Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Luận văn tốt nghiệp: Xác định nhu cầu du lịch thể thao đối với khách tại Vịnh Hạ Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 56 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
4. Phương pháp nghiên cứu 5
NỘI DUNG 7
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHU CẦU 7
DU LỊCH THỂ THAO BIỂN 7
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngay từ những năm trước công nguyên, thông qua việc tổ chức Đại hội thể
thao Olympic đã chứng mình rằng thể thao đã trở thành một phần quan trọng trong
cuộc sống của con người. Tuy nhiên, phải tới tận những năm 1960 của thế kỷ 20, thì
thể thao mới thực sự trở thành một hoạt động quốc tế, thu hút mạnh mẽ sự quan tâm
của giới truyền thông, của các nhà đầu tư, của những người tham gia và cả sự quan
tâm của giới chính trị. Trong khi đó, ngành du lịch với hàng triệu lượt khách và
hàng tỷ đô la doanh thu hàng năm đang trở thành một ngành kinh tế xã hội có tốc độ
phát triển nhanh và mạnh nhất. Hai hoạt động: Thể thao và du lịch giờ đây giống
như hai yếu tố cũng hỗ trợ nhau để phát triển trong một thể thống nhất. Những sự kiện
thể thao lớn được tổ chức tại rất nhiều quốc gia trên thế giới thường thu hút những
lượng khách du lịch khổng lồ và đi kèm với nó là những nguồn thu nhập khổng lồ. Ví
dụ như vào năm 1997, giải chạy quốc tế tại New York đã thu hút hơn 28,000 người
tham dự trong đó hơn 12,000 người là đến từ các quốc gia khác ngoài Mỹ. Không chỉ
dừng lại ở các giải thể thao, ngày nay tại rất nhiều điểm du lịch danh tiếng, các hoạt
động thể thao luôn được đưa vào như là một yếu tố gia tăng thêm điểm hấp dẫn du lịch
cho du khách, giúp du khách có nhiều lựa chọn hơn trong thời gian lưu trú tại điểm du
lịch cũng như đa dạng hóa được các sản phẩm du lịch tại điểm.
Tại Việt Nam, trong một số năm gần đây, ngoài việc mở rộng thêm các điểm
du lịch mới thì nhu cầu làm mới lại điểm du lịch cũ cũng đã được chú trọng. Ngoài


việc đưa thêm các tuyến du lịch mới, ngay tại những điểm du lịch, các nhà làm du
lịch tại Việt Nam cũng đã dần đầu tư hơn, mạnh dạn đưa nhiều hơn các loại hình thể
thao vào để thu hút du khách. Điển hình là tại các điểm du lịch biển – những nơi mà
thông thường du khách có thời gian lưu trú khá dài và ngay tại những điểm du lịch
này cũng hội tụ được những yếu tố để có thể đưa thể thao vào hoạt động. Điển hình
như là Nha Trang, Mũi Né, Vũng Tàu và có cả Hạ Long. Tuy nhiên, các loại hình
2
thể thao được đưa vào ứng dụng thường mang tính tự phát mà chưa thực sự xuất
phát từ nhu cầu của du khách.
Chính vì vậy, mà đề tài này được mở ra, với một mong muốn có một nghiên
cứu mang tính thực tiễn là “
, đề từ đó có thể đưa ra những kiến giải, những đề nghị, đề xuất hợp
lý, phần nào đó đóng góp vào sự phát triển của du lịch thể thao tại Hạ Long nói
riêng và ngành du lịch của tỉnh Quảng Ninh – một tỉnh tại vùng địa đầu Đông Bắc
nói chung.
Do thời gian nghiên cứu đề tài còn nhiều hạn chế, nên còn khá nhiều sai sót.
Tác giả đề tài này rất mong được sự thông cảm từ phía các chuyên gia trong ngành.
2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Mặc dù du lịch thể thao là một loại hình du lịch không còn mới mẻ tại Việt
Nam, tuy nhiên các nghiên cứu chi tiết về loại hình này lại chưa có nhiều. Đa phần
các nghiên cứu chỉ dừng lại ở các bài viết riêng lẻ, đơn thuần dừng lại ở dạng bài
báo phản ánh về các sự kiện du lịch thể thao chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu mang
tính học thuật, lý luận.
Riêng đối với các học giả quốc tế, vấn đề du lịch thể thao lại rất được các nhà
nghiên cứu về du lịch chú trọng. Ngay từ những năm 70, 80 của thế kỷ 20 thì đã có
những nghiên cứu về du lịch, thể thao và du lịch thể thao. Các nghiên cứu này
thường xoay quanh những vấn đề như mối tương tác giữa du lịch và thể thao, hay
cơ hội phát triển của du lịch thể thao trong tương lai. Đáng chú ý trong các nghiên
cứu đó, phải kể tới công trình đồng nghiên cứu của hai học giả Joy Standeven và
Paul De Knop được xuất bản năm 1999 bởi nhà xuất bản Human Kinetics, Mỹ. Đó

là cuốn “”. Tại cuốn sách này, những định nghĩa về du lịch thể thao,
mối tương tác giữa du lịch và thể thao; ảnh hưởng của du lịch thể thao tới nền kinh
tế và xã hội và ngược lại: những ảnh hưởng của các yếu tố xã hội tới du lịch thể
thao; những dự báo về tương lai của du lịch thể thao được hai tác giả này phân tích
một cách rất cặn kẽ và đưa ra nhiều lý giải khoa học trên cơ sở thực tiễn.
3
Bên cạnh đó còn có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu dựa trên thực
tiễn về vấn đề du lịch thể thao nữa như cuốn: “ !
"#$ được xuất bản năm 1997 bởi nhà xuất bản Eastbourne,
Anh. Cuốn sách đưa ra những lý giải và nhận định về du lịch thể thao trong điều
kiện kinh tế phát triển mạnh mẽ, nghiên cứu điển hình tại Anh trong những năm từ
1995 – 1997. Ngoài ra còn rất nhiều cuốn sách khác cũng nghiên cứu về vấn đề này,
tuy nhiên thực tiễn nghiên cứu lại được áp dụng tại Châu Á, điển hình là một quốc
gia láng giềng rất gần gũi về mặt kinh tế cũng như điều kiện phát triển du lịch với
Việt Nam- Đó là Thái Lan thông qua nghiên cứu của Sagawa,T., xuất bản tháng 8
năm 1996: cuốn%&'()*! +%+,")!
$ – Nhà xuất bản Tokyo, Nhật Bản.
Cùng viết về đề tài phát triển du lịch thể thao tại các nước đang phát triển: tác
giả Lea, J. trong cuốn: &-./(0"10
" xuất bản năm 2003 tại nhà xuất bản Routledge, London, Anh lại nêu lên xu
hướng dịch chuyển nhu cầu du lịch thể thao thế giới từ trục Châu Âu và Bắc Mỹ về
tới các nước có nền kinh tế đang phát triển, có cảnh quan thiên nhiên kỳ thú và vẫn
còn giữ được nét hoang sơ và nét văn hóa bản địa đặc sắc như các quốc gia tại Đông
Nam Á, Carrinbean, và vùng Nam Mỹ
Hay như cuốn sách: &(2." của tác giả P.
Johnson và B. Thomas (Eds.), xuất bản năm 1992 - nhà xuất bản London Mansell,
Anh đã có những nghiên cứu sâu sắc về sự thay đổi nhu cầu của con người trong du
lịch, từ truyền thống tới hiện đại. Cuốn sách cho thấy rằng, nhu cầu về du lịch của
con người là không ngừng nghỉ, không chỉ dừng lại ở một số mục đích như thư
giãn, giải trí mà ngày càng hướng về lựa chọn khám phá, chứng tỏ cái tôi của bản

