Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Đẩy mạnh xuất khẩu chè ở công ty TNHH sản xuất – xuất nhập khẩu Thiên Hoàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.04 KB, 74 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang diễn ra vô cùng
mạnh mẽ, chúng ta đang dần hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Đối
với những nước đang phát triển như Việt Nam, hoạt động xuất khẩu đóng vai
trò hết sức to lớn, nó tạo tiền đề vững chắc cho quá trình hội nhập cũng như
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định
tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động xuất khẩu và coi đó là một trong ba
chương trình kinh tế lớn cần tập trung thực hiện.
Với đặc điểm là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số làm nông
nghiệp, Việt Nam xác định mặt hàng nông sản nói chung và chè nói riêng là
mặt hàng xuất khẩu chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất
khẩu. Chè là mặt hàng nông sản được nhiều người biết đến về tính hấp dẫn
khi sử dụng, uống chè đã trở thành một nét văn hóa truyền thống tại nhiều
quốc gia trên thế giới. Khi xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu tiêu dùng
chè, thưởng thức chè ngày càng cao, từ đó kích thích việc sản xuất, xuất khẩu
chè ngày càng phát triển.
Việt Nam là quốc gia có điều kiện thuận lợi để phát triển cây chè, chúng
ta có điều kiện về thổ nhưỡng, khí hậu thích hợp cho cây chè phát triển, có
nguồn lao động nông nghiệp dồi dào và thị trường tiềm năng cả trong và
ngoài nước. Tuy nhiên thực trạng xuất khẩu chè hiện nay của nước ta lại chưa
tương xứng với tiềm năng đó. Nhà nước, ngành chè, các doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh xuất khẩu chè cần chung sức tìm ra các biện pháp hạn chế
các điểm yếu, phát huy điểm mạnh, đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu chè.
Xuất phát từ thực tiễn đó, qua quá trình thực tập nghiên cứu và tìm hiểu
tại công ty TNHH sản xuất – xuất nhập khẩu Thiên Hoàng, cùng với kiến
thức đã được
học trong nhà trường em xin chọn đề tài: “Đẩy mạnh xuất khẩu chè ở công
ty TNHH sản xuất – xuất nhập khẩu Thiên Hoàng” làm đề tài của báo cáo
tốt nghiệp. Mục đích là nhằm tìm hiểu tình hình xuất khẩu chè của công ty
trong thời gian qua, từ đó đưa ra một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè
của công ty trong thời gian tới. Với mục đích như vậy, bài báo cáo được chia


làm ba chương như sau:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu chè ở các doanh nghiệp
kinh doanh xuất khẩu
Chương II: Thực trạng xuất khẩu chè của công ty TNHH sản xuất –
xuất nhập khẩu Thiên Hoàng
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy xuất khẩu chè của công
ty TNHH sản xuất – xuất nhập khẩu Thiên Hoàng
Do còn nhiều hạn chế về trình độ, thời gian cũng như thiếu kinh nghiệm
thực tiễn nên bài viết khó tránh khỏi những hạn chế thiếu sót. Rất mong nhận
được ý kiến đóng góp, những lời nhận xét quý báu của thầy cô, các cô chú
trong cơ quan cùng toàn thể các bạn để em có thể từng bước hoàn thiện đề tài
này tốt hơn.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU CHÈ Ở CÁC DOANH
NGHIỆP KINH DOANH XUẤT KHẨU
1.1. Chè và sự cần thiết đẩy mạnh xuất khẩu chè đối với Việt Nam nói
chung và các doanh nghiệp xuất khẩu chè nói riêng
1.1.1. Chè và khái niệm xuất khẩu chè
1.1.1.1. Khái niệm chè
Từ xa xưa, chè đã được biết đến không chỉ như một thứ nước giải khát
thông dụng, bồi bổ sức khỏe mà còn có tác dụng chữa và ngăn ngừa một số
lọai bệnh. Thú uống chè vào mỗi sớm mai (thậm chí, có người còn thưởng
thức chè vào buổi tối mà không sợ mất ngủ) là thói quen của nhiều người Việt
Nam. Có người thích độc ẩm, một bình chè, một chén tống. Cạn bình, hết
nước một là có thể bắt đầu một ngày mới. Nếu có bạn tâm giao thì sẽ thành
“đối ẩm”, “song ẩm”, “tứ ẩm” hoặc “quần ẩm”. Có bình chè ngon, gọi bạn
hiền đến cùng thưởng thức, đó là nét văn hóa từ lâu đời của cha ông ta. Khi đã
đưa lên thành nghệ thuật thì ngoài mục đích giải khát, uống chè còn có ý
nghĩa nhân văn, thể hiện tâm hồn, tình cảm và nhân cách của con người. Nghệ
thuật uống chè và thưởng thức chè là sự thể hiện nét vǎn hoá rất riêng của

từng đất nước, dân tộc. Mỗi nơi có cách thưởng thức chè của riêng mình.
Cây chè xuất hiện từ lúc nào trên quà địa cầu này chưa ai xác định được,
theo như các bảng thống kê việc sản xuất chè trên thế giới và kho dữ liệu về
chè của Trung Hoa đã làm cho người ta lầm tưởng rằng quê hương của cây
chè là Trung Quốc hay Ấn Ðộ. Nhưng theo các tài liệu xưa cổ và kết quả
nghiên cứu gần đây của những nhà khoa học và hiệp hội chè thì chè không
xuất xứ từ Trung Hoa hay Ấn Ðộ (người ta không tìm thấy cây chè thiên
nhiên hay cây chè hoang mọc ở các vùng châu thổ sông Hoàng Hà hay sông
Hằng Hà).Quê hương thật sự của cây chè ở tận mãi phương Nam. Mặc dù
người Trung Hoa đã biết đến cây chè từ thời nhà Châu (1134 -770 BC) nhưng
mãi đến đời nhà Tuỳ (581 - 618 AC) chè mới được du nhập vào Trung Quốc
từ hai nước Nam Chiếu và Nam Việt. Ðến đất Tàu chè được chăm sóc kỹ
lưỡng và tinh vi, sau khoảng thời gian dài, chè được đưa lên hàng nghệ thuật.
Hiện nay trên thế giới có trên 40 dân tộc có thói quen dùng chè làm thức
uống. Người Nhật biết uống chè vào khoảng năm 600 sau Tây lịch. Năm 1610
những thuyền buôn người Ðức nhập cảng chè lần đầu tiên vào Âu châu từ hai
nước Tàu và Nhật. Năm 1650, các thuyền buôn người Ðức nhập cảng chè vào
lãnh địa Mỹ Châu.
Cùng với sự phát triển và hội nhập rộng rãi kinh tế xã hội, ngành chế
biến chè trong nước và thế giới cũng bung ra với những bước tiến ào ạt về số
lượng và chất lượng. Khái niệm về chè hiện nay không còn bó hẹp trong
phạm vi các lọai chè chế biến từ cây chè. Nhiều loài thảo dược được trưng
dụng để bổ sung vào danh sách các lọai chè đang có mặt trên thị trường. Có
thể ai đó phàn nàn rằng, mấy thứ cây cỏ đó làm lệch khái niệm tinh khiết của
chè; rằng, đã là chè thì chỉ có thể được chế biến từ cây chè. Song, với định
nghĩa, chè là thứ sản phẩm dùng để giải khát và chữa bệnh thì bất cứ thứ gì na
ná đều có thể gọi là chè. Do vậy, thị trường chè đang nở rộ với vô số loại chè
thảo dược uống liền : chè Atiso, chè khổ qua, chè cỏ ngọt, chè trái nhàu, chè
linh chi, chè dây, chè đắng v.v…
1.1.1.2. Khái niệm xuất khẩu chè

Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hóa, dịch vụ từ quốc gia này sang quốc
gia khác trên cơ sở tiền tệ làm phương tiện thanh toán trên nguyên tắc ngang
giá. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế so sánh của
mỗi quốc gia khi có sự phân công lao động quốc tế.
Theo nghị định 57/1998/NĐ-CP(ban hành 31/7/1998) hướng dẫn về thi
hành luật thương mại đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thì “Hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá là hoạt động mua, bán hàng hoá của thương
nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng mua bán hàng
hoá , bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển
khẩu hàng hoá”.
Xuất khẩu chè là hoạt động ngoại thương mà trong đó hàng hóa xuất
khẩu là chè. Hoạt động xuất khẩu chè nói riêng và các hàng nông sản nói
chung là một trong những hoạt động thương mại quan trọng của các nước
nông nghiệp như Việt Nam, đó là việc đưa các sản phẩm chè, nông sản bán
trên thị trường thế giới, thu ngoại tệ, góp phần tăng thu nhập người nông dân,
tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng GDP của đất nước…
Chè là mặt hàng nông sản do đó xuất khẩu chè mang những đặc điểm
của xuất khẩu hàng nông sản, đó là:
• Giá cả chè xuất khẩu phụ thuộc vào tính thời vụ của việc sản xuất chè
nên sẽ khác nhau trong từng khoảng thời gian khác nhau cùng một
năm.
• Mặt hàng chè có cầu co giãn theo giá thấp do chè không phải là mặt
hàng thiết yếu hay xa xỉ.
• Chất lượng thường không được đồng đều do việc thu mua nhỏ lẻ, phân
tán và phụ thuộc nhiều vào đặc điểm khí hậu thổ nhưỡng nơi trồng.
• Việc xuất khẩu thường gặp phải các rào cản kỹ thuật về mức độ an toàn
vệ sinh, hàm lượng chất bảo vệ thực vật…
1.1.2. Sự cần thiết đẩy mạnh xuất khẩu chè
1.1.2.1. Nhu cầu về chè trên thế giới và khả năng xuất khẩu chè của Việt
Nam

a) Nhu cầu về chè trên thế giới
Cầu về sản phẩm chè chịu tác động của các nhân tố sau:
- Sức mua hay nhu cầu có khả năng thanh toán của người tiêu dùng, đây là
yếu tố quyết định đến quy mô và dung lượng thị trường, ở một mức độ nhất
định đóng vai trò điều tiết sản xuất.
- Giá cả sản phẩm chè trên thị trường, chủng loại và chất lượng của chè
xuất khẩu
- Giá cả của những hàng hóa có liên quan, đặc biệt là hàng hóa thay thế
như: cà phê, nước khoáng, nước giải khát…
- Các yếu tố thuộc về khẩu vị sở thích của người tiêu dùng đối với từng
sản phẩm chè
- Yếu tố văn hóa chè ở từng quốc gia
Bảng 01: Tình hình tiêu thụ chè của một số quốc gia chính
Đơn vị: nghìn tấn
Nước 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Argentina 259.37 282.25 257.78 247.57 254.07 264.89 278.13
Brazil 511.84 481.73 575.91 476.89 414.51 359.02 370.23
China 482.18 483.22 465.39 531.37 614.57 553.44 594.75
India 658.39 667.68 675.44 681.66 685.8 688.48 698.4
Kazakhstan 16.43 18.31 8.99 9.89 3.25 8.09 7.34
Iran,Islamic
Rep
66.36 64.09 61.66 56.93 48.41 40.52 36,82
Pakistan 109.98 105.89 102.26 106.6 111.93 119.21 121.12
Russian
Federation
166.31 168.16 167.94 168.5 171.23 175.32 179.5
SyrianArab
Republic
37.24 37.64 40.15 43.23 45.01 38.17 43.33

USA 102.27 104.58 106.25 108.31 111.01 114.05 120.24
England 134.44 133.64 131.29 126.79 124.62 124.01 123.79
(Nguồn: Số liệu FAO, 2009)
Theo dự báo nhu cầu chè trên thế giới sẽ tiếp tục tăng trong những năm
tới. Trung đông, nhất là các nước xuất khẩu dầu mỏ vẫn là một trong những
thị trường tiêu thụ chè mạnh nhất. Nhu cầu ở Iran, Ai Cập, và Pakixtan cũng
sẽ tăng nhiều. Mặc dù liên tục giảm trong các năm 2005, 2006, 2007 nhưng
mức tiêu thụ chè ở các nước Châu Âu sẽ tăng trong vài năm tới. Phần lớn các
nước xuất khẩu chè và một số nước nhập khẩu chè như Pakixtan và Iran đang
tích cực khuyến khích sản xuất chè thông qua việc mở rộng và trẻ hóa các
vùng trồng chè. Mới đây nhất, chính phủ Ấn Độ đã thông báo một chương
trình rộng lớn về khôi phục sản xuất chè thông qua giảm thuế cho nông dân.
b) Khả năng xuất khẩu chè của Việt Nam
Theo tính toán của hiệp hội chè thì hiện nay nước ta đã có khoảng 110
nghìn ha trồng chè, với năng xuất khoảng hơn 80 nghìn tấn/năm. Nếu như đến
năm 2015 có thể mở rộng diện tích trồng chè đến 135 nghìn ha thì lượng cung
sẽ thừa cho nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Khả năng cung thực tế của sản phẩm chè cũng phụ thuộc vào một số yếu
tố cơ bản như:
- Giá cả các yếu tố đầu vào
- Giá cả của hàng hóa chè trên thị trường
- Giá cả của các sản phẩm cạnh tranh
- Trình độ chuyên môn hóa và tập trung hóa trong sản xuất nông nghiệp
- Các nhân tố thuộc về cơ chế chính sách của chính phủ trong việc lưu
thông, xuất khẩu sản phẩm chè trong từng thời kỳ.
- Các yếu tố thuộc về môi trường tự nhiên: đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng…
Ngành chè Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và một
điều quan ngại là giá chè xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng ngày càng
giảm trên thị trường thế giới. Đứng đầu danh sách nhập khẩu chè Việt Nam là
Iraq, Pakistan, Đài Loan, Nga, Ấn Độ, Ba Lan, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Bỉ,

