Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Tỷ giá và chính sách tỷ giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 85 trang )

MỤC LỤC
1

I. 
1. !"#$%&'()
Tỷ giá hối đoái (E) là giá cả của một đơn vị ngoại tệ được thể hiện bằng
một số đơn vị nội tệ,tức ngoại tệ đóng vai trò là đồng tiền yết giá,còn nội tệ
đóng vai trò là đồng tiền định giá.
Bản chất của tỷ giá hối đoái ở đây chính là một loại giá cả nhưng là giá
cả của hàng hóa đặc biệt, đó là tiền tệ
Dựa vào những căn cứ khác nhau người ta chia ra nhiều loại tỷ giá khác nhau:
* Căn cứ vào thời điểm mua/bán ngoại hối:

Tỷ giá mua vào (Bid rate): Là tỷ giá mà tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng mua
vào đồng tiền yết giá.

Tỷ giá bán ra (Ask/Offer rate): Là tỷ giá mà tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng
bán ra đồng tiền yết giá.
Tỷ giá mua vào bao giờ cũng thấp hơn tỷ giá bán ra và khoản chênh lệch
đó là lợi nhuận kinh doanh ngoại hối của ngân hàng.
* Căn cứ vào kỳ hạn thanh toán:

Tỷ giá giao ngay (Spot rate): là tỷ giá được thỏa thuận hôm nay, nhưng việc
thanh toán xảy ra trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo (T+2).

Tỷ giá kỳ hạn (Forward rate): là tỷ giá được thỏa thuận ngày hôm nay, nhưng
việc thanh toán xảy ra sau đó ba ngày trở lên.
* Căn cứ vào cơ chế điều hành chính sách tỷ giá:

Tỷ giá chính thức (Official rate): là tỷ giá do NHTW công bố, phản ánh chính
thức về giá trị đối ngaoij của đồng nội tệ. Ở Việt Nam, tỷ giá chính thức là tỷ


giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.

Tỷ giá chợ đen (Black market rate): là tỷ giá được hình thành bên ngoài hệ
thống ngân hang, do quan hệ cung cầu trên thị trường chợ đen quyết định.

Tỷ giá cố định (Fixed rate): là tỷ giá do NHTW công bố cố định trong một biên
độ giao động hẹp. Dưới áp lực của cung cầu trên thị trường, đẻ duy trì tỷ giá cố
định,
NHTW phải thường xuyên can thiệp lam cho dự trữ ngoại hối quốc gia
thay đổi.

Tỷ giá thả nổi hoàn toàn (Freely floating rate): là tỷ giá được hình thành hoàn
toàn theo quan hệ cung cầu trên thị trường, NHTW không hề can thiệp.

Tỷ giá thả nổi có điều tiết (Managed Floating rate): là tỷ giá được thả nổi,
nhưng NHTW tiến hành can thiệp để tỷ giá biến động theo hướng có lợi cho
nền kinh tế.
2
* Căn cứ vào giá trị của tỷ giá:

Tỷ giá danh nghĩa (Nominal exchange rate – NER): Là tỷ lệ tro đổi giữa hai
đồng tiền biểu hiện theo giá hiện tại, không tính đến bất kỳ ảnh hưởng nào của
lạm phát.

Tỷ giá thực (Real exchange rate – RER): Là tỷ giá có tính đến tác động của
lạm phát và sức mua của một cặp tiền tệ phản ánh tương quan giá cả nước
ngoài với giá cả trong nước. Qua đó, giá cả nước ngoài sẽ được chuyển đổi
thành giá cả tính bằng tiền tệ trong nước thông qua tỷ giá danh nghĩa. Tỷ giá
này đại diện cho khả năng cạnh tranh quốc tế của nước đó.
* Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối:


Tỷ giá điện hối (telegraphic transfer -T/T): là tỷ gía mua bán ngoại hối mà
ngân hàng có trách nhiệm chuyển ngoại hối bằng điện.

Tỷ giá thư hối (mail transfen M/T): là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng
có trách nhiệm chuyển ngoại hối bằng thư.
2. *+,-./)
a. Thuyết ngang giá vàng.
Trong thời kỳ bản vị kim loại, nhất là bản vị vàng (và bạc), các đồng tiền
quốc gia đều được so sánh, quy đổi với nhau trên cơ sở hàm lượng kim loại
(vàng) chứa đựng trong đồng tiền của mình hay do đơn vị đồng tiền của mình
đại diện. Trong giai đoạn này, đặc biệt từ năm 1870 đến thời kỳ đầu đại chiến
thế giới lần thứ nhất, người ta xác định tỷ giá giữa các đồng tiền bằng cách so
sánh hàm lượng vàng chứa trong mỗi đơn vị tiền tệ của từng nước.
Ví dụ: Hàm lượng vàng của một bảng Anh (GBP) là 2,488281 gam và
của một đô la Mỹ là 0,888671 gam. Do đó, tỷ giá hối đoái của GBP và USD là:
GBP/USD=2,488281/0,888671=2,80
Trong chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái của một nước cũng như trên
thế giới khá ổn định và thường chỉ biến động theo mức tăng giảm hàm lượng
vàng chứa đựng trong mỗi đơn vị tiền tệ.
Do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sau Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất, đặc biệt là do những bất lợi của chế độ bản vị vàng (kiềm chế
sự phát triển kinh tế và giao lưu kinh tế quốc tế ) nên phần lớn các nước đã từ
bỏ chế độ bản vị vàng vào đầu những năm 30. Đến năm 1971, các nước hoàn
toàn bãi bỏ chế độ bản vị vàng.
b. Thuyết ngang giá sức mua (Purchasing Power Parity - PPP)
Khi tỷ lệ lạm phát của một nước tăng tương đối so với lạm phát của một
nước khác, mức cầu đồng tiền nước đó giảm do xuất khẩu giảm. Ngoài ra,
người tiêu dùng và các doanh nghiệp trong nước có lạm phát cao có xu hướng
tăng nhập khẩu. Như vậy, cả hai lực lượng này tạo áp lực giảm giá đồng tiền

của nước có lạm phát cao.Tỷ lệ lạm phát thường khác nhau giữa các quốc gia,
3
tạo nên các kiểu mẫu mậu dịch quốc tế để điều chỉnh thích hợp và ảnh hưởng
đến tỷ giá hối đoái .
Một trong những lý thuyết nổi tiếng nhất và gây nhiều tranh cãi nhất
trong tài chính quốc tế là thuyết ngang giá sức mua, tập trung vào mối liên hệ
lạm phát – tỷ giá hối đoái.
Ý tưởng căn bản của thuyết ngang giá sức mua ban đầu được phát triển
bởi nhà kinh tế học cổ điển David Ricardo vào thế kỷ 19. Nhưng chính Gustar
Cassel, một nhà kinh tế người Thụy Điển mới là người phổ biến rộng rãi PPP
vào những năm 20 của thế kỷ XX. Trong những năm này, rất nhiều nước như
Đức, Hungary, Nga phải trải qua thời kỳ lạm phát phi mã vì sức mua đồng tiền
của các nước đó giảm rất mạnh, bị mất giá mạnh so với các đồng tiền ổn định
như USD. Lúc này quan niệm về thuyết PPP trở nên phổ biến trước thực trạng
lịch sử như vậy. Có nhiều hình thức khác nhau của thuyết PPP.
Theo hình thức tuyệt đối, thuyết PPP là sự phát triển của quy luật một
giá. Nội dung cơ bản của quy luật một giá là: nếu hai nước cùng sản xuất một
loại hàng hoá giống nhau thì giá cả của hai loại hàng hoá đó giống nhau trên
toàn thế giới và không phụ thuộc vào nước nào sản xuất ra nó.
Như vậy, theo quy luật một giá thì nếu như thép của Mỹ được sản xuất
với giá 100 USD/tấn, còn thép của Nhật được sản xuất ra với giá 10.000
JPY/tấn thì có nghĩa là 1 USD = 100 JPY, tỷ giá USD/JPY = 100.
Giả sử tỷ giá USD/JPY = 50 thì điều đó có nghĩa: thép của Nhật bị đắt
tương đối so với thép của Mỹ. Khi đó cầu thép của Nhật sẽ giảm xuống cho
đến khi giá thép của Nhật còn 5000 JPY/tấn hoặc tỷ giá phải nâng lên
USD/JPY = 100 (tức là giảm giá đồng JPY). Tương tự khi tỷ giá là 150
JPY/USD thì xu hướng là cầu thép của Nhật tăng tới 15.000JPY/tấn hoặc tỷ giá
phải giảm xuống đến 100 JPY/USD (tăng giá đồng JPY).
Trên cơ sở quy luật một giá, thuyết PPP phát biểu rằng: Tỷ giá bất kỳ
giữa hai đồng tiền của hai nước sẽ bằng tỷ số mức giá của hai nước đó tại cùng