thân mình thông qua hoạt động du lịch. Điều này đặc biệt được nhắc tới đối với
nhóm du khách thuộc độ tuổi từ 18 đến 40 tuổi thông qua các dẫn chứng từ các
nghiên cứu riêng rẽ tại các điểm du lịch và những sản phẩm du lịch đặc thù gắn liền
với điểm đến: ví dụ như sự ra đời và phát triển với số lượng lớn cua các công ty du
lịch có xu hướng kinh doanh thiên về du lịch thể thao và các kỳ nghỉ mang tính
4
khám phá như: du lịch trượt thác ở các vùng thác lớn; lặn biển ở Kenya, hay leo núi
(trekking) ở Nepal, …
Ngoài việc nghiên cứu trên, có một số học giả lại thiên về hướng nghiên cứu
sự mở rộng không ngừng nghỉ của các công ty du lịch - những chủ thể luôn tìm
kiếm những thị trường mới, sáng tạo không ngừng nghỉ những sản phẩm du lịch
mới để gia tăng tính đa dạng cho thị trường du lịch cũng như mang lại những nguồn
thi mới trong kinh doanh.
Nhìn chung, trong rất nhiều nghiên cứu này, các học giả đều đưa ra những
định nghĩa về du lịch thể thao, sự thay đổi nhu cầu du lịch của con người khi nền
kinh tế thay đổi và những dự báo, dự đoán về khả năng phát triển ngành du lịch thể
thao trong tương lai toàn cầu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Theo phát triển định hướng của đề tài, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của
đề tài là khách du lịch tới Hạ Long (bao gồm du khách quốc tế và du khách nội địa).
Bằng các phương pháp khảo sát, nghiên cứu thực tế sẽ đưa ra những phân tích về
nhu cầu du lịch thể thao đối với các tập khách.
4. Phương pháp nghiên cứu
Việc lựa chọn phương pháp nghiên cứu cho đề tài là hết sức quan trọng. Với
một đề tài mang tính chất thực nghiệm và có yêu cầu khảo sát như đề tài này,
phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm các phương pháp sau:
- Phương pháp thu thập dữ liệu: sơ cấp và thứ cấp
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp bảng hỏi
- Phương pháp phân tích dữ liệu

5. Bố cục của đề tài
Với đề tài: “Xác định nhu cầu du lịch thể thao đối với khách du lịch tại
Vịnh Hạ Long”, bố cục đề tài được sắp xếp như sau:
5
Phần Mở đầu giới thiệu về lý do chọn đề tài, một số nét về các tài liệu đã
nghiên cứu về đề tài, nêu lên đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Phần nội dung của đề tài được chia làm hai chương chính như sau:
Chương 1: nêu các vấn đề về lý luận chung về du lịch thể thao biển. Trong
chương này các vấn để chung mang tính chất lý luận như nhu cầu du lịch, nhu cầu du
lịch thể thao, các phương pháp xác định nhu cầu du lịch thể thao. Đồng thời, trong
chương này cũng giới thiệu về các loại hình du lịch thể thao biển thông dụng, hiện
đang được các quốc gia có điều kiện du lịch tương tự như Việt Nam áp dụng có hiệu
quả kinh doanh cao và được du khách yêu thích. Bên cạnh đó cũng đưa ra những
phân tích về điều kiện để áp dụng, phát triển các loại hình du lịch thể thao biển.
Chương 2: nêu các vấn đề về thực trạng về nhu cầu du lịch thể thao tại Vịnh
Hạ Long. Bằng các phương pháp được áp dụng đểnghiên cứu tình hình thực tế nhu cầu
du lịch của du khách: bao gồm du khách quốc tế và du khách Việt Nam đã tham quan
hoặc có nhu cầu đi du lịch tại Vịnh Hạ Long đối với từng loại hình du lịch biển.
Chương 3: nêu lên các đề xuất, kiến nghị để có thể phát triển du lịch thể thao
tại Vịnh Hạ Long. Sau khi đã phân tích về nhu cầu thực tế của du khách đối với loại
hình du lịch thể thao biển, đồng thời có nghiên cứu tình hình cung cấp thực tế về
loại hình du lịch thể thao này, một số kiến nghị đề xuất sẽ được đưa ra để từ đó có
thể phát triển tốt hơn, tận dụng tốt hơn các nguồn lực tự nhiên và xã hội hiện có ở
vùng Vịnh Hạ Long
Phần cuối cùng là phần kết luận về đề tài.
Tiếp theo là các phần phụ lục và tài liệu tham khảo đã được sử dụng để hoàn
thành đề tài
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHU CẦU