chiếm 90,86% khối lượng và 89,9% trị giá. Tuy nhiên, thị phần chè Việt Nam
tại những nước này vẫn còn nhỏ bé và đang bị cạnh tranh gay gắt. Khối lượng
chè xuất khẩu của Việt Nam hiện nay mới chỉ chiếm 3-4% tổng lượng chè
xuất khẩu của thế giới.
Tại châu Á, Việt Nam có 2 khách hàng lớn là Nhật Bản và Đài Loan.
Trong đó, Nhật là một thị trường đầy triển vọng với tổng nhu cầu 136.000
tấn/năm và sản xuất trong nước của Nhật chỉ có thể đáp ứng khoảng 90.000
tấn/năm. Mặt hàng chè đen đang đặc biệt được ưa chuộng trên thị trường này.
Chè Việt Nam chỉ chiếm khoảng 6,5% tỷ trọng và giá thành chỉ bằng 35% so
với giá 3.400 USD/tấn nhập khẩu từ các nước khác.
Với EU, nhu cầu chè của khối này chủ yếu đều được đáp ứng bằng nhập
khẩu với gần 300.000 tấn/năm. Nhưng chè Việt Nam chỉ chiếm khoảng 1-
1,5% tổng kim ngạch. Giá chè của Việt Nam tại đây chỉ bằng 40% so với mặt
bằng giá 2.500 USD/tấn nhập khẩu từ các nước khác.
Nga là thị trường truyền thống giàu tiềm năng với sức tiêu thụ khoảng
147.000-162.000 tấn/năm mà sản xuất chỉ đáp ứng 1% nhu cầu. Tuy nhiên,
giá chè Việt Nam vào Nga cũng mới chỉ bằng 75% so với giá 1.330 USD/tấn
nhập khẩu từ các nước khác. Thêm vào đó, chè Việt Nam phải chịu sự cạnh
tranh gay gắt của Ấn Độ, Sri Lanka, Trung Quốc và Indonesia.
Hoa Kỳ, nước tiêu thụ chè lớn thứ 8 thế giới với tổng lượng nhập
hàng/năm khoảng 149.000 tấn (chè đen chiếm 84%). Năm 2008, chè Việt
Nam xuất khẩu vào đây là 2.420 tấn (chiếm 3% thị trường chè chiết xuất tại
Hoa Kỳ), trong đó, chè đen OPA chiếm 80% tổng giá trị xuất khẩu vào thị
trường này. Giá chè xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ thấp hơn nhiều so
với giá chè của các nước khác. Giá chè đen nhập khẩu vào Hoa Kỳ năm 2008
bình quân là 1.320 USD/tấn (giá FAS ở cảng xếp hàng nước xuất khẩu) trong
khi đó, giá nhập từ Việt Nam chỉ là 740 USD/tấn, bằng 56% giá bình quân nói
trên. Đây cũng là một thị trường chè có đòi hỏi rất khắt khe với sự kiểm soát
chặt chẽ của Cơ quan Quản lý an toàn thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ
(FDA).

Pakistan: Dự báo, đến năm 2015, Pakistan sẽ là nước nhập khẩu chè lớn
nhất thế giới. Nước này có nhu cầu thị trường hàng năm khoảng 150.000 tấn.
Trong đó, chỉ có 5% chè xanh, còn lại là chè đen. Năm 2008, Việt Nam xuất
14.260 tấn vào nước này nhưng chủ yếu lại là chè xanh. Tuy nhiên, thuế nhập
khẩu chè của Pakistan cao hơn so với các nước khác.
1.1.2.2. Sự cần thiết đẩy mạnh xuất khẩu chè
Văn hoá chè có một vai trò nổi bật trong di sản văn hoá Việt Nam, là đồ
uống phổ biến nhất, "quốc thuỷ", là chỗ dựa tâm linh của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam. Hiếm có một nơi nào trên thế giới lại được thiên nhiên ưu đãi,
hầu như cho phép trồng chè ở khắp nơi. Về phân bố địa lý hành chính, 32/61
tỉnh thành trong cả nước có chè, từ Trung du - Miền núi phía Bắc, đồng bằng
Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ đến Duyên hải miền Trung, 4 tỉnh Tây Nguyên và 3 đô
thị lớn nhất là Hà Nội, Hải Phòng và TP.HCM. Có những nơi như ở Đài
Loan, phải cậy từng viên đá, mua hoặc vận chuyển đất từ nơi khác đến nhưng
ở nước ta, những vùng trồng chè lớn như Trung du - Miền núi phía Bắc và
Lâm Đồng thường tập trung liền đồi, liền khoảnh. Việt Nam có đủ các loại
chè nguyên sản, núi cao trên mực nước biển > 1.000m có hương thơm tự
nhiên, những cây chè cổ thụ hầu như còn nguyên vẹn tại một số tỉnh miền núi
phía Bắc. Có những giống chè địa phương trồng ngay ở trong vườn riêng của
gia đình và cách pha chế hết sức đặc biệt. Việc sản xuất chế biến chè đảm bảo
nhu cầu tiêu dùng trong nước, có dư thừa dẫn đến nhu cầu xuất khẩu sản
phẩm chè. Những thuận lợi đó chính là tiền đề quan trọng tạo lợi thế cho sản
phẩm chè Việt Nam trên thị trường thế giới.
Xuất khẩu chè là hoạt động tất yếu vì nó mang lại lợi ích to lớn cho quốc
gia thể hiện qua vai trò của nó:
- Xuất khẩu chè làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách, tạo nguồn vốn
ngoại tệ cho nhập khẩu, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước.
- Xuất khẩu chè góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
nông thôn, cải thiện đời sống người nông dân, tạo công ăn việc, làm

tăng thu nhập. Cây chè gắn liền với đời sống hàng chục vạn người nông
dân miền núi và trung du, hàng năm xuất khẩu chè giải quyết việc làm
cho hàng chục vạn lao động
- Xuất khẩu chè phát triển thúc đẩy sản xuất chè phát triển từ đó góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, cân bằng sinh thái. Cây
chè giúp tận dụng được lượng đất trống đồi trọc ở các vùng núi và
trung du, giúp chống xói mòn giảm thiên tai, điều hoà khí hậu và cân
bằng môi trường sinh thái.
- Xuất khẩu chè góp phần vào việc mở rộng quan hệ buôn bán với các
nước trên thế giới, tạo dựng mối quan hệ và xây dựng hình ảnh Việt
Nam trên trường quốc tế.
- Xuất khẩu chè cũng góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, mở rộng thị trường hàng hóa tiêu thụ trong nước, tạo điều kiện cho
sản xuất phát triển. Là cơ sở để tạo thêm vốn, đưa khoa học kỹ thuật
công nghệ tiên tiến của nước ngoài vào sản xuất.
Xuất khẩu chè nói riêng và xuất khẩu hàng hóa nói chung có nghĩa vô
cùng to lớn, mang lại lợi ích mọi mặt cho quốc gia. Đẩy mạnh xuất khẩu chè
là hoạt động cần thiết vì lợi ích của người nông dân trồng chè, lợi ích của các
doanh nghiệp sản xuất chế biến chè và lợi ích của quốc gia.
1.2. Nội dung xuất khẩu chè
1.2.1. Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm chè xuất khẩu
Là một quốc gia có truyền thống uống chè lâu đời, Việt Nam sản xuất và
tiêu thụ rất nhiều chủng loại chè, từ các loại chè truyền thống cho đến các loại
chè được du nhập từ nước ngoài. Việt Nam cũng là 1 trong những nước là quê
hương của cây chè (miền núi trung du Bắc Bộ) cùng với Trung Quốc, Ấn
Độ...
Ngoài việc là thị trường tiêu thụ chè lớn, Việt Nam còn là nước xuất
khẩu chè đứng thứ 6 thế giới. Hiện nước ta có 150 đầu mối xuất khẩu chè và
đã thâm nhập thị trường của khoảng 60 nước trong đó chủ yếu là Irac,
Pakixtan, Apganixtan, Nga…ngay cả những nước xuất khẩu chè lớn như