thời điểm.
Ví dụ: Thép Nhật tăng giá 11.000 JPY/tấn, thép Mỹ vẫn ở giá 100
USD/tấn, tỷ giá cũ là 100 JPY/USD, thì lúc đó thuyết PPP nói rằng tỷ giá sẽ
được điều chỉnh theo hướng giảm giá đồng JPY, tức là bằng 110 JPY/USD.
Việc vận dụng thuyết PPP chỉ cung cấp cho ta một hướng dẫn lâu dài về sự vận
động của tỷ giá.
Tuy nhiên, trong ngắn hạn nó không được hoàn hảo, thậm chí còn bị sai
lệch đáng kể vì thị trường là không hoàn hảo, tồn tại chi phí vận chuyển, bảo
hiểm, thanh toán, thông tin và nhiều hàng rào thương mại khác, do đó, thuyết
PPP tuyệt đối hiếm khi thấy trong thực tế, nhưng thuyết PPP tương đối lại khá
phổ biến.
4
Thuyết PPP tương đối được duy trì, dù cho sức mua của đồng tiền không
giống nhau ở mọi nơi, thay đổi mức giá cả giữa hai quốc gia được hấp thụ bởi
sự biến động của tỷ giá, do đó, quan hệ PPP được duy trì không thay đổi. Nếu
nước A có tỷ lệ lạm phát bằng 0% và nước B có tỷ lệ lạm phát bằng 10% thì
đồng tiền của nước B phải giảm giá 10% so với đồng tiền của nước A. Sự biến
động của tỷ giá sẽ duy trì tỷ lệ giá cả giữa hai nước trước và sau khi lạm phát
xảy ra là không thay đổi.
Nếu thuyết PPP tương đối hoạt động, có hiệu lực ngay lập tức và chính
xác, thì chính sách tiền tệ sẽ không có tác dụng cải thiện cán cân thương mại.
Bất cứ sự thay đổi nào trong các mức giá cả giữa hai nước do thay đổi mức
cung ứng tiền sẽ được hấp thụ ngay lập tức bởi sự thay đổi của tỷ giá. Trong
thực tế thuyết PPP tương đối có ảnh hưởng tương đối tới sự biến động của tỷ
giá, nhưng xảy ra chậm hơn. Xu hướng là rõ ràng nhưng nhiều yếu tố có thể
làm méo mó quan hệ này trong ngắn hạn. Một trong những nguyên nhân chủ
yếu là do trong giai đoạn ngắn hạn đối với cả thị trường trong nước và thị
trường quốc tế thì giá cả hàng hoá được coi như là cố định. Trong khi đó tỷ giá
trao đổi thì được điều chỉnh thường xuyên do sự cập nhật thông tin và do sự
thay đổi của chính sách kinh tế. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi của tỷ giá đã tạo

ra sự sai lệch lớn và kéo dài so với thuyết PPP.
3. -&//-01/)
a. Các nhân tố tác động lên tỷ giá trong dài hạn.
Khi phân tích một nhân tố nào đó tác động lên tỷ giá, ta luôn tuân thủ giả
thiết: “các nhân tố khác là không đổi”.
* Mức giá cả tương đối:
Khi tỷ lệ lạm phát ở trong nước tăng tương đối so với nước ngoài, làm
cho giá hàng hóa trong nước trở nên đắt hơn tương đối so với hàng hóa nước
ngài, dẫn đến: Cầu nhập khẩu hàng hóa trong nước tăng, do đó cầu ngoại tệ
tăng, làm dịch chuyển đường cầu ngoại tệ sang phải, kết quả là đồng nội tệ
giảm giá, tức tỷ giá tăng; Cầu xuất khẩu hàng hóa trong nước giảm, dẫn đến
cung ngoại tệ giảm, làm dịch chuyển đường cung ngoại tệ sang trái, kết quả
đồng nội tệ giảm giá, tức tỷ giá tăng.
* Hàng rào thương mại (thuế quan và hạn ngạch):
Nếu Việt Nam tăng mức thuế quan hoặc áp dụng hạn ngạch đối với hàng
hóa nhập khẩu, sẽ làm cho giá hàng hóa nhập khẩu tính bằng VNĐ tăng, làm
giảm cầu nhập khẩu hàng hóa, làm cho cầu ngoại tệ giảm, kết quả là VNĐ sẽ
lên giá.
Vì thuế quan và hạn ngạch là những biện pháp chính sách thương mại, nên chỉ
thay đổi từ từ trong dài hạn, nên chúng được xem là những nhân tố tác động
lên tỷ giá trong dài hạn.
* Tâm lý ưa thích hàng ngoại:
5
Với tâm lý ưa chuộng mặt hàng ngoại so với hàng hóa trong nước sẽ làm
cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, dẫn đến tăng cầu ngoại tệ, kết quả đồng nội sẽ
giảm giá. Tâm lý này thay đổi từ từ theo thời gian.
* Năng suất lao động:
Nếu năng suất lao động trong nước có sự gia tăng sẽ làm cho mức giá
tương đối có xu hướng sụt giảm làm đồng ngoại tệ có xu hướng giảm hay đồng
nội tệ lên giá làm tỷ giá giảm xuống. Và ngược lại. Như vậy trong dài hạn nếu

năng suất lao động của một nước cao hơn tương đối so với các nước khác thì
đồng tiền của nước đó tăng giá.
* Thu nhập: Khi thu nhập trong nước tăng thì nhu cầu về nhập khẩu
cũng tăng lên, lúc này cầu về ngoại tệ tăng, kết quả đồng nội tệ giảm giá, tức là
tỉ giá tăng. Tương tự thu nhập giảm thì tỉ giá giảm
b. Các nhân tố tác động lên tỷ giá trong ngắn hạn.
* Cung và cầu ngoại hối trên thị trường:
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và nhạy bén đến sự biến động của tỷ
giá hối đoái.Cung ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà thị trường muốn bán ra để thu
về nội tệ. Cầu ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà thị trường muốn mua vào bằng các
đồng nội tệ. Giá cả ngoại tệ, tỷ giá hối đoái cũng được xác định theo quy luật
cung cầu như đối với các hàng hóa thông thường. Khi cung ngoại tệ lớn hơn
cầu ngoại tệ, lượng ngoại tệ mà thị trường cần bán ra nhiều hơn lượng ngoại tệ
cần mua vào, khi đó có một số người không bán được sẽ sẵn sàng bán với mức
giá thấp hơn và làm cho giá ngoại tệ giảm tức tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại,
khi cầu ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ giá ngoại tệ tăng, tức tỷ giá tăng. Có thể
thấy, tỷ giá hối đoái trên thị trường luôn thay đổi khi cung và cầu về ngoại tệ
luôn thay đổi.
* Cán cân thanh toán quốc tế:
Tỷ giá còn chịu tác động lớn của tình hình cán cân thanh toán quốc tế
của một nước. Trong điều kiện khác không đổi khi mức cung ngoại tệ trên thị
trường hối đoái lớn hơn mức cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái sẽ tăng tức giá ngoại
tệ tính bằng nội tệ sẽ giảm. Trái lại nếu cán cân thanh toán quốc tế của một
nước thâm hụt, có nghĩa là tổng chi ngoại tệ lớn hơn tổng thu ngoại tệ tức cầu
ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ; tỷ giá hối đoái giảm, ngoại tệ tăng giá và nội tệ
giảm giá.
* Can thiệp của NHTW:
Ngày nay, NHTW các nước tích cực can thiệp trên thị trường ngoại hối
nhằm tác động lên tỷ giá theo hướng có lợi cho nền kinh tế. Tần số và cường
độ can thiệp càng mạnh, càng khiến cho tỷ giá biến động nhanh và mạnh trong

