Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Thực trạng môi trường và quản lý môi trường tại làng nghề dệt nhuộm Vạn Phúc thành phố Hà Đông tỉnh Hà Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.57 KB, 71 trang )

♥MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
♥MỤC LỤC 1
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 1
Biểu đồ 1.1 Phân bố làng nghề trên cả nước 18
Bảng 1.1 Phân bố các loại hình làng nghề ở các vùng nông thôn Việt Nam 18
Tái chế 18
Nguồn: Việt Nam môi trường và cuộc sống 19
Bảng 1.2. Đặc trưng nước thải của một số làng nghề dệt nhuộm điển hình 22
Bảng 1.3. Ước tính tải lượng ô nhiễm của một số làng nghề sản xuất gạch 25
và nung vôi 25
Bảng 2.1 Chất lượng môi trường không khí tại một số làng nghề trên địa bàn thành phố Hà
Đông 33
Bảng 2.2 Chất lượng môi trường nước mặt trên địa bàn thành phố Hà Đông 34
Sơ đồ 2.1 Sơ đồ dòng thải quá trình dệt nhuộm tại làng nghề Vạn Phúc 40
Bảng 2.3 Chất lượng môi trường nước thải do các hộ dệt nhuộm thải ra 42
Bảng 2.4 Chất lượng môi trường không khí tại các hộ dệt nhuộm 43
Sơ đồ 2.2 Sơ đồ hệ thống tổ chức QLMT làng nghề tại thành phố Hà Đông 44
Bảng 2.5 Danh mục quy hoạch các điểm công nghiệp làng nghề trên địa bàn thị xã Hà Đông
đến 2010 49
Sơ đồ 2.3 Mô hình tổ thu gom rác tự quản tại Vạn Phúc 57
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 1.1 Phân bố làng nghề trên cả nước 18
Bảng 1.1 Phân bố các loại hình làng nghề ở các vùng nông thôn Việt Nam 18
Tái chế 18
Bảng 1.2. Đặc trưng nước thải của một số làng nghề dệt nhuộm điển hình 22
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
Bảng 1.3. Ước tính tải lượng ô nhiễm của một số làng nghề sản xuất gạch 25
và nung vôi 25
Bảng 2.1 Chất lượng môi trường không khí tại một số làng nghề trên địa bàn thành phố Hà
Đông 33


Bảng 2.2 Chất lượng môi trường nước mặt trên địa bàn thành phố Hà Đông 34
Sơ đồ 2.1 Sơ đồ dòng thải quá trình dệt nhuộm tại làng nghề Vạn Phúc 40
Bảng 2.3 Chất lượng môi trường nước thải do các hộ dệt nhuộm thải ra 42
Bảng 2.4 Chất lượng môi trường không khí tại các hộ dệt nhuộm 43
Sơ đồ 2.2 Sơ đồ hệ thống tổ chức QLMT làng nghề tại thành phố Hà Đông 44
Bảng 2.5 Danh mục quy hoạch các điểm công nghiệp làng nghề trên địa bàn thị xã Hà Đông
đến 2010 49
Sơ đồ 2.3 Mô hình tổ thu gom rác tự quản tại Vạn Phúc 57
LỜI NÓI ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Làng nghề là một trong những nét văn hóa rất đặc trưng của nước ta. Hiện
nay Đảng và Nhà Nước ta đã chú trọng vào việc phát triển các làng nghề nhằm
tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội, giải quyết vấn đề việc làm tại các làng
nghề đồng thời góp phần gìn giữ những ngành nghề truyền thống của Việt Nam
không bị mai một.
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước, nhiều làng nghề ở nước ta đang
được khôi phục và phát triển. Sản xuất sản phẩm làng nghề đang dần trở thành
một nghề chính của nhiều người dân trong khu vực làng nghề. Thành phố Hà
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
Đông cũng nằm trong xu thế đó. Hà Đông được biết đến với thương hiệu Lụa Hà
Đông. Trong các làng nghề dệt nhuộm trên địa bàn thành phố không thể không
kể đến làng nghề Vạn Phúc. Đây là làng nghề đã có tiếng từ hàng trăm năm nay.
Việc sản xuất kinh doanh sản phẩm làng nghề đã góp phần làm tăng thu nhập
cho người dân, đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng của Phường Vạn Phúc
đồng thời là động lực cho một số ngành kinh doanh dịch vụ khác phát triển. Bên
cạnh những lợi ích kinh tế do làng nghề thì vấn đề môi trường lại đang là thực
trạng đáng báo động. Điều này đòi hỏi sự quan tâm của các cơ quan chức năng,
các tổ chức và cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, hiện nay công tác QLMT trên địa
bàn làng nghề Vạn Phúc vẫn còn nhiều bất cập chưa được giải quyết. Để hướng
tới sự phát triển bền vững của làng nghề cần có những hướng đi đúng đắn trong

tương lai, trong đó phải kể đến trước tiên là nâng cao hiệu quả QLMT. Xuất phát
từ vấn đề trên, tôi đề tài “Thực trạng môi trường và quản lý môi trường tại
làng nghề dệt nhuộm Vạn Phúc - thành phố Hà Đông - tỉnh Hà Tây”đã được
chọn làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp.
II. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích thực trạng môi trường và quản
lý môi trường tại làng nghề dệt nhuộm Vạn Phúc. Trên cơ sở đó để rút ra những
thuận lợi, khó khăn đối với công tác quản lý môi trường tại làng nghề, từ đó đưa
ra các giải pháp và kiến nghị để hoạt động quản lý môi trường làng nghề đạt hiệu
quả hơn.
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu ở đây là các vấn đề liên quan đến hoạt động quản lý
môi trường làng nghề.
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các vấn đề
liên quan đến quản lý môi trường làng nghề Vạn Phúc - thành phố Hà Đông -
tỉnh Hà Tây.
IV. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp thu thập tổng hợp các thông tin cần thiết có liên quan đến
quản lý môi trường làng nghề. Các thông tin có thể được thu thập từ các cơ quan
chức năng (số liệu thống kê, văn bản pháp quy…) kết hợp với việc điều tra thực
địa, phỏng vấn các hộ gia đình ở địa phương để thu thập những thông tin chi tiết
khác thông qua phương pháp sử dụng bảng hỏi. Ngoài ra, thông tin còn có thể
thu thập được qua sách báo, qua nguồn tra cứu trên mạng.
* Phương pháp phân tích, đánh giá tổng hợp:
Trên cơ sở các kết quả có được do điều tra, thu thập tài liệu liên quan từ các
nguồn khác nhau, phân tích đánh giá tổng hợp các thông tin thu thập được để
đưa ra các giải pháp và kết luận.
* Phương pháp đánh giá tác động môi trường: Dựa trên những thông tin có
sẵn và thu thập được để có những đánh giá thích hợp.

