Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

đánh giá hiệu quả nuôi sinh khối của hai dòng artemia vĩnh châu và great salt lake trong ao đất tại ninh hòa - khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
o0o









PHAN THÀNH ĐÔNG


ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ NUÔI SINH KHỐI CỦA HAI
DÒNG ARTEMIA VĨNH CHÂU VÀ GREAT SALT LAKE
TRONG AO ĐẤT TẠI NINH HÒA - KHÁNH HÒA




LUẬN VĂN THẠC SĨ




Nha Trang -2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


o0o







PHAN THÀNH ĐÔNG


ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ NUÔI SINH KHỐI CỦA HAI
DÒNG ARTEMIA VĨNH CHÂU VÀ GREAT SALT LAKE
TRONG AO ĐẤT TẠI NINH HÒA - KHÁNH HÒA


LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành : NUÔI TRỒNG THÚY SẢN
Mã số : 60.62.70


HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:TS.PHẠM QUỐC HÙNG




Nha Trang -2013

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài “Đánh giá hiệu quả nuôi sinh khối của hai dòng
Artemia Vĩnh Châu và Great Salt Lake trong ao đất tại Ninh Hòa - Khánh Hòa”
là công trình nghiên cứu của tôi. Các kết quả thu được trong luận văn này là thành quả
nghiên cứu thực tế và độc lập của cá nhân tôi.
Tôi xin cam đoan các kết quả, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực,
chính xác và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình hoặc trong thông báo
khoa học nào. Tôi xin chịu trách nhiệm trước Nhà trường, Bộ Giáo dục & Đào tạo và
pháp luật về lời cam đoan này.

Học viên

Phan Thành Đông


ii

LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin trân trọng kính gởi đến Ban Giám hiệu Trường Đại học Nha
Trang, Ban Chủ nhiệm Khoa Nuôi trồng Thủy sản, Khoa Sau Đại học Trường Đại học
Nha Trang lòng biết ơn chân thành vì tất cả những hổ trợ giúp đỡ trong khoảng thời
gian tôi học tập và nghiên cứu tại Trường.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến hai thầy hướng dẫn: Tiến sĩ Phạm Quốc
Hùng và Tiến sĩ Nguyễn Tấn Sỹ đã hướng dẫn đề tài và giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn đúng tiến độ.
Tôi xin chân thành cảm ơn Công ty muối Nha Trang đã tạo điều kiện về nguồn
nước ót để tôi thực hiện đề tài. Xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị ở khu vực
Tân Ngọc - Ninh Ích - Ninh Hòa đã có nhiều giúp đỡ khi tôi thực hiện đề tài.
Kính gởi lời cảm ơn đến thầy Nguyễn Tấn Sỹ đã giúp đỡ tôi về ao nuôi, các

trang thiết bị cần thiết trong thời gian làm đề tài cũng như giúp đỡ về tài liệu nghiên
cứu và hướng dẫn tôi trong thời gian viết báo cáo.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô Trường Đại học Cần Thơ: PGS.TS. Nguyễn
Văn Hòa, TS. Nguyễn Thị Ngọc Anh, ThS.Nguyễn Thị Hồng Vân đã giúp đỡ tôi về
nguồn giống và nguồn tài liệu cần thiết trong thời gian nghiên cứu cũng như khi viết
luận văn.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và những người thương yêu tôi đã
luôn bên cạnh, giúp tôi tinh thần cũng như vật chất cho tôi trong quá trình thực hiện đề
tài.

Nha Trang, 2013

iii

MỤC LỤC

Trang
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT vii
DANH MỤC CÁC HÌNH viii
DANH MỤC CÁC BẢNG ix
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 3
1.1. Đặc điểm sinh học của Artemia 3
1.1.1. Hệ thống phân loại và đặc điểm phân bố 3
1.1.2. Hình thái 4
1.1.3. Đặc điểm dinh dưỡng của Artemia 4
1.1.4. Khả năng thích nghi với điều kiện sống của Artemia 5

1.1.5. Đặc điểm sinh trưởng và vòng đời của Artemia 6
1.1.6. Đặc điểm sinh sản 8
1.2. Một số đặc điểm của Artemia franciscana dòng Vĩnh Châu và dòng Great Salt
Lake 10
1.2.1. Dòng Vĩnh Châu. 10
1.2.2. Dòng Great Salt Lake 10
1.3. Vai trò của Artemia trong nuôi trồng thủy sản 11

iv

1.4. Tình hình nghiên cứu về nuôi thu sinh khối Artemia ở Việt Nam và trên thế
giới. 13
1.4.1. Trên thế giới 13
1.4.2. Tình hình nghiên cứu nuôi sinh khối Artemia ở Việt Nam 14
1.5. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu 19
1.5.1.Vị trí địa lý 19
1.5.2. Khí hậu 21
1.5.3. Thủy văn 22
CHƯƠNG 2: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 23
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 23
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu. 23
2.1.3.Thời gian nghiên cứu. 23
2.2. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 24
2.3. Phương pháp nghiên cứu 25
2.3.1. Bố trí thí nghiệm 25
2.3.2. Phương pháp xác định các chỉ tiêu nghiên cứu 26
2.3.2.1. Xác định các yếu tố môi trường 26
2.3.2.2. Xác định tỷ lệ nở của trứng bào xác 27
2.3.2.3. Theo dõi sự sinh trưởng của Artemia 27

