Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Một số tìm hiểu về điểm di tích chính Bắc Môn (Khu di tích Hoàng Thành Thăng Long – Hà Nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.14 KB, 31 trang )

Dương Mạnh Thắng VHH2B
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA VĂN HÓA HỌC
BÁO CÁO THỰC TẬP NĂM THỨ 4
ĐỀ TÀI: MỘT SỐ TÌM HIỂU VỀ ĐIỂM DI TÍCH CHÍNH BẮC MÔN
(Khu di tích Hoàng Thành Thăng Long – Hà Nội)
1
Giảng viên hướng dẫn : ThS. Lê Thị Cúc
Sinh viên thực hiện : Dương Mạnh Thắng
Lớp : Vhh2b
Khoa : Văn hóa học
Dương Mạnh Thắng VHH2B
Hà nội, tháng 4 năm 2014
MỤC LỤC
Trang
1. Lí do chọn đề tài ………………………………………………………4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề …………………………………………….5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ……… ………………………… 5
4. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………5
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ………………………………6
6. Kết cấu của đề tài …………………………………………………… 6
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ KHU DI TÍCH HOÀNG THÀNH THĂNG
LONG…………………………………………………………………………………… 7
1.1 Tên gọi và vị trí của khu di tích Hoàng thành Thăng Long……… 7
1.1.1 Tên gọi…………………………………………………………… 7
1.1.2 Vị trí và địa điểm phân bố di tích…………………………………7
1.2 Các di tích trên mặt đất của khu trung tâm di tích Hoàng thành
Thăng Long……………………………………………………………… 7
1.2.1 Kỳ đài……………………………………………………………… 7
1.2.2 Đoan Môn…………………………………………………………….8
1.2.3 Nền điện Kính Thiên…………………………………………………


8
1.2.4 Nhà D67 và Hầm D67………………………………………………9
1.2.5 Hậu Lâu…………………………………………………………….10
1.2.6 Chính Bắc Môn……………………………………………………10
1.2.7 Tám cổng thành thời Nguyễn………………………………… 10
2
Dương Mạnh Thắng VHH2B
Chương 2: GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA CỦA ĐIỂM DI TÍCH CHÍNH
BẮC MÔN………………………………………………………………………………12
2.1 Giá trị lịch sử của di tích Chính Bắc Môn………………………….12
2.1.1 Tên gọi, vị trí……………………………………………………….12
2.1.2 Lịch sử hình thành………………………………………………….12
2.1.3 Kiến trúc…………………………………………………………….13
2.1.4 Di tích Chính Bắc Môn qua các cuộc khai quật……………….13
2.2 Giá trị văn hóa của di tích Chính Bắc Môn…………………………18
Chương 3: HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA ĐIỂM DI
TÍCH CHÍNH BẮC MÔN… 21
3.1 Hoạt động bảo tồn điểm di tích Chính Bắc Môn………………….21
3.1.1 Định hướng bảo tồn…………………………………………….…21
3.1.2 Bảo tồn di tích Chính Bắc Môn gắn liền với hoạt động bảo tồn
khu di tích Hoàng thành Thăng Long……………………………… 25
3.2 Một số kiến nghị nhằm phát huy giá trị của điểm di tích Chính Bắc
Môn………………………………………………………………………28

3
Dương Mạnh Thắng VHH2B
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chính Bắc Môn hay còn gọi là Cửa Bắc, Bắc Môn là một trong những
di tích của Hà Nội có nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc. Nằm trong

quần thể kiến trúc của khu di tích Hoàng thành Thăng Long, Cửa Bắc là
một trong năm cửa thành được mở khi xây dựng thành Thăng Long dưới
thời nhà Nguyễn từ năm 1805 gồm có cửa Bắc, cửa Đông, cửa Tây, cửa
Đông Nam và cửa Tây Nam.
Cửa Bắc hiện này nằm hơi chếch về phía nam phố Phan Đình Phùng.
Theo cấu trúc chung, mỗi cửa thành có một công sự bảo vệ nhô ra bên
ngoài hình tháp gọi là dương mã thành và mở ra một cửa bên ngoài gọi
là nhân môn. Từ cửa Chính Bắc đường ra cửa nhân môn mở về phái bên
phải của dương mã thành nối với phố Cửa Bắc hiện nay. Phố Cửa Bắc
hiện nay là đường đi vào cửa Bắc thành Hà Nội trước kia.
Cửa Bắc còn là minh chứng lịch sử gắn liền với cuộc chiến chống
thực dân Pháp xâm lược nước ta. Ngay trên lầu hai của Cửa Bắc là nơi
đặt ban thời hai vị tổng đốc Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương đã anh
dũng cùng nhân dân chiến đấu.
Chính vì ý nghĩa đó cùng với việc nhận thức được tầm quan trọng của
việc bảo tồn điểm di tích Cửa Bắc tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số tìm
hiểu về điểm di tích Chính Bắc Môn” làm báo cáo thực tập của mình.
4
Dương Mạnh Thắng VHH2B
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khu di tích Hoàng thành Thăng Long nói chung và điểm di tích Chính Bắc
Môn có ý nghĩa quan trọng với lịch sử và văn hóa của Hà Nội cũng như cả
nước. Việc nghiên cứu và tìm hiểu về điểm di tích Chính Bắc Môn tuy chưa cụ
thể nhưng đã được đề cập đến trong các công trình sau:
- Thông báo khoa học số 1/2013, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin.
- Thông báo khoa học số 2/2013, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin.
- Hồ sơ di sản Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội.
- Wedsite: Hanoi.ws có bài viết : Thành Cửa Bắc – Chứng tích thời oanh
liệt của Hà Nội”…
Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu cụ thể về các giá trị của điểm di