V. Nội dung nghiên cứu
Chương I Cơ sở lý luận của quản lý môi trường và quản lý môi trường làng
nghề
CHƯƠNG II Thực trạng môi trường, QLMT tại làng nghề Vạn Phúc-
thành phố Hà Đông - tỉnh Hà Tây
CHƯƠNG III Các giải pháp và kiến nghị cho công tác QLMT tại làng
nghề Vạn Phúc - thành phố Hà Đông
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp trước hết em xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến Ts. Lê Hà Thanh. Cô đã hướng dẫn em ngay từ khi mới hình thành lên
đề tài và trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề tốt nghiệp.
Em cũng xin cảm ơn Ths. Nguyễn Thị Kim Sơn – Phó trưởng phòng Tài
nguyên & Môi trường thành phố Hà Đông, CN. Nguyễn Thế Anh – cán bộ
hướng dẫn đã đóng góp ý kiến giúp em sửa chữa những thiếu sót trong bài.
Tiếp theo, em xin cảm ơn cán bộ phòng Tài nguyên và Môi trường thành
phố Hà Đông, UBND Phường Vạn Phúc cùng ông Nguyễn Hữu Chỉnh- chủ tịch
hiệp hội làng nghề đã cung cấp cho em các số liệu cần thiết phục vụ cho chuyên
đề tốt nghiệp.
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan bài chuyên đề tốt nghiệp này do tự bản thân em viết,
không sao chép, copy tài liệu. Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước
nhà trường.
Sinh viên thực hiện
Phan Thị Quỳnh Lê
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG VÀ
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG VỀ LÀNG NGHỀ
1.1 Tổng quan chung về quản lý môi trường (QLMT)

Cùng với sự phát triển vấn đề môi trường đang là một thách thức lớn. Con
người ngày càng gây ra những tác động sâu sắc hơn đến môi trường nhằm thỏa
mãn các nhu cầu đang gia tăng.Và chính con người đã phải trả giá cho những gì
mình đã gây ra. Hàng loạt vấn đề môi trường xảy ra do chất lượng môi trường bị
giảm sút như dân số toàn cầu tăng nhanh, sự nghèo đói, sự khai thác quá mức
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự phát thải quá mức “khí nhà kính”. Mặc dù
đã có rất nhiều nỗ lực nhằm cải thiện chất lượng môi trường, hướng tới sự phát
triển bền vững, tuy nhiên hiện trạng môi trường vẫn chưa được cải thiện đáng kể.
Thực trạng trên đòi hỏi các quốc gia phải nỗ lực hơn nữa, và QLMT là yêu cầu
mang tính tất yếu.
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
QLMT là sự tác động liên tục, có tổ chức, và hướng đích của chủ thể
QLMT lên cá nhân hoặc cộng đồng người tiến hành các hoạt động phát triển
trong hệ thống môi trường và khách thể QLMT, sử dụng một cách tốt nhất mọi
tiềm năng và cơ hội nhằm đạt được mục tiêu QLMT đã đề ra, phù hợp với luật
pháp và thông lệ hiện hành.
Sự tác động liên tục, có tổ chức và hướng đích của chủ thể QLMT chính là
việc tổ chức thực hiện các chức năng của QLMT nhằm phối hợp mục tiêu và các
động lực hoạt động của mọi người nằm trong hệ thống môi trường để đạt tới mục
tiêu chung của hệ thống môi trường.
Việc sử dụng tốt nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống là việc sử dụng có
hiệu quả nhất các yếu tố bên trong và bên ngoài của hệ thống môi trường trong điều
kiện tương tác với các hệ thống khác, chấp nhận các rủi ro có thể xảy ra cho hệ thống.
Việc tuân thủ luật pháp và các thông lệ (công ước quốc tế) hiện hành là việc
tiến hành các hoạt động phát triển theo đúng những điều mà luật pháp trong nước
và quốc tế không cấm, những công ước mà thế giới đã thỏa thuận.
Thực chất của QLMT là quản lý con người trong các hoạt động phát triển
và thông qua đó sử dụng có hiệu quả nhất mọi tiềm năng và cơ hội của hệ thống
môi trường.
*) Có nhiều chủ thể cùng tham gia hoạt động QLMT : Các chủ thể có thể bao