DU LỊCH THỂ THAO BIỂN
1.1. Khái niệm nhu cầu du lịch và du lịch thể thao biển
1.1.1. Định nghĩa nhu cầu du lịch
Nhu cầu là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và
tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống,
những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau.
Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được.
Nhu cầu là yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu càng cấp bách thì
khả năng chi phối con người càng cao. Về mặt quản lý, kiểm soát được nhu cầu
đồng nghĩa với việc có thể kiểm soát được cá nhân (trong trường hợp này, nhận
thức có sự chi phối nhất định: nhận thức cao sẽ có khả năng kiềm chế sự thoả mãn
nhu cầu).
Ngay từ khi ngành du lịch được đưa vào nghiên cứu, thì các nhà nghiên cứu về
du lịch học đã bắt đầu nghiên cứu về vấn đề này, tuy có nhiều quan niệm khác nhau
về nhu cầu du lịch tùy theo từng vùng địa lý, quốc gia khác nhau nhưng nhìn chung
các học giả đều thống nhất theo định nghĩa sau về nhu cầu du lịch.
3% là những mong muốn, nguyện vọng được thực hiện chuyến
du lịch của mình trong một khoảng thời gian dự kiến.
1.1.2. Đặc điểm của nhu cầu du lịch
Theo như bậc thang tháp nhu cầu của Maslow, thì có thể nhận thấy ngay rằng,
nhu cầu du lịch có thể xếp ở bậc trên cùng của tháp này, nhu cầu về thể hiện cái tôi
cá nhân, chứng tỏ bản thân, khám phá thế giới. Chính vì thế, mà nhu cầu du lịch
được xác định là mang những đặc điểm sau:
7
+405
Trước hết thấy rằng, nhu cầu du lịch phụ thuộc nhiều vào các yếu tố kinh tế và
sự phát triển kinh tế, chính trị, của quốc gia gửi khách. Điều này thể hiện rõ nhất tại
quốc gia có nền kinh tế phát triển như tại Châu Âu hoặc Hoa Kỳ. Các quốc gia này
có nền kinh tế rất phát triển, nhận thức cao về văn hóa, chính trị. Do vậy những khu
vực này luôn được coi là những nơi cấp khách lớn của nền du lịch thế giới.

+4*60-
Nhu cầu du lịch là một loại nhu cầu mang tính tổng hợp, dễ dàng nhận thấy
rằng, nhu cầu du lịch của du khách không chỉ dừng ở một nhu cầu nhất định khi
thực hiện chuyến du lịch mà bao gồm rất nhiều các nhu cầu khác nhau như: nhu cầu
nghỉ ngơi (sử dụng các khách sạn/nhà nghỉ), nhu cầu ăn uống, thưởng thức ẩm thực
(sự dụng dịch vụ của nhà hàng), nhu cầu tham quan (tham quan các điểm du lịch),
nhu cầu giải trí (mong muốn được sử dụng các loại hình giải trí), nhu cầu vận
chuyển (sử dụng dịch vụ vận chuyển), nhu cầu được an toàn, được bảo vệ, Như
vậy, nhu cầu du lịch không chỉ đơn giản là một nhu cầu riêng lẻ mà kéo theo nó là
cả một chuỗi các nhu cầu nhỏ lẻ khác nhau và luôn yêu cầu được thực hiện trong
một chuyến đi/hành trình du lịch cụ thể.
+4
Nói nhu cầu du lịch có tính linh hoạt là bởi xuất phát từ việc, nhu cầu du lịch
không phải là một nhu cầu thiết yếu của con người. Do vậy mà việc xuất hiện nhu
cầu đi du lịch đến một điểm nào đó có thể đến rất nhanh, và cũng có thể thay đổi rất
nhanh. Ví dụ: một người có nhu cầu đi du lịch tới vùng biển đảo Cô Tô – Quảng
Ninh và dự định giành quỹ là 1,5 triệu đồng cho chuyến đi. Tuy nhiên, nhu cầu đó
có thể thay đổi và quỹ giành cho du lịch cũng sẽ thay đổi nếu như người đó xuất
hiện những nhu cầu khác cần kíp hơn.
+4785
Tính mùa vụ được thể hiện tại cả hai nơi: nơi cấp khách và nơi nhận khách.
8
Đối với nơi cấp khách, nhu cầu du lịch của du khách có thể sẽ tập trung theo văn
hóa, thời tiết, thời gian nghỉ dài ngày của du khách. Từ đó, ảnh hưởng tới nơi nhận
khách. Tuy nhiên cũng có trưởng hợp tại nơi nhận khách có tồn tại tính mùa vụ, nên
quay ngược trở lại tác động tới nhu cầu du lịch của du khách. Ví dụ, khách có nhu
cầu đi du lịch tại Lào, nhưng hầu hết đều tránh đi vào các tháng 5, 6, 7, 8, 9, 10 vì
đây là thời điểm mùa khô của Lào, thời tiết rất nóng bức.
+4)97
Tính nhạy cảm ở đây có nghĩa là, nhu cầu du lịch có thể dễ dàng nhanh chóng

thay đổi nếu tiếp cận với những thông tin mang tính nhạy cảm như chính trị, y tế, an
ninh quốc phòng, Trường hợp điển hình là đối với du lịch Thái Lan. Theo thông lệ
mọi năm, thì nhu cầu đi du lịch Thái Lan vào dịp 30/4, 1/5 là rất lớn đối với du
khách người Việt Nam. Tuy nhiên, khi có xảy ra bạo động chính trị, thì hầu hết các
du khách Việt Nam đều không chọn Thái Lan là điểm đến trong kỳ nghỉ của mình
nữa mà thay vào đó là các điểm đến khác như Singapore, Mã Lai, hay là các điểm
đến trong nước.
Như vậy, thông qua phân tích trên đây ta đã có thể phần nào hiểu được thế nào
là nhu cầu du lịch cũng như đặc điểm của loại nhu cầu đặc biệt này là gì.
1.1.3. Các phương pháp xác định nhu cầu du lịch
:;:;<;:=1>004
Nghiên cứu là một quá trình tìm kiếm các tri thức được khái quát hóa để có
thể áp dụng vào việc giải thích cho một loạt các hiện tượng. Để làm được điều đó
nhà nghiên cứu phải xác định “nguồn” nơi có thể thu thập được số liệu thích hợp.
Một khi nguồn đã được xác định, nhà nghiên cứu phải lựa chọn kỹ thuật thu thập số
liệu cho phép thu hoạch được số liệu tốt nhất. Trong trường hợp lý tưởng, nhà
nghiên cứu phải sử dụng bất kỳ phương pháp thích hợp mà nhờ đó thu thập được số
liệu đáng tin cậy. Tuy nhiên, trong thực tế, việc sử dụng loại phương pháp thực
nghiệm nào lại phụ thuộc vào loại số liệu cần được thu thập. Khi nào cần thông tin
9
định lượng thì các phương pháp định lượng là thích hợp nhất. Nếu số liệu cần thu
thập là định tính thì nhà nghiên cứu cần phải sử dụng các phương pháp định tính.
3?@4. A
Nghiên cứu định tính là một phương pháp tiếp cận nhằm tìm cách mô tả và
phân tích đặc điểm văn hóa và hành vi của con người và của nhóm người từ quan
điểm của nhà nghiên cứu.
Nghiên cứu định tính cung cấp thông tin toàn diện về các đặc điểm của môi
trường xã hội nơi nghiên cứu được tiến hành. Đời sống xã hội được nhìn nhận như
một chuỗi các sự kiện liên kết chặt chẽ với nhau mà cần được mô tả một cách đầy
đủ để phản ánh được cuộc sống thực tế hàng ngày.

