Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

tài liệu ôn tập luật kinh tế cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (885.84 KB, 91 trang )

ÔN TẬP LUẬT KINH TẾ CAO HỌC
1. Phân tích khái niệm thương nhân theo quan niệm pháp luật thương
mại hiện hành. So sánh khái niệm thương nhân với khái niệm chủ thể
kinh doanh và doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2005.
Câu 1
2. Các quyền nghĩa vụ của doanh nghiệp theo LDN 2005.
Câu 2
3. Nhà kinh doanh và việc tuân thủ các quy định của Luật Cạnh tranh.
Những nội dung cơ bản của Luật Cạnh tranh; thế nào là hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
Cau3_Nhóm 6 Cau3_Nhóm 7
4. Hiện nay, việc vi phạm quyền sở hữu công nghiệp bị xử lý như thế
nào? Phân tích cả khía cạnh biện pháp hành chính, dân sự và hình sự.
Câu 4_v1 Câu 4_v2
5. Quy trình tố tụng cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh. Bình luận về tính
hiệu quả của tố tụng cạnh tranh ở nước ta hiện nay.
Câu 5
6. Phân tích và chỉ ra những đặc điểm cơ bản của các loại công ty. So
sánh các loại công ty về các khía cạnh: vốn và bộ máy quản trị công
ty. Đánh giá về hiện trạng chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty
TNHH hoặc CTCP theo quy định của LDN.
Câu 6_Nhóm 8 Câu 6_Nhóm 9
7. Khảo sát về quan hệ nội bộ trong công ty: nguyên tắc tỷ lệ vốn – tỷ lệ
quyền lực, sự bảo vệ của PL đối với cổ đông/thành viên công ty.
Câu 7_Nhóm 10 Câu 7_Nhóm 11
8. Phân tích định nghĩa, đặc tính của một số đối tượng sở hữu trí tuệ:
Sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa. Vấn đề chuyển
giao công nghệ và việc bảo hộ, khai thác quyền sở hữu trí tuệ.
Câu 8
9. Các phương thức giải quyết tranh chấp: tòa án và trọng tài. So sánh
những điểm khác biệt. Vai trò hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động


trọng tài thương mại.
Câu 9
Chúc các bạn thành công.
TS. LÊ VĂN HƯNG
Câu 1:
Thương nhân Chủ thể kinh doanh Doanh nghiệp
Khái niệm Thương nhân
theo khoản 1, Điều 6 Luật
thương mại 2005:
“Thương nhân bao gồm tổ
chức kinh tế được thành lập
một cách hợp pháp,cá
nhân hoạt động thương mại
một cách độc lập,thường
xuyên và có đăng kí kinh
doanh”
Điều 7 của Luật thương mại
2005 qui định: “Thương
nhân có nghĩa vụ đăng kí
kinh doanh theo quy định
của pháp luật. Trường hợp
chưa đăng kí kinh doanh,
thương nhânvẫn phải chịu
trách nhiệm về mọi hoạt
động của mình theo quy
định của luật này và những
quy định của các luật khác”
Khái niệm Chủ thể kinh
doanh:
Chủ thể kinh doanh là cá

nhân, tổ chức kinh tế
được pháp luật thừa
nhận trên thực tế có hoạt
động kinh doanh nhằm
mục đích kiếm lợi.
Khái niệm Doanh
nghiệp theo khoản 1,
Điều 4 Luật Doanh
nghiệp 2005:
Doanh nghiệp là tổ
chức kinh tê có tên
riêng, có tài sản, có trụ
sở giao dịch ổn định
được đăng kí kinh
doanh theo qui định
của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các
hoạt động kinh doanh
Giống nhau: khái niệm Chủ thể kinh doanh bao hàm khái niệm Thương nhân và
khái niệm Doanh nghiệp, do đó có sự giống nhau:
+ Đều mang tính hợp pháp, được pháp luật thừa nhận.
+ Về mục đích hoạt động: thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi
nhuận, như trong khoản 2, điều 4 của Luật Doanh nghiệp 2005 có nêu : “kinh
doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi”.
+ Trong hoạt động, đều tự chủ trong kinh doanh, sử dụng lao động, tự chịu trách
nhiệm.
+ Đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng trước pháp luật.
Khác nhau: khái niệm Chủ thể kinh doanh bao hàm khái niệm Thương nhân và

khái niệm Doanh nghiệp. Nhưng không phải tất cả Chủ thể kinh doanh đều là
Thương nhân và Doanh nghiệp. Cá nhân là Chủ thể kinh doanh, có thể là Thương
nhân nếu có đăng kí kinh doanh, nhưng cá nhân không thể gọi là Doanh nghiệp
bởi Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế.
+ Về cơ cấu tổ chức, đặc điểm:
Thương nhân gồm cá nhân,
tổ chức kinh tế. Ví dụ:
Cá nhân: Nhà đầu tư chứng
Chủ thể kinh doanh
gồm cá nhân, tổ chức
kinh tế.
Doanh nghiệp là tổ
chức kinh tế, có tên
riêng, có trụ sở giao
khoán, …
Tổ chức kinh tế: Các Công
ty môi giới chứng khoán, …
dịch ổn định. Ví dụ các
Công ty TNHH MTV,
Công ty Cổ Phần…
+ Về việc đăng ký kinh doanh
Theo khoản 1, Điều 6 Luật
thương mại 2005: Đăng kí
kinh doanh là điều kiện để
chủ thể kinh doanh trở
thành thương nhân.
Chủ thể kinh doanh có
thể đăng ký hoặc không
đăng ký kinh doanh. Ví
dụ một số các hộ buôn

bán nhỏ lẻ được pháp
luật thừa nhận trên thực
tế có hoạt động kinh
doanh nhằm mục đích
kiếm lợi nhưng có thể
không đăng kí kinh
doanh. Theo khoản 1,
Điều 6 Luật thương mại
2005: Những chủ thể
kinh doanh hoạt động
thương mại một cách độc
lập thường xuyên nhưng
ko đăng kí kinh doanh thì
ko được công nhận là
thương nhân. Nếu ko
đăng kí kinh doanh các
chủ thể kinh doanh vẫn
hoạt động thương mại
một cách độc lập thường
xuyên vẫn phải gánh vác
những nghĩa vụ của một
thương nhân, trong khi
các chủ thể này ko đủ
điều kiện của thương
nhân.
Theo khoản 1, Điều 9
của luật Doanh Nghiệp:
Đăng kí kinh doanh là
điều kiện để chủ thể
kinh doanh trở thành