2.3.2.4. Ước lượng tỷ lệ sống 29
2.3.2.5. Xác định sức sinh sản của Artemia 30
2.3.2.6. Xác định gia tăng mật độ quần thể 30
2.3.2.7. Xác định năng suất sinh khối Artemia franciscana 30

v

2.4. Phương pháp nuôi tảo thuần và gây màu nước 31
2.4.1. Nuôi tảo thuần (trong túi nilon và bể composite) 31
2.4.2. Nuôi tảo trong ao đất (ao nuôi tảo) 31
2.4.3. Nuôi tảo trực tiếp trong ao nuôi Artemia 32
2.5. Xử lý số liệu 32
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 33
3.1. Hiệu quả sinh học của Artemia franciscana dòng Vĩnh Châu và dòng Great Salt
Lake nuôi sinh khối trong ao đất tại Ninh Hòa - Khánh Hòa. 33
3.1.1.Diễn biến yếu tố môi trường trong ao thí nghiệm 33
3.1.1.1. Nhiệt độ 33
3.1.1.2. Độ mặn 34
3.1.1.3. Độ pH 35
1.1.1.4. Hàm lượng oxy hòa tan (DO) 35
3.1.1.5. Mức nước 36
3.1.1.6. Độ trong 36
3.1.2. Kết quả gây màu nước trong ao nuôi và ao nuôi tảo 37
3.1.3. Sinh trưởng của Artemia ở 2 nghiệm thức 38
3.1.3.1. Sinh trưởng theo chiều dài toàn thân (mm) 38
3.1.3.2. Tốc độ sinh trưởng về chiều dài toàn thân (DLG) 40
3.1.3.3. Sinh trưởng về khối lượng tươi của Artemia franciscana 41
3.1.4. Tỷ lệ sống của Artemia ở các nghiệm thức 43
3.1.5. Một số chỉ tiêu sinh sản của Artemia franciscana ở các nghiệm thức 45
3.1.6. Biến động mật độ quần thể 50

3.1.7. Năng suất sinh khối Artemia franciscana của 2 nghiệm thức 51

vi

3.2. Đánh giá hiệu quả kinh tế của Artemia franciscana dòng Vĩnh Châu và dòng
GSL nuôi sinh khối trong ao đất tại Ninh Hòa - Khánh Hòa 53
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 58
1. Kết luận 58
1.1. Về hiệu quả sinh học 58
1.2. Về hiệu quả kinh tế 58
2. Đề xuất 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 60

vii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CTV Cộng tác viên
DHA (22:6n-3) Axít decosahexaenoic
DO Dissolved oxygen Nồng độ oxy hòa tan (mg/L)
ĐH Đại học
ĐVT Đơn vị tính
GSL Great Salt Lake Hồ muối lớn
Lux Luxơ Đơn vị chiếu sáng
HUFA Highly unsaturated fatty acids Axít béo có mức chưa no cao.
Mg/L Miligam trên lít
Mg Miligam
Mm Milimet
N Nauplius Ấu trùng
N/L Nauplius/lít

NT Nghiệm thức
NTTS Nuôi trồng thủy sản
ppm Part per million Nồng độ phần triệu
ppt Part per thousandth Nồng độ phần nghìn
SD Standard deviation Độ lệch chuẩn
SE Standard error Sai số chuẩn
SFB San Francisco Bay Vịnh San Francisco
SGR Specific growth rate Tốc độ sinh trưởng đặc trưng
SR Survival rate Tỷ lệ sống
TL Total length Chiều dài thân
TN Thí nghiệm
TT Thứ tự
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
WW Wet weight Khối lượng tươi
VC Vĩnh Châu

viii

DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang

Hình 1.1: Sự phân bố của Artemia trên thế giới 3
Hình 1.2: Artemia franciscana 4
Hình 1.3: Vòng đời phát triển của Artemia 6
Hình 1.4: Quá trình nở của trứng bào xác 7
Hình 1.5: Artemia trưởng thành (đực bên trái-cái bên phải) 8
Hình 1.6: Hiện tượng bắt cặp ở Artemia 9
Hình 1.7: Buồng trứng con cái trưởng thành ở hình thức đẻ con 9
Hình 1.8: Buồng trứng con cái trưởng thành ở hình thức đẻ trứng 9
Hình 2.1: Vị trí ao nuôi thí nghiệm 23

Hình 2.2: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 24
Hình 2.3. Sơ đồ ao thí nghiệm 26
Hình 2.4. Thiết bị theo dõi các yếu tố môi trường 27
Hình 2.5: Cách đo chiều dài của Nauplius và Artemia trưởng thành 28
Hình 3.1: Kết quả gây màu nước ở các nghiệm thức 38
Hình 3.2: Tốc độ sinh trưởng về chiều dài của Artemia fanciscana 40
Hình 3.3: Tốc độ sinh trưởng về khối lượng của Artemia 42
Hình 3.4: Phần trăm Artemia franciscana cái đẻ con (nauplius) ở các nghiệm thức
trong 12 tuần nuôi 48
Hình 3.5: Biến động mật độ quần thể trong ao nuôi thí nghiệm 50
Hình 3.6: Thu sinh khối Artemia franciscana 52
Hình 3.7: Năng suất sinh khối (tấn/ha/12 tuần nuôi) ở các ao nuôi 52

ix

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 3.1: Diễn biến các yếu tố môi trường ở các nghiệm thức 33
Bảng 3.2: Sinh trưởng về chiều dài (mm) của Artemia franciscana 38
Bảng 3.3: Sinh trưởng về khối lượng tươi (mg/cá thể) của Artemia franciscana 41
Bảng 3.4: Tỷ lệ sống (%) của A. franciscana ở các nghiệm thức 43
Bảng 3.5: Một số chỉ tiêu về sinh sản của Artemia franciscana 45
Bảng 3.6: Sức sinh sản (phôi nauplius/con cái) của Artemia franciscana ở 2 nghiệm
thức qua các tuần nuôi 47
Bảng 3.7: Đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh tế nuôi thu sinh khối 54
A. franciscana dòng Vĩnh Châu 54
Bảng 3.8: Đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh tế nuôi thu sinh khối 55
A. franciscana dòng GSL 55
Bảng 3.9: So sánh hiệu quả kinh tế của Artemia franciscana dòng Vĩnh Châu và GSL