tích Chính Bắc Môn.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là điểm di tích Chính Bắc Môn nằm trong khu
di tích Hoàng thành Thăng Long.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài đã vận dụng tổng hợp các phương pháp sau:
- Nghiên cứu lý thuyết: Đề tài nghiên cứu những cơ sở lý luận, các cuốn sách,
thư tịch,… viết về di tích này.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Áp dụng trong phân tích làm rõ những giải
pháp cụ thể nhằm phát huy giá trị của khu di tích.
- Phương pháp thống kê so sánh: Đề tài đưa ra các số liệu cụ thể về thời gian,
diện tích,… để định hình rõ điểm di tích Chính Bắc Môn.
5
Dương Mạnh Thắng VHH2B
- Phương pháp điền dã: Đây là phương pháp chủ yếu của đề tài, trên cơ sở
nghiên cứu thực địa, thực hiện quan sát, chụp ảnh,…để nắm bắt thông tin,
thực trạng về khu vực để làm căn cứ cho việc nghiên cứu.
5. Ý nghĩa thực hiện đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Đề tài được thực hiện nhằm đưa ra những thông tin cơ bản
về điểm di tích Chính Bắc Môn, chỉ ra những giá trị lịch sử, văn hóa của điểm
di tích này.
- Ý nghĩa thực tiến: Thông qua việc nghiên cứu về điểm di tích Chính Bắc
Môn, đề tài xác định một số gải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị của điểm di
tích này trong tình hình thực tế hiện nay.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Phụ lục và Tài liệu tham khảo đề tài gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan về khu di tích Hoàng Thành Thăng Long.
- Chương 2: Giá trị lịch sử và văn hóa của điểm di tích Chính Bắc Môn.
- Chương 3: Hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của điểm di tích
Chính Bắc Môn.

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ KHU DI TÍCH HOÀNG THÀNH THĂNG LONG
1.1 Tên gọi và vị trí của khu di tích Hoàng thành Thăng Long
1.1.1 Tên gọi
6
Dương Mạnh Thắng VHH2B
- Tên thường gọi: Khu di tích Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long – Hà Nội
- Tên gọi khác: Khu di tích Thành cổ Hà Nội và di tích khảo cổ học 18
Hoàng Diệu
1.1.2 Vị trí và địa điểm phân bố di tích
Hiện nay, Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội (Bao
gồm Thành cổ Hà Nội và di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu) nằm trên một
khuôn viên khá rộng, gần 19 ha (186. 3777, 9m2), thuộc địa bàn phường Điện
Biên và phường Quán Thành, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội được giới hạn bởi:
+ Phía Bắc giáp: Đường Phan Đình Phùng, đường Hoàng Văn Thụ
+ Phía Tây giáp: Đường Hoàng Diệu, Đường Độc Lập và khuôn viên Hội
trường Ba Đình
+ Phía Nam giáp: đường Bắc Sơn và khuôn viên Hội trường Ba Đình
+ Phía Tây Nam giáp: đường Điện Biên Phủ
+ Phía Đông giáp: Đường Nguyễn Tri Phương
1.2 Các di tích trên mặt đất của khu trung tâm di tích Hoàng thành Thăng
Long
1.2.1 Kỳ đài
Kỳ Đài (Cột Cờ Hà Nội) cao 33, 4m, xây năm 1812 trên bệ tam cấp đồ sộ
tượng trưng cho tam tài (thiên, địa, nhân). Cấp dưới cùng mỗi cạnh 42m, cấp trên
cùng mỗi cạnh 15m, cấp giữa có tên các cửa: Cửa Đông (Nghênh Húc) – đón ánh
ban mai, Cửa Nam (Hướng Minh) – hướng về ánh sáng, Cửa Tây (Hồi quang) –
ánh sáng phản chiếu. Tháp hình bát giác với cầu thang 54 bậc xoáy ốc lên lầu nóc,
có 39 cửa nhỏ hình hoa thị và 6 cửa hình dẻ quạt để soi sáng và thông hơi. Hiện
nay Cột Cờ nằm trong khuôn viên Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, là biểu
tượng của Thủ dô Hà Nội ngàn năm văn hiến.

7
Dương Mạnh Thắng VHH2B
1.2.2 Đoan Môn
Đoan Môn được xây dựng từ thời Lê. Đây là cửa chính dành cho nhà vua ra
vào Cấm thành. Cửa Đoan Môn có cấu trúc hình chữ U, từ Đông sang Tây dài
47m, giữa dày 13m, hai bên dày 27m, có 5 vòm cổng, vòm cổng chính giữa dành
cho vua đi. Phía trên là Vọng Lâu – lầu canh gác của lính canh, được trùng tu năm
1999- 2000. Tại di tích Đoan Môn, năm 1999 các nhà khảo cổ đã phát hiện được
các dấu tích kiến trúc: nền sân gạch thời Lê, con đường lát gạch hoa chanh thời
Trần và dưới cùng là nền đường từ thời Lý
1.2.3 Điện Kính Thiên
Kính Thiên, là điểm di tích quan trọng nhất, trung tâm nhất trong khu vực
Thành cổ Hà Nội. Hiện nay chỉ còn nền cũ và hai bậc thềm Rồng đá.
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ định đô tại Thăng Long và cho xây điện Càn Nguyên
trên đỉnh núi Nùng (núi Long Đỗ - Rốn Rồng). Năm 1092 xây lại điện, gọi là
Thiên An. Thời Trần cũng được gọi là điện Thiên An. Đến năm 1428, vua Lê Thái
Tổ dựng điện Kính Thiên (Long Thiên) – nơi ngự của các vua Nguyễn khi tuần du
Bắc Hà hoặc ra nhận sắc phong của nhà Thanh. Năm 1886, sau khi chiếm được
thành Hà Nội, người Pháp phá hành cung Kính Thiên và cho xây tòa nhà là Sở chỉ
huy pháo binh Pháp. Sau này được gọi là nhà Con Rồng, nơi làm việc của Bộ
Tổng tham mưu – Bộ quốc phòng quân đội nhân dân Việt Nam
1.2.3 Nhà D67 và Hầm D67
Năm 1966, Mỹ bắt đầu dùng không quân đánh phá Hà Nội. Năm 1967, mức
đọ đánh phá ngày càng ác liệt. Để đảm bảo nơi làm việc của cơ quan Tổng hành
dinh trong chiến tranh, bộ quốc phòng đã quyết định xây dựng một ngôi nhà trong
8
Dương Mạnh Thắng VHH2B
khu A thành cổ Hà Nội. Ngôi nhà được thiết kế năm 1967 nên được gọi là nhà
D67.
Tổng hành dinh - Nhà D67 Khu A Bộ quốc phòng, Bộ Chính trị và Quân uỷ