Trung Quốc, Ấn Độ cũng nhập khẩu chè của Việt Nam. Các mặt hang chè
xuất khẩu có thể kể đến đó là:
Chè đen: chiếm phần trăm lớn nhất trên thị trường buôn bán chè thế giới,
theo quy trình công nghệ OTD: chè nguyên liệu tươi→ làm héo→ vò →lên
men →sấy khô→ sàng phân loại. Nước chè đen có màu nâu đỏ tươi, vị dịu,
hương thơm nhẹ. Sau khi sàng sẩy, phân loại (trong quá trình tinh chế) chia ra
nhiều loại như: OP, P, BOP, BP, FBOP, PS, F, D chất lượng từ cao đến thấp
theo kích thước của cánh chè.
Chè xanh (xưa gọi là chè lục): Sản xuất nhiều ở Trung Quốc, Nhật Bản,
Đài Loan, Việt Nam theo quy trình: chè nguyên liệu tươi → diệt men → làm
nguội → vò →sấy khô→ sàng phân loại thành phẩm. Nước xanh vàng, tươi
sáng, vị chát mạnh, có hậu, hương thơm nồng mùi cốm. Diệt men bằng sao
chảo gang hoặc máy diệt men có nhiệt độ 230 đến 250oC (chè sao), hấp hơi
nước nóng hay hơi nước nóng (chè hấp), hay nhúng nhanh vào nước sôi (chè
chần). Sấy khô bằng hơi nóng, sao chảo (sao suốt), sấy than hoa , sấy lửa củi
(chè lửa), hay phơi nắng kết hợp sấy than (chè nắng) chất lượng rất khác.
Trong thời kỳ chiến tranh thống nhất đất nước, với sự giúp đỡ của Liên
Xô, Trung Quốc chè đen và chè xanh tăng nhanh về sản lượng, chủ yếu để
xuất khẩu, nhất là chè đen OTD. Thị trường trong nước có thêm các loại chè
gói ướp hương (Thanh Tâm, Thanh hương, Liên Hoa, Hồng Đào, Ba Đình,
Đồng Tâm…), chè ướp hoa, chè tiết kiệm (chè lá già, cẫng hương…), ngoài
các chủng loại truyền thống của thời kỳ trước.
Chè hương: dùng các hương liệu khô, như hoa ngâu khô, hoa cúc khô,
hạt mùi, tiểu hồi, đại hồi, cam thảo, quế…pha trộn với các tỷ lệ khác nhau.
Công nghệ: chuẩn bị hương liệu→ sao chè → cho hương liệu và sao → ướp
hương trong thùng.
Chè hoa tươi: được sản xuất nhiều ở Trung Quốc, Việt nam; hoa tươi
gồm có: sen, nhài, ngọc lan,sói, ngâu, bưởi quế, ngọc lan…Mỗi nhà sản xuất
có bí quyết công nghệ gia truyền riêng. Công nghệ chung như sau: chuẩn bị
chè và hoa tươi→ ướp hương (trộn chè và hoa)→ thông hoa→ sàng hoa→

sấy khô→ để nguội→ để hoa → sàng hoa→ chè hoa tươi thành phẩm.
Chè ô long: Trước đây được sản xuất chủ yếu ở Trung Quốc (Phúc Kiến
Quảng Đông) và Đài Loan; còn gọi là thanh trà. Công nghệ: chè nguyên liệu
→ làm héo và lên men kết hợp→ sao và vò kết hợp sấy khô→ bán thành
phẩm. Nước chè màu vàng kim óng ánh, vị đậm mạnh, hương thơm đặc biệt.
Các danh trà Ô long như Thiết quan âm, Thuỷ tiên, Đại hồng bào, Kỳ chủng,
Sắc chủng, Bao chủng…là chè Ô long dùng nguyên liệu của từng giống chè
đã chọn lọc để chế biến.
Chè đen mảnh: Búp chè tươi sau khi héo được đưa vào thiết bị vò và
nghiền sau đó đưa ra máy cắt → lên men → sấy, gọi là chè đen CTC, sản xuất
nhiều ở Xrilanca, Ấn Độ, Châu Phi.
Chè hoà tan: sản xuất tại các nước công nghệ phát triển, công nghệ: chè
nguyên liệu đã chế biến → chiết suất→ cô đặc → sấy phun sương; nguyên
liệu chè xanh hoặc đen vụn già, thứ phẩm. Chè hoà tan có dạng bột tơi xốp,
rất mịn, gồm những hạt nhỏ, màu vàng nhạt (chè xanh), nâu nhạt (chè đen).
Hàm lượng tanin, catesin, axit amin, cafeine rất cao, gấp chè nguyên liệu.
Màu nước, vị chè đạt yêu cầu, nhưng hương nhạt, vì bay hết trong quá trình
chiết xuất, cô đặc và sấy.
Chè túi (tea bag):Tỷ lệ chè mảnh, chè vụn có nhiều trong công nghệ chè
CTC và OTD; để tiết kiệm và thu hồi chè tốt, đã có công nghệ làm túi giấy
đặc biệt để đựng các loại chè đó. Túi chè có sợi dây buộc nhãn hiệu của hãng
sản xuất, khi pha chỉ cần nhúng túi vào cốc hoặc chén nước sôi, túi bã chè vớt
lên dễ dàng, không cần ấm pha trà mà lại sạch như trà Kim Anh…
Chè dược thảo: gồm chè đen trộn với một dược liệu như cỏ ngọt, vừa có
vị chè lại có giá trị chữa bệnh.
Đứng thứ 6 thế giới về khối lượng xuất khẩu chè với sản phẩm khá đa
dạng, tuy vậy cơ cấu xuất khẩu chè của Việt Nam lại khá mất cân đối với 60%
là chè đen, chè xanh chiếm 20%, chè thành phẩm chiếm 7% còn lại là các loại
chè khác.
Biểu đồ 01: Cơ cấu sản phẩm chè xuất khẩu

Đơn vị: %
(Nguồn: báo cáo hiệp hội chè Việt Nam 2008)
1.2.2. Thị trường xuất khẩu chè
Nghiên cứu thị trường chè là việc làm quan trọng đầu tiên mà bất cứ
doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường chè quốc tế phải thực hiện.
Nghiên cứu thị trường chè giúp các doanh nghiệp nắm bắt được các yếu tố
của thị trường, nắm vững đặc điểm biến động của thị trường và giá cả chè trên
thế giới là nền móng vững chắc đảm bảo cho các doanh nghiệp kinh doanh
xuất khẩu chè hoạt động hiệu quả trên thị trường thế giới.
Tại các doanh nghiệp, nghiên cứu thị trường thường được tiến hành theo
hai phương pháp:
• Phương pháp nghiên cứu tại bàn: là phương pháp thu thập thông tin từ
các nguồn tài liệu đã được xuất bản công khai như sách, báo, tạp chí, ấn
phẩm… và xử lý các thông tin đó. Đây là phương pháp phổ thông nhất phù
hợp với các doanh nghiệp xuất khẩu mới tham gia vào thị trường thế giới.
Tuy nhiên nó cũng có hạn chế là thời gian thực hiện chậm và độ tin cậy không
cao.
• Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường: là việc thu thập thông tin chủ
yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp với đối tượng tại hiện trường. Đây là phương
pháp đem lại thông tin chính xác, thường xuyên, giúp việc xử lý dễ dàng linh
hoạt. Song phương pháp này khá tốn kém và đòi hỏi người làm phải có năng
lực chuyên môn.
Các doanh nghiệp khi nghiên cứu thị trường chè cần nắm bắt được thị
trường và khách hàng để trả lời cho các câu hỏi như:
• Mặt hàng chè của doanh nghiệp sẽ được bán ở đâu?
• Doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng chè gì để xuất khẩu?
• Doanh nghiệp bán mặt hàng chè đó cho ai?
Việc lựa chọn được thị trường nước ngoài khó khăn hơn nhiều lần so với
việc lựa chọn thị trường trong nước vì nó gặp phải những trở ngại lớn về văn
hóa, ngôn ngữ, các rào cản thương mại…Để lựa chọn được thị trường chè có