nuôi trong ao đất tại Ninh Hòa-Khánh Hòa 56


1

MỞ ĐẦU

Artemia là loại thức ăn rất quan trọng và không thể thiếu được trong nghề nuôi
trồng thủy sản, nhất là trong khâu sản xuất giống. Ấu trùng Artemia franciscana lúc
mới nở ở giai đoạn Instar I và Instar II có kích thước nhỏ hơn so với các loài Artemia
khác, là loại thức ăn lý tưởng cho giai đoạn đầu của ấu trùng giáp xác và cá con [4, 8,
21]… Artemia trưởng thành được gọi là sinh khối. So với nauplius Artemia được ấp nở
từ trứng bào xác thì sinh khối Artemia có những ưu điểm vượt trội như: Chi phí thấp,
chất lượng dinh dưỡng cao, đặc biệt sử dụng kích cỡ thích hợp sẽ đảm bảo cân bằng
năng lượng tốt hơn trong việc lấy thức ăn và đồng hóa. Vì thế sinh khối Artemia là
thức ăn cần thiết cho hầu hết các đối tượng trong nuôi trồng thủy sản. Trong vài năm
trở lại đây, nhu cầu về sinh khối Artemia cho nghề nuôi ốc hương, cá chẽm và tôm
giống ở khu vực Nam Trung Bộ nói chung và Khánh Hòa nói riêng rất lớn nên nhiều
thương lái ở miền Trung đặt mua sinh khối Artemia với số lượng lớn từ Vĩnh Châu -
Bạc Liêu [10].
Năng suất sinh khối Artemia nuôi trong ao đất phụ thuộc vào rất nhiều các yếu
tố như độ mặn, nhiệt độ, pH, DO, cường độ chiếu sáng, lượng mưa, hay mật độ, thức
ăn tự nhiên, địch hại…Bên cạnh đó một yếu tố không kém phần quan trọng đó là dòng
của loài Artemia chọn nuôi. Các dòng Artemia có sự khác nhau về phạm vi chịu đựng
về độ mặn, nhiệt độ, pH, về tốc độ tăng trưởng, chu kỳ sống và khả năng sinh sản [21].
Trong nuôi thu sinh khối Artemia nếu chọn được dòng có khả năng thích nghi với điều
kiện tự nhiên, tốc độ tăng trưởng nhanh, kích thước tối đa lớn, có sức sinh sản cao với
độ mặn hay nhiệt độ phổ biến ở ao nuôi sẽ là nhân tố quan trọng góp phần mang lại
năng suất sinh khối cao, là tiền đề mang lại hiệu quả kinh tế nuôi [21].
Hiện nay, các nghiên cứu về nuôi sinh khối Artemia franciscana trong ao đất trên

địa bàn là rất ít và còn nhiều hạn chế, chỉ có một vài nghiên cứu về độ mặn, mật độ,
phân lập, lưu giữ và nhân sinh khối tảo làm thức ăn cho Artemia nhưng chưa có nghiên
cứu cụ thể về dòng Artemia franciscana phù hợp với điều kiện môi trường địa phương
và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu để bổ sung các
cơ sở khoa học và xác định dòng Artemia franciscana phù hợp để nuôi sinh khối
Artemia tại Ninh Hòa - Khánh Hòa.

2

Từ thực tiễn trên, đề tài luận văn thạc sĩ “Đánh giá hiệu quả nuôi sinh khối
của hai dòng Artemia Vĩnh Châu và dòng Great Salt Lake trong ao đất tại Ninh
Hòa - Khánh Hòa” được thực hiện:
Mục tiêu nghiên cứu đề tài:
 Đánh giá khả năng phát triển và hiệu quả kinh tế mang lại của 2 dòng
Artemia franciscana điều kiện ao đất tại Ninh Hòa – Khánh Hòa.
 Xác định được dòng Artemia franciscana thích hợp với điều kiện ao nuôi
tại Ninh Hòa - Khánh Hòa và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Nội dung nghiên cứu
 Đánh giá hiệu quả sinh học của Artemia franciscana dòng Vĩnh Châu và
dòng Great Salt Lake nuôi sinh khối trong ao đất tại Ninh Hòa - Khánh
Hòa.
 Đánh giá hiệu quả kinh tế của Artemia franciscana dòng Vĩnh Châu và
dòng Great Salt Lake nuôi sinh khối trong ao đất tại Ninh Hòa - Khánh
Hòa.
Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
 Về mặt khoa học, kết quả nghiên cứu sẽ bổ sung các dẫn liệu có giá trị
khoa học cho các nghiên cứu tiếp theo.
 Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu sẽ xác định được dòng Artemia phù
hợp với điều kiện nuôi trong ao đất và mang lại hiệu quả kinh tế cao ở
Ninh Hòa - Khánh Hòa.

Tính mới của đề tài:

 Đánh giá lại khả năng thích ứng với điều kiện môi trường của Artemia
franciscana dòng Vĩnh Châu ở Ninh Hòa – Khánh Hòa.
 Là đề tài đầu tiên nghiên cứu nuôi Artemia franciscana dòng Great Salt
Lake thu sinh khối trong ao đất ở khu vực Khánh Hòa.

3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm sinh học của Artemia.
1.1.1. Hệ thống phân loại và đặc điểm phân bố
Artemia thuộc nhóm giáp xác có hệ thống phân loại như sau:
Giới (Kingdom): Động vật (Animalia)
Ngành (Phylum): Chân khớp (Arthropoda)
Lớp ( Class): Giáp xác (Crustacea)
Lớp phụ (Subclass): Chân mang (Branchiopoda)
Bộ (Order): Anostraca
Họ (Family): Artemiidae Grokwski, 1895
Giống (Genus): Artemia, Leach 1819
Loài (Species): Artemia franciscana Kellog, 1906 [6].
Tên thường gọi: Artemia
Tên tiếng anh: Brine shrimp [34, 45].
Artemia franciscana phân bố tự nhiên ở châu Mỹ và châu Đại dương, không
phân bố tự nhiên ở Việt Nam (hình 1.1).