Doanh nghiệp, để
Doanh nghiệp xác lập
tư cách pháp lý với nhà
nước. Sau khi đăng ký,
Doanh nghiệp phải hoạt
động kinh doanh theo
đúng ngành, nghề đã
ghi trong Giấy chứng
nhận đăng kí kinh
doanh.
Câu 2:
Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp năm 2005
Chủ quyền của doanh nghiệp được xác định từ nhiều chế định khác nhau của pháp luật
kinh doanh, song cơ bản vẫn là các quy định về quyền, nghĩa vụ tại Điều 8 và Điều 9
LDN 2005.
1. Quyền của doanh nghiệp
LDN 2005 ghi nhận các quyền của doanh nghiệp tại Điều 8 với những nội dung sau:
(1) Doanh nghiệp được tự chủ trong họat động kinh doanh và phát triển thị trường bằng
các quyền cơ bản: Tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình
thức kinh doanh, đầu tư; chủ động mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh doanh; được
Nhà nước khuyến khích, ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng
sản phẩm, dịch vụ công ích; Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp
đồng; Kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu.
(2) Trong việc quản lý, điều hành nội bộ, doanh nghiệp được quyền tự quyết nhằm nâng
cao khả năng kinh doanh và năng lực cạnh tranh, bao gồm các quyền: Tự chủ quyết định
các công việc kinh doanh và quan hệ nội bộ; Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của
doanh nghiệp; Chủ động ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả
kinh doanh và khả năng cạnh tranh; Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu
kinh doanh.
(3) Các doanh nghiệp được quyền họat động trong môi trường kinh doanh lành mạnh,

bình đẳng và ổn định. Theo đó, doanh nghiệp có quyền: Từ chối mọi yêu cầu cung cấp
các nguồn lực không được pháp luật quy định; Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp
luật về khiếu nại, tố cáo; Trực tiếp hoặc thông qua người đại diện theo uỷ quyền tham
gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp
Với tư cách là đơn vị kinh doanh trên thị trường, doanh nghiệp không tồn tại đơn lẻ, địa
vị pháp lý của doanh nghiệp luôn được xác định trong mối quan hệ với các chủ thể khác
trong sinh hoạt thị trường và đời sống xã hội. Pháp luật phải giải quyết hài hòa, hợp lý về
lợi ích giữa các chủ thể tham gia thị trường để không ai có thể vì lợi ích của mình xâm
hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Dưới góc độ lý thuyết, các nghĩa vụ
được coi là trách nhiệm và giới hạn quyền của doanh nghiệp trong những quan hệ giữa họ
với nhà nước, với người lao động, các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng. Cụ thể là:
(1) Với hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế, các doanh nghiệp có nghĩa vụ hoạt động
kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện; Đăng ký mã số thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các
nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật; Tuân thủ quy định của pháp luật về
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ di
tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh.
Tự do kinh doanh không có nghĩa là tự do vô tổ chức, mà luôn được đặt trong trật tự của
thị trường để bảo đảm sự phát triển có định hướng của thị trường với vai trò quản lý của
nhà nước. Những nghĩa vụ kể trên có hai ý nghĩa cơ bản: thứ nhất, doanh nghiệp bảo đảm
thực hiện đúng cam kết với nhà nước khi đăng ký kinh doanh. Lý thuyết về tự do kinh
doanh đã cho doanh nghiệp quyền chủ động lựa chọn ngành nghề và tự kê khai nội dung
đăng ký kinh doanh. Với nhà nước, thủ tục đăng ký kinh doanh cung cấp các thông tin
cần thiết về thị trường làm cơ sở cho hoạt động quản lý và xây dựng các chính sách phát
triển thị trường hiệu quả. Đối với doanh nghiệp, thủ tục đăng ký kinh doanh xác lập tư
cách cho doanh nghiệp, đồng thời, nội dung kê khai khi đăng ký còn là những cam kết
của doanh nghiệp trước nhà nước. Vì lẽ ấy, doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện đúng
những gì đã cam kết; thứ hai, doanh nghiệp bảo đảm trách nhiệm vật chất đối với hoạt

động quản lý của nhà nước và cộng đồng.
(2) Tôn trọng lợi ích của xã hội, các doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ: Bảo đảm
quyền, lợi ích của người lao động theo quy định của pháp luật về lao động; thực hiện chế
độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm khác cho người lao động theo quy định
của pháp luật về bảo hiểm; Bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá, dịch
vụ theo tiêu chuẩn đã đăng ký hoặc công bố. Trong quan hệ với người lao động, các
nghĩa vụ của doanh nghiệp không còn là việc nội bộ của họ mà là trách nhiệm có tính
cộng đồng. Mặt khác, các chuẩn mực về lao động như vấn đề vấn đề bảo hiểm y tế, bảo
hiểm xã hội và các quy chuẩn chất lượng hàng hóa … luôn phản ánh các chính sách xã
hội của quốc gia mà bất cứ nhà nước nào cũng theo đuổi, góp phần khắc phục các khuyết
tật của thị trường.
(3) Trách nhiệm minh bạch hóa thông tin. Sự thay đổi trong nhận thức và pháp luật về vai
trò quản lý nhà nước theo hướng mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp đòi hỏi thị
trường phải có được cơ chế giám sát xã hội, nhằm ngăn chặn mọi nguy cơ đe dọa đến trật
tự và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác trên thị trường. Một cơ chế giám sát xã hội
hiệu quả phải bảo đảm sự minh bạch và trung thực về thông tin cho mọi thành viên tham
gia thị trường bao gồm doanh nghiệp, nhà đầu tư và người tiêu dùng… Vì thế, LDN 2005
quy định các nghĩa vụ cho doanh nghiệp bao gồm: Tổ chức công tác kế toán, lập và nộp
báo cáo tài chính trung thực, chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về kế
toán; Thực hiện chế độ thống kê theo quy định của pháp luật về thống kê; định kỳ báo
cáo đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo mẫu quy định; khi phát hiện các thông tin đã kê khai
hoặc báo cáo thiếu chính xác, chưa đầy đủ thì phải kịp thời sửa đổi, bổ sung các thông
tin đó.
3. Ý nghĩa và một số đánh giá
Điểm qua các quyền của doanh nghiệp được pháp luật quy định nhằm đưa ra một vài
đánh giá sau:
Một là, LDN 2005 có đối tượng áp dụng bao gồm các loại doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế. Vì thế, sự ghi nhận các quyền, nghĩa vụ nói trên của doanh nghiệp trong
pháp luật sẽ áp dụng thống nhất đối với tất cả các chủ thể kinh doanh gọi là doanh

