Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Trọn bộ câu hỏi đáp án ôn thi môn chủ nghĩa xã hội khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.59 KB, 28 trang )

1
Vấn đề 1 : Phân tích và chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngay từ khi Đảng cộng sản Việt Nam mới thành lập, trong cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng tháng 2 năm 1930 đã khẳng định con đường, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng
nước ta. Cương lĩnh đâu tiên trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng và lãnh đạo
phong trào cách mạng từ khi Đảng được thành lập, nội dung của cương lĩnh nhìn chung luôn
được thể hiện nhất quán trong suốt toàn bộ đường lối cách mạng nước ta qua từng thời kỳ.
Việc tìm hiểu để nêu những luận điểm của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là điều
cần thiết để khẳng định giá trị khoa học và tính đúng đắn của con đường mà Đảng và nhân
dân ta đã lựa chọn.
Những năm trước 1930, nước ta dưới sự thống trị của thực dân Pháp, hàng ngàn cuộc đấu
tranh yêu nước nổi dậy nhưng rồi lần lượt đều bị đàn áp và đi đến thất bại. Giữa lúc dân tộc ta
đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm
con đường cứu nước. Năm 1920, Người đến với chủ nghĩa Mác LêNin và sau đó bắt đầu
truyền bá tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Đến năm 1929, nhu cầu phải thành
lập Đảng Cộng sản đã chín muồi. Từ tháng 3/1929 đến tháng 01/1930 có 3 tổ chức Đảng
Cộng Sản lần lượt ra đời ở 3 miền Bắc, Trung, Nam, tuy chứng tỏ sự thắng thế của tư tưởng
cách mạng vô sản, song trong một nước có 3 tổ chức đảng cộng sản hoạt động riêng rẽ cũng
là một trở ngại cho phong trào cách mạng. Trước tình hình đó, nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng
sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản từ ngày 3
đến ngày 7/2/1930 tại Cửu Long, Hương cảng, Trung Quốc. Hội nghị đã thống nhất các
nhóm cộng sản thành một đảng và lấy tên đảng là Đảng cộng sản Việt Nam; đồng thời đã
thông qua Chính cương, sách lược, Điều lệ tóm tắt của Đảng và điều lệ tóm tắt của các đoàn
thể quần chúng. Chính cương, sách lược tóm tắt đã trở thành cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng xác định đường lối cách mạng Việt Nam với những nội dung cơ bản sau đây:
Một là cách mạng Việt Nam phải là cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng
để tiến lên xã hội cộng sản. Thực chất đó là một cuộc cách mạng có 2 giai đoạn : giai đoạn
thứ nhất đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giai đoạn thứ hai là sau khi giành được
thắng lợi sẽ chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa để tiến tới xã hội cộng sản.
Hai là trong cách mạng tư sản dân quyền có hai nhiệm vụ chiến lược là chống đế quốc


và chống phong kiến (phản đế, phản phong). Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, phải được tiến hành khắng khít không tách rời nhau nhưng trong đó nhiệm vụ chống đế
quốc và tay sai (phản đế) phải đặt lên hàng đầu.
Ba là xác định lực lượng cách mạng, Đảng phải vận động, thu phục giai cấp mình để
lãnh đạo dân chúng, dựa hẳn vào dân cày nghèo, liên lạc với trung nông. Lực lượng cách
mạng bao gồm : thứ nhất là giai cấp công - nông là gốc, là động lực của cách mạng, thứ hai là
những người yêu nước trong các giai cấp khác là đồng minh của cách mạng.
Bốn là lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của giai cấp
là Đảng cộng sản Việt Nam.
Năm là về phương pháp cách mạng, Đảng chủ trương phải giành chính quyền bằng bạo
lực cách mạng.
Sáu là cách mạng Việt Nam đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa trên
thế giới để chống chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới.
Từ những nội dung cơ bản trên, Đảng đã thể hiện trình độ tư duy sâu sắc và sáng tạo : vừa
vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, vừa đáp ứng chính xác
những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Trước nhất, tính đúng đắn và khoa học của Cương lĩnh thể hiện ở việc xác định đúng mục
tiêu và con đường của cách mạng Việt Nam, đó là “làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ
địa cách mạng để tiến lên chủ nghĩa cộng sản chính”. Sự lựa chọn xuất phát từ việc xác định
2
đúng đắn các mâu thuẩn cơ bản của xã hội Việt Nam và nhận thức đúng xu thế phát triển của
thời đại.
1. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng xác định rõ nước ta là một xứ thuộc địa, nửa phong kiến
và phân tích những chính sách kìm hãm sự phát triển kinh tế và thủ đoạn độc quyền khai thác
thuộc địa của tư bản Pháp, gây nên những hậu quả tai hại, cản trở sự phát triển độc lập của
kinh tế Việt Nam. Nông dân bị tước đoạt ruộng đất, nhiều người bị lâm vào nạn thất nghiệp.
Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa một bên là dân tộc ta (trong đó có
công nhân, nông dân và toàn thể dân tộc) với một bên là đế quốc Pháp và tay sai của chúng.
Bên cạnh đó, còn nổi lên mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam - mà đa số là nông dân - với

bọn địa chủ phong kiến chung quanh vấn đề ruộng đất, người dân cày hoàn toàn phụ thuộc
vào địa chủ, bị trói chặt vào mảnh ruộng của giai cấp địa chủ và bị bóc lột với tô thuế nặng
nề.
Từ hai mâu thuẫn cơ bản trên cho thấy rằng nguyện vọng tha thiết và cấp bách của dân tộc
lúc này chính là đánh đổ đế quốc để giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do và đánh đổ
phong kiến để giành dân chủ, giành ruộng đất cho người cày. Chỉ có giải quyết 02 mâu thuẫn
này thì xã hội Việt Nam mới thoát khỏi áp bức, bóc lột, phát triển đi lên. Muốn giải quyết
mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm "tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Như vậy, cương lĩnh cũng đã xác định rõ mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam
không chỉ dừng lại ở giai đoạn hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà phải thực
hiện tiếp cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đưa cả nước đi lên CNXH, CNCS – mà thắng lợi
của Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 là sự mở đường cho thời kỳ quá độ lên CNXH trên
toàn thế giới. Về thực chất, đó là con đường cách mạng giành độc lập dân tộc, thực hiện khẩu
hiệu “người cày có ruộng” và các quyền dân chủ chính trị, kinh tế, văn hóa… cho các tầng
lớp nhân dân, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi tới xã hội cộng sản mà chủ nghĩa xã hội là
giai đoạn đầu của nó. Hai cuộc cách mạng này liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng và
thúc đẩy lẫn nhau, cuộc cách mạng trước thành công tạo điều kiện cho cuộc cách mạng sau
giành thắng lợi. Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này: giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội không có bức tường ngǎn cách.
Luận điểm trên đánh dấu sự phát triển vượt bậc tư duy lý luận chính trị của cách mạng
Việt Nam và chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nǎm vững nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu suốt con
đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ mối quan hệ biện chứng giữa cách
mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con đường cách mạng Cương lĩnh
chính trị đã nêu mang tính triệt để và rọi sáng một hướng phát triển mới của Cách mạng Việt
Nam và cũng là một chân lý cách mạng mà Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam
phấn đấu thực hiện : giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; tự do hạnh
phúc của nhân dân là giá trị chân thực của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong

kiến là vấn đề phức tạp. Trong 2 nhiệm vụ chiến lược “phản đế, phản phong”, cương lĩnh
chính trị cũng đã nêu rõ mặc dù cả 2 nhiệm vụ phải được tiến hành đồng thời và khắng khít
với nhau, song về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết" . Điều này xuất phát từ hoàn cảnh xã hội nước
ta là xã hội thuộc địa, mâu thuẫn giai cấp tuy có sâu sắc nhưng mâu thuẫn chủ yếu nhất, bức
xúc nhất vẫn là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn thực dân xâm lược Pháp cùng bọn
tay sai của chúng (đại địa chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến) giành lại
độc lập, tự do, dân chủ cho toàn dân tộc. Việc xác định đúng kẻ thù chủ yếu và nhiệm vụ chủ
yếu để nắm vững ngọn cờ dân tộc để tập hợp lực lượng, phát huy cao độ sức mạnh dân tộc
nhưng không coi nhẹ những nhiệm vụ giải phóng giai cấp là một những tư tưởng đúng đắn,
sáng tạo của Đảng ta bắt nguồn từ việc khéo kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp để
xem xét vấn đề xã hội
3
3. Cương lĩnh xác định rõ cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải dựa trên lực
lượng cách mạng là liên minh công – nông làm nòng cốt, trong đó giai cấp công nhân giữ
vai trò lãnh đạo nhưng đồng thời phải lôi kéo, tập họp cả những người yêu nước ở tầng lớp
tiểu tư sản, trí thức, trung nông và lợi dụng, trung lập phú nông, trung và tiểu địa chủ, tư sản
dân tộc. Sự phân chia giai cấp tư sản, địa chủ ra thành những nhóm đối tượng khác nhau để
có chính sách đối xử phù hợp, tranh thủ lôi kéo những người có lòng yêu nước, trung lập
những người có thể trung lập nhằm làm suy yếu kẻ thù và cương quyết trừng trị đối với kẻ
thù là thể hiện sự nhận thức và đánh giá đúng của Đảng ta đối với mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp
trong xã hội, mỗi dân tộc trong cộng đồng, thừa nhận tính tích cực và sự đóng góp của họ
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những đặc điểm của giai cấp vô sản thế giới (như
sống tập trung, đại diện cho phương thức sản xuất hiện đại, có sứ mệnh lịch sử…) đồng thời
họ lại có những đặc điểm riêng của dân tộc như vừa bị áp bức giai cấp, vừa bị áp bức dân tộc
cho nên họ có tinh thần triệt để cách mạng và quyền lợi giai cấp, gắn bó chặt chẽ với quyền
lợi của dân tộc, vì vậy họ phải trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam với điều kiện
là phải giác ngộ lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tự tổ chức ra chính Đảng của mình. Tuy nhiên,
muốn giữ vững và củng cố được vai trò lãnh đạo của mình, giai cấp công nhân còn phải lôi

cuốn được giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đi theo mình, trên cơ sở ấy mới tạo ra được
hậu thuẫn mạnh mẽ để mở rộng quyền lãnh đạo của mình đến các tầng lớp nhân dân lao động
khác trong toàn xã hội. Với một nước có 90% dân số là nông dân thì thực hiện cho được liên
minh công nông vì đó là sự đảm bảo chắc chắn nhất cho những thắng lợi của cách mạng.
Cùng với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức vốn xuất thân từ nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp
xã hội khác nhau, tuy họ không đại diện cho một phương thức sản xuất nào, không phải là
một lực lượng chính trị độc lập trước các giai cấp và tầng lớp xã hội khác, do đó họ không có
hệ tư tưởng riêng. Song đội ngũ trí thức dưới bất cứ chế độ nào cũng có vai trò và vị trí rất
quan trọng. Trong giai đoạn trước 1930, đội ngũ trí thức đa số đều có lòng yêu nước, khao
khát độc lập, tự do, dân chủ. Mặc dù vẫn có một số ít cam tâm làm tay sai như số đồng vẫn
giữ được khí tiết dù ở hoàn cảnh nào cũng không nguôi lòng cứu nước. Khi có điều kiện,
những trí thức yêu nước thường đóng vai trò truyền bá những tư tưởng mới và là ngòi pháo
của các cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến, bởi lẽ họ là một lực lượng xã hội có trình
độ học vấn cao, hiểu biết rộng, nắm được tri thức khoa học - công nghệ. Giai cấp tư sản Việt
Nam xuất hiện từ trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), vừa ra đời đã
bị sự chèn ép của tư bản Pháp và phân hoá thành hai bộ phận. Một số ít tham gia vào các cơ
quan chính trị và kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp tư sản mại bản. Một bộ phận khác
tuy có tinh thần yêu nước, chống phong kiến và đế quốc, nhưng họ không có khả nǎng lãnh
đạo cách mạng và chỉ có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều kiện nhất định. Thực tế
lịch sử cũng đã chứng minh rõ mọi khuynh hướng coi thường hoặc phủ nhận vai trò của các
lực lượng xã hội to lớn này, không quan tâm đầy đủ đến việc xây dựng, củng cố khối liên
minh công - nông và trí thức trong các giai đoạn và các thời kỳ cách mạng, có nghĩa là đặt
giai cấp công nhân vào một hoàn cảnh phải chiến đấu đơn độc và đó là một sai lầm chính trị
nghiêm trọng.chủ nghĩa Mác.
4. Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái
(9-2-1930), đánh dấu sự chấm dứt ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản và Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời với vai trò lãnh đạo cách mạng đã xác lập ảnh hưởng của hệ tư tưởng vô sản
trong cách mạng Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu thời đại mới trong lịch
sử nước ta, thời đại giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng vị trí trung tâm, kết