gồm Nhà Nước, doanh nghiệp, người dân, các tổ chức phi Chính phủ (NGO)…
*) Đối tượng của QLMT bao gồm:
- Các loại chất gây ô nhiễm: Có thể phân ra thành các loại chất gây ô nhiễm
nước, chất gây ô nhiễm không khí và chất gây ô nhiễm đất. Tuy nhiên, để nhận
dạng và phát hiện chúng nhằm đưa vào quản lý không phải là điều dễ dàng. Điều
này liên quan đến kĩ thuật, trình độ quản lý và cả chính sách.
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
- Các nguồn gây ô nhiễm: Các nhà hoạch định phải xác định nguồn gây ô
nhiễm từ đâu. Nguồn gây ô nhiễm thường được chia thành hai nhóm:
+) Ô nhiễm do con người gây ra từ hoạt động sản xuất và từ sinh hoạt, tiêu dùng.
+) Ô nhiễm do thiên nhiên
Xác định được nguồn gốc gây ô nhiễm giúp các nhà quản lý có phương
án quản lý phù hợp hơn. Nếu do con người phải điều chỉnh hành vi con người,
nếu do thiên nhiên phải chấp nhận khách quan để có biện pháp phù hợp.
- Xác định phạm vi không gian thiệt hại môi trường: Xem xét về không gian
địa lý có thể là xem xét về phạm vi địa phương, vùng, quốc gia, khu vực, toàn
cầu. Việc xác định phạm vi nhằm xác định ranh giới quản lý.
- Đối tượng các thành phần môi trường: Bao gồm đất, nước, không khí. Mỗi
thành phần có một đặc thù riêng do tính chất của mỗi thành phần và phương thức
quản lý của các thành phần đó không giống nhau. Vì vậy, các nhà QLMT trước
khi tiến hành quản lý sẽ chỉ rõ là quản lý thành phần nào.
*) QLMT phải hướng tới các mục tiêu cơ bản sau:
- Thứ nhất: Phải khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường
phát sinh trong hoạt động sống của con người.
- Thứ hai là Phát triển bền vững Kinh tế và xã hội quốc gia theo 9 nguyên
tắc của một xã hội bền vững do hội nghị Rio- 92 đề xuất và được tuyên bố
Johannesburg- Nam Phi về PTBV tái khẳng định. Trong đó, với nội dung cơ bản
cần phải đạt được là phát triển kinh tế- xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện
môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên
nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học.

Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
- Thứ ba là xây dựng các công cụ có hiệu lực QLMT quốc gia và các vùng
lãnh thổ. Các công cụ trên phải thích hợp cho từng ngành, từng địa phương và
cộng đồng dân cư.
*) Các nguyên tắc QLMT
Các nguyên tắc chủ yếu của công tác quản lý môi trường bao gồm:
- Hướng công tác quản lý môi trường tới mục tiêu phát triển bền vững kinh
tế xã hội đất nước, giữ cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường.
- Kết hợp các mục tiêu quốc tế - quốc gia - vùng lãnh thổ và cộng đồng dân
cư trong việc quản lý môi trường.
- Quản lý môi trường cần được thực hiện bằng nhiều biện pháp và công cụ
tổng hợp thích hợp.
- Phòng chống, ngăn ngừa tai biến và suy thoái môi trường cần được ưu tiên
hơn việc phải xử lý, hồi phục môi trường nếu để gây ra ô nhiễm môi trường.
- Người gây ô nhiễm phải trả tiền cho các tổn thất do ô nhiễm môi trường
gây ra và các chi phí xử lý, hồi phục môi trường bị ô nhiễm. Người sử dụng các
thành phần môi trường phải trả tiền cho việc sử dụng gây ra ô nhiễm đó.
1.2 Các công cụ QLMT
Công cụ quản lý môi trường là các biện pháp, các phương tiện, các phương
thức sử dụng nhằm giúp cho việc thực hiện những nội dung của QLMT môi
trường tốt hơn.
Công cụ quản lý môi trường có thể phân loại theo chức năng gồm: Công cụ
điều chỉnh vĩ mô, công cụ hành động và công cụ hỗ trợ. Công cụ điều chỉnh vĩ
mô là luật pháp và chính sách. Công cụ hành động là các công cụ có tác động
trực tiếp tới hoạt động kinh tế - xã hội, như các quy định hành chính, quy định
xử phạt v.v và công cụ kinh tế. Công cụ hành động là vũ khí quan trọng nhất
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
của các tổ chức môi trường trong công tác bảo vệ môi trường. Công cụ hỗ trợ
gồm có các công cụ kỹ thuật như GIS, mô hình hoá, đánh giá môi trường, kiểm
toán môi trường, quan trắc môi trường.

1.2.1 Công cụ pháp lý
Công cụ pháp lý là các quy định, quy chế, nghị định, luật pháp được ban
hành của Nhà Nước để điều khiển các hành vi và giám sát đối với những đối
tượng gây ra những ảnh hưởng đến môi trường và buộc họ phải tuân thủ theo
quy định của luật pháp.
Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển khác chính sách quản lý môi
trường quốc gia đều được khởi đầu bằng phương pháp sử dụng các công cụ pháp
lý theo nguyên tắc “Mệnh lệnh kiểm soát” (CAC)
- Nguyên tắc “Mệnh lệnh kiểm soát”:
Nguyên tắc này đòi hỏi Chính phủ đặt ra các mục tiêu môi trường lấy sức
khỏe hoặc sinh thái làm gốc, hoặc quy định các tiêu chuẩn hoặc lượng các chất ô
nhiễm được phép thải bỏ, hoặc công nghệ mà những người gây ô nhiễm có thể
sử dụng để đạt được các mục tiêu ấy.
Nguyên tắc “Mệnh lệnh kiểm soát” cho cơ quan điều chỉnh quyền hạn tối
đa trong việc kiểm soát xem các nguồn lực sẽ được phân bổ và đâu và như thế
nào, để đạt được các mục tiêu môi trường.
- Giám sát và cưỡng chế là hai yếu tố quan trọng của công cụ này.
+) Có thể thấy những ưu điểm nổi bật của loại công cụ này:
Thứ nhất: Công cụ này được coi là bình đẳng đối với mọi người gây ô nhiễm
và sử dụng tài nguyên môi trường vì tất cả mọi người đều phải tuân thủ những quy
định chung
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
Thứ hai: công cụ này có khả năng quản lý chặt chẽ các loại chất thải độc hại
và các tài nguyên quý hiếm thông qua các quy định mang tính cưỡng chế cao
trong thực hiện.
+) Bên cạnh đó, công cụ CAC cũng còn tồn tại một số hạn chế:
Thiếu tính mềm dẻo, chưa kích thích được tính chủ động, sáng tạo của các cơ
sở sản xuất trong phương án giải quyết môi trường, thiếu khuyến khích đổi mới
công nghệ một khi cơ sở sản xuất đã đạt được tiêu chuẩn môi trường
Đòi hỏi nguồn nhân lực và tài chính lớn để có thể giám sát được mọi khu vực,