Hình 1.1: Sự phân bố của Artemia trên thế giới [36]

4


1.1.2. Hình thái
Artemia thường có thân nhỏ, dài khoảng 1,2 – 1,5 cm. Artemia có thân phân đốt
rõ rệt gồm 3 phần: đầu, ngực và bụng, không có giáp đầu ngực [8].
Chính giữa phía trước đầu có mắt đơn, hai bên có đôi cuống mắt kép. Đầu có 5
đôi phần phụ. Đôi xúc giác thứ 2 của con cái và con đực khác nhau. Ở con cái chỉ là
một mấu lồi nhỏ. Ở con đực là thuỳ bám, thuỳ to khoẻ dùng để túm và cưỡi con cái
trước khi giao cấu. Hàm lớn, hàm nhỏ 1 và 2 cấu thành miệng [8].
Phần ngực có 11 đốt và 11 đôi chân ngực; chân ngực có dạng bản rộng gồm lá
trong, lá ngoài và lá quạt cấu thành. Giữa lá quạt và lá ngoài có một mảnh nhỏ mềm
mại đó là mang – cơ quan hô hấp của Artemia. Chân ngực phát triển và có 3 chức
năng: bơi lội, lọc thức ăn và hô hấp [8].
Phần bụng có 8 đốt, không có phụ bộ. Ở con cái đốt 1 và đốt 2 của phần bụng
kết hợp với nhau hình thành nang trứng. Ở con đực hình thành đôi cơ quan giao cấu.
Đốt cuối cùng phần bụng có chẻ đuôi dẹt và bằng, xung quanh có nhiều tiêm mao,
đuôi lớn hay nhỏ, tiêm mao nhiều hay ít thay đổi theo sự biến đổi của độ mặn. Độ mặn
càng cao, đuôi thu nhỏ lại [8].






Hình 1.2: Artemia franciscana
1.1.3. Đặc điểm dinh dưỡng của Artemia
Artemia có tập tính ăn lọc không chọn lựa và thức ăn của chúng là vi tảo, vi
khuẩn, sinh vật đơn bào, mùn bã hữu cơ,… Chúng có khả năng lọc được những hạt lơ
lửng trong môi trường nước có kích thước từ 1-50 µm [19, 30, 45]. Ở giai đoạn ấu
trùng chúng có thể sử dụng thức ăn có kích cỡ 25 – 30 µm và 40 – 50 µm khi trưởng
thành [31]. Ở ruộng nuôi thức ăn cho Artemia chủ yếu dựa vào việc bón phân gây màu
tảo trực tiếp trong ao nuôi hoặc gián tiếp trong ao gây nuôi tảo. Ngoài ra chúng còn sử


5

dụng các phụ phẩm từ các nông sản hoặc từ ngành công nghiệp chế biến có giá thành
thấp như: Cám gạo, cám ngũ cốc, bột đậu nành, là nguồn thức ăn thích hợp cho việc
nuôi Artemia ở mật độ cao [29]. Tuy nhiên, các loại thức ăn này có kích thước hạt lớn
nên Artemia không thể lọc được, do đó cần được tiếp tục xử lý để đạt được kích thước
của hạt thức ăn nhỏ hơn 50 µm [29].
1.1.4. Khả năng thích nghi với điều kiện sống của Artemia
A. franciscana cũng như các loài khác trong giống Artemia là sinh vật rộng
muối, chúng sống được trong môi trường nước lợ từ vài phần ngàn đến nước mặn bão
hoà (250 ppt) [45]. Tuỳ theo điều kiện môi trường mà chúng có đặc điểm sinh trưởng
và sinh sản khác nhau.
Artemia được tìm thấy trên 500 hồ nước mặn và ruộng muối trên thế giới.
Artemia được tìm thấy chủ yếu trong những ao hồ có nồng độ muối cao (80– 120 ppt)
[45], đây cũng là ngưỡng chịu đựng cao nhất về nồng độ muối của các sinh vật dữ. Từ
250 ppt trở lên mật độ Artemia giảm và có thể chết hàng loạt [9] mặc dù chúng có thể
sống ở nồng độ muối cao hơn nhưng nhu cầu về năng lượng để điều hoà áp suất thẩm
thấu tăng làm ảnh hưởng bất lợi đến sinh trưởng và sinh sản của chúng, thậm chí
chúng bị đói và bị chết do môi trường trở bất lợi và việc trao đổi chất cực kỳ khó khăn.
Mặc dù Artemia có thể sống tốt trong môi trường nước biển tự nhiên nhưng do
Artemia không có cơ chế chống lại sinh vật dữ (cá, tôm…) và cạnh tranh với các loài
ăn lọc khác nên chúng có một cơ chế thích nghi rất tốt với độ mặn cao (80 – 120 ppt),
mà hầu như các loài sinh vật dữ và sinh vật cạnh tranh không thể tồn tại.
Nhiệt độ cũng là một trong những yếu tố môi trường có ảnh hưởng trực tiếp đến
sự sinh trưởng và sinh sản của Artemia. Theo Nguyễn Thị Ngọc Anh và Nguyễn Văn
Hòa, 2004 [6], khi nhiệt độ thấp dưới 20
o
C Artemia sinh trưởng chậm hoặc chết rải
rác, khi nhiệt độ lên cao trên 36

o
C Artemia có thể chết rải rác hoặc chết hàng loạt, sức
sinh sản giảm và khả năng phục hồi quần thể chậm. Khi nuôi Artemia ở phòng thí
nghiệm (nhiệt độ ổn định) cũng đã tìm thấy: ở nhiệt độ 30
o
C số lứa đẻ con (nauplius)
cao gấp chín lần so với nuôi ở nhiệt độ 26
o
C [1]. Đối với Artemia franciscana dòng
Vĩnh Châu -Việt Nam có đặc điểm thích nghi khá cao, đặc biệt với nhiệt độ, chúng có
thể tồn tại được ở nhiệt độ 38 - 41
o
C, thậm chí 42
o
C [4].