Trung ương đã đưa ra những quyết định lịch sử đánh dấu những mốc son của cách
mạng Việt Nam. Đây là nơi diễn ra nhiều cuộc họp,nhiều sự kiện quan trọng gắn
với những mốn son của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của quân và dân ta.
Đó là: Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 Cuộc Tổng tiến công năm 1972 Đánh
thắng hai cuộc chiến của Mỹ mà đỉnh cao là 12 ngày đêm cuối năm 1972. Tổng
tiến công năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh . Phòng họp D67 chính
là nơi hội tụ kết tinh và tỏa sang tinh hoa Việt Nam,trí tuệ Việt Nam để đưa nhân
dân ta đi đến thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Nhìn bề ngoài D67 là một ngôi nhà mái bằng bình thường, kích thước 43.02 x
20.85m chiều cao đỉnh mái 7.89m nằm dưới lùm cây. Tuy nhiên tính quân sự của
D67 hiện rõ khi vào trong. Tường dày 0.6m, cách âm, cửa có hai lớp lớp ngoài
bằng thép tấm dày 1cm. Trên mái có một lớp cát cản được mảnh róc két và bom
bình thường.
Hầm D67 (hầm quân ủy trung ương) được xây dựng vào năm 1967 cùng với
nhà D67. Hầm nằm dưới khoảng sân nối giữa điện Kính Thiên và nhà D67 dành
cho Bộ Chính trị và Quân ủy trung ương. Hầm sâu khoảng 9m được xây dựng
kiên cố để chống bom. Cửa hầm làm bằng thép tấm có ba cầu thang lên xuống.
Hai đường dẫn từ hầm lên hai phòng làm việc của đại tướng Võ Nguyên Giáp và
đại tướng Văn Tiến Dũng trong nhà D67, đường hầm rộng 1, 2m, có 45 bậc thang.
Ngoài ra còn một cầu thang phía Nam thông với nhà con Rồng.
1.2.4 Hậu Lâu
Hậu Lâu, còn gọi là lầu Công chúa, có kiến trúc gốc thời Nguyễn, xây dựng
lại trong thời Pháp thuộc, xưa là nơi ở của các cung tần mỹ nữ hộ giá nhà vua khi
tuần du Bắc Hà. Lầu được xây bằng gạch, phía dưới hình hộp, phía trên là các
9
Dương Mạnh Thắng VHH2B
công trình kiến trúc với 5 tầng mái đan xen nhau. Lầu dưới cùng có 3 tầng mái,
lầu trên cùng có 2 tầng mái. Mái lợp kiểu ngói ống, trát vữa, xi măng. Bốn góc
đao cong, hai góc bờ ngoài đắp đầu rồng, hai đầu hồi đắp hổ phù, hai góc đao đắp
hình hồi long bằng vữa.

1.2.5 Chính Bắc Môn
Cửa Bắc (Bắc môn) quay hướng Bắc, chếch Tây 15 độ, là cổng thành duy
nhất còn lại của Thành Hà Nội, hiện ở 51 Phan Đình Phùng. Cửa Bắc được xây
dựng theo kiểu Vauban, cao 8, 71m, rộng 17m, dầy 20, 48 m, mái hình vòm cuốn
cao 4, 4m. Cổng thành được xây dựng bằng gạch, mép cửa kè đá hình chữ nhật,
diềm trên bằng đá trang trí cánh sen, phía trên có hai ống máng bằng đá được
trang trí vân xoắn dùng thoát nước trên Vọng Lâu xuống. Trên mặt thành Cửa Bắc
còn lưu hai vết đại bác (sâu 80cm) do pháo hạm Pháp bắn vào thành năm 1882.
Nơi đây thờ hai vị tổng đốc đã tuẫn tiết theo thành Hà Nội: Nguyễn Tri Phương và
Hoàng Diệu.
1.2.6 Tám cổng thành thời Nguyễn
Theo Đại Nam nhất thống trí năm 1805, khi xây dựng thành Hà Nội, nhà
Nguyễn đã dựng tường bao từ cửa Đoan Môn quanh nội điện làm hành cung để
vua làm việc và nghỉ ngơi mỗi khi Bắc tuần.
Hiện nay trong khu thành cổ còn tám cổng cùng với tường bao hành cung
bằng gạch vồ cung quanh trung tâm thành Hà Nội thời Nguyễn.
Phía Nam có hai cổng bên Đoan Môn, phía Bắc có hai cổng nằm sau Hậu Lâu,
phía Đông có một cổng ra đường Nguyễn Tri Phương, phía Tây có một cổng mở
ra đường Hoàng Diệu và hai cổng hai bên nền điện Kính Thiên.
10
Dương Mạnh Thắng VHH2B
Chương 2: GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA CỦA ĐIỂM DI TÍCH CHÍNH BẮC
MÔN
2.1 Giá trị lịch sử của di tích Chính Bắc Môn
2.1.1 Tên gọi, vị trí
11
Dương Mạnh Thắng VHH2B
Chính Bắc Môn còn gọi là Bắc Môn hay Cửa Bắc, là cổng thành phía Bắc
của thành Hà Nội thời Nguyễn được xây dựng năm 1805. Thành Hà Nội mở ra 5
cửa: Bắc, Đông, Tây, Đông Nam và Tây Nam trong đó Cửa Bắc là cửa duy nhất