hợp mọi phong trào yêu nước và cách mạng, quyết định nội dung, phương hướng phát triển
của xã hội Việt Nam. Sức mạnh của Đảng cộng sản Việt Nam nằm ở chổ Đảng kết nạp đảng
viên không những trong công nhân tiên tiến, mà còn kết nạp những người ưu tú, tiên tiến
trong nông dân lao động, trí thức cách mạng và trong các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng.
4
Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động. Đảng viên phải "tin theo chủ nghĩa cộng
sản, chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, hǎng hái tranh đấu và dám hy sinh, phục tùng
mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng".
5. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng
của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng ra chính
phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương. Đây là kinh nghiệm được rút
ra từ các cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc trên thế giới đã khẳng định rằng bản chất
của CNĐQ và giai cấp vô sản với hai bản chất giai cấp hoàn toàn đối lập, là một cuộc chiến
đấu không khoan nhượng; phải dùng bạo lực cách mạng đánh đổ bạo lực phản cách mạng
mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Chiến thắng của cách mạng tháng 8 1945, Chiến dịch
Điện Biên Phủ năm 1954 và Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 cho thấy sự chọn lựa phương
pháp sủ dụng bạo lực cách mạng là hoàn toàn đúng đắn để đánh đổ bọn đế quốc và tay sai,
giành độc lập dân tộc.
6. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới, đứng trong mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới
mà đội quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi rõ: "Trong khi
tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên
lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp" . Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng : “Những tư tưởng dân tộc chân chính đồng thời cũng là những tư
tưởng quốc tế chân chính”. Sự bóc lột thuộc địa không chỉ là một nguồn sống của bọn tư bản
mà còn là cái “nền móng” của chủ nghĩa đế quốc. Do đó, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
không những phải trở thành bộ phận khắng khít của cuộc cách mạng vô sản mang tính toàn
cầu mà còn có vai trò là một trào lưu lớn của cách mạng trong thế kỷ này. Tư tưởng này là cơ
sở cho sự phát triển chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta. Chính sách đó luôn được bổ

sung, hoàn thiện và là một nguồn tǎng thêm sức mạnh lớn hơn sức mạnh vốn có của ta, là
một nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Ngoài ra, do sớm nhận thức được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội trong cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, coi trọng độc lập tự chủ,
tự lực tự cường của từng quốc gia, việc đặt tên Đảng là Đảng cộng sản Việt Nam (chứ không
phải là Đảng Cộng sản Đông dương theo hướng chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản) là hoàn toàn
đúng đắn xuất phát từ sự hiểu biết đúng đắn về tình hình, đặc điểm, tâm lý dân tộc của ba
nước Đông Dương (Việt Nam, Cao Miên, Lào) và theo quan điểm LêNin: các dân tộc bị lệ
thuộc sau khi độc lập được tách ra để xây dựng độc lập dân tộc và có quyền tự quyết.
Đối với công cuộc đổi mới hiện nay cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng có ý nghĩa rất
quan trọng: một là đổi mới phải kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, hai là đổi mới phải tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, ba là đổi mới phải động viên được đông đảo quần chúng tham
gia. Bốn là đổi mới phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đa phương, đa dạng quan hệ ngoại
giao.
Tóm lại, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa, giai cấp công nhân chỉ
chiếm 1,2% dân số, đã có Cương lĩnh chính trị đầu tiên đúng đắn ngay từ đâu. Điều đó chứng
minh rằng, Đảng đã nắm vững bản chất khoa học và cách mang của chủ nghĩa Mác - Lênin,
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố
giai cấp với yếu tố dân tộc một cách sáng tạo, gắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế vô sản, phát huy được truyền thống yêu nước, đánh giá đúng vị trí của từng giai
cấp cách mạng, đoàn kết được các lực lương yêu nước, nhờ đó mà Đảng đã nắm được quyền
lãnh đạo cách mang. Chúng ta cũng không thể phủ nhận được rằng những chủ trương, mục
tiêu, nhiệm vụ mà Cương lĩnh đã nêu thời gian qua đã chứng tỏ sự đúng đắn, khoa học và như
một thứ động lực tinh thần hợp lòng người nhất, để trên nền móng đó phát huy sức mạnh của
lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới xây dựng CNXH
ngày nay.
5
Vấn đề 2 : Trong bản Chỉ thị kháng chiến kiến quốc của thường vụ Trung ương
Đảng ngày 25/11/1945 có khẳng định : “Giành chính quyền càng dễ bao nhiêu thì giữ
chính quyền lại càng khó bấy nhiêu”. Bằng kiến thức lịch sử Đảng, đồng chí hãy phân

tích làm rõ nhận định trên. Trình bày những chủ trương biện pháp của đảng để giữ
chính quyền trong thời kỳ 1945-1946? Liên hệ với việc xây dựng nhà nước của dân, do
dân và vì dân hiện nay.
Vấn đề chính quyền như Lênin đã nhiều lần chỉ rõ là vấn đề cơ bản và quyết định sự phát
triển của cách mạng. Người nhấn mạnh: "Chính quyền nhà nước nhất định là vấn đề chủ yếu
nhất của mọi cuộc cách mạng. Giai cấp nào giữ chính quyền? Điều đó quyết định tất cả". Vì
vậy, Đảng cộng sản khi lãnh đạo cách mạng nhất thiết đặt lên hàng đầu mục tiêu giành lấy
chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong lịch sử đấu tranh chống
giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, đánh đuổi giặc ngoại xâm để giành lấy chính quyền đã
khó, thì việc giữ vững chính quyền về tay nhân dân lại càng khó khăn hơn, lâu dài và gian
khổ hơn. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều đó, đặc biệt là trong giai đoạn sau
Cách mạng tháng 8 năm 1945, việc giữ vững một chính quyền còn non trẻ trong thời kỳ
1945-1946 với vô vàn những khó khăn, thù trong, giặc ngoài.
Các giai cấp và thế lực thống trị cũ không bao giờ tự rời bỏ địa vị thống trị của chúng.
Vì thế, cuộc đấu tranh giành chính quyền phải trải qua nhiều hy sinh, gian khổ và cuối cùng
bằng bạo lực cách mạng của quần chúng mới có thể giành được thắng lợi. Tuy nhiên, việc
giành được chính quyền mới chỉ là nhiệm vụ bước đầu và cũng chưa phải là nhiệm vụ khó
nhất. Nhiệm vụ nặng nề, khó khǎn và phức tạp nhất chính là xây dựng và bảo vệ chính quyền
mới, làm cho nó thật sự là công cụ có hiệu lực để cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã
hội mới, vì hạnh phúc của nhân dân. Thực tiễn của tất cả các cuộc cách mạng từ trước tới nay
ngày càng cho thấy: "Giữ vững chính quyền thì khó hơn là giành lấy chính quyền".
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 dẫn tới sự ra đời Nhà nước dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Việt Nam và ở vùng Đông Nam á. Đó là thành quả của 15 nǎm đấu tranh giành
chính quyền của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở ra kỷ
nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, nước ta còn gặp rất nhiều khó khăn trên tất cả phương diện
kinh tế, xã hội, chính trị, ngoạo giao. Về kinh tế : nền kinh tế vốn đã nghèo nàn lạc hậu, bị
chiến tranh và thiên tai tàn phá nặng nề làm cho xơ xác, kiệt quệ. Nạn đói đầu năm 1945 do
Pháp, Nhật gây ra làm 2 triệu người chết chưa được khắc phục, thì tháng 8/1945 lại xảy ra lụt
lớn ở Miền Bắc, sau đó thì bị hạn kéo dài. Sản xuất nông nghiệp bị đình đốn, hàng vạn công