6

1.1.5. Đặc điểm sinh trưởng và vòng đời của Artemia
Theo Sorgeloos (1980) [12], Artemia có vòng đời ngắn (ở điều kiện tối ưu
Artemia có thể phát triển thành con trưởng thành và tham gia sinh sản sau 7-8 ngày
nuôi). Trong quần thể Artemia luôn có hai hình thức sinh sản là đẻ con và đẻ trứng;
sức sinh sản cao (trung bình 1500 - 2500 phôi). Số trứng/lần đẻ/con cái 70 – 300
trứng, nếu gây nuôi trong phòng thí nghiệm thì chỉ khoảng 30 – 40 trứng [6].


Hình 1.3: Vòng đời phát triển của Artemia [43]

Ngoài tự nhiên, Artemia đẻ trứng bào xác nổi trên mặt nước và được sóng gió

thổi dạt vào bờ. Các trứng nghỉ này ngừng hoạt động trao đổi chất và phát triển khi
được giữ khô. Nếu cho vào nước biển, trứng bào xác có hình cầu lõm sẽ hút nước,
phồng to. Lúc này, bên trong trứng, sự trao đổi chất bắt đầu. Sau khoảng 20 giờ, màng
nở bên ngoài nứt ra (breaking) và phôi xuất hiện. Phôi được màng nở bao quanh.
Trong khi phôi đang treo bên dưới vỏ trứng (giai đoạn bung dù = umbrella) sự phát
triển của ấu trùng được tiếp tục và một thời gian ngắn sau đó màng nở bị phá vỡ (giai
đoạn nở = hatching) và ấu thể Artemia được phóng thích ra ngoài [21].
Ấu trùng Artemia mới nở (Instar I), có chiều dài 400-500 μm có màu vàng cam,
có mắt, ấu trùng Nauplius màu đỏ ở phần đầu và ba đôi phụ bộ (anten I có chức năng
cảm giác, anten II có chức năng bơi lội và lọc thức ăn và bộ phận hàm dưới để nhận

7

thức ăn). Mặt bụng ấu trùng được bao phủ bằng mảnh môi trên lớn (để nhận thức ăn:
chuyển các hạt từ tơ lọc thức ăn vào miệng). Ấu trùng giai đoạn này không tiêu hóa
được thức ăn vì bộ máy tiêu hóa chưa hoàn chỉnh, chúng sống dựa vào noãn hoàng
[21].

Hình 1.4: Quá trình nở của trứng bào xác [43]
Sau khoảng 8-10 giờ từ lúc nở (phụ thuộc vào nhiệt độ), ấu trùng lột xác thành
giai đoạn II (Instar II). Lúc này, chúng có thể tiêu hóa các hạt thức ăn cỡ nhỏ (vi tảo,
vi khuẩn) có kích thước từ 1 đến 50 μm nhờ vào đôi anten II và lúc này bộ máy tiêu
hóa đã hoạt động [21].
Ấu trùng phát triển và biệt hóa qua 15 lần lột xác. Các đôi phụ bộ xuất hiện ở
vùng ngực và biến thành chân ngực. Mắt kép xuất hiện ở hai bên mắt. Từ giai đoạn 10
trở đi, các thay đổi về hình thái và chức năng quan trọng bắt đầu: Anten mất chức năng
vận chuyển và trải qua sự biệt hóa về giới tính. Ở con đực chúng phát triển thành càng
bám, trong khi anten của con cái bị thoái hóa thành phần phụ cảm giác. Các chân ngực
được biệt hóa thành ba bộ phận chức năng: Các đốt chân chính, các nhánh chân trong
(vận chuyển và lọc thức ăn) và nhánh chân ngoài dạng màng (mang).

Artemia trưởng thành dài khoảng 10 mm (tùy dòng), cơ thể thon dài với hai mắt
kép, ống tiêu hóa thẳng, anten cảm giác và 11 đôi chân ngực. Con đực có đôi gai giao
cấu ở phần sau của vùng ngực. Đối với con cái rất dễ nhận dạng nhờ vào túi ấp hoặc tử
cung nằm ngay sau đôi chân ngực thứ 11.

8


Hình 1.5: Artemia trưởng thành (đực bên trái-cái bên phải) [43]
Tuổi thọ trung bình của cá thể Artemia trong các ao nuôi ở ruộng muối khoảng
40 - 60 ngày tùy thuộc điều kiện môi trường [2]. Tuy nhiên, quần thể Artemia trong
ruộng muối vẫn tiếp tục duy trì ngay cả trong mùa mưa khi độ mặn trong ao nuôi giảm
thấp (60 ppt) nếu ruộng nuôi không bị địch hại (tôm, cá, copepoda…) tấn công và vẫn
được cung cấp đầy đủ thức ăn [9]. Vì thế nên có thể kéo dài vụ nuôi nếu dự trữ đủ
nguồn nước mặn trong hệ thống ao chứa hoặc khi độ mặn giảm thấp đến 60 ppt thì
phải quản lý tốt hệ thống ao nuôi kiểm soát và khống chế sự phát triển của các địch hại
của Artemia [7].
1.1.6. Đặc điểm sinh sản
Khi trưởng thành con đực dùng đôi càng ôm phần bụng của con cái gọi là “hiện
tượng bắt cặp” để thụ tinh cho hoạt động sinh sản và hiện tượng này kéo dài suốt vòng
đời của chúng. Quá trình giao phối xảy ra trong tư thế bắt cặp, con đực sẽ cong mình
và dùng một trong hai gai sinh dục chuyển sản phẩm sinh dục vào buồng trứng của
con cái và trứng sẽ được thụ tinh. Trứng phát triển trong hai buồng trứng dạng ống ở
phần bụng. Trong vòng đời con cái có thể tham gia cả hai phương thức sinh sản là đẻ
con và đẻ trứng; trung bình mỗi con đẻ khoảng 1500 - 2500 phôi [8].