còn sót lại. Chính Bắc Môn hiện nay nằm trên phố Phan Đình Phùng.
2.1.2 Lịch sử hình thành
Năm Ất Sửu, vua Gia Long sai quan đốc sức đắp thành, chu vi 1958 tầm 2
thước 5 tấc, xay bằng gạch đá. Ngoài thành đều đào hào xung quanh. Thành mở 5
cửa Đông Nam, Tây Nam, Chính Đông, Chính Tây và Chính Bắc xây bằng gạch
đá, bốn bề cao và bằng một lối ra vào xây bằng đá, trên tròn dưới vuông. Trên
của dựng nhà gạch làm lầu canh. Ngoài cửa thành đều xây lăng giác thành.
Ở cửa chính Đông dựng một tòa nhà gạch, cắt lính thay phiên nhau canh
gác. Ở Cửa Đông Nam dựng hai tòa nhà gạch gọi là Diệp Nghị Đường. Hàng
tháng vào ngày 27 các quan lại làm việc trong thành tụ tập ở đó. Phàm quan dân
các huyện trấn ai có việc thì đến đây tâu trình. Nha bên phải công đường đặt sáu
phòng nha lại lưu giữ, trình gửi công văn. Lại đặt trạm dịch, 1 nhà gạch bốn mái
đặt quân luân phiên canh trực, khi có chiếu thư, truyền lệnh cũng dán ở đây, ở
lang giác thành cửa Chính Bắc cũng dựng một nhà dài bên trong chứa công
lương… (Trích Bắc Thành dư địa chí, xuất bản 1969).
2.1.3 Kiến trúc
Chính Bắc Môn được xây theo hướng vọng lâu, phía trên là lầu phía dưới là
thành. Tuy Chính Bắc Môn không cao nhưng khá bề thế. Cổng quay hướng Bắc
chếch 15°, dạng hình thang lòng hình vòm cuốn xây bằng gạch, một viên đặt
12
Dương Mạnh Thắng VHH2B
ngang xen một viên đặt dọc liên kết bằng vữa hợp chất. Mép cửa kè đá hình
chững nhật, diềm trên bằng đá trang trí viền cánh sen, gạch cỡ trung bình 35.5cm
х 11cm х 12cm. Đá kè kích thước dài từ 38cm đến 86cm, rộng từ 17cm đến
32cm, dày khoảng 42cm, phía trên có hai ống máng bằng đá trang trí văn mây
xoắn để thoát nước từ trên vọng lâu xuống. Phía trên vòm cửa chính có gắn tấm
biển đá ghi ba chữ “Chính Bắc Môn”, diềm biển đá trang trí hoa dây nổi.
Trên mặt thành có thể thấy 1 tấm biển đá khắc ngày 25/04/1882 với 2 vết
lõm ngay cạnh. Đó là dấu tích khi Pháp phá thành Hà Nội chúng giữ lại cửa Bắc
vì nơi đây còn hai vết đại bác do pháo thuyền Pháp bắn từ sông Hồng năm 1882

khi Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai.
2.1.4 Di tích Chính Bắc Môn qua các cuộc khai quật
Địa tầng Chính Bắc Môn
- Lớp mặt gồm hai lớp:
Lớp mặt trên dày 0m – 2.30m bề mặt bồm nền bê tông, các móng tường nhà
cửa, các căn nhà cấp bốn được xây dựng những năm gần đây. Đất lẫn có màu nâu
đen.
Lớp dưới: lớp đất xáo trộn màu nâu đen mềm xốp… Lớp này có lẫn nhiều
mảnh gạch ngói, sành sứ từ thời Trần đến thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
- Tầng văn hóa: hố H1 có 10 lớp, hố H2 có 12 lớp mỗi lớp 20cm.
13
Dương Mạnh Thắng VHH2B
- Tầng văn hóa màu nâu đen chắc có lẫn nhiều mảnh gạch vồ, gạch ngói gốm sứ từ
thời Trần đến thế kỷ XVIII. Chính trong lớp này cũng xuất hiện vết tích các nền
móng kiến trúc và tường thành. Tầng văn hóa này nằm ở độ sâu 2.30m – 4.30m.
Nếu tính đến hết móng gạch thì chỗ sâu nhất là 5.40m.
- Sinh thổ: đất sét đen mền không lẫn hiện vật.
Như vậy, cấu trúc địa tầng, cấu trúc văn hóa giữa hai hố là tương tự nhau.
Độ dày giữa các lớp có khác nhau chút ít đặc biết nơi có lớp móng làm bằng dăm
gạch vụn nện chặt giữa hai hố rất khác nhau ở nơi xuất lộ hố 1 lớp dăm chỉ dày
6cm, hố 2 lớp dăm và lớp gạch vỡ dày 1.20m.
Các vết tích kiến trúc ở các hố khai quật khảo cổ học:
Hố H1
- Vị trí:
Trong hố H1 ở độ sâu 2.20m xuất hiện một mảnh tường kiến trúc khá kiên
cố. Vết tích kiến trúc này nằm choán hết toàn bộ chiều rông của hố. Cạnh phía
nam của vết tích kiến trúc này cách vách Nam của hố đào 5m cạnh phái bắc còn
đang chạy về phía vách bắc. Tuy đã bị phá hủy nghiêm trọng, nhưng các vết tích
đã xuất lộ cũng cho thấy phần nào cấu trúc của mảng tường.
- Vật liệu và kỹ thuật xây dựng: Vật liệu gồm gạch vồ, gạch vỡ và đá. Gạch vồ