nhân không có việc làm, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt. Tài chính cạn kiệt, ngân sách
trống rỗng, Ngân hàng Đông dương còn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng tung tiền
Quan kim mất giá ra thị trường gây rối loạn nền tài chính, kinh tế của ta. Đã vậy, ta còn phải
cung cấp lương thực cho 20 vạn quân Tưởng. Về mặt xã hội, dưới chính sách ngu dân của
Pháp, 95% dân số mù chữ, tệ nạn xã hội phát triển mạnh mẽ. Về ngoại giao : Chính phủ Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa chưa được thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta.
Chính quyền non trẻ chưa được lực lượng tiến bộ trên thế giới giúp đỡ.
Nhưng nghiêm trọng hơn vẫn là tình hình an ninh, chính trị. Ngay sau cách mạng thành
công, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đã bao vây, chống phá hòng tiêu diệt chính
quyền cách mạng non trẻ. Gần 20 vạn quân Tưởng, đồng minh của đế quốc Mỹ cùng bọn tay
sai kéo vào miền Bắc nước ta với ý đồ tiêu diệt Đảng ta, lật đổ chính quyền cách mạng, lập
nên chính quyền tay sai của chúng. Ở miền Nam, quân đội Pháp được đế quốc Anh che chở
đã đánh chiếm Nam Bộ hòng lập lại chế độ thực dân của chúng. Nhiều đảng phái phản động
(Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt ) công khai hoạt động chống chính quyền. Chính quyền
cách mạng tiếp thu một đất nước đổ nát với nạn đói và sự kiệt quệ về kinh tế, tài chính và biết
bao hậu quả khác mà chế độ phong kiến, thực dân để lại. Với những thử thách nặng nề đó, sự
mất - còn của chính quyền đặt trong thế "ngàn cân treo sợi tóc". Chính quyền nhân dân có
6
thể bị lật đổ, nền độc lập mới giành được có nguy cơ bị mất. Tình hình đó đòi hỏi đảng và
chính quyền cách mạng phải có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn mới có thể bảo
vệ và phát triển thành quả cách mạng. Đảng đã chủ trương bất kể tình hình như thế nào cũng
phải "củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời
sống cho nhân dân".
Củng cố chính quyền trước hết là tǎng cường sức mạnh, hiệu lực và cơ sở pháp lý về cả
đối nội cũng như đối ngoại. Chính quyền mới ra đời trong hoàn cảnh đất nước đã bị chế độ
phong kiến thống trị hàng ngàn nǎm và chế độ thực dân cai trị gần một thế kỷ nên nước ta
không có hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Vấn đề cấp bách
đặt ra là "chúng ta phải có ngay một hiến pháp dân chủ". Đảng chủ trương phải xúc tiến
nhanh việc bầu cử Quốc hội, lập chính phủ chính thức và soạn thảo Hiến pháp. Ngày 6-1-
1946, lần đầu tiên ở nước ta tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội của một nhà nước dân chủ.

Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp, cử ra chính phủ tiêu biểu cho ý chí, lợi ích của toàn dân. Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được công bố ngày 9-11-1946 và sau đó
Nhà nước ban hành hàng loạt sắc lệnh và những quy định cần thiết
Xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền các cấp là một nhiệm vụ bức bách. Chính phủ
đã xem xét các vǎn bản của Uỷ ban nhân dân các xứ và có kế hoạch "cải cách chính quyền
nhân dân ở các địa phương và thanh trừng những phần tử xấu trong Uỷ ban nhân dân địa
phương và cải tiến cách làm việc của những Uỷ ban ấy". Chính quyền nhân dân cũng đã kiên
quyết "trừng trị bọn phản quốc đã nhân những khó khǎn về nội trị, ngoại giao và dựa vào thế
lực bên ngoài mà ngóc đầu dậy; trừng trị bọn chia rẽ, bọn đầu cơ, tích trữ và bọn lạm quyền,
nhiễu dân". Đảng chủ trương trong mọi tình thế phải bảo đảm sự thống nhất của chính quyền
nhân dân từ trung ương đến cơ sở, xử trí kịp thời "bọn đối lập".
Với tinh thần “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng có
không nghĩa lý gì”, Đảng ta nhận thức rằng chính quyền cách mạng trước mắt phải chǎm lo
đời sống nhân dân, đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi nạn đói. Do vậy, việc cứu đói thật
sự cần kíp như đánh giặc ngoài mặt trận. Chính phủ quyết định phát động phong trào tăng
gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, cứu đói cho nhân dân. Chỉ trong một thời gian ngắn, nhân
dân ta đã quyên góp được hàng vạn tấn gạo, hoa màu được trồng nhiều ở các địa phương, sản
lượng lương thực đã tăng đáng kể, nhiều diện tích đất đai đã được khôi phục sử dụng, nhờ đó
mà nạn đói đã được khắc phục nhanh chóng. Cùng với những biện pháp khẩn cấp trước mắt,
chính quyền mới cũng đã bước đầu thực thi nhiều cải cách dân chủ, đáp ứng nguyện vọng
thiết tha của nhân dân, đặc biệt là nông dân : tịch thu ruộng đất của ruộng công, giảm tô 25%
cho nông dân. Quy định ngày làm việc 8 giờ, bảo vệ quyền lợi của công dân. Công tác y tế,
văn hóa, giáo dục mà nổi bật là vấn đề thanh toán nạn mù chữ rất được quan tâm chú ý. Tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” đã có tác dụng kích
thích lòng tự hào dân tộc, tạo nên một phong trào bình dân học vụ trong cả nước với khí thế
sôi nổi người người đi học, nhà nhà đi học, nâng cao dân trí góp phần xây dựng biết viết, đó
là một thành tích nổi bật trong điều kiện đất nước vừa mới được độc lập còn biết bao khó
khăn cần giải quyết
Song song với việc khôi phục, phát triển kinh tế để ổn định đời sống nhân dân, Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm chỉnh đốn bộ máy và đội ngũ cán bộ chính