mọi hoạt động nhằm xác định khu vực bị ô nhiễm và các đối tượng gây ô nhiễm.
Đồng thời để bảo đảm hiệu quả quản lý, hệ thống pháp luật về môi trường
đòi hỏi phải đầy đủ và có hiệu lực thực tế.
* Các công cụ pháp lý:
- Các tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mức, giới hạn cho phép, được
quy định dùng làm căn cứ để quản lý môi trường.
Việc xây dựng các tiêu chuẩn môi trường một mặt phải dựa trên các quy được
kiểm nghiệm thực tế, mặt khác phải có nhiều căn cứ khoa học, nhằm bảo đảm cho
tiêu chuẩn môi trường phù hợp với nhu cầu bảo vệ sinh thái, đồng thời khả thi về
mặt kinh tế, xã hội. Các tiêu chuẩn môi trường là phương tiện chính để trực tiếp
điều chỉnh chất lượng môi trường phương pháp ở hầu hết các nước phát triển.
- Các loại giấy phép:
Việc cấp hoặc không cấp các loại giấy phép hoặc các loại ủy quyền khác là
một công cụ quan trọng khác để kiểm sát ô nhiễm. Các loại giấy phép nói chung
thường được gắn với các tiêu chuẩn về chất lượng nước hay không khí và có thể
còn phải thỏa mãn những điều kiện cụ thể như phù hợp với những ảnh hưởng
kinh tế và môi trường, lắp đặt một nhà máy xử lý hay một thiết bị kiểm soát ô
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
nhiễm trong vòng một thời gian nhất định, hoặc sử dụng các biện pháp bảo vệ
môi trường khác.
Ưu điểm của các loại giấy phép là chúng có thể tạo ra điều kiện thuận lợi
cho việc thực thi các chương trình môi trường bằng cách ghi vào văn bản tất cả
những nhiệm vụ kiểm soát ô nhiễm của cơ sở đó. Những thuận lợi khác là có thể
rút hoặc tạm treo giấy phép, tùy theo nhu cầu của nền kinh tế quốc dân hay các
lợi ích xã hội khác, và thường yêu cầu phải trả lệ phí để trang trải các chi phí cho
chương trình kiểm soát ô nhiễm.
Tuy nhiên, việc sử dụng các loại giấy phép thường kéo theo sự giám sát và
thường xuyên báo cáo về phương tiện.
- Công tác kiểm soát việc sử dụng đất và nước
Kiểm soát việc sử dụng đất (như khoanh vùng, các quy định về chia nhỏ) chủ

yếu là công cụ của chính quyền địa phương được áp dụng để bảo vệ môi trường.
Khoanh vùng có thể ngăn ngừa việc bố trí các ngành công nghiệp gây ô
nhiễm tại các địa điểm không thích hợp làm ảnh hưởng tới địa phương, hoặc có
thể kiểm soát được mật độ phát triển tại các khu vực cụ thể.
Việc khoanh vùng cho phép có sự mềm dẻo trong thiết kế, trong chừng mực
các tiêu chuẩn nhất định, được thực hiện.
Các quy định được phân chia nhỏ là các luật được áp dụng ở các địa phương
nhằm chỉ đạo quá trình chuyển đổi đất đai thành các khu vực xây dựng.
Các biện pháp kiểm soát đối với việc sử dụng nước đặc biệt có thể được tiêu
dùng để giới hạn hoặc cấm việc phát triển năng lượng, khai thác tài nguyên thiên
nhiên tại bờ và lòng sông, đáy biển, các hoạt động giải trí và những sử dụng có nhiều
khả năng gây ô nhiễm khác, tại các vùng nước quy định . Trong nhiều trường hợp,
những quy định này tạo thành một bộ phận của các biện pháp quy hoạch khu vực,
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
hoặc các quy định này tạo thành một bộ phận của các biện pháp quy hoạch trong khu
vực, hoặc quy hoạch đặc biệt, nhằm mục đích quản lý vùng ven biển, các vườn quốc
gia, các bờ biển, và các khu bảo tồn biển.
1.2.2 Công cụ kinh tế
Các công cụ kinh tế được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích trong
hoạt động của tổ chức kinh tế để tạo ra các tác động tới hành vi ứng xử của nhà
sản xuất có lợi cho môi trường.
- Công cụ kinh tế có hai đặc điểm cơ bản sau:
+) Công cụ kinh tế hoạt động thông qua giá cả, chúng nâng giá của các hành
động làm tổn hại đến môi trường lên hoặc hạ giá cả của các hành động bảo vệ môi
trường xuống.
+) Công cụ kinh tế dành khả năng lựa chọn cho các công ty và cá nhân hành
động sao cho phù hợp với điều kiện của họ.
Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường được áp dụng trên các nguyên tắc
cơ bản đã được quốc tế thừa nhận là “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” (PPP) và
nguyên tắc “Người được hưởng thụ phải trả tiền” (BPP)

- Nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” (PPP) đề ra 1972 cho rằng:
Những tác nhân gây ô nhiễm phải trả mọi chi phí cho hoạt động kiểm soát và phòng
chống ô nhiễm. Đồng thời nguyên tắc PPP “mở rộng” 1974 chủ trương rằng, các
tác nhân ngoài việc tuân thủ các chi phí tiêu chuẩn đối với việc gây ô nhiễm còn
phải bồi thường cho những người bị thiệt hại do ô nhiễm gây ra.
- Nguyên tắc “Người được hưởng thụ phải trả tiền” (BPP) cho rằng những
người được hưởng lợi từ việc chất lượng môi trường được cải thiện cũng phải trả
một khoản tiền.
* Các công cụ kinh tế
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
- Thuế và phí môi trường: Là công cụ kinh tế nhằm đưa chi phí môi trường
vào giá cả sản phẩm theo nguyên tắc PPP. Thuế và phí môi trường được sử dụng
với hai mục đích: Khuyến khích người gây ô nhiễm giảm lượng chất ô nhiễm thải
ra môi trường và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà Nước.
- Giấy phép chất thải có thể mua bán được hay "cota ô nhiễm".
Côta gây ô nhiễm là một loại giấy phép xả thải chất thải có thể chuyển
nhượng mà thông qua đó, nhà nước công nhận quyền các nhà máy, xí nghiệp,
v.v được phép thải các chất gây ô nhiễm vào môi trường". Công cụ này thường
được áp dụng cho các tài nguyên môi trường khó có thể quy định quyền sở hữu
như không khí, đại dương. Công cụ giấy phép thích hợp cho việc áp dụng trong
một số điều kiện nhất định như số lượng doanh nghiệp tham gia vào thị trường
với tư cách là người mua và người bán giấy phép phải tương đối lớn để tạo được
một thị trường mang tính cạnh tranh và năng động, chất ô nhiễm cần kiểm soát
thải ra từ nhiều nguồn nhưng gây tác động môi trường tương tự nhau, có sự
chênh lệch lớn trong chi phí giảm thải của các doanh nghiệp.
- Ký quỹ môi trường.
Ký quỹ môi trường là công cụ kinh tế áp dụng cho các ngành kinh tế dễ gây
ra ô nhiễm môi trường. Nội dung chính của ký quỹ môi trường là yêu cầu các
doanh nghiệp trước khi đầu tư phải đặt cọc tại ngân hàng một khoản tiền nào đó
đủ lớn để đảm bảo cho việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và công tác bảo vệ

môi trường. Số tiền ký quỹ phải lớn hơn hoặc xấp xỉ với kinh phí cần để khắc
phục môi trường nếu doanh nghiệp gây ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường.
Ký quỹ môi trường thường được sử dụng đối với các hoạt động khai thác tài
nguyên như khai thác than, dầu khí…
- Trợ cấp môi trường.
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
Chức năng chính của trợ cấp môi trường là giúp đỡ các ngành công- nông
nghiệp và các ngành khác khắc phục ô nhiễm môi trường trong điều kiện khi tình
trạng ô nhiễm môi trường quá nặng nề hoặc khả năng tài chính của doanh nghiệp
không chịu đựng được đối với việc xử lý ô nhiễm. Trợ cấp cũng khuyến khích việc
triển khai các công nghề sản xuất có lợi cho môi trường. Tuy nhiên, trợ cấp môi
trường chỉ là biện pháp tạm thời vì nó gây ra sự không hiệu quả vì nó đi ngược với
nguyên tắc PPP. Vì vậy, công cụ này chỉ có thể thực hiện trong một thời gian cố
định với một chương trình có hoạch định và kiểm soát rõ ràng thường xuyên.
- Nhãn sinh thái.
Nhãn sinh thái là một danh hiệu của nhà nước cấp cho các sản phẩm không
gây ra ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất ra sản phẩm hoặc quá trình
sử dụng các sản phẩm đó. Công cụ này tác động vào nhà sản xuất thông qua
phản ứng và tâm lý của khách hàng.
1.2.3 Công cụ kĩ thuật
Các công cụ kỹ thuật quản lý thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát nhà
nước về chất lượng và thành phần môi trường, về sự hình thành và phân bố chất
ô nhiễm trong môi trường. Các công cụ kỹ thuật quản lý có thể gồm các đánh giá
môi trường, monitoring môi trường, xử lý chất thải, tái chế và tái sử dụng chất thải.
Các công cụ kỹ thuật quản lý có thể được thực hiện thành công trong bất kỳ nền kinh
tế phát triển như thế nào. Công cụ kĩ thuật hỗ trợ cho việc thực hiện các công cụ
pháp lý và công cụ kinh tế và đây là công cụ không thể thiếu trong QLMT.
Tuy nhiên việc áp dụng công cụ kỹ thuật thường gặp phải trở ngại do chi
phí đầu tư tốn kém và đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao.
1.2.4 Công cụ tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức

Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
Đây là công cụ QLMT gián tiếp và rất cần thiết nhằm nâng cao nhận thức
và ý thức môi trường của toàn xã hội. Đặc biệt là ở các nước đang phát triển như
Việt Nam hiện nay, khi ý thức của người dân về môi trường chưa cao thì tuyên
truyền, giáo dục nâng cao nhận thức là điều không thể thiếu.
1.2.5 Công cụ hỗn hợp
Trong thực tế, rất hiếm khi chỉ sử dụng riêng lẻ các công cụ để thực hiện
QLMT. Các công cụ thường bổ sung hỗ trợ cho nhau.
Công cụ hỗn hợp là sự kết hợp nhiều công cụ trong cùng nội dung quản lý.
Điều này mang lại sự chính xác và hiệu quả cao hơn.
1.3 Quản lý môi trường làng nghề
1.3.1 Giới thiệu chung về làng nghề
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm
trước đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam.
Một làng được gọi là làng nghề khi hội tụ 2 điều kiện sau:
- Có một số lượng tương đối các hộ cùng sản xuất một nghề;
- Thu nhập do sản xuất nghề mang lại chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu
nhập của làng.
Chính sách đổi mới kinh tế đã đem lại luồng sinh khí mới cho các ngành
nghề thủ công truyền thống Việt Nam. Sau thời gian ngừng trệ, ì ạch, bế tắc,
trong vòng 10 năm trở lại đây, từ các nguồn ngân sách hỗ trợ của Nhà nước, kết
hợp với cơ chế thoáng mở cửa của nền kinh tế thị trường và sự năng động cũng
như tâm huyết với nghề của những người dân, các làng nghề thủ công không
ngừng thay da đổi thịt và đã tạo nên một diện mạo mới cho nông thôn Việt Nam.
Theo số liệu gần đây nhất, hiện cả nước có 1450 làng nghề phân bố ở 58 tỉnh và
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
thành phố trong cả nước, riêng địa bàn Đồng bằng sông Hồng có khoảng 800
làng. Các tỉnh có số lượng làng nghề đông bao gồm: Hà Tây có 280 làng, Thái
Bình có 187 làng, Bắc Ninh có 59 làng, Hải Dương có 65 làng, Nam Định có 90
làng, Thanh Hoá có 127 làng. , trong đó có 300 làng nghề truyền thống.