9



Hình 1.6: Hiện tượng bắt cặp ở Artemia [43]

Sự đẻ con (Ovoviviparity): Trứng thụ tinh sẽ phát triển thành ấu trùng bơi lội tự
do (nauplius) và được con cái phóng thích ra ngoài môi trường nước.

Hình 1.7: Buồng trứng con cái trưởng thành ở hình thức đẻ con [43]
Sự đẻ trứng (Oviparity): Trong điều kiện bất lợi, các phôi chỉ phát triển đến giai
đoạn phôi vị (gastrula) và sẽ được bao bọc bằng một lớp vỏ dày (được tiết ra từ tuyến
vỏ trong tử cung) tạo thành trứng nghỉ (cyst) hay còn gọi là trứng “tiềm sinh”
(diapause) và được con cái sinh ra [21].

Hình 1.8: Buồng trứng con cái trưởng thành ở hình thức đẻ trứng [43]

10

1.2. Một số đặc điểm của Artemia franciscana dòng Vĩnh Châu và dòng Great Salt
Lake.
1.2.1. Dòng Vĩnh Châu.
Năm 1984, thông qua các công trình hợp tác quốc tế, Khoa Thủy sản trường
Đại học Cần Thơ đã nhập nội và nghiên cứu đối tượng Artemia franciscana dòng San
Francisco Bay (FSB, Mỹ). Sau thời gian di nhập thì dòng San Francisco Bay đã thích
nghi với điều kiện khí hậu vùng ruộng muối nước ta và thông qua sự tồn tại và phát
triển của thế hệ con cháu đã trở thành dòng bản địa với tên gọi là dòng Vĩnh Châu. Với
kích trứng và ấu trùng nhỏ (tương ứng 220 - 230 µm và 400 - 450 µm theo thứ tự),
hàm lượng HUFA cao nên rất có giá trị trên thị trường thế giới [8].
Về đặc điểm thích nghi thì dòng Vĩnh Châu có đặc điểm khác xa với tổ tiên của
chúng nhất là khả năng chịu nóng. Hiện tại chúng có thể phát triển tốt ở điều kiện độ
mặn: 80-120 ppt, nhiệt độ: 22-35
o

C, hàm lượng oxy hòa tan không thấp hơn 2 mg/L,
pH từ trung tính đến kiềm (7,0-9,0) [8].
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Vân và CTV (2010) [23], dòng Vĩnh
Châu có tỷ lệ sống cao trung bình đạt 89,9 % sau 14 ngày nuôi ở độ mặn 80 ppt, tốc độ
tăng trưởng trung bình 0,45 cm/ngày. Với vòng đời đạt 35 - 39 ngày và các chỉ tiêu
sinh sản như sau: Thời gian tiền sinh sản 16,2 ± 0,6 (ngày), thời gian sinh sản 15,4 ±
5,9 (ngày), thời gian hậu sinh sản 2,1 ± 1,6 (ngày), số lứa/con cái: 5,23 ± 1,96, chu kỳ
sinh sản 4,09 ± 1,29 (ngày), sức sinh sản 84 ± 26 (phôi/lần), tổng Cyst/con cái: 87 ±
44, tổng Nauplius/con cái: 392 ± 248, tổng phôi/con cái: 479 ± 258, tỷ lệ
Nauplius/vòng đời (%): 90,9 ± 11,8, số Nauplius/lứa: 92 ± 33 tất cả được thu thập ở độ
mặn 80 ppt.
1.2.2. Dòng Great Salt Lake.
Trên thế giới và Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về đặc điểm của dòng này
và trứng bào xác, sinh khối chủ yếu được thu từ ngoài tự nhiên. Nhưng nhìn chung có
thể nhận thấy những đặc điểm đặc trưng: Dòng GSL có nguồn gốc từ Hồ muối lớn -
Mỹ, có khả năng phát triển và chịu đựng tốt ở nhiệt độ cao. Theo Vanhaecke (1984)
[49] thì loài này có đặc điểm khác xa so với loài thu từ SFB. Hồ mặn Great Salt là một
trong các hồ nước mặn lớn trên thế giới với nhiệt độ biến động rất lớn trong năm (từ -
2
o
C đến 42
o
C vào mùa hè) mặc dù vậy nước không hề đóng băng do độ mặn quá cao

11

và vẫn quan sát thấy Artemia ở 3
o
C, từ lý luận trên, có thể nhận định đây là một dòng
Artemia franciscana rộng nhiệt. Kết quả theo dõi của Vanhaecke và Sorgeloos, 1989