Nghiên cứu định tính dựa trên một chiến lược nghiên cứu linh hoạt và có tính
biện chứng. Phương pháp này cho phép phát hiện những chủ đề quan trọng mà các
nhà nghiên cứu có thể chưa bao quát được trước đó. Trong nghiên cứu định tính,
một số câu hỏi nghiên cứu và phương pháp thu thập thông tin được chuẩn bị trước,
nhưng chúng có thể được điều chỉnh cho phù hợp khi những thông tin mới xuất hiện
trong quá trình thu thập. Đó là một trong những khác biệt cơ bản giữa phương pháp
định tính và phương pháp định lượng
'B501>00?@0860
Sử dụng nghiên cứu định tính trong trường hợp
- Chủ đề nghiên cứu mới và chưa được xác định rõ
- Nghiên cứu thăm dò, khi chưa nắm được những khái niệm và các biến số
- Khi không cần thiết phải liên hệ những phát hiện với các bối cảnh xã hội
hay văn hóa rộng hơn hay bối cảnh này đã được hiểu biết đầy đủ
- Khi cần tìm hiểu về ý nghĩa hơn là tần số
10
Khi cần có sự linh hoạt trong hướng nghiên cứu để phát hiện những vấn đề
mới và khám phá sâu một chủ đề nào đó Khi cần khái quát hóa và so sánh kết quả
trong quần thể nghiên cứu
Sử dụng nghiên cứu định lượng trong các trường hợp:
- Chủ đề nghiên cứu đã được xác định rõ và đã quen thuộc
- Khi những vấn đề cần đo lường khá nhỏ hay đã từng được giải quyết
- Khi cần thăm dò sâu, khi muốn tìm hiểu mối quan hệ giữa những khía cạnh
đặc biệt của hành vi với ngữ cảnh rộng hơn
- Khi cần sự mô tả chi tiết bằng các con số cho một mẫu đại diện. Khi khả
năng tiến hành lại sự đo lường là quan trọng
- Nghiên cứu sâu và chi tiết những vấn đề được chọn lựa kỹ càng, những
trường hợp hoặc các sự kiện
"CD?@4
Nghiên cứu định tính đặc biệt có giá trị trong các lĩnh vực: nghiên cứu các
hiện tượng du lịch, sức khỏe, kế hoạch hóa gia đình,… vì nó cho phép:

- Khám phá, thăm dò những vấn đề khó và còn ít được biết đến,
- Tìm hiểu nhận thức của cộng đồng
- Đề ra những biện pháp can thiệp phù hợp và phát hiện những quần thể cần
được chú trọng trước hết
- Thăm dò tính khả thi, chấp nhận và sự phù hợp của những chương trình mới
- Phát triển những hoạt động về thông tin, giáo dục và truyền thông và tài
liệu phù hợp
- Nhận biết những tồn tại trong những can thiệp đang triển khai và đưa ra
những giải pháp thích hợp đối với những tồn tại đó
11
- Hoàn chỉnh những thông tin định lượng thu được trong các giám sát
thường xuyên và các nghiên cứu đánh giá bằng cách giúp giải thích những kết quả
thu được từ nghiên cứu định lượng.
- Thiết kế các công cụ điều tra chính xác hơn bằng cách phát hiện các chủ đề
thích hợp nhất cho nghiên cứu điều tra bằng cách xác định các câu hỏi thích hợp và
cách diễn đạt chúng cho phù hợp.
E($?@4
- Người nắm rõ thực địa
- Người nắm rõ đối tượng nghiên cứu
- Người được huấn luyện tốt
F01>00?@4D)#GH @/%
a) Phỏng vấn không cấu trúc
Là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất trong nghiên cứu xã hội. Khi sử
dụng phương pháp này nghiên cứu viên phải nhớ một số chủ đề cần phỏng vấn và
có thể sử dụng một danh mục chủ đề để khỏi bỏ sót trong khi phỏng vấn. Nghiên
cứu viên có thể chủ động thay đổi thứ tự của các chủ đề tuỳ theo hoàn cảnh phỏng
vấn và câu trả lời của người được phỏng vấn.
Phỏng vấn không cấu trúc giống như nói chuyện, làm cho người được phỏng
vấn cảm thấy thoải mái và cởi mở trả lời theo các chủ đề phỏng vấn. Điều cốt yếu
quyết định sự thành bại của phỏng vấn không cấu trúc là khả năng đặt câu hỏi khơi