Biểu đồ 1.1 Phân bố làng nghề trên cả nước
Hàng năm giá trị kinh tế từ sản phẩm xuất khẩu của các làng nghề khoảng
600 triệu USD. Theo ước tính, trong vòng 10 năm qua, làng nghề nông thôn Việt
nam đã có tốc độ tăng trưởng nhanh, trung bình khoảng 8%/năm, tính theo giá trị
đầu ra. Các ngành nghề chủ yếu được phát triển ở làng nghề như tại bảng 1.1
Bảng 1.1 Phân bố các loại hình làng nghề ở các vùng nông thôn Việt Nam
Ươm
tơ, dệt
nhuộm
, đồ da
Chế biến

nông sản,
thực
phẩm
Tái chế
Thủ
công
mỹ
nghệ
Vật liệu

xây
dựng,
gốm sứ
Nghề
khác
Tái
chế
Tái chế

kim
loại
Tái
chế
nhựa
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
giấ
y
Miền Bắc
138 134 4 53 4 404 17 222
Miền Trung
24 42 0 23 1 121 9 77
Miền Nam
11 21 0 5 0 93 5 42
Tổng cộng
173 197 4 81 5 618 31 341
Nguồn: Việt Nam môi trường và cuộc sống
Hiện nay, do điều kiện thương mại phát triển, nhu cầu ngày càng gia tăng cả
trong nước và thế giới thì quy mô sản xuất của các làng nghề ngày càng phát
triển và được mở rộng, nhưng vẫn còn mang tính tự phát, chưa có quy hoạch, sản
xuất nhỏ là chủ yếu. Trong thời gian qua, các làng nghề đã tạo ra một lượng lớn
hàng hóa và đa dạng sản phẩm, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống của nông
dân, góp phần đáng kể vào công cuộc xóa đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế khu vực nông thôn Bên cạnh lợi ích về kinh tế, làng nghề còn là nơi lưu
giữ, bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc đặc trưng.
Quy mô của các cơ sở sản xuất ở các làng nghề rất linh động, từ hộ gia đình đến
các tổ hợp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Tuy nhiên chủ yếu là quy mô hộ gia đình
(chiếm 80,1%). Trong mỗi tỉnh có thể có rất nhiều loại làng nghề.
Hiện nay, do điều kiện thương mại phát triển, nhu cầu ngày càng gia tăng cả
trong nước và thế giới thì quy mô sản xuất của các làng nghề ngày càng phát

triển và được mở rộng. Số lượng thiết bị, công suất và mức sử dụng nguyên,
nhiên vật liệu ở nhiều làng nghề tương đương với các khu công nghiệp lớn. Ví
dụ: các làng nghề sản xuất sắt thép xây dựng ở xã Châu Khê (Bắc Ninh) với
khoảng 3.000 - 4.000 nhân công, có sản lượng là 210.000 tấn/năm, gấp 2 lần sản
lượng Nhà máy Gang thép Thái Nguyên (sản lượng 100.000 tấn với 13.000 cán
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
bộ, công nhân - số liệu năm 1999). Tuy có thể phát triển với quy mô lớn nhưng
các vẫn còn mang tính tự phát, chưa có quy hoạch, sản xuất nhỏ là chủ yếu.
Trang thiết bị sử dụng trong sản xuất còn thô sơ lạc hậu, tốc độ cải tiến công
nghệ ở các làng nghề còn chậm, cầm chừng và không đồng bộ
Người lao động làm việc trong các điều kiện không an toàn. Ngoài ra, các
vấn đề về an toàn lao động cũng chưa được quan tâm thoả đáng ở các làng nghề
này, dẫn tới nhiều tai nạn lao động, nhà xưởng hệ thống điện nước tạm bợ, các
điều kiện chiếu sáng và thông gió kém, mặt bằng sản xuất chật chội, thời gian lao
động quá dài (10 - 12 h/ngày) trong môi trường độc hại, điều kiện lao động nặng
nhọc và hầu như không có các dụng cụ bảo hộ lao động
Những điều kiện trên dẫn đến tình trạng gia tăng các tai nạn lao động, các
bệnh nghề nghiệp (bệnh về đường hô hấp, bệnh ngoài da và một số bệnh hiểm
nghèo khác). Ví dụ ở khu vực sản xuất sắt thép xã Châu Khê (Bắc Ninh) có trên
60% dân số trong xã (kể cả những người không tham gia sản xuất) mắc các bệnh
liên quan đến sản xuất làng nghề. Trong 10 năm gần đây, tuổi thọ trung bình trong
làng nghề thấp hơn hẳn các khu vực dân cư không có làng nghề.
1.3.2 Thực trạng môi trường tại các làng nghề
Do ô nhiễm môi trường, lao động không có dụng cụ bảo hiểm và sinh hoạt
hàng ngày chung với môi trường sản xuất, tình trạng sức khoẻ của người dân làng
nghề bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Kết quả nghiên cứu cả nước có trên 4200 cơ sở
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhưng việc xử lý đạt ở mức thấp, trung
bình chỉ khoảng 26%. Thực tế này đã dẫn đến tỷ lệ người dân ở các làng nghề bị
mắc các bệnh thông thường và hiểm nghèo cao gấp 2-3 lần các làng xã thuần
nông. 51 làng xã thuộc 25 tỉnh thành được cho là “làng ung thư”, với tỷ lệ người