ngắn hạn. Hơn nữa, tín hiệu can thiệp của NHTW có tác dụng tâm lý mạnh đến
các thành viên trên thị trường, khiến cho tỷ giá thay đổi nhanh chóng.
* Những cú sốc về chính trị, kinh tế, xã hội, thiên tai:
6
Ngày nay, thế giới đang sống trong một môi trường đầy biến động về
chính trị, kinh tế, xã hội, thiên tai… Mỗi cú sốc diễn ra bất ngờ, tác động ngay
lập tức đến tỷ giá. Các cú sốc xuất hiện với tần số càng nhanh và càng mạnh,
làm cho tỷ giá biến động cũng càng nhanh và càng mạnh. Những cú sốc tích
cực sẽ làm cho nội tệ lên giá, ngược lại những cú sốc tiêu cực sẽ làm cho nội tệ
giảm giá.
II. 2*-/
1. !"#$!/-2*-/
Chính sách tỷ giá là những hoạt độn của chính phủ( mà đại diện là
NHTW) thông qua 1 chế độ tỷ giá nhất định ( hay cơ chế điều hành tỷ giá) và
hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác
động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính
sách kinh tế quốc gia.
Như vậy,chính sách tỷ giá là một công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước,mà
nội dung của nó là xác định 1 mức tỷ giá áp dụng cho các hoạt động kinh tế có
liên quan,xác định phương pháp và công cụ điều tiết theo một chế độ tỷ giá phù
hợp với các mục tiêu kinh tế và điều kiện phát triển của quốc gia.Qua đó,nhà
nước thực hiên vai trò trực tiếp điều tiết lưu thông ngoại hối,dự trữ ngoại hối
quốc gia,hoạt động xuất nhập khẩu…. và gián tiếp điều tiết các hoạt động khác
của nền kinh tế.Một quốc gia tùy theo điều kiện và hoàn cảnh và thời điểm sẽ
xác định cho mình một chính sách tỷ giá phù hợp.
Hiện nay,các nước trên thế giới theo đuổi các cách điều hành tỷ giá là chế
độ tỷ giá cố định, chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn và thả nổi có kiểm soát :
+ Hệ thống tỷ giá thả nổi hoàn toàn : do cung cầu trên thị trường ngoại hối
quyết định tỷ giá,không có sự can thiệp của chính phủ
+ Hệ thống tỷ giá cố định : là tỷ giá do ngân hang trung ương ấn định ở một

mức nào đấy.Tỷ giá cố định có thể cao hơn hay thấp hơn tỷ giá cân bằng trên
thị trường ngoại hối.Để giữ được tỷ giá ở mức cố định,NHTW phải mua bán
ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.Và như vậy,cung tiền tuột khỏi tay sự kiểm
soát của NHTW.NHTW chỉ có thể đạt được một trong hai mục tiêu: hoặc giữ
cho tỷ giá cố định hoặc kiểm soát được mức cung tiền chứ không thể đồng thời
thực hiện được 2 mục tiêu đó
+ Hệ thống tỷ giá thả nổi có kiểm soát : Nằm giữa 2 thái cực trên.Quan điểm
của các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại coi trọng cả vai trò kinh tế của
Chinh Phủ và quy luật “bàn tay vô hình”.Tỷ giá được hình thành trên cơ sở thị
trường theo quy luật cung cầu,cơ quan điều hành chính sách tiền tệ chỉ tác
động lên tỷ giá bằng các công cụ mang tính thị trường tác động lên thị trường
ngoại hối
7
Vấn đề đặt ra là cần phải xác định chế độ tỷ giá hối đoái nào.Hiện nay,các
chính phủ đều muốn can thiệp để hạn chế những biến động mạnh mẽ lên xuống
của tỷ giá một mặt là cần thiết để cân bằng cung cầu trong thời gian
ngắn,nhưng mặt khác lại gây ra những biến động không mong muốn cho giá cả
và đầu ra ở trong nước.
2. Các công cụ của chính sách tỷ giá
a. .Nhóm công cụ trực tiếp
1. 3/4/!
Trong chế độ tỷ giá cố định, phá giá tiền tệ là sự nâng cao một cách
chính thức tỷ giá hối đoái,hay nói cách khác là việc chính phủ đánh tụt giá
đồng nội tệ so với các ngoại tệ,Ví dụ,tháng 12 năm 1971,Chính phủ Mỹ chính
thức phá đồng đôla với mức 7,89%,tức là giá của 1 GBP tăng từ 2,40 USD
( trước khi phá giá) lên 2,605 USD,hay sức mua của 1 đồng đôla giảm từ 0,416
GBP xuống 0,383 GBP.Phá giá tiền tệ có tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu hàng
hóa và hạn chế nhập khẩu hàng hóa,do vậy nó đã góp phần cải thiện cán cân
thương mại,làm cho tỷ giá hối đoái bớt căng thẳng.
+ Phá giá chủ động : do giá cả và tiền lương là cứng ( ít co giãn trong ngắn

hạn),nên khi điều chỉnh tỷ giá tăng đột ngột,tức phá giá tiền tệ sẽ làm cho giá
hang hóa xuất khẩu tính bằng ngoại tệ giảm,kích thích tăng xuất khẩu; ngược
lại,phá giá tiền tệ làm cho giá hàng hóa nhập khẩu tính bằng nội tệ tăng,làm
giảm nhập khẩu,kết quả là cán cân thương mại được cải thiện,tạo công ăn việc
làm,kích thích sản xuất trong nước,tăng được dự trữ quốc gia.
+ Phá giá bị động : trong trường hợp đồng nội tệ được định giá quá cao,làm
mất cân đối cung cầu trên thị trường ngoại hối(cung ít,cầu nhiều),NHTW tiến
hành can thiệp làm cho dự trữ ngoại hối cạn kiệt.Để cung cầu cân bằng và dự
trữ ngoại hối không giảm nữa,chính ohur buộc phải phá giá (bị động ) tiền
tệ.Phá giá bị động thường xảy ra khi có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với
cán cân thương mại.
2. &/4/!)
Trong chế độ tỷ giá cố định, nâng giá tiền tệ là việc chính phủ tăng giá
đồng nội tệ so với ngoại tệ,làm cho tỷ giá hối đoái giảm xuống.Biểu hiện của
nâng giá tiền tệ là tỷ giá được điều chỉnh giảm so với mức mà chính phủ cam
kết duy trì.Tỷ giá giảm làm cho nội tệ tăng giá nên gọi là nâng giá.
Lý do một quốc gia nâng gia tiền tệ :
- Áp lực từ các nước đối tác thương mại có cán cân thương mại thâm hụt
- Nhằm tránh phải tiếp nhận những đồng ngoại tệ(chủ yếu USD) bị mất giá
chạy vào nước mình.
- Nhằm hạ nhiệt nền kinh tế quá nóng là do sau khi nâng giá tiền tệ làm
giảm xuất khẩu,giảm đầu tư vào trong nước.
8
- Để xây dựng sự ảnh hưởng của mình ra bên ngoài ( tăng cường đầu tư và
xuất khẩu vốn ra bên ngoài).
3. (/0"567-869/:;/./:<(
Là việc NHTW tiến hành mua bán nội tệ với ngoại tệ nhằm duy trì một tỷ
giá cố định( trong chế độ tỷ giá cố định) hay tác động làm cho tỷ giá biến động
tới một mức nhất định theo mục tiêu đã đề ra(trong chế độ tỷ giá thả nổi hay có
điều tiết).Để tiến hành can thiệp,buộc NHTW phải có 1 lượng dự trữ ngoại hối