trong khoảng nhiệt độ 22,5 - 32,5
o
C thì dòng này có tỷ lệ sống cao (85 - 89 %), sinh
khối đạt 78 - 135 % ( đạt cao nhất ở nhiệt độ 30
o
C) và tốc độ tăng trưởng đặt trưng đạt
0,406 % ở 30
o
C [21]. Về tốc độ tăng trưởng và kích thước và một số chỉ tiêu sinh sản
cũng như vòng đời được thông báo bởi Nguyễn Thị Hồng Vân, 2010 [23] cho thấy ở
dòng này có kích thước trứng bào xác lớn, nauplius cũng lớn hơn so với một số dòng
khác (chiều dài nauplius mới nở dài khoảng 450-500 µm). Bên cạnh đó nghiên cứu
cho thấy độ mặn không ảnh hưởng lên tốc độ tăng trưởng của dòng này, trung bình
tăng trưởng theo chiều dài đạt 0,50 mm/ngày. Ở chỉ tiêu tuổi thọ, dòng GSL có tuổi
thọ cao khoảng 35-39 ngày ở độ mặn cao (120 ppt), còn ở độ mặn thấp (50-80 ppt) thì
tuổi thọ ngắn hơn chỉ khoảng 23-27 ngày. Ở các chỉ tiêu sinh sản của dòng GSL ở độ
mặn 80 ppt như sau: thời gian tiền sinh sản 18,4 ± 3,1ngày, thời gian sinh sản 8,1 ± 3,1
ngày, thời gian hậu sinh sản 2,5 ± 2,1 ngày, số lứa/con cái: 2,37 ± 1,00, chu kỳ sinh
sản 441 ± 2,06 (ngày), sức sinh sản 73 ± 15phôi/lần, tổng Nauplius/con cái: 145 ± 69,
tổng phôi/con cái: 209 ± 68, tỷ lệ Nauplius/vòng đời (%): 82,1 ± 20,5, số Nauplius/lứa:
81 ± 20 . Nhìn chung số chỉ tiêu về sinh sản của dòng GSL không lớn nhưng có thể
chịu được nhiệt độ, độ mặn cao và có tốc độ sinh trưởng cao, kích thước tốc đa lớn là
những thuận lợi để đưa vào nuôi thu sinh khối trong ao đất ở điều kiện Ninh Hòa -
Khánh Hòa.
1.3. Vai trò của Artemia trong nuôi trồng thủy sản
Artemia được biết đến vào những năm đầu thập niên 30 khi người ta phát hiện
ra chúng là loài thức ăn sống có giá trị dinh dưỡng cao cho việc ương giống các loại
thuỷ sản như tôm cá, động vật thân mềm. Seale (1930) và Rollefeson (1939)[4] đã
khám phá ra ấu trùng Nauplius của Artemia là một loại thức ăn lý tưởng cho ấu trùng
tôm cá. Artemia có thể đáp ứng rất tốt nhu cầu dinh dưỡng cho giai đoạn ấu trùng của

phần lớn các loại tôm cá.
Hiện nay các trại sản xuất giống, ấu trùng Artemia được sử dụng rộng rãi nhất
bởi những lý do sau [8]:
 Giá trị dinh dưỡng cao (protein, acid béo không no HUFA cao).
 Sẵn có trên thị trường dưới dạng trứng bào xác (còn gọi là cyst).

12

 Không phụ thuộc mùa vụ, thời tiết và có thể thu với số lượng lớn (trứng bào
xác nở sau 24 giờ tính từ khi ấp).
 Có thể khống chế được bệnh cho ấu trùng nuôi (xử lý ấu trùng Artemia
trước khi cho ăn hoặc sử dụng chúng như một bao sinh học để chứa các chất
dinh dưỡng đặc biệt là thuốc phòng trị bệnh chuyển tới ấu trùng nuôi) [21].
Artemia tiền trưởng thành và trưởng thành được gọi là sinh khối có giá trị dinh
dưỡng cao hơn Artemia mới nở từ trứng và được sử dụng là thức ăn phổ biến trong các
trại sản xuất giống, trại ương giống hay nuôi vỗ tôm, cá bố mẹ.
Artemia trưởng thành có giá trị dinh dưỡng rất cao (lớp vỏ giáp mỏng hơn 1
µm), chiếm 60 % lượng đạm và rất giàu amino acid tính trên khối lượng khô. Thêm
vào đó Artemia còn chứa một lượng đáng kể vitamin, sắc tố. Sử dụng sinh khối
Artemia trưởng thành có thể gây phát dục cho tôm bố mẹ mà không cần cắt mắt. Nhiều
nghiên cứu cũng đã chứng minh việc sử dụng sinh khối Artemia để nuôi vỗ tôm, cá bố
mẹ đã kích thích sự thành thục của buồng trứng, gia tăng số lần đẻ và cải thiện chất
lượng ấu trùng [8].
Artemia có thân mềm với lớp vỏ mỏng, chúng bơi lội chậm chạp trong môi
trường nước có màu sắc hấp dẫn, trong điều kiện nước ngọt chúng có thể sống khoảng
8 giờ. Chính vì vậy, Artemia là loại thức ăn lý tưởng cho ấu trùng các loại tôm cá ở
giai đoạn đầu phát triển. Artemia không chỉ có giá trị sử dụng tiện lợi mà còn có giá trị
dinh dưỡng cao: hàm lượng protein chiếm 62 % và 27 % lipid (tính theo khối lượng
khô)…[8].
Các đặc điểm trên kết hợp với kỹ thuật làm giàu hoá sinh học nhằm tăng chất

lượng của sinh khối Artemia, làm thức ăn sống tối ưu cho ương nuôi tôm, cá và có thể
thay thế trứng nước và trùn chỉ (nguồn thức ăn có nhiều mầm bệnh) trong nghề nuôi cá
cảnh nhiệt đới [8].
Sinh khối Artemia còn được dùng để làm thành phần hoặc chất kích thích trong
thức ăn chế biến cho ấu trùng tôm, cá. Tuy nhiên khá phổ biến là dùng sinh khối đông
lạnh Artemia để thay thế cho ấu trùng Artemia mới nở trong sản xuất giống tôm he
(Marsupenaneus japonicus). Các nhà nghiên cứu cũng nêu lên rằng để sản xuất 1 triệu
con tôm he giống chỉ cần 1,8 kg bột sinh khối Artemia [8].