có các cỡ 38cm x 17cm x14cm, 42cm x 14cm x 13cm. Gạch vuông gồm có
34cm x 34cm x6cm, 38cm x 38cm x 5.5cm.
Kỹ thuật xây xếp đơn giản không có chất kết dính. Theo chiều thẳng
đứng gạch thường xếp giật cấp. Theo mặt phẳng ở phía ngoài gạch xếp 1 viên
ngang xen 1 viên dọc, ở phía trong nhòi gạch vỡ nện chặt.
14
Dương Mạnh Thắng VHH2B
Cấu trúc: Gồm hai phần: móng và tường. Phần móng được thấy rõ ở
phía nam hố khai quật. Phần này gồm một lớp gạch dăm dày 6cm nện chặt.
Dưới dăm gạch là đất sét đen không có di vật. Tuy nhiên đây chỉ là phần móng
ở vị trí không có tường đè lên. Phần móng chỗ có tường không đòa vì để bảo
vệ tường gạch phía trên. Phần tường gồm có hai cấp thu lại theo hướng từ đông
sang tây. Cấp dưới có thể coi như chân tường có thể quan sát thấy rõ từ ba
hướng. Từ hướng Nam: chân tường cao 0.92m gồm có hai lớp đá và năm lớp
gạch được xếp theo trật tự như: Lớp gạch dưới cũng là lớp đá lót, đá được đập
vỡ tự nhiên, kích thước 28cm x 5.14cm x5cm đã xếp chèn ở dưới và xếp bề
rộng ra ngoài. Tiếp theo là lớp đã xanh có gia công sơ sài kích thước lớn hơn
54cm x 15cm, 37cm x 17cm. Bên trên lớp đá có năm hàng gạch vồ, tính từ
dưới lên trên được xếp theo thể thức hàng một gạch xếp dọc, hàng hai gạch xếp
dọc thỉnh thoảng có viên xếp ngang, hàng ba gạch xếp dọc, hàng bốn gạch xếp
dọc có chen viên xếp ngang, hàng năm gạch xếp dọc hoàn toàn. Như vậy các
hàng gạch xếp dọc là chủ yếu tạo một chân tường khác chắc chắn nhưng mặt
phẳng không đều. Từ hướng Bắc: do hố đào còn nhỏ, chân tường đã bị phá chỉ
rõ phần mặt có nhồi gạch vỡ nện chặt.
Từ hướng đông: có thể thấy chân tường chạy theo hướng bắc nam dài
9m, rộng 0.9m, chân tường đang phát triển về hướng bắc. Cấu trúc chân tường
phía này khác hẳn phía nam. Các hàng gạch vồ được xếp thẳng và giật cấp thu
dần vào trong mỗi cấp từ 2cm – 4cm. Hiện đã rõ ba hàng gạch giật cấp như
vậy. Còn phía dưới chưa nhìn rõ được do hố đào còn nhỏ. Phủ kín trên mặt của
chân tường là các lớp gạch vồ, gạch vuông và đất. Gạch tuy được xếp nhưng

không chặt và không thành hàng lối. Bóc dỡ toàn bộ lớp gạch đất này ra thì
xuất lộ toàn bộ cấp tường nền thứ hai. Cấp tường nền thứ hai ở bên trên đều đã
bị phá ở cả hài đầu bắc nam chỉ nhìn rõ ở phía đông, giật cấp cách mép chân
15
Dương Mạnh Thắng VHH2B
tường 0.9m dài 6m. Toàn bộ cấp tường này hiện còn rõ tám hàng gạch xếp giật
cấp tương tự như chân tường bên dưới. Tóm lại, móng tầng nền gạch trong hố
H1 được xây chủ yếu bằng gạch vồ, đá dùng để lót và xếp ở hàng dưới cùng,
móng bằng gạch vụn nện chặt. Móng đã bị phá hủy nghiêm trọng phần còn lại
cao 1.96m, chân tường dài 9m giật cấp bên trên dài 6m, do hố đào còn nhỏ
hiện chưa rõ quy mô của vết tích kiến trúc này.
Hố 2:
- Vị trí: Vết tích ở hố H2 xuất hiện ở độ sâu 1.66m. Đoạn tường này chạy theo
hướng Bắc Nam và nằm ở sát vách đông của hố khai quật.
- Vật liệu và kỹ thuật xây dựng: Vật liệu gồm có gạch vồ, đá, gạch vỡ, gạch
vỡ 38cm x 13cm x 10xm, 38cm x 14cm x… Kỹ thuật xây kiểu giật cấp thu dần
vào theo chiều thẳng dứng, xếp một viên ngang xem một viên dọc theo phương
nằm ngang và kết hợp với nhồi gạch vụn nện chặt ở phía trong.
- Cấu trúc: Phần móng là gạch vụn và gạch vỡ được chia làm hai lớp: lớp dưới
là các viên gạch vồ vỡ ⅓ hoặc ¼ nhồi xếp dày 1.15cm. Lớp trên là lớp gạch
vụn nện chặt tạo một bề mặt rất phẳng, chắc, không thấm nước. Lớp móng này
trải dài trên toàn bộ mặt của hố H2.Phần tường đã thấy toàn bộ mặt phía tây
được xếp bằng đá và gạch vồ. Hàng dưới cúng lót một lớp đá. Hiện nay đã lộ
rõ một tảng đá trắng dài 50cm, nhô cao khỏi lớp dăm gạch 9cm. Trên lớp đá
hiện còn 17 hàng gạch xếp giật cấp.
Mặt tường đã bị phá một phần, cả bề rộng và chiều dài có khả năng đang
nằm ở phần chưa khai quật. Đặc biệt, phần tường này đã chui hẳn vào dưới
chân Bắc Môn. Đoạn gần chân Bắc Môn đã bị phá một mảng tường dài 1.2m
rộng 1m. Từ mép tường trên nền gạch nện có một lớp gạch đổ dốc từ đông
sang tây dài 6m – 6.4m. Ngoài cùng có hai tảng đá xanh và xép không chặt chẽ