quyền, ngǎn chặn nguy cơ quan liêu hoá, cán bộ chính quyền trở thành những "quan cách
mạng". Trong Thư gửi Uỷ ban nhân dân các cấp, tháng 10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ ra những cǎn bệnh xuất hiện trong bộ máy chính quyền mới như: trái phép, cậy thế, hủ
hoá, tư túi, chia rẽ, kiêu ngạo. Những hành vi đó là trái với bản chất của chính quyền nhân
dân, làm giảm uy tín, làm suy yếu chính quyền. Người vạch rõ: Các cơ quan của Chính phủ
từ toàn quốc cho đến các làng đều là đầy tớ của nhân dân, nghĩa là để gánh việc chung cho
dân.
Trong hoàn cảnh cùng một lúc chính quyền phải đương đầu với nhiều kẻ thù (quân Pháp -
Tưởng) và nhà nước ta lúc bấy giờ chưa có sự giúp đỡ trực tiếp của các nước anh em, bầu bạn
7
trên thế giới, đòi hỏi Đảng và Chính phủ phải thực hiện một chính sách ngoại giao đúng đắn,
khôn khéo thì mới có thể củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng non trẻ. Quán triệt tư
tưởng “thêm bạn bớt thù”, Đảng và chính quyền cách mạng đã thực hiện chính sách nhân
nhượng có nguyên tắc, khéo léo “hòa để tiến” đồng thời ttriệt để lợi dụng mâu thuẫn trong
hàng ngũ kẻ thù, phân hoá chúng . Với sách lược mềm dẻo nhưng có nguyên tắc : khi thì hoà
với Tưởng để tập trung đánh thực dân Pháp, khi thì hoà với Pháp để đuổi Tưởng, chẳng
những bảo vệ được sự tồn tại của chính quyền mà còn đưa sự nghiệp cách mạng phát triển
một cách vững chắc.Đó cũng là nét nổi bật về và là một mẫu mực về khả nǎng tự bảo vệ của
chính quyền cách mạng Việt Nam trong hoàn cảnh khó khǎn điển hình.
Nhà nước và nhân dân ta muốn hoà bình nên đã nhân nhượng với thực dân Pháp. Nhưng
dã tâm xâm lược của thực dân Pháp ngày càng trắng trợn. Khi không thể nhân nhượng được
nữa, chính quyền cách mạng đã chủ động phát động nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến.
Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (từ 12-1946 đến 7-1954) là tiếp
tục sự nghiệp của Cách mạng tháng Tám, là tiếp tục công cuộc bảo vệ chính quyền bằng một
cuộc chiến tranh cách mạng. Cuộc kháng chiến được tiến hành trong điều kiện đã có chính
quyền cách mạng. Chính quyền là công cụ mạnh mẽ và hiệu lực để tổ chức, động viên nhân
dân tham gia kháng chiến.
Tóm lại, trong khoảng thời gian 16 tháng (9-1945 đến 12-1946), trước bao tình thế khó
khăn, hiểm nghèo, trước những thử thách cực kỳ nghiêm trọng tưởng chừng không thể vượt
qua, nhưng nhờ có sự lãnh đạo Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền mới vẫn phát

huy hiệu lực và bản chất của mình, từng bước đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử
thách. Từ những thành công của Đảng trong việc xây dựng, bảo vệ chính quyền giai đoạn
1945-1946, có thể rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình xây dựng nhà nước ta giai đoạn
hiện nay như sau :
Một là, phải gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa hẳn vào dân, vì lợi ích của nhân dân,
đó là nguồn gốc sức mạnh của chính quyền trong các giai đoạn cách mạng. Là chính
quyền nhân dân, chính quyền với nhân dân "phải kết thành một khối", chính quyền phải gắn
bó với dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân và phải trở thành công cụ làm chủ thật sự của
nhân dân. Quyền làm chủ của dân, những yêu cầu dân chủ cơ bản phải được thể chế hoá bằng
hiến pháp và hệ thống pháp luật, quy chế, quy tắc trong đời sống xã hội, được ghi nhận và
thực hiện qua các chính sách kinh tế, xã hội. Hệ thống pháp luật và chính sách kết tinh ý chí,
nguyện vọng và lợi ích của nhân dân, nó càng đúng đắn và hoàn chỉnh bao nhiêu, càng thể
hiện quyền làm chủ của nhân dân bấy nhiêu. Đó cũng là thước đo trình độ của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay. Xây dựng và củng cố chính quyền thực sự của dân, do
dân và vì dân là một quá trình đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa ý thức và nǎng lực làm
chủ của nhân dân với thói quen an phận của người bị trị dưới chế độ cũ cùng lề thói hủ lậu
của kẻ có chức quyền. Quá trình đó đòi hỏi phải có nhận thức và quan điểm đúng đắn, phải
đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, phương thức hoạt động và cả sự lựa chọn
con người vào bộ máy chính quyền sao cho thể hiện đúng bản chất của chính quyền nhân dân
Hai là, phải thường xuyên củng cố bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, chống
nguy cơ quan liêu hoá, bảo đảm khả nǎng tự bảo vệ. Sức mạnh của nhà nước biểu hiện
trước hết ở sự trong sạch, vững mạnh trong bộ máy của nó, ở nǎng lực tổ chức, quản lý mọi
hoạt động kinh tế - xã hội theo pháp luật. Vì vậy, tǎng cường sức mạnh của nhà nước là tǎng
cường bộ máy nhà nước sao cho gọn nhẹ, hiệu quả vững mạnh. Hoạt động của các cơ quan
quyền lực đã đi vào thực chất, khắc phục chủ nghĩa hình thức, mang lại hiệu quả thiết thực.
Quốc hội đã từng bước làm được chức nǎng của cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước.
Chính phủ và các cấp chính quyền với chức nǎng hành pháp, quản lý, điều hành theo cơ chế
quản lý mới và nắm chắc công cụ pháp luật. Các cơ quan bảo vệ luật pháp đã phát huy vai trò
độc lập của mình. Chính sự chuyển động tích cực và đúng hướng đó đã làm cho bộ máy có
hiệu lực hơn và sức mạnh của Nhà nước được tǎng cường.