dân nghi ngờ mắc, chết do ung thư cao cũng là những làng nghề, hoặc làng nằm
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
gần khu công nghiệp, kho hóa chất, bãi rác bị ô nhiễm. Trong các làng nghề, tỷ lệ
mắc bệnh nhiều nhất liên quan đến hô hấp như viêm họng chiếm 30,56%, viêm
phế quản 25% hay đau dây thần kinh chiếm 9,72%.
Nguyên nhân của một số bệnh tật phổ biến trong nhân dân hiện nay, theo
đánh giá của Bộ Y tế là do suy thoái môi trường không khí, nước, đất, chất thải
công nghiệp và đô thị, chất thải y tế, ô nhiễm tiếng ồn
Dựa vào sự phân chia làng nghề có thể thấy các làng nghề tái chế có mức độ
ô nhiễm nghiêm trọng nhất trên cả ba mặt ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và ô nhiễm
không khí. Riêng ở các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, dệt nhuộm
thường gặp phải các vấn đề về ô nhiễm nước. Đối với các làng nghề thủ công mỹ
nghệ có thể chia ra thành các nhóm: Nhóm không gây ô nhiễm: làm nón, làm
hương thắp, dệt chiếu, đan cói; Nhóm gây ô nhiễm nhẹ: đan lát mây tre, cỏ tế, đồ
gỗ, đá mỹ nghệ, sơn mài; Nhóm gây ô nhiễm nặng: gốm, sứ và chạm mạ bạc.Có
thể xem xét hiện trạng môi trường tại các làng nghề như sau.
1.3.2.1 Hiện trạng môi trường nước
Theo kết quả xét nghiệm của Viện khoa học và công nghệ môi trường
(trường Đại học Bách khoa Hà Nội) thì 100% mẫu nước thải ở các làng nghề đều
vượt quá tiêu chuẩn cho phép, nước mặt, nước ngầm đều có dấu hiệu ô nhiễm. Ô
nhiễm nước có thể được chia ra thành ô nhiễm vô cơ, hữu cơ, ô nhiễm hóa chất,
ô nhiễm sinh học, ô nhiễm bởi các tác nhân vật lý. Ô nhiễm hữu cơ thường gặp ở
các làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm. Nước thải của các làng nghề này có
đặc tính chung là rất giàu chất hữu cơ, dễ phân huỷ sinh học. Ví dụ như nước
thải của quá trình sản xuất tinh bột từ sắn có hàm lượng ô nhiễm rất cao (COD =
13.300 - 20.000mg/l; BOD
5
= 5.500 - 125.000 mg/l). Ô nhiễm hóa chất thường
gặp ở các làng nghề dệt nhuộm. Do sản xuất có sử dụng nhiều nước, hoá chất,
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46

thuốc nhuộm nên thành phần các chất ô nhiễm trong nước thải làng nghề dệt
nhuộm bao gồm: các tạp chất tự nhiên tách ra từ sợi vải: chất bẩn, dầu, sáp, hợp
chất chứa nitơ, pectin trong quá trình nấu tẩy, chuội tơ và các hoá chất sử dụng
trong quy trình xử lý vải như hồ tinh bột, NaOH, H
2
SO
4
, HCl, Na
2
CO
3
, các loại
thuốc nhuộm, chất tẩy giặt. Khoảng 10 - 30% lượng thuốc nhuộm và hoá chất sử
dụng bị thải ra ngoài cùng với nước thải.
Bảng 1.2. Đặc trưng nước thải của một số làng nghề dệt nhuộm điển hình
T
T
Tên làng nghề
Lượng
nước thải
(m
3
/ ngày)
Chỉ tiêu chất lượng nước thải
pH COD BOD
5
SS
Độ
màu
1 Ươm tơ Cổ Chất - Nam Định 100 - 6.076 2.400 764 4110

2 Ươm tơ Đông Yên- Quảng Nam 20 7,2 632 241 517 69
3 Ươm tơ Bảo Lộc - Lâm Đồng 50 7,8 1.020 780 215 466
4 Dệt nhuộm Phương La -Thái Bình
960 8 - 9,7
320-
900
72-410 14 77-139
5 Dệt đũi Nam Cao - Thái Bình - 8,2 372 212 375 260
6 Dệt nhuộm Thái Phương-Thái Bình - 6,9 312 272 205 195
TCVN 5945 - 1995 (Nước Loại B)
5,5 - 9 100 50 100
Nguồn: Việt Nam môi trường và cuộc sống
Ô nhiễm từ các làng nghề tái chế thuộc mức độ ô nhiễm nặng. Đối với các
làng nghề tái chế giấy, ô nhiễm chủ yếu từ nước thải ở các công đoạn ngâm tẩm,
nấu và nghiền nguyên liệu cũng như công đoạn xeo giấy. Lượng nước thải này
còn chứa hoá chất dư, bột giấy và có hàm lượng chất hữu cơ cao, nên hàm lượng
ôxy hoà tan tại các nguồn tiếp nhận rất thấp, gần như bằng 0. Bột giấy, xơ sợi
còn sót trong nước thải gây bồi đắp lòng mương, ao hồ. Đối với các làng nghề tái
chế nhựa, do đặc thù nguyên liệu thu gom từ nhiều nguồn và đều là nhựa phế
thải có dính nhiều tạp chất, nên trong quá trình công nghệ sử dụng rất nhiều
nước để rửa phế liệu. Lượng nước này ước tính khoảng 20 - 25m
3
/tấn nhựa phế
liệu. Thành phần của nước thải này rất phức tạp, vì chứa nhiều loại hợp chất vô
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
cơ, hữu cơ bám dính trên nhựa trong quá trình sử dụng, trong đó có cả các chất
độc hại (từ bình chứa thuốc trừ sâu, hoá chất, ), vi sinh vật gây bệnh. Tại các
làng nghề tái chế kim loại, lượng nước sử dụng không nhiều, chỉ dùng cho nước
làm mát, vệ sinh thiết bị, nhà xưởng và nước thải từ quá trình tẩy rửa và mạ kim
loại nên có hàm lượng các chất độc hại khá cao, đặc biệt là các kim loại nặng. Ô

