nó vì lợi ích của ngành, của địa phương và

×