8
Ba là không ngừng chǎm lo xây dựng, củng cố cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội là sự bảo
đảm cho chính quyền nhân dân vững mạnh . Cơ sở kinh tế, xã hội quyết định sức mạnh của
nhà nước, ngược lại nhà nước có vai trò quan trọng, thậm chí là nhân tố quyết định làm cho
cơ sở kinh tế và xã hội ngày càng lớn mạnh. Vì vậy, phát triển kinh tế, xã hội là một trong
những chính sách hàng đầu của Nhà nước ta trong mọi giai đoạn cách mạng, đặc biệt là trong
giai đoạn hiện nay. Điều đó không chỉ nhằm củng cố sức mạnh của Nhà nước, mà còn là mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Bốn là phải có sách lược mềm dẻo, khôn khéo, lợi dụng mâu thuẩn trong hàng ngũ địch,
cô lập cao độ kẻ thù chính, trung lập những người có thể trung lập, tranh thủ những người có
thể tranh thủ, nhằm làm suy yếu vị trí và thế lực của chúng, làm tăng thêm sức mạnh và tạo
điều kiện đưa cách mạng tiến lên
Năm là sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bản chất, sức mạnh và sự tồn tại
của chính quyền nhân dân . Giữ vững và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước không chỉ có ý nghĩa quyết định sự sống còn của chính quyền cách mạng, mà còn là sự
tồn tại của bản thân Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo,
Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, nǎng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn
kết thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt Đảng.
Tóm lại, xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân là một bài học lớn của quá trình
đấu tranh cách mạng của nhân dân ta từ khi Đảng lãnh đạo chính quyền. Diễn biến phức tạp
của tình hình quốc tế, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ quá độ ở nước ta đòi hỏi Đảng và nhân
dân ta nâng cao cảnh giác, nỗ lực phấn đấu xây dựng chính quyền nhân dân thật sự trong
sạch, vững mạnh, xứng đáng là công cụ có hiệu lực nhất tổ chức thắng lợi sự nghiệp đổi mới
và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề 3 : Nghiên cứu vị trí lãnh đạo của Đảng trong bước chuyển cách mạng Miền
Nam
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là nhân tố quyết định sự thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc đụng đầu lịch sử,
một thử thách lớn đối với Đảng và dân tộc Việt Nam. Với đường lối chính trị, quân sự đúng

đắn và phương pháp cách mạng sáng tạo do Đảng đề ra thể hiện trong từng chiến dịch, từng
trận đánh đã đưa cách mạng dân tộc giành thắng lợi vẻ vang, thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi trong cách mạng miền Nam giai đoạn 1954-1975
chính là sự khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo quan trọng của Đảng trong công cuộc đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc.
1. Đánh bại chiến lược “chiến tranh đơn phương” :
9
Sau Hiệp định Giơnevơ (7-1954), đế quốc Mỹ lấn dần thực dân Pháp, độc chiếm miền
Nam nước ta, chúng thiết lập chế độ thực dân mới và dựng nên chính quyền tay sai Ngô Đình
Diệm. Chế độ Mỹ - Diệm đàn áp dã man phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở miền . Tình
hình của đất nước sau Hiệp định Genève “bế tắc tưởng chừng như không có đường ra" (Lê
Duẩn).
Đảng ta đã ra Nghị quyết 15 (tháng 1-1959) về cách mạng miền Nam xác định nhiệm vụ
chiến lược là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, trước mắt lật đổ chế độ Diệm và tay sai,
hoà hợp dân tộc, cải thiện đời sống nhân dân. Chỉ đạo quan trọng nhất của Nghị quyết lần này
là đã đề cập đến các vấn đề: đấu tranh vũ trang; xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa,
kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Những đường lối, chủ trương của Đảng
đưa ra đã đáp ứng yêu cầu bức thiết của nhân dân, dấy lên phong trào đồng khởi lan rộng mà
đỉnh cao là phong trào Đồng Khởi mùa Xuân 1960, đập tan từng mảng chính quyền ngụy Sài
Gòn ở nhiều vùng nông thôn miền Nam rộng lớn. Ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam ra đời, tập hợp đông đảo lực lượng yêu nước, nặng lòng với dân tộc, không
phân biệt giai tầng, địa vị xã hội, quá khứ, sắc tộc, tín ngưỡng nhằm mục tiêu chung giải
phóng miền Nam. Thắng lợi của Phong trào Đồng Khởi phản ánh đường lối cách mạng đúng
đắn của Đảng và sự sáng tạo cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam (đánh địch từ 3 mũi
giáp công : chính trị, quân sự và binh vận) và đã kiềm chế được đế quốc Mỹ sớm đưa quân
vào miền Nam, làm thất bại “chiến tranh đơn phương” của Mỹ, một hình thức thống trị điển
hình của chủ nghĩa thực dân kiểu mới mà đế quốc Mỹ thiết lập tại miền Nam Việt Nam, đưa
cách mạng miền Nam chuyển từ thế bị động “giữ gìn lực lượng” sang thế tiến công.
2. Đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” :
Bước vào những nǎm 60, để thích ứng với tình hình, đế quốc Mỹ cho ra đời chiến lược