gợi một cách có hiệu quả, tức là khả năng kích thích người trả lời cung cấp thêm
thông tin.
b) Phỏng vấn bán cấu trúc
Phỏng vấn bán cấu trúc là phỏng vấn dựa theo danh mục các câu hỏi hoặc các
chủ đề cần đề cập đến. Tuy nhiên thứ tự và cách đặt câu hỏi có thể tuỳ thuộc vào ngữ
cảnh và đặc điểm của đối tượng phỏng vấn. Các loại phỏng vấn bán cấu trúc gồm:
12
 =IJ/K
Được sử dụng để tìm hiểu thật sâu một chủ đề cụ thể, nhằm thu thập đến mức
tối đa thông tin về chủ đề đang nghiên cứu phỏng vấn sâu sử dụng bản hướng dẫn
bán cấu trúc trên cơ sở những phỏng vấn thăm dò trước đó về chủ đề nghiên cứu để
có thể biết được câu hỏi nào là phù hợp.
 3?@"1L60
Nhằm thu thập thông tin toàn diện, có hệ thống và sâu về các trường hợp đang
quan tâm. “Một trường hợp” ở đây có thể là một cá nhân, một sự kiện, một giai
đoạn bệnh, một chương trình hay một cộng đồng. Nghiên cứu trường hợp đặc biệt
cần thiết khi nghiên cứu viên cần có hiểu biết sâu về một số người, vấn đề và tình
huống cụ thể, cũng như khi các trường hợp có nhiều thông tin hay mà có thể đem lại
một cách nhìn sâu sắc về hiẹn tượng đang quan tâm.
 /BL/;
Thông tin về lịch sử đời sống của cá nhân thường được thu thập qua rất nhiều
cuộc phỏng vấn kéo dài (thường là phỏng vấn bán cấu trúc và không cấu trúc)
c) Phỏng vấn có cấu trúc hoặc hệ thống
- Là phương pháp phỏng vấn tất cả các đối tượng những câu hỏi như nhau.
Thông tin thu được bằng phương pháp này có thể bao gồm cả các con số và các dữ
liệu có thể đo đếm được. Các phương pháp này được coi là một bộ phận trong
nghiên cứu định tính vì chúng giúp cho việc mô tả và phân tích các đặc điểm văn
hóa và hành vi của đối tượng nghiên cứu.
Các phương pháp này nhằm phát hiện và xác định rõ các phạm trù văn hóa
thông qua sự tìm hiểu “những quy luật văn hóa” trong suy nghĩ của cá nhân, tìm

hiểu xem họ nghĩ và biết gì về thế giới xung quan họ và cách họ tổ chức các thông
tin này như thế nào.
13
- Liệt kê tự do (Free listing)
Tách biệt và xác định các phạm trù cụ thể, nghiên cứu viên yêu cầu đối tượng
liệt kê mọi thông tin mà họ có thể nghĩ tới trong một phạm trù cụ thể.
Phân loại nhóm: Phương pháp này tìm hiểu kiến thức của đối tượng về các
phạm trù khác nhau và mối liên hệ giữa chúng.
Phân hạng sử dụng thang điểm: Là phương pháp rất phổ biến trong khoa học
xã hội. Các thang điểm thường được sử dụng để phân hạng các khoản mục trong
một phạm trù nào đó. Thang điểm có thể là một dẫy số có thể là đồ thị.
- Thảo luận nhóm
 Một điều cần lưu ý là đơn vị nghiên cứu và phân tích trong thảo luận nhóm
sẽ là nhóm chứ không phải là cá nhân;
 Thảo luận nhóm tập trung;
 Một nhóm tập trung thường bao gồm từ 6 đến 8 người có chung một số đặc
điểm nhất định phù hợp với chủ đề cuộc thảo luận, ví dụ cùng một trình độ học vấn,
cùng một độ tuổi, cùng một giới tính.
 Thảo luận nhóm tập trung thường được sử dụng để đánh giá các nhu cầu,
các biện pháp can thiệp, thử nghiệm các ý tưởng hoặc chương trình mới, cải thiện
chương trình hiện tại và thu thập các thông tin về một chủ đề nào đó phục vụ cho
việc xây dựng bộ câu hỏi có cấu trúc
d) Phỏng vấn nhóm không chính thức
- Ví dụ phỏng vấn các nhóm tự nhiên như nhóm thành viên gia đình, nhóm
đàn ông uống trà trong quán, nhóm phụ nữ đi khám bệnh
- Phương pháp này dùng kỹ thuật phỏng vấn bán cấu trúc hoặc phỏng vấn tự do
- Phương pháp phỏng vấn nhóm không có trọng tâm dễ dàng thực hiện
nhưng ít có tính hệ thống do đó khó sử dụng để so sánh giữa các nhóm. Phương
pháp này có giá trị đối với các can thiệp đã được lập kế hoạch từ trước.
14

e) Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn cung cấp các thông tin về quan niệm, thái độ, giá
trị và hành vi tự thuật của đối tượng. Các phương pháp quan sát cung cấp thông tin
về hành vi thực cho phép hiểu rõ hơn hành vi được nghiên cứu.
- Người ta có thể quan sát trực tiếp các hành vi thực tế hoặc có thể quan sát
các dấu hiệu của hành vi
- Các hình thức quan sát
 Quan sát tham gia/ hoặc không tham gia
 Quan sát công khai/ hay bí mật
 Giải thích rõ mục tiêu của quan sát/ hoặc không nói rõ về mục đích thực
của quan sát cho đối tượng bị quan sát biết
 Quan sát một lần/Quan sát lặp lại
 Quan sát một hành vi/Quan sát tổng thể
 Quan sát thu thập số liệu định tính, mở và mô tả/Quan sát thu thập số liệu
định lượng dựa trên danh mục các điểm cần quan sát.
Chọn mẫu trong nghiên cứu định tính
Vì không có đủ thời gian và nguồn lực để có thể phỏng vấn hoặc quan sát từng
cá nhân trong quần thể do đó nghiên cứu viên phải tiến hành chọn mẫu đại diện cho
quần thể nghiên cứu.
- Có 2 loại chọn mẫu chủ yếu:
 Mẫu chọn xác suất nhằm bảo đảm kết quả thu được mang tính đại diện có ý
nghĩa thống kê cho quần thể nghiên cứu mà từ đó mẫu được rút ra. Mẫu chọn xác
suất bao gồm các mẫu ngẫu nhiên đơn, mẫu ngẫu nhiên phân tầng và mẫu chùm.
 Chọn mẫu không xác suất có thể có tính đại diện về mặt lý thuyết cho quần
thể nghiên cứu nếu sử dụng tối đa phạm vi và sự đa dạng của đối tượng nghiên cứu.
15
- Lựa chọn thực địa nghiên cứu
Vì nghiên cứu định tính chủ yếu tập trung vào một số lượng nhỏ cộng đồng
hoặc khu vực và trong các khu vực này, vào một số lượng nhỏ các dối tượng cung
cấp thông tin nên việc chọn địa điểm nghiên cứu có vai trò rất quan trọng. Qua trình