16
Dương Mạnh Thắng VHH2B
có xen đất, mảnh gốm và gạch. Tóm lại, đây là đoạn tường kiến trúc chạy theo
hướng Bắc Nam. Phần còn lại đã xuất lộ cao 2.4cm, bề mặt đã xuật lộ rộng
3.3cm.
Niên đại của các di vật và vết tích kiến trúc ở Chính Bắc Môn:
Hai hố H1, H2 đào ở Bắc Môn khá gần nhau và kết cấu địa tâng, loại
hình di vật và niên đại. các vết tích kiến trúc đều tương tự như nhau do đó có
thể xác đinh niên đại chung cho cả hai hố. Về mặt địa tầng, cả hai hố đều chỉ
có một tầng văn hóa. Trong tầng văn hóa, đặc trưng và niên đại của các di vật:
Các di vật thuộc thế kỷ XVII – XVIII chiếm tỷ lệ lớn nhât gồm có các mảnh
gạch vồ, ngói ống và các bộ phận trang trí trên ngói màu xám, màu dỏ hoặc
tráng men xanh, men vàng, các mảnh gốm men hai màu, men mày ghi xám,
men mày vàng đục gốm hoa lam trang trí đơn giản, các mảnh sành… Ngoài ra,
còn một số mảnh gốm hoa lam Trung Quốc. Các di vật thuộc thế kỉ XV – XVI
gồm một tỷ lệ rất ít các mảnh gốm hoa lam, gốm men màu vàng đục, gốm
trắng văn in.
Các di vật thuộc thế kỷ XIII –XIV rất ít gồm một số mảnh gốm men
ngọc hoặc men trắng có vết chồng dính thời Trần và một vài mảnh men ngọc
Trung Quốc. Trong lớp kiến trúc này mỗi hố có vết tích một nền móng kiến
trúc rất lớn. Vết tích này xây hoàn toàn bằng gạch vồ. Loại gạch này xuất hiện
từ thế kỷ XV trở đi. Việc xác định chính xác loại gạch này và kỹ thuật xây xếp
như hai kiến trúc này xuất hiện và thời kỳ nào là rất khó. Giữa hai kiến trúc có
khác nhau một số điểm như sau: Kiến trúc ở hố H1 gần như là một kiến trúc
nhà cửa hay đền tháp, xây giật cấp, móng gạch vụn xây mỏng. Kiến trúc ở hố
H2 là đoạn tường thành xây xếp giật cấp và móng gạch xây khá dày và kiên cố.
17
Dương Mạnh Thắng VHH2B
Tuy nhiên, cả hai kiến trúc này lại có điểm chung là cũng một loại gạch,
kỹ thuật xây cất như nhau. Bởi vậy tạm thời cho rằng hia kiến trúc này xây

cùng thời và nằm trong khoảng thế kỉ XV –XVIII. Lớp đất san lấp hai kiến trúc
này có thể được hình thành và khoảng cuối thế kỷ XVII – đầu thế kỷ XIX khi
mà hai kiến trúc này bị phá bỏ để xây dựng thành Hà Nội ở triều Nguyễn.
2.2 Giá trị văn hóa của di tích Chính Bắc Môn
Thành cửa Bắc không chỉ là một di tích còn sót lại của khu thành cổ Hà
Nội mà nơi đây còn là minh chứng cho những cuộc đấu tranh anh dũng của
quân dân Hà Nội chống lại thực dân Pháp trong buổi đầu chiếm thành Hà Nội.
Ngay trong lầu trên thành trở thành nơi thờ của hai vị tổng đốc Nguyễn Tri
Phương và Hoàng Diệu – hai vị quan có công cùng nhân dân thành Hà Nội
chống trả lại sự tấn công chiếm thành của thực dân Pháp.
Đêm ngày 19, rạng sáng ngày 20 tháng 11 năm 1873, Quân Pháp bất
ngờ đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, tổng đốc Nguyễn Tri Phương đã thân
hành lên mặt thành phía tây để giao chiến với quân giặc. Quân giặc bất ngờ
đánh chiếm vòng phòng thủ bên ngoài của hai cửa phía nam, và vượt qua cầu
trước khi quân trú phòng kịp bắn xuống. Đồng thời, pháo từ các pháo thuyền
cũng bắn lên, khiến cho binh lính phòng thủ, do không quen với đạn pháo, bỏ
chạy tán loạn khỏi thành theo cửa tây. Cùng lúc đó, hỏa lực quân Pháp cũng
bắn vỡ cửa nam, và chỉ trong một giờ, quân Pháp đã treo cờ Pháp lên vọng lâu
thành Hà Nội. Hơn hai nghìn quân triều đình bị bắt làm tù binh.
Con trai Nguyễn Tri Phương là Phò mã Nguyễn Lâm bị trúng đạn chết
tại trận, Nguyễn Tri Phương cũng bị trọng thương. Ông được lính Pháp cứu
chữa, nhưng ông khảng khái từ chối và nói rằng: "Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây
18
Dương Mạnh Thắng VHH2B
lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa". Sau đó, ông tuyệt thực
gần một tháng và mất vào ngày 20/12/ 1873 (1/11 Âm lịch), thọ 73 tuổi. Thi
hài ông và Nguyễn Lâm được đưa về an táng tại quê nhà. Đích thân vua Tự
Đức tự soạn bài văn tế cho ba vị công thần (Nguyễn Duy, Nguyễn Lâm,
Nguyễn Tri Phương) và cho lập đền thờ Nguyễn Tri Phương tại quê nhà.
Chín năm sau, Pháp tấn công thành Hà Nội lần 2, Hoàng Diệu được

vua Nguyễn giao chức tổng đốc Hà Nội. Quân Pháp dưới sự chỉ huy của thiếu
tá Henri Rivière đã chiếm thành Hà Nội. Ngày 25/4/1882, tại cổng thành Cửa
Bắc đã diễn ra trận chiến bao vệ thành Hà Nội của tổng đốc Hà Nội với Henri
Rivière. Dãy phố Hàng Bún và Hàng Than bốc cháy dữ dội. Và cũng ở trận
chiến này hai vết đại bác của thực dân Pháp hằn in trên tường thành Chính
Bắc Môn.
Trong cuốn tiểu thuyết Vết đạn thành Cửa Bắc, tác giả Ngô An Phú đã
miêu tả chi tiết hơn về lịch sử, nguồn gốc của hai vết đạn này. Sách có viết:
“Đề đốc Lê Văn Trinh trấn thành Cửa Bắc một viên đạn đại bác trúng ngay
trán cổng thành tiếng nổ long tròi lở đất. Rồi đạn liên tiếp nổ phía trước. Hào
nước vung bùn lên gần ngang mặt thành. Phía sau, đạn pháo bắn liền mấy quả
tiếp Quân ta lâm trận đang ở vào phút bất lợi! Một viên đại bác nữa lại
trúng mặt thành, sát thương thêm hàng chục người. Thành vỡ ra một mảng
lớn. Thây người văng trong khói lửa…Tuy nhiên, sau làn khói đạn, những
người lính mặc áo nâu dũng cảm lại xông lên, chém mạnh vào đám quân Pháp
đang bắc thang leo vào thành ( ) Sĩ phu Bắc Hà, có bao giờ chịu ngồi yên
đâu!”
Tổng đốc Hoàng Diệu đã chỉ huy quân sĩ chiến đấu rất ngoan cường ở
Cửa Bắc nhưng do trong thành có kẻ nội gián đốt kho súng gây hỗn loạn vì
19
Dương Mạnh Thắng VHH2B
thế thành đã bị thất thủ. Lực lượng ngày càng yếu đi, không thể giữ được
thành nữa, ông đã ra lệnh cho tướng sĩ giải tán để tránh thương vong, một
mình vào hành cung, thảo tờ di biểu, rồi ra trước Võ miếu dùng khăn bịt đầu
thắt cổ tự tử, đó là ngày 25 tháng 4 năm 1882 (tức ngày 8 tháng 3 Âm lịch).
“Thành mất không sao cứu được, thật hổ với nhân sĩ Bắc thành lúc sinh tiền.
Thân chết có quản gì, nguyện xin theo Nguyễn Tri Phương xuống đất. Quân
vương muôn dặm, huyết lệ đôi hàng " . Ông đã viết bằng máu những dòng
này trong tờ di biểu.
Người Hà Nội vô cùng đau lòng. Ngay hôm sau, nhiều người họp lại,