nhiễm nước do kim loại cũng thường gặp tại các làng nghề chạm,mạ bạc.
1.3.2.2 Hiện trạng môi trường không khí
Đặc trưng nhất của làng nghề chế biến nông sản thực phẩm là mùi hôi thối
do sự phân hủy của các hợp chất hữu cơ có trong chất thải rắn và nước thải từ
các cống rãnh, kênh mương. Quá trình phân giải yếm khí các chất hữu cơ sinh ra
các khí độc rất ảnh hưởng đến sức khỏe người dân làng nghề. Đặc biệt phải kể
đến các làng nghề sản xuất nước mắm, do phơi ngoài trời nên mùi hôi, tanh khắp
cả làng rất khó chịu. Một nguồn gây ô nhiễm không khí nữa là bụi nguyên liệu
phát tán trong không khí. Chẳng hạn như bụi trà tại các làng nghề chế biến trà
hương rất mịn và rất dễ xâm nhập vào cơ thể người gây ảnh hưởng đến đường hô
hấp. Chưa kể, nhiên liệu chủ yếu phục vụ sản xuất ở các làng nghề là than, củi.
Với nhu cầu nhiên liệu rất lớn, bụi, khí thải sinh ra do đốt nhiên liệu than củi là
nguồn gây ô nhiễm chính tới môi trường không khí.
Ô nhiễm từ các làng nghề tái chế thuộc mức độ ô nhiễm nặng. Ô nhiễm chủ
yếu ở các làng nghề tái chế giấy là bụi, hơi kiềm, Cl
2
do dùng nước Javen để tẩy
trắng và hơi H
2
S. Tại một số vị trí sản xuất, hàm lượng Cl
2
vượt tiêu chuẩn cho
phép tới ba lần, hơi H
2
S tại các bãi rác, cống rãnh vượt tiêu chuẩn cho phép 1 - 3
lần.Trong công nghệ tái chế nhựa, khí ô nhiễm phát sinh từ công đoạn gia nhiệt
trong quá trình tạo hạt, đùn túi làm nhựa cháy sinh khí độc như HCl, HCN, CO,
HC. Ngoài ra, quá trình phân hủy các tạp chất dính trên nhựa trong khâu thu gom
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
cũng phát sinh khí ô nhiễm. Bụi cũng là chất ô nhiễm đáng quan tâm, phát sinh

từ khâu xay nghiền, phơi, thu gom, phân loại và từ các cơ sở dùng than để gia
nhiệt trong quá trình sản xuất. Đặc biệt, ô nhiễm không khí tại các làng nghề tái
chế kim loại cũng rất nghiêm trọng. Bụi trong không khí phát sinh từ khâu phân
loại, gia công sơ bộ, tẩy gỉ, nấu, cán, kéo, đặc biệt là khu vực bên cạnh các lò
đúc thép, hàm lượng bụi vượt tiêu chuẩn cho phép tới 10-15 lần. Tại các làng
nghề này, bụi thường có chứa kim loại mà chủ yếu là ô-xít sắt nồng độ lên tới
0,5mg/m
3
làm cho không khí có mùi tanh. Trong không khí tại các làng nghề này
luôn phát hiện được hơi hóa chất độc hại như Cl, HCN, HCl, H
2
SO
4
, SO
2
, CO,
NO tuy hàm lượng nhỏ nhưng có mặt thường xuyên trong không khí gây ảnh
hưởng đáng kể đến sức khỏe cộng đồng.
Các tác động chủ yếu đến môi trường từ hoạt động của các làng nghề sản
xuất vật liệu xây dựng là ô nhiễm không khí do bụi và khói lò nung. Quy trình
nung vôi, gạch ở các làng nghề chủ yếu theo phương pháp thủ công sử dụng
nhiên liệu là than. Khí thải từ các lò nung đốt than chứa bụi, các khí ô nhiễm.
Đặc biệt các lò nung thường không được thiết kế đúng quy cách, nên quá trình
cháy không hết, tạo ra các sản phẩm cháy nhiên liệu thiếu ôxy như CO, SO
2
,
Bụi phát sinh từ khâu khai thác, gia công đất nguyên liệu, vận chuyển vào lò, ra
lò và bốc dỡ sản phẩm.
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46
Bảng 1.3. Ước tính tải lượng ô nhiễm của một số làng nghề sản xuất gạch

và nung vôi
TT Tên làng nghề
Lượng
SP/năm
Bụi
tấn/năm
CO
tấn/năm
SO
2
tấn/năm
NO
2
tấn/năm
1 Khai Thái, Hà Tây 170 triệu viên 3.774 477,7 72,93 339,16
2 Dạ Trạch, Hưng Yên 9,7 triệu viên 215 27,2 6,9 26,9
3 Hưng Lộc, Thanh Hóa 10 triệu viên 222 28,1 7,15 27,8
4 Đại Cát, Khánh Hòa 14,1 triệu viên 313 39,6 10 39,2
5 Phước Lâm, Khánh Hòa 63,3 triệu viên 1.405,3 177,9 42,55 176
6 Tân Yên, Bình Dương 967 triệu viên 21.467 2.717 691 2.688
7
Các làng nghề Mang Thít,
Vĩnh Long
310 triệu viên
6.822 871 221,7 861,8
8 Đồng Tân, Thanh Hóa 49.680 tấn vôi 131 216 162,7 122
9 Kiện Khê, Hà Nam 19.000 tấn vôi 598 985 556 556
10 Đáp Cầu, Bắc Ninh 50.000 tấn vôi 182 300 226 170
11 Duyệt Lễ, Hưng Yên 60.000 tấn vôi 33 54 41 30
Nguồn: Việt Nam môi trường và cuộc sống

Ô nhiễm môi trường do tiếng ồn: Tiếng ồn lớn chỉ tập trung ở một số làng
nghề cơ khí, đúc, mộc, dệt. Tiếng ồn xuất phát từ các máy móc như máy cưa, máy
bào, máy cán sắt, máy mài, máy đột dập, máy dệt Tiếng ồn gây ảnh hưởng đến
đời sống và sức khoẻ của người dân. Tiếng ồn lớn gây khó chịu, giảm khả năng tập
trung vào công việc. Nếu tiếp xúc với tiếng động có cường độ lớn và thường xuyên
làm giảm khả năng nghe và có thể bị điếc.
Kết quả nghiên cứu của Viện Bảo hộ lao động gần đây cho thấy trong các
làng nghề, tỷ lệ mắc bệnh nhiều nhất liên quan đến hô hấp như viêm họng chiếm
30,56%, viêm phế quản 25% hay đau dây thần kinh chiếm 9,72%.
1.3.2.3 Hiện trạng môi trường đất
Phan Thị Quỳnh Lê Lớp KTMT46

×