lựa chọn thường được bắt đầu bằng một vùng lớn nhất, với quần thể mẫu cần thiết
theo lý thuyết và khu trú dần lại ở một hoặc vài địa điểm để tiến hành nghiên cứu.
Bước đầu tiên là xác định vùng lớn nhất phù hợp với chủ đề và mục tiêu
nghiên cứu.
Bước tiếp theo là cân nhắc đến mức độ phức tạp của quần thể nghiên cứu và
chọn vùng hay cộng đồng mà có thể đại diện được cho tính đa dạng của các đặc
điểm quan trọng nhất.
Cuối cùng, khi đã chọn được địa điểm thoả mãn các yêu cầu của cuộc nghiên
cứu thì phải có được sự đồng ý tham gia của chính quyền địa phương.
- Lựa chọn đối tượng nghiên cứu
Kiểu chọn mẫu Mục đích
 Chọn mẫu xác suất ngẫu nhiên: Có tính đại diện, cỡ mẫu là một hàm số
của độ tin cậy mong muốn
 Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn: Cho phép khái quát hóa kết quả từ mẫu tới quần
thể nghiên cứu mà nó đại diện
 Chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng hoặc mẫu chùm: Tăng mức độ tin cậy trong
việc đưa ra các khái quát hóa cho từng phân nhóm cụ thể hay từng vùng cụ thể
 Chọn mẫu không ngẫu nhiên hay chọn mẫu có mục đích: Chọn các trường
hợp co nhiều thông tin cho nghiên cứu sâu. Số lượng và trường hợp cụ thể phụ
thuộc vào mục đích nghiên cứu.
 Chọn đối lập hay chọn lệch: Tìm hiểu từ các biểu hiện đi lệch một cách
khác thường của các hiện tượng ta đang quan tâm
16
 Chọn với cường độ mạnh: Cung cấp nhiều thông tin từ một vài trường hợp
mà có nhiều đặc điểm của hiện tượng mà ta đang quan tâm (nhưng không phải là
trường hợp quá lệch)
 Chọn mẫu với mức độ đa dạng tối đa: (chọn một cách có chủ định một
khoảng thay đổi rộng của các đặc điểm ta quan tâm) Ghi chép các trường hợp duy
nhất hay các sự biến đổi khác nhau mà có thể giúp xác định được các mô hình thông
thường mật độ thông thường khi tiến hành nghiên cứu ngang qua sự thay đổi đó

 Chọn mẫu đồng nhất: Tập trung vào các đối tượng có đặc điểm giống nhau
đơn giản cho việc phân tích, giúp đỡ cho việc phỏng vấn nhóm.
 Chọn trường hợp điển hình : Làm rõ hay nhấn mạnh cái gì là điển hình,
thông thưòng và trung bình
 Chọn mẫu có mục đích phân tầng (chọn người cung cấpthông tin từ các tiểu
nhóm đối tượng mà ta quan tâm) Minh họa các đặc điểm của từng nhóm cụ thể ta
quan tâm; hỗ trợ cho việc so sánh.
 Chọn trường hợp, địa điểm nghiên cứu, sự kiện, cá nhân mà giúp nhấn
mạnh một lý thuyết nào đó Thu thông tin đến mức tối đa khi các nguồn lực có hạn
có thể làm hạn chế số địa điểm nghiên cứu hay cỡ mẫu chung
:;:;<;M=1>00N9I
=1>00N9I: Phương pháp bảng hỏi là một phương pháp được sử
dụng trong nghiên cứu khoa học trong đó người mở cuộc điều tra nhằm thu thập
thông tin từ mọi người (đôi khi là các tổ chức) mà họ quan tâm. Các loại thông tin
sẽ tập trung vào trình độ kiến thức của người được phỏng vấn, thái độ, phẩm chất cá
nhân, sự tự tin và sự thích thú của người được phỏng vấn. Một bảng câu hỏi được
cấu trúc chặt chẽ cho phép thu thập nhiều loại thông tin từ nhiều người theo cùng
một cách thức giống nhau và vì thế dữ liệu sẽ được phân tích một cách cẩn trọng và
có tính hệ thống. Bảng câu hỏi được sử dụng tốt nhất nhằm thu thập các thông tin
17
có thực và việc thiết kế các câu hỏi thích hợp là điều hết sức cần thiết nhằm đảm
bảo thu được các phản hồi có giá trị.
Đối tượng để thiết kế bảng hỏi: có hai đối tượng trong việc thiết kế một bảng hỏi:
- Tối ưu hóa sự cân đối của chủ đề các câu trả lời;
- Khám phá các thông tin chính xác cho cuộc điều tra của người tổ chức điều tra;
Để tối đa hóa các câu trả lời, người cần điều tra phải cân nhắc cẩn thận xem
làm thế nào để có thể quản lý chúng, thiết lập mối quan hệ hài hòa giữa chúng, giải
thích mục đích của cuộc điều tra và xem có ai không trả lời câu hỏi hay không. Độ
dài của câu hỏi nên được cân nhắc cẩn trọng để có thể phát hiện những thông tin
chính xác, chúng ta phải tự đặt ra các câu hỏi như chúng ta sẽ hỏi những câu hỏi

nào, hỏi chúng ra sao?, thứ tự của chúng trong bảng hỏi và phác thảo chung của
bảng hỏi sẽ gồm những phần nào?.
Các chú ý khi xây dựng bảng hỏi bao gồm các yếu tố sau:
+@J.%O)#IP
Có 3 loại thông tin cơ bản sau đây:
- Thông tin căn bản mà chúng ta quan tâm, các biến phụ thuộc .
- Thông tin có thể giải thích các biến phụ thuộc – các biến độc lập.
- Các yếu tố khác liên quan đến cả hai biến phụ thuộc và độc lập có thể làm
sai lệch các kết quả và phải được điều chỉnh – đó là các biến xáo trộn.
+@.$/B5KQR2.>9;
Các câu văn ngắn, đơn giản nhìn chung ít gây bối rối và mơ hồ hơn các câu
văn phức tạp. Như một quy tắc, các câu văn nên bao hàm một đến hai mệnh đề. Các
câu văn có nhiều hơn 3 mệnh đề nên được nhắc lại.
+@N.S?I74DJ!7T;
+@1.?"/B5KI0D;
18
Các câu hỏi phủ định nên sử dụng một cách hạn chế. Ví dụ, thay vì hỏi sinh
viên đồng ý hay không với quan điểm cho rằng “Không nên bỏ hình thức đào tạo
theo nhóm?”, “Đào tạo theo nhóm nhỏ nên được tiếp tục?” Cả hai dạng phủ định
này đều nên được tránh.
+@Q7.IPKI4U
Các câu hỏi có thể trở nên phức tạp vì một từ hay một thuật ngữ có nhiều
nghĩa khác nhau.
Một nguyên nhân khác dẫn đến sự mơ hồ là sai lầm trong bố cục.
+@/.97N9P1LI09D#@#
Lấy ví dụ trong cuộc phỏng vấn một giảng viên đại học về những thay đổi gần
đây ở nền giáo dục đại học thì câu hỏi “Bạn có đồng ý với những lời khuyến cáo
trong báo cáo của Haward về nền giáo dục đại học không?” là không hài lòng bởi
một vài lý do. Không chỉ nó hỏi tới nhiều khía cạnh của thông tin cùng lúc mà còn
cho rằng tất cả giảng viên đều biết về những khuyến cáo đó.