nghiệp, cho dù thuộc bất cứ hình thức sở hữu nào để tạo ra một trật tự chung trong cạnh
tranh trên thị trường. Mặt khác, trên tinh thần giảm tối đa khả năng can thiệp từ phía công
quyền vào hoạt động kinh doanh và quản trị nội bộ của doanh nghiệp, pháp luật có xu
hướng mở rộng chủ quyền của doanh nghiệp và xây dựng cơ chế bảo hộ cho chủ quyền
đó. Do đó, nội hàm của các quyền được pháp luật mô tả rộng hơn với những ghi nhận
thêm các quyền mới cho doanh nhân.
Hai là, bằng việc ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cho doanh nghiệp, pháp luật đã xác lập
mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà nước mà chúng ta quen gọi là quan hệ về quốc
tịch. Trong giới hạn về đối tượng áp dụng, luật doanh nghiệp xây dựng cơ chế đăng ký
kinh doanh để xác lập quốc tịch cho doanh nghiệp. Mặc dù không còn tình trạng chia cắt
pháp luật về doanh nghiệp theo hình thức sở hữu, song điều đó không có nghĩa là luật
doanh nghiệp áp dụng cho cả các doanh nghiệp nước ngoài có hoạt động trên thị trường
Việt Nam. Những chế định trong luật doanh nghiệp chỉ áp dụng đối với những doanh
nghiệp được thành lập theo luật doanh nghiệp, tức là những doanh nghiệp có mang quốc
tịch Việt Nam thuộc những thành phần kinh tế và hình thức sở hữu khác nhau, kể cả sở
hữu có yếu tố vốn nước ngoài. Các doanh nghiệp có quốc tịch nước ngoài khi có các hoạt
động kinh doanh mà không thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam sẽ chịu sự điều chỉnh
của các quy định liên quan đến hoạt động của họ như pháp luật thương mại …
Ba là, về kỹ thuật lập pháp, các quyền cơ bản mà pháp luật đã liệt kê có nội hàm rất rộng
và khái quát. ở góc độ tích cực, cách tiếp cận này là hợp lý bởi nguyên tắc tự do kinh
doanh không cho phép tồn tại khung khổ mang tính chỉ huy theo kiểu của thời kỳ kế
hoạch hóa tập trung, mà đòi hỏi phải có sự giải phóng và tôn trọng các giá trị sáng tạo
của doanh nhân. Thế cho nên, nếu pháp luật có những quy định mang tính chỉ bảo cụ thể
các quyền của doanh nghiệp, thì những quy định đó sẽ trở thành công cụ để công quyền
điều khiển hành vi của doanh nhân. Chế định về quyền trong pháp luật doanh nghiệp chỉ
đơn giản là sự ghi nhận, tuyên bố của nhà nước về chủ quyền của doanh nghiệp. Tuy
nhiên, vẫn còn đâu đó những rủi ro cho số phận của pháp luật bởi sự tuỳ tiện trong cách
hiểu về nội dung từng quyền của doanh nghiệp, cả từ phía các cơ quan nhà nước lẫn
doanh nhân. Vì thế, nếu có bất kỳ sự xung đột nào trong nhận thức về nội hàm của các
quyền, nghĩa vụ nói trên đều phải trông chờ vào sự hướng dẫn từ các văn bản pháp luật

khác.
Bốn là, sự ghi nhận về quyền doanh nghiệp trong pháp luật còn là cam kết của nhà nước
trước doanh nhân về việc bảo đảm cơ hội kinh doanh và khả năng phát triển trong một
môi trường lành mạnh, ổn định. Các quy định của pháp luật về những quyền kể trên sẽ
chỉ trở thành hiện thực và có ý nghĩa đối với doanh nghiệp khi được công quyền bảo đảm
thực hiện bằng các cơ chế cần thiết và phù hợp. Nếu không, chúng sẽ chỉ là những tuyên
ngôn không có giá trị thực tế. Có thể nói rằng, việc xây dựng những cơ chế bảo đảm
quyền của doanh nghiệp tại Việt Nam còn bề bộn nhiều vấn đề cần giải quyết cả trong
nhận thức quản lý lẫn cơ chế thực hiện trên thực tế. Những tàn dư của cơ chế kinh tế kế
hoạch hóa vẫn ẩn khuất đâu đó trong bộ máy quản lý nhà nước làm cho nền hành chính
chưa thực sự mang bản chất phục vụ, vẫn còn dấu hiệu của cơ chế xin cho. Sự nhũng
nhiễu của các cán bộ quản lý đối với doanh nghiệp vẫn diễn ra, cho dù doanh nghiệp đã
được pháp luật thừa nhận quyền “từ chối mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không
được pháp luật quy định; khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố
cáo”. Mặt khác, với vai trò định hướng cho sự phát triển của thị trường, nhà nước còn
thực hiện nhiều chính sách phát triển kinh tế như chính sách thuế, chính sách hỗ trợ, ưu
đãi đầu tư… để bảo đảm cho doanh nghiệp thực hiện quyền của mình hiệu quả nhất.
Năm là, cho dù các quyền được quy định khái quát, chung chung và thiếu tính cụ thể,
song lại có ý nghĩa rất lớn đến việc hình thành năng lực kinh doanh và xác định chức
năng cho doanh nghiệp. Khảo sát nội dung Điều 8 LDN 2005, có thể thấy rằng, nhà nước
và pháp luật đã cam kết tôn trọng chủ quyền, sự độc lập và khả năng tự chủ của doanh
nghiệp, từ quyền sở hữu, quyền tự chủ kinh doanh đến các quyền liên quan đến quản lý,
lao động … Nếu suy diễn theo tư duy này, pháp luật về doanh nghiệp luôn có ý thức
đứng về phía doanh nghiệp để bảo vệ quyền lợi một cách tuyệt đối cho họ, cho dù là công
cụ để nhà nước quản lý đời sống kinh tế. Ngoài ra, các quyền của doanh nghiệp không
chỉ bao gồm những quyền được liệt kê tại Điều 8 LDN 2005, ngược lại, với tư duy mở,
hoạt động của doanh nghiệp được điều chỉnh trên nguyên tắc pháp luật không cấm thì
được thực hiện.
Câu 3-1
Tổng quan về Luật cạnh tranh