hiệu quả doanh nghiệp cần chú ý những vấn đề sau:
 Thị trường và dung lượng thị trường: các doanh nghiệp cần phải tìm
hiểu nắm bắt được các thông tin về khối lượng chè được giao dịch trên một
phạm vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất định.
 Biến động giá cả mặt hàng chè trên thị trường: chè là mặt hàng có giá
biến động rất mạnh, nắm bắt được sự biến động đó giúp doanh nghiệp đưa ra
mức giá tối ưu và chủ động trong hoạt động xuất khẩu.
Số lượng chủng loại chè rất đa dạng phong phú, tuy nhiên mỗi thị trường
chỉ ưa chuộng một loại chè nhất định vì vậy doanh nghiệp cần phải cần phải
lựa chọn mặt hàng chè phù hợp với nhu cầu của thị trường và khả năng cung
ứng của doanh nghiệp. Mặt hàng chè được lựa chọn không những phải đạt
tiêu chuẩn phù hợp với thị trường thế giới mà còn phải phù hợp với khả năng
của doanh nghiệp, điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự phân tích nhận xét
đúng đắn, chính xác. Khi lựa chọn mặt hàng chè xuất khẩu doanh nghiệp cũng
nên lưu ý những vấn đề như:
 Thị trường đang cần loại mặt hàng chè gì, chủng loại kích cỡ,
mẫu mã ra sao…
 Tình hình tiêu thụ loại chè đó ra sao. Vấn đề này phụ thuộc vào tập
quán, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động cung cầu của mặt hàng chè đó.
 Mặt hàng chè đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống sản phẩm.
Trong hoạt động xuất khẩu, để có thể thâm nhập vào thị trường nước
ngoài một cách thuận lợi, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro, doanh nghiệp
phải thông qua một hay nhiều công ty đang hoạt động trên thị trường đó, họ
có kinh nghiệm thị trường mình cần hướng tới cũng như địa vị pháp lý để
đảm bảo cho hai bên hoạt động một cách thuận lợi.
Nhưng khi lựa chọn đối tác cần phải chú ý tới:
- Quan điểm kinh doanh của đối tác
- Lĩnh vực kinh doanh của đối tác
- Khả năng về tài chính.
- Uy tín và mối quan hệ của đối tác kinh doanh.

- Những người đại diện cho Công ty kinh doanh và phạm vi trách nhiệm
của họ đối với Công ty nếu người giao dịch trực tiếp là đại diện của Công ty.
Khi lựa chọn đối tác giao dịch, phương án tối ưu là trực tiếp giao dịch,
ký kết hợp đồng với bạn hàng kinh doanh hạn chế những hoạt động trung
gian. Nên ưu tiên những bạn hàng đã có quan hệ làm ăn quen thuộc. Trong
một số trường hợp có thể sử dụng các trung gian nếu xét thấy cần thiết và có
hiệu quả đó là khi chúng ta thâm nhập vào thị trường mới.
1.2.3. Giá cả chè xuất khẩu và phương thức xuất khẩu
1.2.3.1. Giá cả chè xuất khẩu
Giá chè là một nhân tố nhạy cảm đối với cung cầu thị trường thế giới và
chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện khí hậu. Chất lượng chè xuất khẩu vẫn còn
thấp. Chè Việt Nam xuất khẩu thường có giá thấp hơn 25-30% so với giá thế
giới. Một mặt, việc giảm dần khoảng cách chênh lệch giá giữa giá chè Việt
Nam xuất khẩu và giá thế giới cho thấy ngành chè Việt Nam đang hội nhập
với thế giới. Mặt khác, giá tính trên một đơn vị của chè Việt Nam so với các
thị trường lớn khác vẫn rất thấp cho thấy bản chất của việc giao hàng gộp
chung với các loại chè xuất khẩu giá trị thấp hiện nay của Việt nam.
Có một nghịch lý là trong khi chè xuất khẩu hầu hết là xuất dưới dạng
chè thô, sơ chế thì chè bán trên thị trường trong nước lại là chè thành phẩm
với chất lượng cao hơn và có giá cao hơn giá chè xuất khẩu. Một số vùng
trồng chè nổi tiếng về chất lượng ngon như chè Mộc Châu, Thái Nguyên và
Kim Anh. Người tiêu dùng Việt Nam rất sành về chất lượng chè và giá của
loại chè ngon nhất với chè loại thường nhất có khi hơn kém nhau tới 10 lần.
Các hộ nhỏ thường bán chè ra thị trường với giá 2-5 USD/kg nhưng chè loại
ngon của các công ty liên doanh có giá tới 15 USD/kg. Điều đáng lưu ý là
những giá này đều cao hơn giá xuất khẩu. Mặc dù những loại chè ngon hiện
khá sẵn, các nhà sản xuất trong nước vẫn còn chậm chạp trong việc theo sát
các xu hướng tiêu dùng ở các khu vực thành thị. Các nhà sản xuất chè nước
ngoài chiếm phần lớn doanh số bán tại các nhà hàng, quầy bar ở khu vực
thành thị. Khối lượng tiêu thụ trong nước còn thấp so với lượng xuất khẩu cho

thấy, các nhà sản xuất nội địa đang bỏ lỡ nhiều cơ hội và tiềm năng ở chính
thị trường trong nước.
1.2.3.2. Phương thức xuất khẩu
Các phương thức xuất khẩu ngày nay ngày càng trở nên phong phú đa
dạng, đều cố gắng khai thác tối đa lợi ích do xuất khẩu mang lại. Tuy nhiên
trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay các hình thức xuất khẩu của các
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu còn nghèo nàn, chưa tận dụng được các
nguồn lực trong nước để xuất khẩu đạt hiệu quả cao.
Theo nghị định 33/CP (19/4/1994) thì hoạt động xuất khẩu của nước ta
bao gồm các phương thức chủ yếu sau đây:
a) Xuất khẩu trực tiếp
Là phương thức mà nhà xuất khẩu gặp trực tiếp hoặc quan hệ trực tiếp
qua điện tín để thỏa thuận về hàng hóa, giá cả, các điều kiện giao hàng cũng
như giao dịch thanh toán với nhà nhập khẩu. Những nội dung được thỏa thuận
một cách tự nguyện, không ràng buộc với lần giao dịch trước, việc mua bán
không nhất thiết phải gắn liền nhau.
Công việc của các doanh nghiệp thương mại khi tham gia hình thức xuất
khẩu trực tiếp này gồm 2 công đoạn:
• Thu mua tạo nguồn hàng với các đơn vị, địa phương trong nước
• Đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu với các doanh nghiệp nước ngoài,
giao hàng và thanh toán tiền hàng với đơn vị bạn
Hình thức này có một số ưu điểm là: giảm được chi phí trung gian từ đó
tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, có điều kiện phát huy tính chủ động của
doanh nghiệp, dễ dàng đi đến thống nhất tránh những hiểu lầm đáng tiếc với
khách hàng.
Tuy nhiên hình thức này cũng có một số nhược điểm như: đòi hỏi cán bộ
xuất nhập khẩu phải có trình độ kinh nghiệm, khối lượng hàng hóa giao dịch
phải lớn mới bù đắp được chi phí giao dịch.
b) Xuất khẩu ủy thác
XuấtTrong hoạt động xuất khẩu ủy thác tất cả mọi việc thiết lập quan hệ giữa