quân sự mới vừa có tính chất tiến công, vừa có tính chất phòng ngự. Đó là chiến lược "phản
ứng linh hoạt" với ba loại chiến tranh: "chiến tranh thế giới", "chiến tranh cục bộ", và "chiến
tranh đặc biệt". ở miền Nam nước ta từ khi có Phong trào Đồng khởi, đế quốc Mỹ đã thực
hiện "chiến tranh đặc biệt", đây là cuộc chiên tranh không giới tuyến, đánh bằng mọi phương
tiên, vũ khí nhằm ba mục đích: đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, thực hiện chính sách
thực dân mới; xây dựng cǎn cứ quân sự, chuẩn bị tiến công phe xã hội chủ nghĩa và ngǎn
chặn CNXH lan xuống Đông Nam á. Mỹ đã ra sức tăng cường lực lượng chiến tranh : quân
Ngụy tăng 16 vạn lên 50 vạn, lực lượng cố vấn tăng từ 200 lên 2500 và viện trợ kinh tế tăng
cấp số nhân và thực hiện chiến lược bình định miền Nam trong vòng 18 tháng : gom 10 triệu
dân vào 16.000 ấp chiến lược.
Từ tháng 1-1961 đến tháng 9/1961 và tháng 12/1963, Bộ Chính trị họp và ra nghị quyết
chỉ rõ hướng phát triển của cách mạng miền Nam là chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang
chiến tranh cách mạng, kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng để đưa
cách mạng tiến lên, đẩy mạnh hơn nữa đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu
tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai mặt quân sự và chính trị. Tổ chức đánh địch bằng 3
mũi giáp công : chính trị - quân sự - binh vận, trên 3 vùng chiến lược : thành thị, nông thôn
và miền núi, bằng 3 thứ quân : du kích, chủ lực và dân địa phương. Dưới sự chỉ đạo của
Nghị quyết Bộ Chính trị, cách mạng miền Nam đã phát triển và trưởng thành nhanh chóng.
Một lực lượng lớn được đưa từ miền Bắc vào cùng lực lượng tại chỗ tạo cho cách mạng miền
Nam vững vàng cả về thế và lực. Với thế và lực đó, với phương hướng tiến lên bằng cả lực
lượng chính trị và quân sự, bằng sự kết hợp cả hai hình thức đấu tranh chính trị và quân sự,
nhân dân ta ở miền Nam đã liên tục tiến công địch, làm phá sản kế hoạch Xtalây Taylơ nhằm
bình định miền Nam trong vòng 18 tháng (1961-1962) và kế hoạch Giônxơn - Mắcnamara
cùng mục đích trên thực hiện trong hai nǎm (1964-1965). Những chiến thắng vang dội và có
ý nghĩa bước ngoặt như chiến thắng ấp Bắc (2-1-1963), chiến thắng Bình Giã (12-1964), Ba
Gia, Đồng Xoài (5/1965) chứng tỏ sự trưởng thành toàn diện của lực lượng cách mạng,
khẳng định thế tất thắng của nhân dân ta, mở ra phong trào thi đua diệt nguy, diệt Mỹ khắp
miền Nam. 90 triệu lượt người đấu tranh chính trị, trong đó nổi bậc là đấu tranh của các phật
10
tử ở Huế (8/5/1963), 70 vạn người Sài Gòn xuống đường bắt đầu bằng vụ tự thiêu của Hòa

Thượng Thích Quảng Đức (16/6/1963). Đến giữa nǎm 1965, quân nguỵ bị đánh tan vỡ từng
mảng, chính quyền Sái gòn khủng hoảng triển miên (tháng 1/11/1963, đảo chính chính quyền
Diệm và tháng 2/1965 Nguyễn Văn Thiệu lên nắm chính quyền), quốc sách "ấp chiến lược"
bị phá sản (85% ấp chiến lược bị phá), "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy bị thất bại. .
3. Đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ"
Giữa nǎm 1965, với bản chất hiếu chiến và ngoan cố theo đuổi chiến lược toàn cầu phản
cách mạng, đế quốc Mỹ đã leo thang chiến tranh, đưa quân viễn chinh Mỹ và quân các nước
chư hầu (50 vạn) vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, gia tăng lực lượng quân Ngụy lên 70
vạn, thực hiện "chiến tranh cục bộ" với nội dung tiêu diệt và bình định nhằm cứu nguy cho
sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn, giành thế chủ động, tǎng cường đánh phá miền Bắc bằng
không quân và hải quân, để cắt viện trợ miền Nam, mở chiến dịch ngoại giao để cô lập cách
mạng miền Nam dự kiến 2 năm sẽ đè bẹp cách mạng miền Nam. Đây là một thử thách quyết
liệt có tính chất quyết định thắng bại với cả hai bên tham chiến.
Trước tình hình đó, tháng 9-1965, Bộ Chính trị họp và tháng 12-1965, Trung ương Đảng
họp Hội nghị lần thứ 12 bàn về cách mạng miền Nam đã nhận định : so sánh lực lượng giữa
ta và địch không có gì thay đổi lớn, thế mạnh của địch là vũ khí nhưng ta cũng có thế mạnh là
chính nghĩa và việc Mỹ đưa quân vào Việt Nam là ở thế bị động chiến lược. Từ đó Đảng đề
ra phương châm chiến lược của chiến tranh giải phóng miền Nam và những hình thức, biện
pháp cụ thể như : tư tưởng chiến lược là “tiến công kiên quyết tiến công và liên tục tiến
công”, chủ trương : đánh lâu dài dựa vào sức mình là chính, đồng thời dựa vào mở tiến công
để giành thắng lợi trong thời gian ngắn; phương pháp đấu tranh kết hợp giữa quân sự, chính
trị và ngoại giao, đánh địch bằng 3 mũi giáp công, 3 vùng chiến lược và 3 thứ quân, kết hợp
các kiểu đánh lớn, vừa, nhỏ, đánh du kích kết hợp với hiện đại, thực hiện khởi nghĩa quần
chúng, đấu tranh cách mạng để giành thắng lợi từng bước tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng, phong trào đấu tranh mở rông, trong đó nổi bậc về đấu tranh
chính trị có vụ sinh viên Quách Thị Trang Nhất Chi Mai tự thiêu.Tháng 5-1965, chiến thắng
tại cǎn cứ Núi Thành tập kích tiêu diệt gọn một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, 180 tên chết và
bị thương. Tiếp theo là chiến thắng Vạn Tường, Plâyme, đánh bại hai cuộc phản công chiến
lược của Mỹ vào hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967. Với cuộc phản công chiến lược mùa
khô 1966-1967 thì sự cố gắng cùng sự thất bại của Mỹ đã đến độ cao, cho phép ta chuyển