Cạnh tranh được thừa nhận là yếu tố đảm bảo duy trì tính năng động và hiệu quả của nền
kinh tế. Trong bối cảnh hiện tại của nền kinh tế Việt Nam, cạnh tranh lành mạnh và bình
đẳng đóng vai trò trụ cột, đảm bảo sự vận hành hiệu quả của cơ chế thị trường. Trong nỗ
lực tạo lập môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, ngày 03/12/2004, Quốc hội khóa
XI, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11 và Luật này đã có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 1/7/2005.
Với 6 chương, 123 Điều, Luật cạnh tranh được ban hành nhằm:
- Kiểm soát các hành vi gây hạn chế cạnh tranh hoặc các hành vi có thể dẫn đến việc gây
hạn chế cạnh tranh, đặc biệt khi mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế
- Bảo vệ quyền kinh doanh chính đáng của các doanh nghiệp, chống lại các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh
- Tạo lập và duy trì một môi trường kinh doanh bình đẳng
Để đạt được mục tiêu này, Luật Cạnh tranh phân các hành vi chịu sự điều chỉnh thành hai
nhóm hành vi là hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Đối
với nhóm hạn chế cạnh tranh, Luật điều chỉnh 3 dạng hành vi gồm thoả thuận hạn chế
cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung
kinh tế. Đối với nhóm cạnh tranh không lành mạnh, Luật điều chỉnh 10 hành vi, gồm chỉ
dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, ép buộc trong kinh doanh, gièm pha
doanh nghiệp khác…và các hành vi khác theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 của
Luật do Chính phủ quy định.
Về đối tượng điều chỉnh, Luật cạnh tranh áp dụng đối với 2 nhóm đối tượng, gồm tổ
chức, cá nhân kinh doanh (doanh nghiệp), kể cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản
phẩm, dịch vụ công ích; doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc
quyền nhà nước; và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam và hiệp hội ngành
nghề hoạt động ở Việt Nam. Ngoài ra, tại Điều 6, Luật Cạnh tranh cũng quy định các
hành vi bị cấm đối với cơ quan quản lý nhà nước.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật cạnh tranh
Theo định nghĩa tại khoản 4, Điều 3, Luật cạnh tranh: Hành vi cạnh tranh không lành
mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các
chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại

đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người
tiêu dùng.
Theo cách tiếp cận này, Điều 39 (Hành vi cạnh tranh không lành mạnh), Luật Cạnh
tranh đã liệt kê các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bao gồm:
1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
2. Xâm phạm bí mật kinh doanh;
3. Ép buộc trong kinh doanh;
4. Gièm pha doanh nghiệp khác;
5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
8. Phân biệt đối xử của hiệp hội;
9. Bán hàng đa cấp bất chính;
10. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều
3 của Luật này do Chính phủ quy định.
Hành vi hạn chế cạnh tranh
Theo khoản 3, Điều 3 của Luật cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của
doanh nghiệp làm giảm, sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. Các hành vi
thuộc nhóm hạn chế cạnh tranh bao gồm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí
thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế kinh tế.
1. Thoả thuận hạn chế cạnh tranh
2. Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
3. Lạm dụng vị trí độc quyền
4. Tập trung kinh tế
Các hành vi này được quy định cụ thể tại Nghị định của Chính phủ số 116/2005/NĐ-CP
ngày 15/09/2005.
Doanh nghiệp vi phạm các quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh có thể bị xử phạt với
mức rất cao, lên tới 10% tổng doanh thu của (các) doanh nghiệp vi phạm trong năm tài
chính. Ngoài ra, doanh nghiệp vi phạm có thể phải chịu các hình thức xử phạt bổ sung
như thu hồi giấy chứng nhận kinh doanh và các biện pháp khắc phục hậu quả như buộc

cơ cấu lại doanh nghiệp, buộc bán lại phần doanh nghiệp đã mua, buộc chia, tách doanh
nghiệp đã tiến hành hợp nhất, sáp nhập
Thế nào là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp?
Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp được quy định tại
Khoản 1 Điều 130 của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, bao gồm:
1. Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh
doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ.
2. Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất
lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp
hàng hoá, dịch vụ.
3. Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có
quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu
đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là
người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được
sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng
4. Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây
nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa
lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng
hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý
tương ứng.
Câu 3_2:
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT CẠNH TRANH
1. Pháp luật cạnh tranh
a) Để tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, pháp luật cạnh tranh được nhấn mạnh
như một công cụ quan trọng hàng đầu. Chính sách cạnh tranh là bộ phận không thể
thiếu của nền tảng pháp lý đảm bảo cho một nền kinh tế thị trường vận hành trôi
chảy. Pháp luật cạnh tranh có nhiệm vụ ngăn ngừa và xử lý những hành vi cạnh tranh
trái pháp luật, trái đạo đức và tập quán kinh doanh của các doanh nghiệp.
b) Cơ cấu nội dung của pháp luật cạnh tranh
Pháp luật cạnh tranh có những nội dung chính là:

- Pháp luật kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh
- Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh;
- Pháp luật về tố tụng cạnh tranh.
2. Kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh
2.1. Khái niệm:
Hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh
trên thị trường[2].
Đối với những hành vi hạn chế cạnh tranh, pháp luật quy định về các hành vi như thế
nào là hạn chế cạnh tranh, những hành vi nào bị cấm tuyệt đối và những hành vi bị
cấm nhưng có những trường hợp được miễn trừ (có thời hạn và không có thời hạn)
khi đạt những điều kiện nhất định.
2.2. Các hành vi hạn chế cạnh tranh
a) Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Cơ chế kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn nguy cơ các doanh nghiệp lạm dụng quyền tự
do hợp đồng để xác lập những thỏa thuận hạn chế khả năng tham gia thị trường của
các đối thủ cạnh tranh tiềm năng, tìm cách loại bỏ một số đối thủ nào đó trên thương
trường, hạn chế hay thủ tiêu sự cạnh tranh giữa những đối thủ cạnh tranh. Theo Luật
Cạnh tranh, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:
- Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
- Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch
vụ;
- Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng
hoá, dịch vụ;
- Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
- Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng
hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
- Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường
hoặc phát triển kinh doanh;
- Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của

thoả thuận;
- Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp
hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Tuy nhiên, không phải mọi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đều bị cấm một cách tuyệt
đối. Việc cấm tuyệt đối (không có miễn trừ, không có ngoại lệ) chỉ áp dụng đối với
những loại thỏa thuận về ngăn cản, kìm hãm, không cho đối thủ tiềm năng tham gia
thương trường, không được phát triển, mở rộng kinh doanh; thỏa thuận loại bỏ các
doanh nghiệp nằm ngoài thỏa thuận (tẩy chay) hoặc thông đồng để một hoặc các bên
thắng thầu trong cung cấp hàng hóa, cung cấp dịch vụ. Những loại thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh còn lại chỉ bị cấm khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên
thị trường liên quan từ 30% trở lên[3]. Những thỏa thuận liên quan đến thị phần liên
quan dưới 30% là hợp pháp.
b) Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Khi một doanh nghiệp tồn tại trên thị trường liên quan với một thị phần và phạm vi
ảnh hưởng lớn nhất định sẽ dẫn đến nguy cơ doanh nghiệp này lạm dụng thế mạnh
của mình để thực hiện các hành vi cạnh tranh gây bất lợi cho các đối thủ cạnh tranh,
khách hàng và có tác động tiêu cực đến thị trường. Theo Luật Cạnh tranh, doanh
nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên
thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể.
Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động
nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan;
- Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan;
- Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan.
Khi được coi là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp sẽ bị cấm
lạm dụng vị trí này để hạn chế cạnh tranh. Theo Điều 13 Luật Cạnh tranh, những
hành vi bị cấm đối với doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường (bao gồm doanh
nghiệp độc lập và nhóm doanh nghiệp) là:
- Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh
tranh;

- Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối
thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;
- Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát
triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
- Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình
đẳng trong cạnh tranh;
- Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch
vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp
đến đối tượng của hợp đồng;
- Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.
c) Lạm dụng vị trí độc quyền
Mức độ cao nhất của thống lĩnh thị trường là vị trí độc quyền. Theo Luật Cạnh tranh,
doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh
tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên
quan[4]. Khi doanh nghiệp có vị trí độc quyền thì ngoài các hành vi bị cấm như đối
với trường hợp doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, doanh nghiệp (có vị trí độc quyền)
còn bị cấm thực hiện các hành vi sau:
- Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;
- Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết
mà không có lý do chính đáng.
d) Tập trung kinh tế
Theo Luật Cạnh tranh (Điều 16), tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp, bao
gồm:
- Sáp nhập doanh nghiệp;
- Hợp nhất doanh nghiệp;
- Mua lại doanh nghiệp;
- Liên doanh giữa các doanh nghiệp;
- Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Tập trung kinh tế là hiện tượng tất yếu trong kinh tế thị trường. Tuy nhiên, tập trung
kinh tế tiềm ẩn khả năng hình thành các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh và độc

quyền. Việc hợp nhất hay sáp nhập giữa các doanh nghiệp là con đường nhanh nhất
để tạo khả năng độc quyền của một doanh nghiệp mới. Vì vậy, pháp luật cạnh tranh
luôn có nhiệm vụ kiểm soát tập trung kinh tế.
Theo quy định của Luật Cạnh tranh, không phải mọi trường hợp tập trung kinh tế đều
bị pháp luật ngăn cản. Tùy thuộc vào mức độ tập trung kinh tế và khả năng phá vỡ sự
cân bằng của cơ cấu thị trường mà sự giám sát này có thể được thực hiện ở nhiều mức
độ khác nhau. Tập trung kinh tế được chia thành nhiều nhóm với cách thức và mức
độ kiểm soát có sự khác nhau, cụ thể là:
- Các trường hợp tập trung kinh tế được tự do thực hiện;
- Các trường hợp tập trung kinh tế được thực hiện sau khi được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xem xét chấp nhận;
- Cho hưởng miễn trừ đối với một số trường hợp tập trung kinh tế thuộc diện bị cấm;
- Các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm tuyệt đối (không có ngoại lệ)[5].
3. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
3.1. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong
quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh,
gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng[6].
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có các dấu hiệu cơ bản sau:
- Là hành vi của doanh nghiệp nhằm mục đích cạnh tranh;
- Nhằm vào đối thủ cạnh tranh cụ thể, xác định được;
- Trái với các chuẩn mực đạo đức kinh doanh hoặc trái với pháp luật (cũng là trái đạo
đức);
- Gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh hoặc cho người tiêu
dùng.
Pháp luật quy định nội dung của các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cụ thể. Mọi
hành vi cạnh tranh không lành mạnh đều bị cấm tuyệt đối, không có sự miễn trừ.
Chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh là một quyền pháp lý của người kinh
doanh.