người xuất khẩu và người nhập khẩu đến việc qui định các điều kiện mua bán
đều thông qua một người thứ ba được gọi là người nhận ủy thác. Người nhận
ủy thác tiến hành xuất khẩu với danh nghĩa của mình nhưng mọi chi phí đều
do bên có hàng xuất khẩu, bên ủy thác thanh toán, và nhận khoản tiền thù lao
gọi là phí ủy thác.
Ưu điểm của phương thức này: giảm thiểu rủi ro, các doanh nghiệp
không cần tốn chi phí nghiên cứu thị trường, đối với người nhận ủy thác thì
không cần bỏ vốn vào kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho nhân viên.
Hạn chế của phương thức này: lợi nhuận bị chia sẻ, các doanh nghiệp
xuất khẩu mất đi cơ hội tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, có thể phải đáp ứng
các yêu sách của người trung gian.
c) Buôn bán đối lưu
Đây là phương thức xuất khẩu trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với
nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là người mua, mục đích là thu về hàng
hóa có giá trị tương đương hàng xuất khẩu.
Các loại hình buôn bán đối lưu, buôn bán đối lưu đã ra đời từ rất lâu
trong đó sớm nhất là hình thức hàng đổi hàng và trao đổi bù trừ. Nghiệp vụ
hàng đổi hàng là hai bên trao đổi trực tiếp với nhau hàng hóa có giá trị tương
đương, việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời. Nghiệp vụ bù trừ là hai bên
trao đổi hàng hóa với nhau trên cơ sở giá trị hàng giao, đến cuối kỳ hạn hai
bên mới đối chiếu sổ sách, đối chiếu giá trị giao và giá trị nhận. Ngoài ra còn
có các nghiệp vụ khác như: nghiệp vụ mua đối lưu, nghiệp vụ chuyển giao
nghĩa vụ, giao dịch bồi hoàn.
d) Gia công quốc tế
Là phương thức kinh doanh trong đó người đặt mua gia công ở nước
ngoài cung cấp máy móc thiết bị theo mẫu hàng và định mức trước. Người
nhận gia công làm theo yêu cầu của người đặt gia công và sẽ giao lại toàn bộ
sản phẩm cho người đặt gia công để nhận tiền thù lao gọi là phí gia công.
Đây là phương thức xuất khẩu khá phổ biến trên thế giới và đang phát
triển mạnh mẽ do lợi ích mà nó mang lại cho các bên. Đối với bên đặt gia

công, phương thức này giúp họ tận dụng được nguồn nguyên liệu và nhân
công giá rẻ ở nước nhận gia công. Đối với bên nhận gia công, phương thức
này giúp họ tạo công ăn việc làm cho người dân lao động trong nước, có điều
kiện tiếp thu công nghệ thiết bị mới, cách quản lý của các nước tiên tiến.
e) Tạm nhập tái xuất
Đây là hình thức xuất khẩu trở lại nước ngoài những hàng hóa đã nhập
khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất thông qua hợp đồng tái xuất bao gồm
nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về số ngoại tệ lớn hơn số đã bỏ ra
ban đầu.
Ưu điểm của phương thức xuất khẩu này là doanh nghiệp có thể thu
được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng
máy móc thiết bị, khả năng thu hồi vốn cũng nhanh hơn. Tuy nhiên kinh
doanh tái xuất chứa đựng nhiều rủi ro, đòi hỏi phải nhạy bén về giá cả, thị
trường do vậy doanh nghiệp kinh doanh tái xuất cần phải có đội ngũ cán bộ
xuất nhập khẩu có trình độ và kinh nghiệm.
1.2.4. Các hoạt động nghiệp vụ xuất khẩu chè
1.2.4.1. Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu
Đàm phán là quá trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong một xung đột
nhằm đi tới thống nhất các nhận định, thống nhất quan niệm, cách xử lý
những vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa các bên.
Căn cứ để thực hiện đàm phán là dựa vào nhu cầu thị trường, vào đối thủ
cạnh tranh, khả năng, điều kiện và mục tiêu của doanh nghiệp cũng như mối
quan hệ giữa doanh nghiệp và đối tác. Nếu đàm phán diễn ra tốt đẹp thì kết
quả của nó là hợp đồng sẽ được kí kết. Một cam kết trong hợp đồng sẽ là
những pháp lý quan trọng, vững chắc và đáng tin cậy để các bên thực hiện
đúng lời cam kết của mình.
Có nhiều hình thức đàm phán khác nhau:
Đàm phán qua thư tín: đây là hình thức chủ yếu để giao dịch kinh doanh
giữa các nhà xuất khẩu. So với gặp gỡ trực tiếp thì giao dịch qua thư tín tiết
kiệm được nhiều chi phí, trong cùng lúc có thể giao dịch với nhiều khách

hàng ở các quốc gia khác nhau. Tuy nhiên giao dịch qua thư tín mất rất nhiều
thời gian, có thể bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Nhược điểm này có thể khắc phục
bằng điện tín.
Đàm phán qua điện thoại: việc trao đổi qua điện thoại nhanh chóng giúp
người giao dịch tiến hành đàm phán một cách khẩn trương đúng vào thời cơ
cần thiết. Nhưng phí tổn điện thoại giữa các nước rất cao, các bên không thể
trình bày chi tiết và không có gì làm bằng chứng cho các thỏa thuận quyết
định.
Đàm phán bằng gặp gỡ trực tiếp: gặp gỡ trực tiếp giữa hai bên để trao
đổi mọi điều kiện giao dịch, mọi vấn đề liên quan đến ký kết hợp đồng là hình
thức đàm phán đặc biệt quan trọng. Hình thức này đẩy nhanh tốc độ đàm phán
giữa hai bên và nhiều khi là lối thoát cho những đàm phán bằng thư tín kéo
dài quá lâu mà không có hiệu quả. Đàm phán bằng hình thức gặp gỡ trực tiếp
tuy có hiệu quả hơn thư tín nhưng đây cũng là hình thức khó khăn nhất, đòi
hỏi người tiến hành phải giỏi nghiệp vụ, tự tin, phản ứng nhanh lẹ.
Sau khi kết thúc đàm phán, nếu cuộc đàm phán đạt được kết quả các bên
sẽ tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế - hợp đồng mua bán quốc tế. Nội dung
của hợp đồng thể hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của các bên. Khi thiết lập
hợp đồng mua bán quốc tế cần chú ý những điều kiện sau để hợp đồng có
hiệu lực:
 Hình thức của hợp đồng phải là văn bản
 Bên mua và bên bán là các chủ thể của hợp đồng phải có đủ tư
cách pháp lý
 Hàng hóa theo hợp đồng là hàng hóa được phép mua bán theo
quy định của pháp luật
 Nội dung của hợp đồng phải có đầy đủ các nội dung chủ yếu mà
pháp luật đã quy định
Các nội dung chủ yếu của hợp đồng mà pháp luật quy định là:
- Tên hàng
- Số lượng