sắm sửa mền nệm tử tế, rước quan tài của Hoàng Diệu từ trong thành ra, tổ
chức khâm liệm và mai táng tại khu vườn Dinh Đốc học (nay là địa điểm
khách sạn Royal Star ở đường Trần Quý Cáp cạnh chợ Ngô Sĩ Liên, sau ga Hà
Nội).
Trong vòng có 10 năm,thành Hà Nội đã 2 phen bị giăc Pháp tấn công
và cả 2 lần đều thất thủ. Trong vòng 10 năm hai người con của khúc ruột miền
trung là Tổng đốc Nguyễn Tri Phương (Quảng Nam) và tổng đốc Hoàng Diệu
(Huế) đã hy sinh anh dũng để bảo vệ thành Hà Nội
Có thể thấy, điểm di tích Chính Bắc Môn không chỉ mang trong mình
những giá trị lịch sử mà còn chứa đựng giá trị văn hóa sâu sắc. Chính Bắc
Môn như một minh chứng cho tinh thần quả cảm, anh dũng chiến đấu của dân
tộc trước giặc ngoại xâm, dù trong bất kỳ tình thế nào, tinh thần ấy không bao
giờ mai một.
Chương 3: HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA ĐIỂM DI
TÍCH CHÍNH BẮC MÔN
20
Dương Mạnh Thắng VHH2B
3.1 Hoạt động bảo tồn điểm di tích Chính Bắc Môn
3.1.1 Định hướng bảo tồn
Chính Bắc Môn là di tích mang nhiều giá trị lịch sử, văn hóa. Việc bỏn
tồn và phát huy các giá trị của điểm di tích Chính Bắc Môn cần được thực
hiện có khoa học và hợp lý trong bối cảnh đất nước nói chung và thủ đô Hà
Nội nói riêng đang phát triển từng ngày, từng giờ. Đảng và Nhà nước ta cũng
rất quan tâm tới việc bảo tồn các giá trị văn hóa và đã đề ra nhiều định hướng
cụ thể.
Ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và công bố Sắc lệnh số
65/SL về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam. Sau năm 1945, bước vào giai
đoạn xây dựng đất nước ở miền Bắc, Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm đến
công tác bảo tồn di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Nghị định số 519 –
TTg về bảo vệ di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh do Thủ tướng Chính phủ

công bố ngày 29/10/1957 đã tạo điều kiện cho ngành văn hóa thong tin tiến
hành kiểm kê phổ thông các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh ở
các tỉnh và thành phố toàn miền Bắc; giúp bảo vệ những di tích quan trọng
nhất của đất nước đền Hùng, Cổ Loa, Văn Miếu, đình Tây Đằng …; xây dựng
được hệ thống bảo tàng đầu tiên của nhà nước độc lập, tự chủ: Bảo tàng Lịch
sử Việt Nam, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Quân đội, Bảo tàng
Hải Phòng, Bảo tàng Việt Bắc và nhiều bảo tàng khác ở các địa phương.
Với Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử và danh lam thắng
cảnh do Hội đồng Nhà nước công bố ngày 31/3/ 1984, Đảng và Chính phủ đã
thể hiện, sự quan tâm, sự chăm lo đối với công tác giữ gìn di sản văn hóa của
dân tộc. Những nghị định, pháp lện này thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà
21
Dương Mạnh Thắng VHH2B
nước ta đối với việc bảo tồn các di sản văn hóa ở những thời điểm, hoàn cảnh
cụ thể, phù hợp với điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội vào thời điểm đó.
Sự hoàn thiện dần về luật pháp đối với lĩnh vực bảo tồn và phât huy giá trị của
di sản văn hóa của các dân tộc ở nước ta, được bắt đầu với Hiến pháp năm
1992, trong đó, quy định trách nhiệm của Nhà nước, các tổ chức nhân dân về
bảo vệ, giữ gìn và phát huy di sản văn hóa dân tộc được nhấn mạnh: Nhà nước
chủ trương bảo tồn phát triển nền văn hóa Việt Nam, các di sản văn hóa dân
tộc, những giá trị của nền văn hiến dân tộc Việt Nam.
Ngày 19/1/1993 Thủ tướng Chính phủ công bố Quyết định số 25/TTg
Về một số chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự nghiệp văn hóa nghệ
thuật, trong đó xác định việc phát triển văn hóa nghệ thuật mang bản sắc dân
tộc Việt Nam là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn dân, Nhà nước tạo điều kiện ,
xây dựng cơ sở hạ tầng và trang bị phương tiện cho việc phát triển văn hóa
nghệ thuật mang bản sắc dân tộc. Quyết định cũng chỉ ra chính sách cụ thể
như đầu tư cho việc sưu tầm, chình lý, biên soạn, bảo quản lâu dài, phooe biến
văn học dân gian, các điệu múa, các làn điệu âm nhạc của các dân tộc, giữ gìn
các nghề thủ công truyền thống, các loại nhạc dân tộc, bảo tồn và phát huy các