3.2. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
a) Chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Là hành vi sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại,
khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố
khác theo quy định của pháp luật để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng
hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh
b) Xâm phạm bí mật kinh doanh
Theo Luật Cạnh tranh (Khoản 3 Điều 10) bí mật kinh doanh là thông tin có đầy đủ
các điều kiện: (i) Không phải là hiểu biết thông thường; (ii) Có khả năng áp dụng
trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin đó có lợi
thế hơn so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng thông tin đó; (iii) Được chủ
sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết lộ và không
dễ dàng tiếp cận được.
Doanh nghiệp bị cấm thực hiện các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh sau đây:
- Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện
pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó;
- Tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở
hữu bí mật kinh doanh;
- Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ
bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ
sở hữu bí mật kinh doanh đó;
- Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người này
làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục lưu
hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà
nước hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy phép
liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.
c) Ép buộc trong kinh doanh
Các hành vi ép buộc, đe doạ khách hàng và đối tác kinh doanh của đối thủ cạnh tranh
để bắt họ không được giao dịch hoặc ngừng giao dịch với đối thủ cạnh tranh được coi
là hành vi cạnh tranh không lành mạnh và bị pháp luật nghiêm cấm. Luật Cạnh tranh

(Điều 42) quy định: "Cấm doanh nghiệp ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của
doanh nghiệp khác bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch
hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó".
d) Gièm pha doanh nghiệp khác
Theo Luật Cạnh tranh (Điều 43), các doanh nghiệp bị cấm gièm pha doanh nghiệp
khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh
hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
đó.
đ) Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Theo Luật Cạnh tranh (Điều 44), các doanh nghiệp bị cấm gây rối hoạt động kinh
doanh hợp pháp của doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở,
làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó
e) Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Với bản chất là một hoạt động xúc tiến thương mại (là quá trình thông tin nhằm định
hướng hành vi mua, bán hàng hóa và sử dụng dịch vụ của khách hàng), quảng cáo là
phương pháp quan trọng giúp doanh nghiệp cạnh tranh, giành thị phần cho mình trên
thị trường hàng hoá, dịch vụ. Nhằm đạt được mục tiêu xúc tiến thương mại ở mức độ
tối ưu, doanh nghiệp dễ có thể thực hiện quảng cáo không trung thực về giá trị và chất
lượng thật của hàng hóa, sản phẩm với tính chất cạnh tranh không lành mạnh. Theo
Luật Cạnh tranh (Điều 45), các doanh nghiệp bị cấm thực hiện các hoạt động quảng
cáo sau đây:
- So sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của
doanh nghiệp khác;
- Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng;
- Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các nội
dung sau đây:
+ Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất,
thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi
gia công; cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành;
+ Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành;

+ Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.
- Các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật có quy định cấm.
g) Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Theo Luật Cạnh tranh (Điều 46), các doanh nghiệp bị cấm thực hiện các hoạt động
khuyến mại sau đây:
- Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng;
- Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối
khách hàng;
- Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến
mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;
- Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá
cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng
hàng hóa của mình;
- Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm.
h) Phân biệt đối xử của hiệp hội
Hiệp hội ngành nghề bao gồm hiệp hội ngành hàng và hiệp hội nghề nghiệp, gọi
chung là hiệp hội, được thành lập trên cơ sở sự tự nguyện của các doanh nghiệp thành
viên có chung lợi ích, là nơi cung cấp các thông tin đã được xử lý về các lĩnh vực trên
thị trường trong nước và quốc tế, nơi học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giữa các doanh
nghiệp. Với vai trò của mình, thông qua những hành động nhất định, hiệp hội có thể
tạo ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Theo Luật Cạnh
tranh (Điều 47), hiệp hội ngành nghề bị cấm thực hiện các hành vi sau đây:
- Từ chối doanh nghiệp có đủ điều kiện gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội nếu việc từ
chối đó mang tính phân biệt đối xử và làm cho doanh nghiệp đó bị bất lợi trong cạnh
tranh;
- Hạn chế bất hợp lý hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động khác có liên quan tới
mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên.
i) Bán hàng đa cấp bất chính
Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều kiện sau
đây:

- Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người tham gia
bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau;
- Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu
dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa
điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia;
- Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích
kinh tế khác từ kết quả tiếp thị, bán hàng của mình và của người tham gia bán hàng đa
cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được doanh nghiệp
bán hàng đa cấp chấp thuận.
Bán hàng đa cấp chỉ bị cấm trong trường hợp được thực hiện một cách không lành
mạnh. Theo Luật Cạnh tranh (Điều 48), doanh nghiệp bị cấm thực hiện các hành vi
sau đây nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới bán
hàng đa cấp:
- Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban
đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
- Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người
tham gia để bán lại;
- Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ
việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
- Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp,
thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia.
4. Tố tụng cạnh tranh
4.1. Khái niệm tố tụng cạnh tranh
Tố tụng cạnh tranh là hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo trình tự, thủ tục
giải quyết, xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định của pháp luật.
Tố tụng cạnh tranh tiến hành theo thủ tục hành chính có những điểm khác với thủ tục
tư pháp tại Tòa án và hiện hành được quy định trong Nghị định số 116/2005/NĐ-CP
ngày 15 tháng 9 năm 2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh.
Việc giải quyết vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh
tranh không lành mạnh thực hiện theo quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật

về xử lý vi phạm hành chính (Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Nghị
định 120/2005/NĐ-CP ngày 30 tháng 09 năm 2005 quy định về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực cạnh tranh).
Tố tụng cạnh tranh bao gồm những nội dung cơ bản sau[7]:
4.2. Các chủ thể tham gia tố tụng cạnh tranh
- Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh, bao gồm: Cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội
đồng cạnh tranh.
- Người tiến hành tố tụng cạnh tranh, bao gồm: Thành viên hội đồng cạnh tranh, thủ
trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh, điều tra viên và thư ký phiên điều trần.
- Người tham gia tố tụng cạnh tranh bao gồm: Bên khiếu nại, bên bị điều tra, Luật sư;
người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
4.3. Trình tự tố tụng cạnh tranh
a) Điều tra sơ bộ
Mỗi vụ việc cạnh tranh đều được bắt đầu bằng thủ tục điều tra sơ bộ. Điều tra sơ bộ
được thực hiện theo quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh và được
tiến hành bởi các điều tra viên. Thời hạn điều tra sơ bộ là 30 ngày kể từ ngày có
Quyết định điều tra sơ bộ. Căn cứ vào kết quả điều tra sơ bộ và kiến nghị của điều tra
viên, Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh ra một trong các quyết định sau đây:
- Đình chỉ điều tra nếu kết quả điều tra sơ bộ cho thấy không có hành vi vi phạm quy
định của Luật Cạnh tranh;
- Điều tra chính thức nếu kết quả điều tra sơ bộ cho thấy có dấu hiệu vi phạm quy
định của Luật cạnh tranh.
b) Điều tra chính thức
- Trong trường hợp vụ việc cạnh tranh được điều tra chính thức thì sẽ được giải quyết
theo hai hướng khác nhau, tùy thuộc vào loại hành vi vi phạm Luật cạnh tranh: (i)
Đối với vụ việc liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh thì trong thời hạn điều tra
là 90 ngày kể từ ngày có quyết định (trong trường hợp cần thiết Thủ trưởng cơ quan
quản lý cạnh tranh có thể gia hạn nhưng không quá 60 ngày), điều tra viên phải xác
định (có hay không) căn cứ cho rằng bên bị điều tra đã hoặc đang thực hiện hành vi