nhất định,nếu cán cân thanh toán của 1 nước bị thiếu hụt thường xuyên thì khó
có đủ sô ngoại hối để thực hiện phương pháp này. Hơn nữa các hoạt động can
thiệp trực tiếp của NHTW tạo ra hiệu ứng thay đổi cung ứng tiền trong lưu
thông,có thể tạo áp lực lạm phát hay thiểu phát ko mong muốn cho nền kinh
tế;vì vậy NHTW thường sử dụng them một nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ
lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ trong lưu thông.Do có những
hạn chế nhất định nên các NHTW của các nước phát triển đã dần chuyển từ can
thiệp trực tiếp sang gián tiếp mà chủ yếu là thông qua công cụ lãi suất tái chiết
khấu.
4. =!%%>1/
Chính phủ quy định đối với các thể nhân và pháp nhân có nguồn thu
ngoại tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong một thời hạn nhất định cho các tổ
chức được phép kinh doanh ngoại hối.Biên pháp này được áp dụng trong
những thời kỳ khan hiếm ngoại tệ giao dịch trên thị trường ngoại hối. Mục đích
chính là nhằm tăng cung ngoại tệ tức thời để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thị
trường ,hạn chế hành vi đầu cơ và giảm áp lực phải phá giá nội tệ.
5. ?5@.(-1
Đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế mục đích sử dụng ngoại
tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ,quy định hạn chế thời điểm được
mua ngoại tệ. Tất cả các biện pháp này đều nhằm mục đích giảm cầu ngoại tệ,
hạn chế đầu cơ và tác động giữ cho tỷ giá ổn định.
6. ?5@.7;0A60/%BC%/:/D/<>E)
b. Nhóm công cụ gián tiếp
1. F*5G/-1/>G5
Với các yếu tố khác không đổi, khi NHTW tăng mức lãi suất chiết khấu
sẽ có tác động làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường; lãi suất thị trường tăng
hấp dẫn các luồng vốn ngoại tệ chạy vào làm cho nội tệ lên giá. Khi lãi suất
chiết khấu giảm sẽ có tác dụng ngược chiều.
2. 51H56
Thuế quan cao có tác dụng làm hạn chế nhập khẩu; nhập khẩu giảm

làm cho cầu ngoại tệ giảm ,kết quả là làm cho nội tệ lên giá. Khi thuế quan
thấp thì sẽ có tác dụng ngược lại.
9
3. ((-
Hạn ngạch có tác dụng làm hạn chế nhập khẩu, do đó có tác dụng lên tỷ
giá giống như thuế quan cao. Dỡ bỏ hạn gạch có tác dụng làm tăng nhập
khẩu ,do đó có tác dụng lên tỷ giá giống như thuế quan thấp.
4. 26-I
Thông qua hệ thống giá cả, chính phủ có thể trợ giá cho những mặt
hàng xuất khẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất. trợ giá xuất
khẩu làm cho khối lượng xuất khẩu tăng, làm tăng cung ngoại tệ ,khiến cho nội
tệ lên giá. Chính phủ cũng có thể bù giá cho một số mặt hàng thiết yếu, bù giá
làm tăng nhập khẩu ,kết quả là làm cho nội tệ giảm giá.
5. J45-KAL/:M7N/750-
Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các ngân hàng
thương mại. Việc tăng tỉ lệ DTBB đối với vốn huy động bằng ngoại tệ của các
NHTM làm chi phí sd vốn ngoại tệ tăng lên, lúc này NHTM phải hạ lãi suất
huy động ngoại tệ. Nắm giữ nội tệ sẽ hấp dẫn hơn so với ngoại tệ, mọi ng bán
ngoại tệ để lấy nội tệ từ đó làm tăng cung ngoại tệ và đồng nội tệ tăng giá dẫn
đến tỉ giá giảm
6. ?5@."O-'F*5G//:P>Q"G%AR#S/4T7U
(/!)
7. ?5@./:(/(/!#S--V$"W-2--2'$
%XD6:8:/Y-X-Z/-AW(-1P5-(/!Y'$"
I"%'L-';/>-5-P5"G/-&)
3. -0-86-2*-//S/[/:+>/1
a. Đối với cán cân thanh toán.
Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan trọng đối với một quốc gia
vì trước tiên nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng xuất nhập khẩu của chính
quốc gia đó. Khi TGHĐ tăng (đồng nội tệ xuống giá) sẽ làm tăng giá trong

nước của hàng nhập khẩu và giảm giá ngoài nước của hàng xuất khẩu của nước
đó, cải thiện sức cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước. Các nguồn lực sẽ
được thu hút vào những ngành sản xuất mà giờ đây có thể cạnh tranh hiệu quả
hơn so với hàng nhâp khẩu và cũng vào ngành xuất khẩu mà giờ đây có thể có
hiệu quả hơn trên các thị trường quốc tế. Kết quả là xuất khẩu tăng nhập khẩu
giảm làm cán cân thanh toán được cải thiện.
b. Với lạm phát và lãi suất
Khi các yếu tố khác không đổi TGHĐ tăng làm tăng giá các mặt hàng
nhập khẩu tính bằng nội tệ. Các hộ gia đình,các nhà sản xuất sử dụng đầu vào
nhập khẩu phải tiêu dùng hàng nhập khẩu với mức giá tăng cùng tỷ lệ phá giá.
Kết quả mức giá chung trong nền kinh tế trở nên cao hơn đặc biệt là nền kinh
10
tế nhỏ, mở cửa với thế giới bên ngoài có xuất khẩu và nhập khẩu chiếm tỷ lệ
cao so với GDP. Nếu TGHĐ tiếp tục có sự gia tăng liên tục qua các năm có
nghĩa là lạm phát đã tăng. Nếu lãi suất tăng ở mức vừa phải có thể kiểm soát sẽ
kích thích tăng trưởng nhưng nếu lạm phát tăng quá cao sẽ tác động làm lãi
xuất tăng làm giảm đầu tư ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế.
c. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm.
Chính sách phá giá tiền tệ kích thích tăng xuất khẩu và hạn chế nhập
khẩu, việc này thúc đẩy tiêu dùng trong nước tăng lên, từ đó sản xuất trong
nước phát triển và tổng sản lượng quốc dân cũng tăng theo. Các doanh nghiệp
trong nước có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, tạo được nhiều việc làm cho
lao động trong nước đồng thời tăng khả năng cạnh tranh về giá của hàng hóa
trong nước với hàng hóa nước ngoài do giá cả của hàng hóa nước ngoài bị đẩy
lên cao.
d. Đối với hoạt động đầu tư quốc tế
- Việc duy trì tỷ giá thấp đã thu hút dòng vốn vào dưới dạng đầu tư
nước ngoài trực tiếp, phần nhiều là đầu tư xây dựng các phân xưởng gia công,
lắp rắp từ nguồn nguyên liệu nhập khẩu dựa trên nguồn nhân lực giá rẻ. Tỷ giá
thấp cũng thu hút một lượng đáng kể dòng vốn đầu tư gián tiếp để đầu cơ tỷ