lại hình nghệ thuật dân tộc như tuồng, chèo, dân ca, cải lương, múa rối…đồng
thời khen thưởng những người có công trong việc sưu tầm và bảo tồn các giá
trị văn hóa dân tộc.
Tháng 11/1993, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) họp Hội
nghị lần thứ 4 đã dành riêng một Nghị quyết về một số nhiệm vụ văn hóa văn
nghệ trong những năm trước mắt. Trong sáu định hướng về công tác tư tưởng,
có một định hướng lớn là phát triển văn hóa với hi nội dung cơ bản là phát
huy bản sắc dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tại văn bản số 4739/ KG – TƯ ngày 26/8/1994, Thủ tướng Chính phủ đã cho
phép Bộ Văn hóa Thông tin (cũ) nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch triển
22
Dương Mạnh Thắng VHH2B
khai Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa. Đây là sự thể hiện một sự
đầu tư đúng hướng, trên cơ sở xác định hướng chính sách đúng đắn của Đảng
và Nhà nước đối với sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ V của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) là một mốc đánh dấu quan trọng về định hướng của Đảng đối với việc
bảo tồn và phát huy di sản văn hoá, trong đó, Đảng ta coi “Di sản văn hóa là
tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của ản sắc dân tộc, cơ sở
để sang tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa”.
Để triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung
ương (khóa VIII), trong lĩnh vực di sản văn hóa, Bộ Văn hóa Thông tin (cũ)
đã ban hành:
- Công văn số 4432/VHTT-BTBT ngày 20/10/1998 của Bộ Văn hóa Thông tin
hướng dẫn tăng cường quản lý cổ vật.
- Công văn số 4882/VHTT- BTBT ngày 18/11 năm 1998 của Bộ Văn hoa
Thông tin hướng dẫn việc đăng ký kiểm kê bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa và
danh lam thắng cảnh.
- Chỉ thị số 60/CT-BVHTT ngày 6/5/1999 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông
tin về việc tăng cường quản lý và bảo vệ di tích.

Luật Di sản Văn hóa được Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 9 thông qua
ngày 14/6/2011, có hiệu lực từ ngày 1/1/2002 là cơ sở pháp lý cao nhất nhằm
bảo vệ và phát huy giá trị di sẳn văn hóa ở Việt Nam. Các khái niệm, nội dung
của di sản văn hóa; phạm vi, đối tượng điều chỉnh của luật; chính sách, biện
pháp chủ yếu của Nhà nước nhằm bảo vệ di sản; trách nhiệm của cơ quan nhà
nước, tổ chức,các nhân và của toàn xã hội trong việc bảo vệ di sản văn hóa
dân tộc; giải thích các từ ngữ về di sản văn hóa và bảo vệ, phát huy di sản văn
hóa; xá định quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý và các
hình thức sở hữu khác đối với si sản văn hóa; những mục đích sử dụng và phát
huy giá trị di sản văn hóa; các điều cấm nhằm bảo vệ di sản văn hóa… đã
23
Dương Mạnh Thắng VHH2B
được đề cập đến. Bên cạnh đó, trong văn bản luật này có các chương đề cập
đến quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hóa; việc bảo
vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể; việc bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hóa vật thể; việc quản lý Nhà nước về di sản văn hóa; việc khen
thưởng và xử lý vi phạm; và các điều khoản thi hành.
Một văn bản quan trọng nữa ảnh hưởng đến việc bảo tồn và phát huy
giá trị các di sản văn hóa là Quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị di
tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh đến năm 2020 đã được Bộ
trưởng Bộ Văn hóa thong tin ký phê duyệt trong quyết định số 1706/QĐ-
BVHTT ngày 24/7/2001, kèm theo danh sách 32 di tích ưu tiên đầu tư chống
xuống cấp và tôn tạo đến năm 2020.
3.1.2 Bảo tồn di tích Chính Bắc Môn gắn liền với hoạt động bảo tồn khu di
tích Hoàng thành Thăng Long
Điểm di tích Chính Bắc Môn nằm trong khu di tích Hoàng thành
Thăng Long nên việc bảo tồn điểm di tích này cần gắn liền với các hoạt động
của khu di tích Hoàng thành Thăng Long.
Cơ sở pháp lý cho việc bảo tồn các giá trị di sản văn hóa được quy
định cụ thể trong các luật, thông báo sau:

24
Dương Mạnh Thắng VHH2B
Luật di sản văn hóa và Nghị định số 92/2002/NĐ – CP ngày
11/11/2002 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật di
sản văn hóa.
Thông báo số 13 – TB/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày
15/10/1996, về việc kết luận của Bộ Chính trị về qui hoạch Thành cổ Hà Nội.
Thông báo số 142 – TB/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng
ngày 30/5/1998 về ý kiến Thường vụ Bộ Chính trị về qui hoạch Thành cổ Hà
Nội và qui hoạch sở chỉ huy cơ quan Bộ quốc phòng;
Quyết định số 1706/2001/QĐ – BVHTT ngày 24/7/2001 của Bộ
trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin phê duyệt quy hoạch Tổng thể bảo tồn và phát
huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh đến năm 2020
Quyết định số 401/QĐ- TTg, ngày 28/4/2004 của Thủ tướng Chính
phủ về việc thu hồi đất Quốc phòng, khu Thành cổ do Bộ Quốc phòng quản lý
giao cho UBND Thành phố Hà Nội;
Công văn số 4713/VHTT – DSVH ngày 16/12/2004 của Bộ Văn hóa
Thông tin về việc lập quy hoạch tổng thể về xếp hạng Khu di tích Thành cổ
Hà Nội.
Thông báo số 50/TB – VPCP ngày 21/3/2005 của Văn phòng Chính
phủ về ý kiến kết luận của Thủ tướng Phan Văn Khải tại cuộc họp ngày
8/3/2005 về Qui hoạch chi tiết Khu Trung tâm Chính trị Ba Đình;
Công văn số 197/VPCP – VX ngày 12/01/2006 của Văn phòng Chính
phủ, thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó thủ tướng Chính phủ Phạm Gia Khiêm
về việc giao Bộ Văn hóa thông tin phối hợp với các Bộ, ngành và UBND
25

×