cạnh tranh không lành mạnh. Sau khi kết thúc điều tra, Thủ trưởng Cơ quan quản lý
cạnh tranh sẽ ban hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi
cạnh tranh không lành mạnh; (ii) Đối với vụ việc liên quan đến hạn chế cạnh tranh mà
có nguy cơ gây ảnh hưởng đến phát triển chung của cấu trúc thị trường thì Thủ trưởng
Cơ quan quản lý cạnh tranh phải chuyển báo cáo điều tra đến Hội đồng cạnh tranh để
giải quyết. Vụ việc cạnh tranh thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng cạnh tranh
phải được xem xét, xử lý thông qua phiên điều trần.
- Trường hợp qua điều tra phát hiện vụ việc cạnh tranh có dấu hiệu tội phạm, điều tra
viên phải kiến nghị với Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh xem xét chuyển hồ sơ
đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.
- Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự thấy có căn cứ
không được khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì phải
trả lại hồ sơ cho cơ quan quản lý cạnh tranh để tiếp tục điều tra theo thủ tục quy định
tại Luật Cạnh tranh.
- Các quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và của Thủ trưởng cơ quan
quản lý cạnh tranh đều có thể bị xem xét lại thông qua thủ tục khiếu nại hành chính.
Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại quyết định của Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh; Bộ trưởng Bộ Thương mại có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại đối với quyết định của thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh.
- Thời hạn điều tra chính thức: Đối với vụ việc cạn tranh không lành mạnh thời hạn là
90 ngày kể từ ngày có quyết định, trường hợp cần thiết, thời hạn có thể được thủ
trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh gia hạn nhưng không quá 60 ngày.
- Đối với vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường,
lạm dụng vị trí độc quyền hoặc tập trung kinh tế, thời hạn điều tra chính thức thời hạn
là 180 ngày, kể từ ngày có quyết định điều tra, trường hợp cần thiết, thời hạn này có
thể được thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh gia hạn nhưng không quá hai lần, mỗi
lần không quá 60 ngày.
- Việc gia hạn thời hạn điều tra, phải được điều tra viên thông báo đến tất cả các bên
có liên quan trong thời hạn chậm nhất là 7 ngày làm việc trước ngày hết hạn điều tra.
________________________________________

[1] Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Cạnh tranh; Nghị định của chính phủ Số 110/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8
năm 2005 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp; Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày
30/9/2005 về xử lý vi phạm hành chớnh trong lĩnh vực cạnh tranh; Nghị định số
05/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh; Nghị định số 05/2006/NĐ-CP
ngày 09/01/2006 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Cục quản lý cạnh tranh.
[2] Khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004.
[3] Các bên tham gia loại thỏa thuận này có thể làm thủ tục để được hưởng miễn trừ
có thời hạn.
[4] Điều 12 Luật Cạnh tranh 2004
[5] Xem các điều 18, 19, 20 Luật Cạnh tranh.
[6] Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004
[7] Xem Chương V (từ Điều 56 đến Điều 116) Luật Cạnh tranh 2004
THẾ NÀO LÀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP
Theo điều Điều 24. NĐ Số: 54/2000/NĐ-CP (CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 54/2000/NĐ-CP
NGÀY 03 THÁNG 10 NĂM 2000 VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI
VỚI BÍ MẬT KINH DOANH, CHỈ DẪN ĐỊA LÝ, TÊN THƯƠNG MẠI VÀ BẢO HỘ
QUYỀN CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH LIÊN QUAN TỚI SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP)
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp, bao gồm:
1. Sử dụng các chỉ dẫn thương mại để làm sai lệch nhận thức và thông tin về chủ thể kinh
doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ, nhằm mục đích:
a) Lợi dụng uy tín, danh tiếng của người sản xuất kinh doanh khác trong sản xuất kinh
doanh của mình;
b) Làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của người sản xuất kinh doanh khác trong sản xuất
kinh doanh của mình;

c) Gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc
điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho người
tiêu dùng trong quá trình nhận biết, chọn lựa hàng hoá, dịch vụ hoặc hoạt động kinh
doanh.
2. Chiếm đoạt, sử dụng thành quả đầu tư của người khác mà không được người đó cho
phép.
NHÀ KINH DOANH VÀ VIỆC TUÂN THỦ CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH
TRANH:
1. Nhà kinh doanh:
- “ Thương nhân gồm cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh
doanh hoạt động thương mại một các độc lập, thường xuyên”(LTM 1997)
- Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế đợc thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động
thương mại một cách độc lập, thờng xuyên và có đăng ký kinh doanh.( LTM
2005)
- Thương nhân – cá nhân( thể nhân):
+ Tự nhiên nhân
+ Năng lực pháp luật: Thời điểm phát sinh và chấm dứt; nội dung năng lực
pháp luật( họ tên- nơi cư trú- tình trạng nhân thân);
+ Năng lực hành vi: tuổi và năng lực nhận thức
* Người chưa có năng lực hành vi, người mất năng lực hành vi, người
hạn chế năng lực hành vi.
- Năng lực pháp luật và năng lực hành vi kinh doanh – các trường hợp loại trừ:
người vô năng, người bị cấm quyền, người bất khả kiêm nhiệm.
- Thương nhân – pháp nhân (chủ thể nhân tạo):
+ Khái niệm về pháp nhân – khế ước lập hội
+ Pháp nhân theo BLDS Việt Nam - là một tổ chức:
- Được thành lập hợp pháp;
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng
tài sản đó;

- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
- Các loại pháp nhân: Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang; tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị – xã hội; tổ chức kinh tế; tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp;
quỹ xã hội, quỹ từ thiện, . . .
THƯƠNG NHÂN – PHÁP NHÂN:
+ Phải có nhiều người tham gia;
+ Người tham gia phải góp vốn ( phần vốn góp – sự tách bạch giữa tài sản của
thành viên và tài sản của pháp nhân – việc chuyển sở hữu tài sản góp vốn cho
pháp nhân);
+ Mục đích kinh doanh.
* Vai trò của khế ước lập hội – Bản Điều Lệ.
* Việc hình thành và chấm dứt tư cách pháp nhân
NĂNG LỰC PHÁP LUẬT CỦA PHÁP NHÂN:
+ Tên gọi ( các quy định về tên doanh nghiệp trong Luật DN);
+ Trụ sở giao dịch ( chi nhánh và văn phòng đại diện);
+ Quốc tịch của pháp nhân ( khác với thể nhân, pháp nhân không có quyền huyết
thống chỉ có quyền nơi sinh, do vậy thường quốc tịch của pháp nhân được xác
định theo nơi đăng ký hoạt động; tuy nhiên cũng có những quan điểm khác );
“Quốc tịch của doanh nghiệp là quốc tịch của nước, vùng lãnh thổ nơi doanh
nghiệp thành lập, đăng ký kinh doanh”LDN 2005-Đ.4k.20.
+ Sản nghiệp của pháp nhân( tính độc lập về tài sản);
+ Quyền và nghĩa vụ của pháp nhân ( những khác biệt so với thể nhân);
+ Cơ chế ra quyết định của pháp nhân và vấn đề người đại diện của pháp nhân.
TÀI SẢN CỦA PHÁP NHÂN:
Tiền đồng VN, ngoại tệ chuyển đổi, vàng,…
Nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên- nhiên vật liệu,…
Quyền sử dụng đất
Công nghệ, bản quyền SHCN, bí quyết KT
Các quyền về tài sản khác
Định giá tài sản

Vốn pháp định
HỘ GIA ĐÌNH – CHỦ THỂ ĐẶC THÙ( đ. 105 BLDS 2005):
Là tổ chức bao gồm các thành viên có tài sản chung để hoạt động kinh tế
chung trong quan hệ sử dụng đất, trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong
một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác.
Tài sản chung: do thành viên cùng nhau tạo lập nên, được tặng cho chung, tài
sản được các thành viên thỏa thuận là tài sản chung.
Hộ gia đình chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung của hộ. Nếu tài sản
chung của hộ không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ thì các thành viên
phải liên đới chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của mình.
TỔ HỢP TÁC –CHỦ THỂ ĐẶC THÙ( đ. 111 BLDS 2005):
Là tổ chức của từ ba cá nhân trở lên, hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có
chứng thực của UBND cấp xã; các thành viên cùng góp tài sản, công sức để thực
hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm.
Tài sản của tổ hợp tác: do tổ viên đóng góp, cùng tạo lập, được tặng, cho
chung,
Tổ hợp tác chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung của tổ. Nếu tài sản
chung của tổ không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của tổ thì các tổ viên phải
chịu trách nhiệm liên đới theo phần tương ứng với phần vốn góp bằng tài sản
riêng của mình.
Nghị định 88/2006/NĐ-CP(29/08/2006): Hộ kinh doanh do một cá nhân là công
dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình lm chủ, chỉ được đăng
ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con
dấu v chịu trch nhiệm bằng tồn bộ ti sản của mình đối với hoạt động kinh doanh
2. Việc tuân thủ các quy định của luật cạnh tranh:
Theo luật cạnh tranh 2005:
+ Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản
trở cạnh tranh trên thị trờng, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trờng, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế.
- Thoả thuận hạn chế cạnh tranh,

- Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trờng, lạm dụng vị trí độc quyền,
- Tập trung kinh tế.
+ Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông th ờng về đạo đức kinh
doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nớc, quyền và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc ngời tiêu dùng.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Điều 39):
1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
2. Xâm phạm bí mật kinh doanh;
3. Ep buộc trong kinh doanh;
4. Gièm pha doanh nghiệp khác;
5. Gây rối hoạt động kinh doanh của DN khác;
6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
8. Phân biệt đối xử của hiệp hội;
9. Bán hàng đa cấp bất chính;
10. Các hành vi CT không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại LCT
do CP quy định.
+ Các hình thức xử phạt vi phạm pháp luật về cạnh tranh và các biện pháp khắc
phục hậu quả (Điều 117)
a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền.
Có thể bị một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Thu hồi GCN/DKKD, tớc quyền sử dụng GP, CC hành nghề;
b) Tịch thu tang vật, phơng tiện đợc sử dụng để vi phạm PL về CT.
Có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả sau( d.117 k.3):
a) Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường;
b) Chia, tách DN đã sáp nhập, hợp nhất; buộc bán lại phần DN đã mua;
c) Cải chính công khai;
d) Loại bỏ những điều khoản vi phạm PL ra khỏi hợp đồng hoặc giao dich
KD;

đ) Các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh
của hành vi vi phạm.
Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi
ích của Nhà nớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi
thờng thiệt hại theo quy định của pháp luật.
+ Mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật
về cạnh tranh (Điều 118)
1. Đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trờng, lạm dụng vị trí độc quyền hoặc tập trung kinh tế, cơ
quan có thẩm quyền xử phạt có thể phạt tiền tối đa đến 10% tổng doanh thu của tổ
chức, cá nhân vi phạm trong năm tài chính trớc năm thực hiện hành vi vi phạm.
2. Đối với hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh và các hành
vi khác vi phạm quy định của Luật này không thuộc trờng hợp quy định tại khoản
1 Điều này, cơ quan có thẩm quyền xử phạt tiến hành phạt tiền theo quy định của
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc theo quy định của pháp luật có liên
quan.
3. Chính phủ quy định cụ thể mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm quy định của
Luật này.

×