13

Trong nuôi Artemia thu sinh khối thì Artemia trưởng thành được quan tâm
nhiều hơn do kích thước lớn hơn 20 lần và khối lượng nặng hơn 500 lần so với ấu
trùng Artemia mới nở. Đồng thời thành phần dinh dưỡng của Artemia trưởng thành
chứa đầy đủ các acid amine cần thiết như: Histidine, Methionine, Phenylalanine và
Threonine mà ở ấu trùng nauplius không có đầy đủ [8].
Hiện nay việc sử dụng sinh khối Artemia vẫn chưa được chấp nhận ở mức độ
công nghiệp do hạn chế về tính thời vụ và số lượng sinh khối tươi cũng như sinh khối
đông lạnh, chi phí sản xuất cao, chất lượng biến động. Ở Việt Nam, sinh khối Artemia
sử dụng làm thức ăn cho ấu trùng tôm càng xanh, tôm cua biển, cá cảnh, cá chẽm
giống, ốc hương…ở dạng tươi sống, đông lạnh và thức ăn chế biến [1].
1.4. Tình hình nghiên cứu về nuôi thu sinh khối Artemia ở Việt Nam và trên thế
giới.
1.4.1. Trên thế giới
Từ những năm 1930, Artemia được biết đến là một nguồn thức ăn lý tưởng trong
ương nuôi ấu trùng tôm, cá. Trong khoảng những năm 1950, trứng bào xác của
Artemia được thu từ các ruộng muối ven biển và các hồ nước mặn tự nhiên đã có giá
trị thương mại trên thị trường thế giới [41]. Từ những năm 1950 – 1960, nền công
nghiệp khai thác trứng bào xác Artemia ở Mỹ phát triển mạnh mẽ. Trong những năm
1970 – 1980, nhu cầu về trứng bào xác Artemia tăng rất nhanh và nhiều quốc gia đã

nghiên cứu thu trứng bào xác Artemia từ tự nhiên (Argentina, Australia, Canada,
Colombia, Pháp, Trung Quốc,…). Cuối những năm 1980, Trường Đại học Ghent ở Bỉ
đã có các chương trình nghiên cứu quốc tế về nuôi và sử dụng sinh khối Artemia. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu và phát triển nghề nuôi Artemia trên thế giới cho đến nay chủ
yếu nhằm để gia tăng hiệu quả cho việc thu hoạch trứng bào xác (cyst) Artemia. Trong
khi đó, những nghiên cứu về sinh khối Artemia chưa được quan tâm đúng mức.
Trong giai đoạn gần đây nghề nuôi tôm, cá biển ở nhiều nước trên thế giới phát
triển mạnh (Thái Lan, Trung Quốc, Philippin, Indonesia,…) nên nhu cầu về trứng bào
xác và sinh khối Artemia ngày càng tăng. Do đó, nhiều quốc gia đã bắt đầu quan tâm
nghiên cứu nuôi thu sinh khối Artemia.

14

Sorgeloos, (1975) [42], nuôi sinh khối Artemia trong các thể tích nhỏ từ 1 - 20 L,
trong môi trường nước biển tự nhiên có độ mặn 35 ppt, pH từ 8,0 - 8,5, nhiệt độ 28 –
30
o
C với thức ăn sử dụng là sử dụng tảo sống và tảo khô.
Sorgeloos và Bossuyt (1980) [41] đã thử nghiệm nuôi sinh khối Artemia với 2
mật độ nuôi là 5000 - 10000 Nauplius/L, trong các bể nuôi có thể tích từ 2 - 5 m
3
, thức
ăn để nuôi Artemia là các phụ phẩm nông nghiệp như bột bắp, bột cám gạo. Trong
năm này Duivodi và CTV (1980) [31] cũng đã nuôi sinh khối Artemia trong các bể xi
măng để xác định sự phát triển ở các độ mặn khác nhau.
Zmora và CTV (2002) [45] đã nuôi sinh khối Artemia trong ao ở Israel bằng cách
bổ sung vào ao từ 3 - 5 triệu Nauplius hàng ngày, năng suất trung bình đạt 5
kg/ngày/1000 m
2
, tương đương 1500 kg/ha/tháng và nuôi kéo dài trong nhiều tháng.

Năm 2003, Teresita và CTV [42] thí nghiệm nuôi sinh khối Artemia bằng phân
gà với các liều lượng khác nhau, trong 55 ngày nuôi nhưng chỉ thu được năng suất cao
nhất là 467,33 g/ao 4 m
3
.
Hiện nay, Trung Quốc đang sản xuất sinh khối Artemia đã được làm giàu các loại
acid béo không no bậc cao và bán ra thị trường dưới dạng bánh đông lạnh để cung cấp
cho các đối tượng muôi trồng thủy sản.
Nhìn chung, việc nghiên cứu nuôi thu sinh khối Artemia franciscana trên thế giới
chưa tương xứng với nghiên cứu nuôi thu trứng bào xác và nghề nuôi sinh khối
Artemia chưa được phát triển mạnh.
1.4.2. Tình hình nghiên cứu nuôi sinh khối Artemia ở Việt Nam
Artemia không phân bố tự nhiên ở Việt Nam [25], nhưng do có giá trị dinh dưỡng
cao và là loại thức ăn không thể thiếu được trong sản xuất giống thủy sản nên đã được
nhiều đơn vị nghiên cứu trong nước quan tâm.
Nghiên cứu nuôi Artemia bắt đầu thử nghiệm từ năm 1978 với loài Artemia
salina trong phòng thí nghiệm tại Viện Hải dương học Nha Trang, sử dụng thức ăn là
lòng đỏ trứng gà và cám sấy nghiền nhỏ rây kỹ pha theo tỷ lệ 1 gam/L môi trường,
điều kiện nhiệt độ 18 - 31
o
C, độ mặn 30 – 35 ppt. Sau 10 ngày nuôi đã phân biệt đực
cái, chiều dài cá thể lớn nhất đo được là 11,5 mm. Thời gian khép kín vòng đời 15 –
20 ngày [2]. Đến năm 1982 Artemia được du nhập vào Việt Nam thông qua bước đầu

×