giá, chủ yếu đổ vào thị trường chứng khoán. Khi điều kiện cho phép, dòng vốn
đầu tư nước ngoài sẽ đảo chiều ra ngoài, để lại hậu quả lạm phát và nhiều hệ
lụy khác cho nền kinh tế.
Việc duy trì đồng bản tệ thấp đã hỗ trợ xuất khẩu và nhiều nước đang
phát triển đã đẩy mạnh tín dụng và đầu tư, phối hợp với dòng vốn vào để mở
rộng sản xuất kinh doanh. Mô hình kinh tế này về bản chất là dựa trên nguồn
vốn đầu tư và lao động, hơn là dựa trên nền tảng kỹ thuật và công nghệ tiên
tiến, nên không bền vững và thường gây bất ổn cho nền kinh tế. Điều này có
thể thấy rõ ngay trong thời điểm hiện nay, khi Trung Quốc và nhiều nền kinh tế
mới nổi đang phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng mà nguyên nhân là do mô
hình tăng trưởng theo chiều rộng. Thoạt nhìn, tiền đồng thấp tuy có thể khuyến
khích xuất khẩu, nhưng không hẳn sẽ làm tăng dự trữ ngoại hối quốc tế nếu
nền kinh tế phụ thuộc quá mức vào nguyên liệu nhập khẩu, từ linh kiện máy
móc, đến nguyên liệu trong lĩnh vực công nghệ, phân bón, hóa chất, thức ăn
chăn nuôi. Trái lại, tiền đồng cao (nhưng không cố định) vẫn có mặt ưu điểm là
ổn định giá cả và hoạt động sản xuất kinh doanh, bắt buộc các doanh nghiệp
phải chủ động đổi mới công nghệ để phát triển và hạn chế sự lệ thuộc vào
doanh nghiệp nước ngoài, thúc đẩy, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong
nước đầu tư mạnh ra nước ngoài.
11
e. Với vay nợ nước ngoài:
Các khoản vay nợ nước ngoài thường được tính theo đơn vị tiền tệ
nước đó hoặc những đồng tiền mạnh nên khi TGHĐ tăng lên cũng đồng nghĩa
với sự tăng lên của gánh nặng nợ nước ngoài. Ngày nay khi sự luân chuyển
vốn quốc tế ngày càng tự do thì các nước đặc biệt các nước đang phát triển
càng cần phải thận trọng hơn trong chính sách tỷ giá để đảm bảo tăng trưởng
và khả năng trả nợ nước ngoài.
III. !"45$#$-2*-/-86"0/*H5-6/:;
/1S
1. Mỹ

Thị trường tiền tệ, ngoại hối của Mỹ là thị trường phát triển và hoàn chỉnh
vào loại nhất thế giới, nghệ thuật điều chỉnh tỷ giá của họ cũng đạt đến độ hoàn
hảo và có ảnh hưởng toàn cầu. Chính sách đồng đô-la yếu, rơi tự do chính là
yếu tố kích thích xuất khẩu của Mỹ, thúc đẩy tăng trưởng tạo ra nhiều nhu cầu
việc làm, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp vốn vẫn lơ lửng như một mối đe
doạ với siêu cường quốc kinh tế thế giới. Về dài hạn, chính sách này ít nguy cơ
gây tăng mạnh lạm phát và sẽ làm tăng lãi suất và kích thích các nhà đầu tư
nước ngoài tạo ra hàng tỷ đô-la cho Mỹ trang trải các thâm hụt trong ngân sách
và tài khoản vãng lai.
Mỹ muốn đồng đô la yếu đi một chút, hay nói cách khác là không tăng giá
mạnh, để tăng tính cạnh tranh của hàng hóa Mỹ, giúp nền kinh tế phục hồi
nhanh hơn. Mỹ lo ngại động thái can thiệp đồng Yên của Nhật sẽ tạo ra làn
sóng giảm giá tiền tệ trên toàn cầu so với đồng đô la.
2. -S-6-5@\]#4--G5>/1^=66Y6YQ-_`
Các nước trong nhóm này đều gắn đồng tiền với một số ngoại tệ nhất định
(Ba Lan với 5 đồng tiền USD, DEN, GBP, FRF, CHF; CH Séc với 2
đồng tiền DEM, USD) tỷ giá được công bố hàng ngày với mức dao động cho
phép. NHTW sẽ can thiệp khi tỷ giá ra ngoài biên độ dao động. Trong giai
đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường, dự trữ ngoại tệ thấp, thị trường hối
đoái và nội tệ chưa phát triển thì cơ chế trên tỏ ra là một điểm tựa tương đối
chắc chắn cho NHTW trong việc kiểm soát chính sách tỷ giá. Chúng ta sẽ xem
xét trường hợp của nước Nga.
Trước cuộc khủng hoảng T8/1998, chủ trương thực hiện liệu pháp ‘sốc’
để cải tổ nền kinh tế, Chính phủ Nga đã áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn
cùng với khá nhiều chính sách tự do hoá trong giai đoạn 91-95. Những đợt phá
giá vô căn cứ đã góp phần tạo ra sự tụt dốc tới 3000 lần của đồng Rúp so với
USD, làm tăng lạm phát trong nước. Ước tính đến năm 1995, tổng giá trị USD
bằng tiền mặt lưu hành quy đổi giá trị so với đồng Rúp đã vượt quá 3 lần, Nga
là quốc gia tầm cỡ duy nhất trong lịch sử phụ thuộc quá nhiều vào đồng tiền
12

của một quốc gia khác. Ngày 6-7-1995, Chính phủ Nga đưa ra hệ thống ‘hành
lang hối đoái’ nhằm tạo tiền đề cho quá trình cố định tỷ giá đồng tiền này.
Năm 1998, sau khi thay đổi mệnh giá đồng Rúp theo tỷ lệ mới 1/1000 tỷ
giá đồng Rúp giảm xuống còn một con số, Chính Phủ Nga đã quyết định thực
hiện chính sách cố định tỷ giá ở mức 6.2 R/USD. Song với những biến động
quá lớn về giá cả một số mặt hàng chủ chốt trên thị trường quốc tế đã gây nên
khủng hoảng tiền tệ T8/1998, hệ thống Ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả
năng thanh toán, khoảng 1/3 ngân hàng bị phá sản, gần 160 tỷ USD nợ nước
ngoài không có khả năng trả Ngày 9/9/1998, Nga đã buộc phải từ bỏ mục tiêu
biên độ tỷ giá và chuyển sang hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi, do thị trường
quyết định, NHTW chỉ có nhiệm vụ ngăn chặn sự dao động quá nhiều của tỷ
gía. T7/2004, NHTW Nga đã quyết định chuyển sang hệ thống mới, tỷ gía
được xác định trên cơ sở tỷ giá bình quân của đồng ab%*#Sc#$d)
3. V0/*S-&5
- V6'6@*6
Malaysia mạnh dạn nới lỏng chính sách tiền tệ, ban hành quy định mới
kiểm soát ngoại hối sau khủng hoảng tiền tệ năm 1997, hạn chế tối đa lượng
ngoại tệ mang ra nước ngoài, khôi phục tính độc lập của đồng Ringgit (MYR),
thực hiện chế độ TGHĐ cố định, ấn định tỷ giá ở mức 3,8 MYR/USD, tránh
việc gia tăng lãi suất nhằm giảm chi phí vay vốn, gia tăng mạnh xuất khẩu,
giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng khu vực.Chế độ TGHĐ cố
định và kiểm soát ngoại hối đã giúp Malaysia giảm lạm phát, tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân 6,5% hàng năm và dự trữ ngoại tệ, cán cân vãng lai
luôn thặng dư, củng cố lòng tin vào sự phục hồi kinh tế và thu hút đầu tư nước
ngoài.
- 6
Từ năm 2001 – 2007 tỷ giá danh nghĩa của đồng Baht Thái so với USD
giảm nhưng tỷ giá thực REER tăng nên đồng Baht lên giá thực . NHTW Thái
Lan phải thực hiện mua giao ngay đồng USD, mua lại trên thị trường thứ cấp,
phát hành trái phiếu của NHTW, hoán đổi tiền tệ. Việc can thiệp linh hoạt đã