- Quy cách, chất lượng
- Giá cả
- Phương thức thanh toán
- Địa điểm và thời hạn giao hàng.
1.2.4.2.Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Đơn vị xuất khẩu với tư cách là một bên ký kết phải thực hiện hợp đồng
sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết. Đây là một công việc
hết sức phức tạp nó đòi hỏi phải tuân thủ luật pháp quốc gia, quốc tế, những
tập quán thương mại quốc tế, đồng thời phải đảm bảo quyền lợi của quốc gia
và uy tín của đơn vị. Về mặt kinh doanh trong quá trình thực hiện các khâu
của việc thực hiện hợp đồng, đơn vị phải cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông,
nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ giao dịch.
Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu các đơn vị cần thực hiện các bước sau:
Sơ đồ 01: Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu chè
1.3.1. Nguồn hàng
Nguồn hàng chè xuất khẩu của Việt Nam được đánh giá là rất phong
phú. Do điều kiện đất đai và khí hậu thích hợp cho nên cây chè được trồng
trọt rải rác ở hầu hết các tỉnh trung du và miền núi, tập trung ở một số vùng
chính như sau:
- Vùng chè miền núi: Gồm các tỉnh Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Sơn La,
giống chè được trồng chủ yếu ở vùng này là chè Shan (còn gọi là chè tuyết)
có năng suất cao, phẩm chất tốt. Sản lượng chè của vùng này chiếm 25 - 30%
tổng sản lượng chè của miền Bắc. Trong tương lai sẽ nâng tỷ trọng sản lượng
lên 50 - 60%. Sản phẩm chủ yếu của vùng chè miền núi là chè lục, chè mạn.
- Vùng chè trung du: gồm các tỉnh Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Sơn Bình, Bắc
Thái và một phần của Hoàng Liên Sơn (Yên Bái cũ). Là vùng sản xuất chè
chủ yếu, chiếm 70% sản lượng chè của miền Bắc. Giống chè chính được
trồng trọt là giống Trung du (Trung Quốc lá to) có năng suất cao và phẩm
chất tốt.

- Vùng chè tươi: gồm các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và khu 4 cũ, vùng này
nhân dân có tập quán sử dụng lá bánh tẻ để uống tươi (không qua quá trình
chế biến). Năm 1972 diện tích vùng chè tươi là 8.098 ha, chè được trồng chủ
Ký hợp đồng
xuất khẩu
Xin giấy
phép xk
Chuẩn bị
hàng hóa
Kiểm tra L/C
Thuê tàu
Mua bảo
hiểm
Làm thủ tục
hải quan XK
Kiểm nghiệm
hàng hóa
Giao hàng Làm thủ tục
thanh toán
Xử lý tranh
chấp
yếu ở các tỉnh Nghệ Tĩnh (4.550 ha), Thanh Hóa (1.427 ha). Những năm gần
đây một số vườn chè tươi đã được chăm sóc, đốn hái để chuyển sang chè hái
búp.
- Ở miền Nam chè được trồng chủ yếu ở hai tỉnh Lâm Đồng và Gia Lai -
Công Tum. Vùng nam Tây Nguyên (Lâm Đồng) là vùng cao nguyên nhiệt
đới, độ cao 800 - 1.500 m, thích hợp với giống chè Shan. Vùng bắc Tây
Nguyên thấp hơn (500 - 700m), khí hậu thích hợp với các giống chè Atxam
và Trung du. Diện tích trồng chè của các tỉnh phía nam hiện có khoảng 8.200
ha (diện tích trồng chè đạt được cao nhất năm 1965: 9.685 ha với tổng sản

lượng là 5.905t chè khô).
Tuy nhiên do chè chủ yếu ở vùng miền núi trung du, nơi có điều kiện
hạn chế về cơ sở hạ tầng cũng như khó tiếp cận kỹ thuật công nghệ nên nguồn
hàng đôi lúc vẫn không ổn định canh tác phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự
nhiên. Hiện nay, ở hầu hết các đồi chè trồng giống chè cũ như chè Trung Du
ở các vùng Trung Du hoặc giống chè Shan ở các vùng núi với năng suất thu
hoạch dao động từ 5-6 tấn/ha. Mức năng suất này thấp hơn nhiều so với ở các
nước sản xuất chè lớn trên thị thế giới như Sri Lanka, Kenya và Ấn Độ. Ở
những nước này, năng suất thu hoạch chè thường cao hơn 30-60% so với Việt
Nam. Hiện nay, hầu hết các vườn chè của Việt Nam (khoảng 60-70%) đã hơn
30 tuổi và qua tuổi cho năng suất cao nhất. Điều này cho thấy, nếu trồng mới
thay thế và trồng những giống có năng suất cao hơn sẽ đem lại lợi ích đáng
kể. Việc áp dụng và trồng những giống mới, cho năng suất cao hơn đang được
mở rộng. Kết quả điều tra thực địa cho thấy, tỷ lệ trồng giống mới tăng từ
12% năm 2000 lên 20% hiện nay. Nghiên cứu các vùng sản xuất cũng nhận
thấy rằng các giống mới hiện được trồng trên 50% diện tích chè ở Phú Thọ và
25% ở Thái Nguyên. Số liệu báo cáo chính thức ở các vùng này còn cao hơn
các con số trên. Tuy nhiên, chi phí trồng cây con mới rất cao cũng cản trở
việc áp dụng giống mới. Trong khi chi phí về giống trồng cho 1 ha là 250.000
đồng (16 USD) nếu trồng các giống cũ, chi phí này với trồng cây con mới vào
khoảng 6 triệu đồng (382 USD) như với các giống mới như LDP1, LPD2 hay
1A và khoảng 16 triệu đồng (1.019 USD) với những giống có chất lượng cao
như Kim Tuyến, Ngọc Thúy.
1.3.2. Chất lượng chè xuất khẩu
Xét về chất lượng và uy tín trên thị trường quốc tế thì chè Việt nam vẫn
thuộc loại không có tên tuổi. Chè Việt Nam thường được các nước nhập khẩu
trộn với cốt của các loại chè khác hoặc để chiết suất rồi đóng gói thành phẩm
bán ra với một thương hiệu khác. Đây cũng chính là lý do tại sao giá chè xuất
khẩu của Việt Nam rất thấp so với giá trung bình của thế giới. Chè Việt Nam
thường yếu do khâu bảo quản, lẫn loại, không đen, kém xoăn, nước không