+@N9).7@#
Hỏi đúng mức độ chi tiết theo như yêu cầu là rất quan trọng. Ngoài ra, bạn có
thể không hoàn thoành mục đích của cuộc điều tra nếu bỏ sót một vài chi tiết quan
trọng. Thêm vào đó cần thiết phải tránh những chi tiết không cần thiết. Mọi người
không có khuynh hướng hoàn thành những bảng câu hỏi dài. Điều này đặc biệt quan
trọng với những thông tin riêng tư nhạy cảm như là các vấn đề tài chính của bản
thân hay là các mối quan hệ hôn nhân.
+@7.J!)97
Rất khó đạt được sự chính xác trong các câu trả lời đối với các câu hỏi nhạy cảm.
+@4.2(KI086016I% Có các dạng
câu hỏi sau đây câu hỏi đóng hoặc câu hỏi mở.
19
Các câu trả lời có thể ở dạng đóng hoặc mở. Ở dạng câu hỏi mở, người trả lời
có thể đánh các câu trả lời của chính họ.
Ở dạng đóng, người trả lời buộc phải chọn trong nhiều lựa chọn được đưa ra.
Mỗi dạng có những ưu điểm riêng và thể hiện dưới hình sau. Nên sử dụng kết hợp
cả hai dạng câu hỏi trên, ví dụ, đưa ra một danh sách chọn “khác” theo sau đó là
một khoảng trống để người trả lời.
Ngoài các dạng này ra, xếp hạng thường ít được sử dụng vì các câu trả lời khó
liên quan với nhau để ghi chép và phân tích.
Ưu điểm của câu hỏi đóng và mở
Câu hỏi mở
- Cho phép phát hiện các chủ đề liên quan một cách chuyên sâu hơn
- Có thể được sử dụng bao hàm một phạm vi các lựa chọn thay thế khổng thể
làm thỏa mãn
- Câu hỏi đóng là loại câu hỏi bắt buộc lựa chọn
- Dễ dàng nhanh chóng để hoàn thành
- Tác dụng cả với những người ít học (trong các câu hỏi tự vấn) hay kém lưu
loát (trong các câu hỏi phỏng vấn)
- Dễ mã hóa, ghi chép và phân tích các kết quả định lượng.

- Dễ báo cáo kết quả
Cách diễn đạt các câu hỏi rất quan trọng và thường có một vài quy luật để cấu
trúc các câu hỏi trong một bảng hỏi.
+@71L.HK7.DN9I
Không có một thống nhất chung về độ dài tối ưu nhất của bảng hỏi. Nó phụ
thuộc vào người trả lời. Tuy nhiên, các câu hỏi ngắn thường thu hút sự quan tâm
cao hơn đối với những câu hỏi dài.
20
+@71L7./R0U#0KI
Thứ tự các câu hỏi cũng rất quan trọng. Có một vài quy luật trong cách sắp
xếp thứ tự các câu hỏi đó là:
- Đi từ tổng quát đến chi tiết.
- Đi từ dễ tới khó.
- Đi từ hiện thực tới trừu tượng.
- Bắt đầu với các câu hỏi đóng.
- Bắt đầu với những câu hỏi liên quan đến chủ đề chính.
- Không bắt đầu với những câu hỏi về nhân khẩu và cá nhân.
Nên sử dụng đa dạng và linh hoạt các dạng câu hỏi như nhìn thấy ở hình trên
nhằm duy trì sự thích thú của người trả lời. Khi một chuỗi các thước đo khác nhau
được sử dụng, dường như là một ý tốt nếu ta kết hợp các câu hỏi phủ định và khẳng
định. Ví dụ, điều này sẽ làm cho người trả lời suy nghĩ hơn và tránh được xu hướng
chọn các phương án trả lời giống nhau cho các câu hỏi.
Việc lọc các câu hỏi là rất có ích nhằm bảo đảm rằng người trả lời chỉ trả lời
các câu hỏi có liên quan. Tuy nhiên, cần đặc biệt tránh các cách thức lọc quá phức
tạp. Nên sử dụng hợp lý các mũi tên và các hộp để làm cho dễ hiểu.
+@71L.TV07W.#TDN9I;
Sẽ là rất tốt nếu như có thư giới thiệu hoặc ít nhất là một lời giới thiệu ngắn
gọn về mục đích của cuộc điều tra, tầm quan trọng của sự tham gia, ai chịu trách
nhiệm về cuộc điều tra và một giấy tờ làm tin. Một lá thư cá nhân có thể dễ dàng tạo
thông qua công cụ xử lý văn bản. Việc cảm ơn người trả lời cũng là một việc rất

quan trọng sau khi kết thúc cuộc điều tra.
+@71LN.TK7$.7#.H9VN9I;
Có vài cách để quản lý bảng hỏi. Nó có thể được tự chuẩn bị hoặc được đưa ra
bởi những người phỏng vấn. Việc tự đánh giá bảng hỏi có thể thông qua cách gửi
21
qua đường bưu điện, email. Các bảng hỏi phỏng vấn có thể thực hiện thông qua
điện thoại hoặc tiếp xúc cá nhân.
Ưu điểm của bộ câu hỏi tự chuẩn bị bao gồm:
- Rẻ và dễ quản lý.
- Được bảo vệ cẩn thận.
- Có thể được hoàn thành với sự vui vẻ của các bên.
- Có thể được quản lý trong một cách thức chuẩn.
- Ưu điểm của phỏng vấn với bộ câu hỏi được chuẩn bị trước bao gồm:
- Cho phép sự tham gia của cả những người ít học.
- Cho phép làm sáng tỏ các vấn đề mơ hồ.
Phương pháp tối ưu nhất phụ thuộc vào việc ai sẽ là đối tượng cuộc phỏng vấn.
+@71LN.?47.NKI;
Công việc này thường bị bỏ qua và đôi khi gặp khó khăn thậm chí với các
chuyên gia ngay trong lần đầu tiên áp dụng. Bộ câu hỏi phải được kiểm tra trước –
hay nói cách khác là phải thí điểm trước – trong một phạm vi nhỏ có các đặc điểm
trong cuộc khảo sát. Trong một khảo sát nhỏ, có lẽ chỉ cần thử trước các câu hỏi
phác thảo. Còn trong một khảo sát có quy mô lớn hơn, cần thiết phải tiến hành 3
giai đoạn thí điểm. Trong phần đầu, ta có thể hỏi mỗi người một lượng giới hạn các
câu hỏi: hiệu quả của việc dùng từ, cái gì hiện ra trong đầu họ khi đưa ra câu trả lời
đặc biệt, làm cách nào họ hiểu các từ đặc biệt (chuyên ngành)…. Trong giai đoạn
thứ hai toàn bộ các câu hỏi được góp ý bởi những người được phỏng vấn. Phân tích
các câu trả lời và các phản hồi của người phỏng vấn được cho là sẽ cải thiện chất
lượng của bộ câu hỏi hơn. Theo lý thuyết, sẽ có sự đa dạng trong số các câu trả lời
giữa những người phỏng vấn; mỗi câu hỏi nên đánh giá các đặc tính khác nhau –
quả thật, sự tương tác giữa hai thành tố bất kỳ nào không nên có sự tương quan với