ngăn đà tăng giá của đồng Baht và cải thiện được cán cân thương mại trở lại
thặng dư 2.000 tỷ USD.Sang năm 2008 do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế
toàn cầu, đồng Baht tăng giá nhẹ đến cuối năm 2009. NHTW Thái Lan đã nhận
thấy việc can thiệp vào tỷ giá chỉ có hiệu quả đối với biến động do cơn sốc
ngắn hạn, nên điều chỉnh tỷ giá phụ thuộc vào tính chất của từng cú sốc kinh
tế
- Các nước khác:
Biến động dữ dội của các loại tiền tệ châu Á trong năm 2011 đã chứng
kiến đồng yen của Nhật Bản và nhân dân tệ của Trung Quốc tăng mạnh so với
13
đô la Mỹ. Xu hướng tăng giá của hai loại tiền tệ này được các chuyên gia dự
báo sẽ tiếp tục trong năm 2012.
Trong khi Nhật Bản chủ động tìm cách kìm hãm sự tăng giá của đồng Yên
khiến Mỹ lên tiếng chỉ trích thì Trung Quốc can thiệp giúp nhân dân tệ tăng lên
mức cao mới so với đô la Mỹ vào thời điểm kết thúc năm. Trong năm 2011, cả
hai loại tiền tệ trên đã tăng giá gần 5% so với đô la Mỹ.
Hai cách điều hành trái ngược của Nhật Bản và Trung Quốc đối với đồng
nội tệ đã lột tả tình thế tiến thoái lưỡng nan mà các nhà hoạch định chính sách
ở châu Á đang đối mặt khi tìm cách điều hành biến động tỷ giá hối đoái mà đến
nay vẫn chưa có dấu hiệu dịu lại. Chính sách điều hành tiền tệ dù theo hướng
nào cũng như con dao hai lưỡi.
Nếu đồng Yên và nhân dân tệ tăng giá mạnh, xuất khẩu của Nhật Bản và
Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng vì chi phí tăng nhưng sẽ giúp Trung Quốc kiềm
chế lạm phát (Nhật Bản không muốn điều này do giảm phát kéo dài). Ngược
lại, nếu hai đồng tiền này quá yếu, lạm phát nhập khẩu (lạm phát do phải nhập
hàng hóa và nguyên vật liệu với giá cao) sẽ tăng và sức mua nội địa sẽ suy
giảm.
Nhật Bản đã phải vật lộn chống giảm phát trong hai thập kỷ qua, giá cả
hàng hóa tăng là sự thay đổi được chờ đón. Do vậy, Nhật đã can thiệp thị
trường tiền tệ ba lần trong năm 2011 để làm cho đồng yen yếu đi, một lần với

sự hỗ trợ của nhóm các nước công nghiệp G7 sau thảm họa động đất, sóng thần
và hai lần khác do ngân hàng trung ương Nhật Bản đơn phương mua vào đô la
Mỹ và bán ra đồng Yên.
Singapore và Hàn Quốc là hai minh chứng cho thấy lạm phát có thể duy
trì ở mức cao ngay cả khi nhu cầu toàn cầu suy giảm khiến xuất khẩu ở hai
nước này giảm và tăng trưởng kinh tế bị chậm lại. Một trong những nguyên
nhân chính dẫn đến tình trạng này là đồng đô la Singapore và đồng won giảm
giá so với đồng bạc xanh trong năm 2011. trong năm 2011, Singapore đã sử
dụng tỷ giá hối đoái như công cụ chính sách quan trọng. Nước này kìm hãm,
không để đô la Singapore tăng giá nhằm hỗ trợ tăng trưởng. Tuy nhiên, điều
này lại khiến nước này có nguy cơ bị lạm phát nhập khẩu. Lạm phát hàng năm
của Singapore bất ngờ tăng 5,7% trong tháng 11-2011 Hàn Quốc, Indonesia
và Ấn Độ đang tìm cách can thiệp để khống chế mức độ biến động của đồng
nội tệ nhưng nhiều nước châu Á khác muốn để nội tệ giảm từ từ. Điều này có
thể thay đổi trong năm 2012.
Bài học rút ra ở đây là:
+ Cơ chế điều hành TGHĐ cần được đặt trong mối quan hệ với lãi suất và
lạm phát, phù hợp với từng thời kỳ nhất định, phối hợp song song với chính
sách kinh tế trên tất cả ngành lĩnh vực khác.
14
+ Sự phá giá vô căn cứ đồng tiền quốc gia trong thời kỳ chuyển đổi và
chính sách thả nổi khiến đồng tiền nội tệ bị mất giá nghiêm trọng, lạm phát gia
tăng khó kiểm soát làm tháo chạy dòng vốn đầu tư nước ngoài, giảm tốc độ
tăng trưởng.
+ Cơ chế TGHĐ thả nổi nếu được đặt trong biên độ dao động nhất định có
thể thành công và thích hợp với công cuộc cải cách kinh tế- xã hội.
efgahijkV
Đặc trưng chính sách tỷ của một quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào cơ chế
xác định và cơ chế can thiệp lên tỷ giá mà quốc gia đó áp dụng. Căn cứ vào cơ
chế xác định và cơ chế can thiệp lên tỷ giá, thì chính sách tỷ giá của Việt Nam

kể từ khi có đồng tiền Quốc gia (1955) cho đến nay có thể được chia thành bốn
giai đoạn như sau:
I. 6(/:S-lmnm.#$6/
1. =-I>/1
Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đóng cửa và
hướng nội. Đây là thời kỳ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Các bạn hàng chủ yếu là các nước XHCN trong hội đồng tương trợ kinh
tế. Hình thức trao đổi thương mại chủ yếu là hàng đổi hàng giữa các nước theo
một tỷ giá đã được thoả thuận trong hiệp định ký kết song phương hay đa
phương.
2. 2*-/^%%%,-.Y-2*-H5I'o`
Tỷ giá trong giai đoạn này được xác định dựa trên việc so sánh sức mua
giữa hai đồng tiền, sau đó được qui định trong các Hiệp định thanh toán được
ký kết giữa các nước XHCN.
Tỷ giá của Việt Nam lần đầu tiên được công bố vào ngày 25/11/1955 là tỷ
giá giữa đồng Nhân dân tệ (CNY) và VND. 1CNY=1470VND. (Tỷ giá này
được xác định bằng cách chọn ra 34 đơn vị hàng hóa cùng loại, thông dụng
nhất, tại cùng một thời điểm tại thủ đô và có tham khảo thêm giá cả ở một số
tỉnh khác để qui đổi ra tổng giá cả của 34 mặt hàng đó theo hai loại tiền của 2
nước.)
15
Sau đó, khi Việt Nam có quan hệ ngoại thương với Liên Xô, tỷ giá giữa
VND và đồng Rúp (SUR) được tính chéo nhờ tỷ giá giữa CNY và SUR đã có
từ trước. 1 SUR = 0.5 CNY ⇒ 1 SUR = 735 VND.
Tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này được giữ cố định trong một thời gian
dài.
Một đặc trưng nữa của tỷ giá trong giai đoạn này là “đa tỷ giá” tức là việc
tồn tại song song nhiều loại tỷ giá: tỷ giá chính thức, phi mậu dịch, kết toán nội
bộ.
+ Tỷ giá chính thức: (còn gọi là tỷ giá mậu dịch) là tỷ giá do ngân hàng

nhà nước công bố và dùng để thanh toán mậu dịch với Liên Xô và các nước
XHCN khác.
+ Tỷ giá phi mậu dịch: là tỷ giá dùng trong thanh toán chi trả hàng hóa
hoặc dịch vụ vật chất không mang tính thương mại .
+ Tỷ giá kết toán nội bộ: được tính trên cơ sở tỷ giá chính thức cộng thêm
hệ số phần trăm nhằm bù lỗ cho các đơn vị xuất khẩu. Tỷ giá này không công
bố ra ngoài mà chỉ áp dụng trong thanh toán nội bộ. Nó thoát ly tỷ giá mậu
dịch nhằm bù đắp những khoản thua lỗ trong kinh doanh xuất nhập khẩu của
các doanh nghiệp nhà nước. Đây thực chất là một hình thức bù lỗ có tính chất
bao cấp thông qua tỷ giá.
3. -014>/1
Thực ra trong giai đoạn này do quan hệ thương mại đầu tư của Việt Nam
và khối SEV là quan hệ hàng đổi hàng, mang nặng tính chất viện trợ, việc di
chuyển, chuyển giao về ngoại tệ là không có nên việc quy định tỷ giá hối đoái
giữa VND và các ngoại tệ khác chỉ mang tính hạch toán.
Quan hệ về cung cầu ngoại hối trên thị trường đã không được phản ánh
đúng đắn trong tỷ giá. Biểu hiện rõ nhất của tình trạng này là việc tồn tại một
thị trường “chợ đen” với một tỷ giá khác xa tỷ giá chính thức.
Năm Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường tự do
1985 15 115
1986 80 425
1987 368 1.270
16
1988 3.000 5.000
1989 3.900 4.750
Do đồng tiền Việt Nam được định giá quá cao so với các đồng tiền tự do
chuyển đổi nên:
- Cán cân thương mại bị thâm hụt nặng, xuất khẩu gặp nhiều bất lợi trong
khi nhập khẩu thì có lợi và thường xuyên tăng lên. Hậu quả là hàng nội bị hàng
ngoại ch—n ép, sản xuất trong nước bị đình đốn.