sánh, chè thường nhiều vụn và lẫn tạp chất v.v. Mặc dù vậy, khối lượng chè
xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng đều hàng năm. Đây là tín hiệu hết sức khả
quan và cũng phần nào thể hiện nỗ lực của ngành chè trong việc nâng cao
chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường trong thời gian qua.
Việt Nam đã được thế giới biết đến như là một quốc gia sản xuất và xuất
khẩu chè lớn, đứng thứ sáu trên thế giới cả về diện tích, sản lượng sản phẩm
và xuất khẩu. Song chè Việt Nam hiện được bán phần lớn là dưới dạng
nguyên liệu thô, chưa có nhãn mác và bao bì hoàn chỉnh, không được kiểm
soát chặt chẽ về chất lượng cũng như các tiêu chuẩn kỹ thuật. Theo báo cáo
chuyên đề của Cục Nông nghiệp, chè nguyên liệu hiện nay xuống cấp nghiêm
trọng so với tiêu chuẩn Nhà nước (TCVN 2843-79) quy định. Do cạnh tranh
nguyên liệu, các DN quy loại chất lượng theo giá mua, dẫn đến chè nguyên
liệu bị trộn lẫn loại, loại 1 lẫn loại 2, trong đó chè bánh tẻ khoảng từ 0-20%.
Hơn nữa, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong chè nguyên liệu đa số còn cao
hơn ngưỡng cho phép. Hiện sản phẩm chè chế biến gồm có 7 cấp chất lượng
đối với chè xanh: OP, P, FPOP, PS, BPS, F và D nhưng chủ yếu phục vụ thị
trường nội địa, một phần được xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Đài Loan
như chè Ôlong, chè xanh Nhật Bản... Xuất khẩu vẫn chủ yếu là chè đen có 6
cấp chất lượng: OP, P, B, BPS, F và D, tuy nhiên chất lượng chè đen hiện nay
chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Chè chất lượng tốt (P, OP,
FBOP) chiếm tỷ trọng thấp, dưới 50% lượng chè xuất khẩu. Chất lượng chè
hiện nay chưa thật ổn định; các chỉ tiêu về tạp chất cao hơn so với quy định;
hương vị, màu sắc chưa thật sự hấp dẫn khách hàng. Nguyên nhân chính là
giống chè chưa tốt, giống chè trung du, giống PH1 chỉ cho chất lượng trung
bình chiếm tới trên 60%, các giống chè Shan, chè nhập nội, LDP1, LDP2...
chất lượng tốt nhưng sản lượng còn ít... Một số nơi chè nguyên liệu thu hái
già, vận chuyển dập, ôi, ngót. Ngoài một số thiết bị chế biến mới được nâng
cấp ở một số nhà máy, còn lại đều cũ, lạc hậu, đã ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng sản phẩm.
Hơn nữa, có một số DN kinh doanh chè bằng cách tăng cường tính năng

động về giá cả để thu hút khách hàng từ các đối thủ cạnh tranh khác bằng việc
hạ giá bán sản phẩm, ít chú ý đến chất lượng. Ban đầu, các công ty này đã tạo
ra cho mình được một thị phần nhất định. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
hợp đồng với khách hàng do không chủ động được nguồn hàng, một số công
ty đã từ chối thực hiện các cam kết của mình đối với khách hàng bằng cách
giao hàng kém chất lượng hơn so với mẫu hàng hai bên đã thoả thuận hoặc
không giao hàng đúng thời hạn, vì vậy đã mất khách hàng và thị phần, ảnh
hưởng đến uy tín của chè Việt Nam.
Sản xuất chè hiện còn gặp nhiều trở ngại do kỹ thuật canh tác lạc hậu của
người dân. Tỷ lệ sử dụng phân bón còn thấp, chỉ gần 30% diện tích trồng chè
của Việt Nam được bón phân. Trong khi đó lượng thuốc trừ sâu sử dụng lại
không cân đối, nhiều hộ (chủ yếu là những hộ làm việc với các doanh nghiệp
nhà nước [DNNN]) sử dụng quá nhiều thuốc trừ sâu so với định mức quốc tế.
Việc sử dụng quá nhiều thuốc trừ sâu không chỉ làm giảm khả năng thâm
nhập các thị trường lớn khó tính như Liên minh châu Âu (nơi có các quy định
rất khắt khe về lượng tồn dư hoá chất trong chè) mà còn gây tác động xấu tới
những người sản xuất đang nỗ lực theo hướng sản xuất chè hữu cơ ở các vùng
sản xuất lớn vì sâu bệnh sẽ lan sang vùng trồng cây không được phun thuốc.
Mặc dù nước tưới không phải là vấn đề lớn đối với ngành chè vì chè chủ yếu
tăng trưởng nhờ mưa, tình trạng thiếu giếng đào ở một số vùng đã cản trở việc
sản xuất chè suốt cả năm và khiến người sản xuất không tận dụng được các
thời điểm giá lên cao vào mùa khô.
Vừa qua, Hiệp hội Chè Việt Nam đã làm lễ công bố thương hiệu chè
Việt Nam “Cheviet”. Đây được coi như một bước ngoặt quan trọng của ngành
chè Việt Nam. Bởi từ nay trên thị trường thế giới, sản phẩm chè của Việt
Nam sẽ được khách hàng biết đến bởi chính thương hiệu của quốc gia mình,
có nghĩa là danh đã chính. Tuy nhiên, việc xây dựng thương hiệu cho sản
phẩm không phải chỉ đơn thuần là công bố mà nó phải được xây dựng một
cách công phu, nghiêm túc. Với tình hình thực tế thì để tạo dựng được hình
ảnh tốt, khẳng định được vị thế của Cheviet, ngành chè còn nhiều việc phải

làm
1.3.3. Quy định pháp lý
Hoạt động xuất khẩu mang lại lợi ích to lớn cho quốc gia vì vậy không
chỉ Việt Nam mà các quốc gia trên thế giới đều có chính sách khuyến khích
xuất khẩu. Trong điều 16 luật thương mại về chính sách ngoại thương Việt
Nam đã nêu rõ: Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng
xuất khẩu và tham gia xuất khẩu hàng hóa theo quy định của pháp luật; có
chính sách ưu đãi để đẩy mạnh xuất khẩu tạo các mặt hàng xuất khẩu có sức
cạnh tranh; hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được
và có khả năng đáp ứng nhu cầu.
Ngày nay hoạt động xuất khẩu chè nói riêng và hoạt động xuất khẩu nói
chung chịu sự ràng buộc của rất nhiều quy định pháp lý do sự hội nhập sâu
rộng của Việt Nam vào thị trường thế giới. Nước ta đã tham gia vào các tổ
chức, thực hiện ký kết các hiệp định quốc tế như: hiệp định về mậu dịch tự
do ASEAN – AFTA, hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn cầu giữa Trung
Quốc và ASEAN…Những hiệp định đó mở ra một thị trường mới, hướng đi
mới cho hoạt động xuất khẩu chè và cũng là thách thức đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu chè.
Với việc gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam phải
cam kết các hiệp định về áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật
(SPS), hiệp định sở hữu trí tuệ, hiệp định về các biện pháp kỹ thuật trong
thương mại (TBT)…Gia nhập WTO bên cạnh những thuận lợi thì sản phẩm
chè Việt Nam cũng gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi cao hơn về chất
lượng, quy cách, mẫu mã, thương hiệu sản phẩm…

×