nhau quá chặt chẽ – và tỷ lệ các câu không được trả lời nên giảm thiểu. Trong giai
22
đoạn thứ ba, sự thăm dò được nói đến để cải thiện thứ tự các câu hỏi, lọc các câu
hỏi và xem xét bố cục của chúng.
+#
Bộ câu hỏi phải chuẩn bị cẩn thận để có thể thu được các thông tin có giá trị.
Đồng thời phải đảm bảo rằng các câu hỏi có liên quan đến nhau, thích hợp, thông
minh, chính xác và phải công tâm. Thứ tự của các câu hỏi phải được sắp xếp cẩn
thận, bố cục rõ ràng. Bộ câu hỏi trước tin cần phải thử nghiệm và đánh giá trước khi
sử dụng trong thực nghiệm.
1.1.4. Nhu cầu du lịch thể thao
:;:;X;:;Y$7.N
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều định nghĩa về du lịch thể thao theo các xu
hướng khác nhau. Theo hai tác giả Joy Standeven và Paul De Knop trong cuốn
Sport Tourism (Du lịch thể thao) xuất bản năm 1999 bởi nhà xuất bản Human
Kinetics – Mỹ, trang 12-13, cho rằng du lịch thể thao đơn thuần chỉ là sự kết hợp
của “Du lịch” và “Thể thao” và định nghĩa về “Du lịch” và “Thể thao” như sau:
- Du lịch (Tourism): Du lịch là một dạng hoạt động tạm thời của con người
tại nơi không phải là nhà và nơi làm việc của mình, có liên quan tới những trải
nghiệm hoàn toàn khác với những hoạt động hàng ngày khác. Những trải nghiệm
này có thể diễn ra như là một phần của kỳ nghỉ hoặc như một sự phụ thuộc vào hoạt
động kinh doanh lữ hành.
- Thể thao (Sport): là tất cả các loại hình mang tính chất thi đấu hoặc không
thi đấu có sử dụng tới các kỹ năng, chiến lược và/hoặc có cơ hội để gắn kết con
người trong các hoạt động tương xứng với trình độ của họ hoặc đơn giản chỉ là
tham gia, đào tạo hoặc là để nâng các kỹ năng hiện có lên một tầm cao hơn.
Từ đó, tác giả đưa ra định nghĩa cho “Du lịch thể thao” như sau: Du lịch thể
thao là tất cả mọi hoạt động mang tính chủ động và bị động có liên quan tới các
23
hoạt động thể thao, có tham gia hoặc được tổ chức với lý do phi thương mại hoặc

thương mại mà hoạt động du lịch xa nhà ở và nơi làm việc hiện thời của du khách.
Theo hai tác giả này, du lịch thể thao được phân chi thành hai hình thức chính
căn cứ theo các loại hình du khách. Đó là du khách du lịch thể thao Dvà du
khách du lịch thể thao N.
Những du khách du lịch thể thao chủ động là những du khách chủ động đưa hoặc
đăng ký tham gia các hoạt động thể thao trong kỳ nghỉ của mình, trong kỳ nghỉ đó,
hoạt động thể thao phải là hoạt động chính và chủ yếu của chuyến đi hoặc trong những
kỳ nghỉ có hoạt động thể thao – tại nơi mà các hoạt động thể thao được tổ chức.
Có hai dạng kỳ nghỉ bao gồm hoạt động thể thao như sau:
a) Những kỳ nghỉ chỉ đơn thuần có các hoạt động thể thao: đây là những kỳ
nghỉ mà có một sự kiện thể thao được tổ chức nhằm vào kỳ nghỉ
b) Những kỳ nghỉ có kết hợp nhiều hoạt động thể thao, tại đó được tổ chức
nhiều môn thể thao khác nhau và được đánh giá quan trọng như là một phần trải
nghiệm của kỳ nghỉ (ví dụ, một kỳ nghỉ được tổ chức bởi một câu lạc bộ thể thao)
Hai dạng kỳ nghỉ bao gồm hoạt động thể thao được phân định như sau:
a) Các hoạt động thể thao mang tính chất hoạt động tập thể diễn ra trong suốt
cả kỳ nghỉ (thường là các nhóm, ví dụ như là tham gia thi đấu các trò chơi bãi biển
giữa các nhóm thi đấu)
b) Các hoạt động thể thao mang tính chất cá nhân độc lập trong kỳ nghỉ (ví dụ
như đi bộ hoặc chơi golf)
Khách du lịch thể thao thụ động cũng có thể được nhóm lại tùy theo mức độ
quan trọng của thể thao được quyết định trong chuyến đi của họ. Những người này
được ví như là những nhà quan sát thể thao chuyên nghiệp chỉ liên quan tới các hoạt
động thể thao một cách bị động ví dụ: chỉ tham gia xem chứ không tham gia trực
tiếp vào các bộ môn thể thao tại điểm du lịch. Mô hình dưới đây giúp nhìn nhận rõ
hơn các loại hình du lịch có liên quan tới thể thao theo quan niệm của Joy
Standeven và Paul De Knop.
24
Bảng 1.1: Các dạng du lịch thể thao
3Z%'0""/7[\)']].=]Y0-":<

25

×