- Nhà nước phải áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ để bù lỗ cho các đơn vị sản
xuất hàng xuất khẩt nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu và chưa đủ bù đắp chi
phí sản xuất.
- Cán cân thanh toán bị bội chi, dự trữ ngoại tệ bị giảm sút, phản ứng của
chính phủ lúc này là tăng cường quản lý ngoại hối, bảo hộ mậu dịch và kiểm
soát hàng nhập khẩu. Nhưng từ đó nảy sinh tình trạng khan hiếm vật tư, hàng
hóa, nguyên vật liệu cần thiết khiến cho tốc độ tăng trưởng chậm lại, sản xuất
trong nước trì trệ, đình đốn lại càng trở nên tồi tệ, sức ép lạm phát tăng vọt.
II. <>ElmnmplmmlqI]r/
1. =-I>/1)
Đông Âu, Liên Xô sụp đổ, quan hệ ngoại thương được bao cấp với các thị
trường truyền thống bị gián đoạn, khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán
với khu vực thanh toán bằng đồng Đô-la Mỹ.
2. 2*-/)
Nghị định 53/HĐBT ra đời, qui định về việc tách hệ thống Ngân hàng
Việt Nam từ một cấp thành hai cấp, bao gồm ngân hàng nhà nước thực hiện
chức năng quản lý vĩ mô và hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức
năng kinh doanh tiền tệ và tín dụng. Tỷ giá mua bán của các ngân hàng được
phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố cộng trừ 5%.
Quá trình xóa bỏ chế độ tỷ giá kết toán nội bộ diễn ra cùng lúc với việc
điều chỉnh giảm giá mạnh nội tệ (không khác gì thả nổi). (Bảng dưới)
Để giảm bớt chênh lệch tỷ giá nhằm tiến tới điều hành tỷ giá dựa chủ yếu
vào quan hệ cung cầu trên thị trường, nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá chính thức
17
theo tỷ giá trên thị trường tự do sao cho mức chênh lệch nhỏ hơn 20%. Kết quả
là mức chênh lệch tỷ giá được thu hẹp.
18
Năm
Tỷ giá ngân hàng
(bình quân)

Tỷ giá thị trường tự
do (bình quân)
1989 3.900 4.750
1990 5.133 5.610
1991 9.274 9.546
1992 11.179 11.334
3. -014>/1)
- Kim ngạch xuất khẩu tăng. Năm 1990 tăng 18,8% ; 1991: 48,63%.
- Đồng Việt Nam liên tục bị mất giá so với Đô la Mỹ làm giá cả hàng
nhập khẩu tăng nhanh. Chi phí đầu vào cho quá trình sản xuất tăng lên là điều
kiện thúc đẩy lạm phát. Tỷ lệ lạm phát của nước ta tăng trở lại: từ 34,7% năm
1989 lên 67,5% trong hai năm 1990 và 1991.
III. <>Elmmspstlmmm
1. =-I>/1)
- Thị trường với các nước XHCN cũ bị thu hẹp một cách đáng kể.
- Về phương diện thanh toán quốc tế, Việt Nam đứng trước một tình thế
vô cùng khó khăn: tất cả các nước CNXH đều đồng loạt chuyển đổi đồng tiền
thanh toán với Việt Nam bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi (chủ yếu là USD).
Việc chuyển đổi đồng tiền thanh toán có ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh
toán của Việt Nam bằng ngoại tệ vì trước đó, hầu hết nguồn thu ngoại tệ của
Việt Nam đều bằng đồng Rúp chuyển nhượng, chỉ có một lượng nhỏ bằng
ngoại tệ tự do chuyển đổi.
Điều đó đã dẫn đến cán cân vãng lai và cán cân thương mại thâm hụt lớn,
nhập khẩu gấp 3 lần xuất khẩu. sự thiếu hụt trong cán cân thương mại được bù
đắp bằng các khoản viện trợ, cho vay của các nước CNXH mà chủ yếu là Liên
Xô.
Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á bùng nổ buộc
các nước này phải tiến hành phá giá mạnh đồng nội tệ và Việt Nam cũng
không nằm ngoài xu hướng đó.
19

2. 2*-/)
-Thời kỳ 1992-1994: tỷ giá chính thức hình thành trên cơ sở đấu thầu tại
trung tâm giao dịch ngoại tệ.
- Tháng 9/1991 NHNN đã thành lập một trung tâm giao dịch ngoại tệ tại
thành phố Hồ Chí Minh và tháng 11/1991, một trung tâm giao dịch thứ hai ở
Hà Nội cũng ra đời.
+ Đối tượng tham gia giao dịch trên các trung tâm này là các ngân hàng
được phép kinh doanh ngoại tệ, các tổ chức XNK kinh doanh trực tiếp với
nước ngoài và NHNN.
+ Trung tâm hoạt động theo nguyên tắc đấu giá từ thấp đến cao hoặc
ngược lại để đạt được cân bằng cung cầu về ngoại tệ.
+ Tỷ giá chính thức của đồng Việt Nam được xác định có căn cứ vào tỷ
giá đóng cửa tại các phiên giao dịch ở các trung tâm theo nguyên tắc tỷ giá
mua vào không được vượt quá 0.5% so với tỷ giá ấn định tại phiên giao dịch
trước.
Thông qua hoạt động của hai trung tâm, với vai trò là người tổ chức và
điều hành, NHNN đã kịp thời nắm bắt cung cầu ngoại tệ trên thị trường để điều
hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá phù hợp với tín hiệu thị trường.
Năm Tỷ giá chính thức
1992 10.718
1993 10.840
1994 11.003
- Thời kỳ 1995-1999: tỷ giá được hình thành trên cơ sở tỷ giá liên ngân
hàng.
Thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (20/10/1994). Có qui mô lớn
hơn, hoạt động linh hoạt hơn nên tỷ giá hối đoái ngày càng phản ánh đầy đủ
hơn quan hệ cung cầu thị trường. Qua thị trường liên ngân hàng, ngân hàng nhà
nước nắm bắt dấu hiệu thị trường về tỷ giá hối đoái, công bố tỷ giá chính thức
hàng ngày và biên độ giao dịch cho các ngân hàng thương mại.
Từ tháng 7/1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền

tệ Châu Á, đồng Việt Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến cho thị trường
20
ngoại hối rơi vào tình trạng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ, cầu ngoại tệ luôn lớn hơn
cung. Trong hai năm 1997-1998, nhà nước đã ba lần chủ động điều chỉnh tỷ giá
VND/USD, đồng thời nới rộng biên độ giao dịch giữa các ngân hàng thương
mại với các khách hàng trên thị trường ngoại tệ.
Năm Tỷ giá chính thức
1995 11.021
1996 11.040
1997 11.175
1998 12.985
1999 14.016
3. -014>/1)
Cuối giai đoạn, trong thời kỳ xảy ra khủng hoảng tài chính ở khu vực, tỷ
giá tăng lên do điều chỉnh của chính phủ là để tăng cao sức cạnh tranh của hàng
hóa Việt Nam.
Việc tỷ giá của Việt Nam không tăng quá nhanh như của các nước khác
trong khu vực có tác động tích cực vì không tạo tâm lý hoang mang cho người
dân, không gây ra một sức ép lớn lên nợ nước ngoài và hạn chế thiệt hại cho
nhập khẩu.
IV. 6(lmmm16@/I]-Z45/1/
1. D["lmmmpsuuv
a) Bối cảnh kinh tế
Đây là thời kỳ đầu chuyển đổi từ cơ chế quản lỳ nên kinh tế kế hoạch hóa
tập trung bao cấp, sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Chế độ tỷ giá đã
linh hoạt nhưng vẫn có sự kiểm soát của nhà nước: hàng ngày NHNN công bố
tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của
21
VND/USD trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trên thực tế có thị trường
ngoại tệ chợ đen đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế.

Nếu thanh toán bằng các đồng tiền khác EUR, JPY, GBP… phải tính tỷ
giá chéo suy ra từ tỷ giá VND/USD.
b) Chính sách tỷ giá
*Tháng 2 năm 1999, với sự ra đời của Quyết định số 64/QĐ-NHNN7
ngày 25/02/1999, NN đã quyết định bãi bỏ việc công bố chính thức và thay vào
đó là việc thông báo tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng. Và ngay trong
năm 1999 tỷ giá nhìn chung luôn ổn định và cơ bản phù hợp với cung cầu
ngoại tệ trên thị trường và mục tiêu quản lý của NHNN. Giao dịch mua bán
ngoại tệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp cũng như các giao dịch trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng sôi động hơn năm trước.
Nhu cầu ngoại tệ cho sản xuất kinh doanh cơ bản được đáp ứng đầy đủ.
NHNN đã mua được một số lượng đáng kể ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại tệ nhà
nước và bổ sung ngoại tệ cho quỹ kinh doanh. Có thể nói, việc đổi mới cơ chế
quản lý tỷ giá theo Quyết định số 64/1999/QĐ - NHNN7 ngày 25/2/1999 là
một bước đi đúng đắn và phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế cũng như công
tác điều hành chính sách tiền tệ. NHNN đã chấm dứt việc công bố tỷ giá chính
thức theo lối hành chính như trước đây, chuyển sang công bố tỷ giá giao dịch
bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
*Trong giai đoạn 2000-2006, việc điều chỉnh chính sách tỷ giá chủ yếu
là tăng dần tỷ giá liên ngân hàng được NHNN công bố chính thức hàng ngày.
Theo đó, đồng Việt Nam gần như liên tục mất giá danh nghĩa so với USD, trừ
một số thời điểm nhỏ. Tỷ giá VNĐ/USD bình quân liên ngân hàng đã tăng từ
mức hơn 14.000 vào đầu năm 2000 lên 16.091 vào cuối năm 2006. Trong giai
đoạn này, biên độ tối đa chỉ được điều chỉnh tăng một lần duy nhất, từ 0,1% lên
0,25% vào tháng 7/2002.
- Tính vào thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2006, một đôla đổi được 16051
đồng, tăng 137 điểm, tương ứng 0,86% so với đầu năm (15914). Các năm trước
đây, tỉ lệ trượt giá của tiền đồng so với đôla như sau: năm 2005 là 0,86%; năm
2004 là 0,84%; năm 2003 là 1,56. Trong năm 2006, mức thấp nhất đạt được là
15901 vào ngày 14 tháng 3 năm 2006, mức cao nhất đạt được là 16056 vào

ngày 29 tháng 9. Mức 16056 đạt được cũng cao hơn tới 60 điểm so với ngày
xảy ra hiện tượng tỉ giá trên thị trường tự do đạt mức trao đổi 17200 (ngày
mùng 9 tháng 5 năm 2006).
Chính sách tỉ giá hối đoái trong nước phụ thuộc một phần không nhỏ từ
chính sách tỉ giá hối đoái của các đối thủ cạnh tranh là các nước Châu á khác
nhất là Trung Quốc. Những năm vừa qua, đồng Đôla đã mất giá nhiều so với
22
các đồng tiền chủ lực khác như Euro và Bảng Anh. Tuy nhiên, ở các nước
Châu á, với sự can thiệp từ chính phủ, đã kiềm chế sự tăng giá của đồng tiền
nước mình so với Đôla nhằm tăng tính cạnh tranh và Việt nam không phải là
ngoại lệ. Điều này giải thích tại sao những năm đầu thế kỷ 21, tỉ lệ lạm phát
của Việt Nam thấp nhưng tỉ lệ trượt giá của tiền Đồng lại cao.
Nhìn bảng biến động các đồng tiền của các đối tác là những đối thủ cạnh
tranh của Việt Nam, ta thấy hầu như tất cả các đồng tiền này đều tăng giá hoặc
có xu hướng tăng giá so với đồng Đôla. Ngoại trừ đồng Yên Nhật, nhằm tránh
tình trạng suy thoái nền kinh tế, chính phủ Nhật đã tác động mạnh mẽ đến
chính sách tỉ giá những năm qua. Tuy nhiên, với sự phục hồi nền kinh tế hiện
nay, triển vọng tăng lãi suất đồng Yên, đồng Yên được dự đoán sẽ tăng giá
mạnh so với đồng Đôla trong năm 2007, thay vì bị giảm giá như những năm
vừa qua.
Như vậy, trong khi chính sách tỉ giá hối đoái của NHNN phụ thuộc
không nhỏ vào chính sách tỉ giá của các đối thủ cạnh tranh thì việc giá trị đồng
tiền của các nước này tăng so với đồng đôla sẽ làm giảm đáng kể áp lực đánh
trượt giá tiền Đồng của chính phủ Việt Nam.
=10--w/4*#Sx'6Vy
Nếu chỉ xét trong giai đoạn đầu năm 2000 đến cuối tháng 8 năm 2006,
dựa vào chỉ số giá, sức mua của tiền Đồng đã giảm 33,5%, sức mua của đồng
Đôla đã giảm 20,68%, trong khi đó, giá trị tiền Đồng đã giảm so với đồng Đôla
là 14,16%. Như vậy, nhìn vào các chỉ số trên ta thấy nhận định trên không thật
sự chính xác. Mặt khác, cũng trong cùng một giai đoạn này, tiền Đồng đã mất

giá nhiều so với các đồng tiền của các đối tác thương mại lớn, cụ thể là giảm
45% giá trị so với đồng Euro, 34% so vớiđồng Bảng, 18,85% so với đồng
Nhân dân tệ, 33% so với đồng Đôla Úc, 21% so với đồng Đôla Singapour,
34,8% so với đồng Won của Hàn Quốc. Nếu tính độ trượt giá của tiền Đồng
theo một rổ tiền tệ gồm các đối tác thương mại lớn thì mức độ của nó không
nhỏ.
23
24
cL/:M(
Tính đến thời điểm tháng 3 năm 2006, lượng dự trữ ngoại hối của Việt
Nam theo dự đoán ở vào khoảng 10 tỉ đôla, tương ứng với 12 tuần nhập khẩu.
Mặc dù lượng dự trữ của Việt Nam đã tăng đáng kể trong những năm gần đây
nhưng vẫn còn nhỏ so với các nước khác trong khu vực. Tuy vậy, việc tăng
nguồn dự trữ ngoại hối không quá cấp bách bởi lượng cung về đôla hiện nay
trên thị trường thế giới rất lớn. Nếu như trong cuộc khủng hoảng tài chính
Châu Á năm 1997, các nước gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động đồng
đôla, thì vào thời điểm hiện nay, với lượng cung về đôla dồi dào trên thị trường
thế giới, việc huy động đồng đôla sẽ dễ dàng hơn nhiều.

Nợ nước ngoài của Việt Nam năm 2005 là 17,4 tỉ đôla, chiếm 33% GDP.
Tỉ lệ này là tương đối nhỏ so với mức trung bình trên thế giới. Bên cạnh đó, tỉ
lệ nợ ngắn hạn chỉ chiếm 3,8% trên tổng số nợ. Như vậy, với tỉ lệ dự trữ ngoại
tệ hiện nay, chính phủ hoàn toàn có thể đáp ứng nhu cầu rút vốn nếu có.
25

×