cuộc chiến tranh cách mạng sang một thời kỳ mới. Quân và dân ta ở miền Nam đã thực hiện
bước chuyển đó bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt khắp nông thôn và thành thị
miền Nam vào đầu Xuân 1968. Đây là đòn quyết định đánh bại "chiến tranh cục bộ" của đế
quốc Mỹ, buộc Mỹ xuống thang chiến tranh ngừng ném bom miền Bắc, ngồi vào bàn đàm
phán với ta và phá sản chiến tranh cục bộ. Tuy vậy, trong chiến dịch mùa Xuân 1968, do sai
lầm chủ quan nên ta cũng bị tổn thất nặng nề về lực lượng.
4. Đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”
Phải xuống thang chiến tranh, nhưng đế quốc Mỹ lại thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá
chiến tranh" hòng kéo dài chiến tranh, duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Mỹ tiếp
tục đổ tiền của vào cố xây dựng cho được ngụy quyền và ngụy quân làm xương sống cho kế
hoạch và ở miền Nam một lúc ba loại chiến tranh: giành dân, bóp nghẹt và huỷ diệt tàn khốc
hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đó, đồng thời thực hiện chiến lược quét và giữ, ổn định khu vực
đô thị, vì vậy từ 1969-1971 ta bị đánh bật ra khỏi đồng bằng. Chúng tăng cường đánh phá
Trường Sơn, huy động không quân Anh Pháp Đức bỏ bom phá hoại miền Bắc lần 2 (tháng
4/1972); thực hiện Đông Dương hóa chiến tranh đưa 10 vạn quân ngụy đánh Campuchia. Về
ngoại giao, Mỹ thực hiện chiến lược lôi kéo Trung Quốc, hòa hoãn Liên Xô nhằm cắt đứt
viện trợ cho Việt Nam. Vì vậy, sau năm 1972 Liên Xô và Trung Quốc cắt dần viện trợ cho
nước ta.
Tháng 1/1970, Trung ương Đảng ta họp Hội nghị lần thứ 18, Hội nghị đã phân tích sâu sắc
tính chất thâm độc của chiến lược "Việt Nam hoá" và những mâu thuẫn không thể khắc phục
11
được của nó. Trên cơ sở đó, Hội nghị đề ra nhiệm vụ cho cách mạng miền Nam là : trở về
bám đất, bám dân phá kế hoạch bình định, ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị,
phát triển chiến tranh nhân dân và tăng cường lực lượng 3 thứ quân, đẩy mạnh tiến công quân
sự, chính trị lấy nông thôn làm hướng chính, lập hội đồng chi viện tiền tuyến của Trung ương
và tăng cường liên minh 3 nước Đông Dương để phá Đông Dương hóa chiến tranh, tăng
cường ngoại giao làm thất bại âm mưu "Việt Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ.
Quân và dân ta đã thực hiện xuất sắc những nhiệm vụ trên và đã giành những thắng lợi
quyết định. Tận dụng sai lầm của Mỹ mở rộng chiến tranh sang Campuchia, tháng 4-1970,
Hội nghị cấp cao Đông Dương đã họp, hình thành mặt trận thống nhất nhân dân Đông Dương

đoàn kết chống Mỹ. Mặt trận ngoại giao đã chủ động và phối hợp chặt chẽ với đấu tranh quân
sự và chính trị, liên tục tiến công đế quốc Mỹ tại Hội nghị Pari và trước dư luận toàn thế giới.
Mũi tiến công quân sự đã giành thắng lợi rực rỡ, thực sự làm đòn xeo cho mũi tiến công
chính trị và ngoại giao. Nǎm 1969-1971, ta phối hợp với quân dân Lào và Campuchia giành
thắng lợi lớn ở XǎmThông - Loong Chẹng, Cánh Đồng Chum trên chiến trường Lào và giải
phóng phần lớn đất đai cùng 4,5 triệu dân ở Campuchia, chiến thắng đường số 9 - Nam Lào
đã mở ra khả nǎng thực tế làm thất bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của Níchxơn.
Ngày 30-3-1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược ở miền Nam với quy mô lớn, cường độ
mạnh, với đủ các binh chủng tác chiến hợp đồng và kéo dài suốt nǎm 1972. Bị thất bại nặng,
Mỹ đã "Mỹ hoá" trở lại cuộc chiến tranh, thả mìn các cửa sông, cửa biển và ném bom trở lại
miền Bắc, đồng thời thực hiện chính sách ngoại giao xảo quyệt hòng ngǎn cản thắng lợi của
ta. Mỹ lật lọng tại Hội nghị Pari và tháng 12-1972, chúng mở cuộc tập kích chiến lược bằng
máy bay B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng suốt 12 ngày đêm. Nhưng cũng như ở miền Nam, cuộc
tập kích này của Mỹ đã thất bại nặng nề. Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược nǎm
1972 và chiến công xuất sắc của quân và dân ta đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy
bay B. 52 vào Hà Nội, Hải Phòng, cuối cùng đã buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari
về Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi nước ta từ 27/1/1973 đến 29/3/1973 .
Phải ký Hiệp định Pari, rút quân về nước nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố tiếp tục dùng
ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của chúng ở miền Nam.
Sau Hiệp định Pari, ở miền Nam chưa có ngừng bắn hoàn toàn, chưa có hoà bình thật sự, Mỹ
- ngụy vẫn tiến hành bình định và lấn chiếm khắp miền Nam. Tháng 7-1973, Trung ương
Đảng đã kịp thời họp Hội nghị lần thứ 21, phân tích rõ tình hình trên, âm mưu và hành động
phá hoại Hiệp định Pari của Mỹ - nguỵ. Hội nghị cũng chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của địch.
Hội nghị nhận định thế và lực của cách mạng miền Nam hiện mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào kể
từ nǎm 1954 đến đó. Nhưng ta cũng còn nhiều mặt cần nhanh chóng khắc phục, nhất là đấu
tranh quân sự, chính trị, binh vận và xây dựng lực lượng phát triển chưa đều từ sau Hiệp định
Pari. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam lúc này là: tiếp tục thực
hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ ngụy quyền, làm thất bại hoàn
toàn chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Phương pháp cách mạng bạo lực là nhất quán cả quá
trình cách mạng miền Nam đi tới giành thắng lợi hoàn toàn.

Nghị quyết 21 của Trung ương giúp các đảng bộ miền Nam kịp thời nhận thức và khắc
phục những thiếu sót, lệch lạc từ sau Hiệp định Pari. Nhờ vậy, tình hình chiến trường miền
Nam có những chuyển biến tích cực và nhanh chóng. Đầu nǎm 1974, về cơ bản ta đã thu hồi
được các vùng giải phóng và vùng tranh chấp bị địch lấn chiếm từ sau Hiệp định Pari và giải
phóng thêm được gần nửa triệu dân. Từ giữa nǎm 1974, những điều kiện cho việc giải phóng
hoàn toàn miền Nam đang chín muồi.
Tháng 10 - 1974, Bộ Chính trị họp đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam trong 2 nǎm
(1975-1976). Sau đó Bộ Chính trị làm việc với các đồng chí lãnh đạo và chỉ huy các chiến
trường miền Nam. Tháng 1-1975, Bộ Chính trị nhận định: "Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy
đủ về quân sự, chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn, thuận lợi như hiện nay để
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ
quốc".
12
Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định lấy chiến trường Tây Nguyên và Buôn
Ma Thuột làm chiến trường và điểm mở đầu cho kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Bộ Chính trị theo dõi chặt chẽ và chỉ đạo kịp thời các bước tiến quân giành thắng lợi ở các
chiến trường miền Nam.
Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên (từ ngày 10 đến 20-3-1975) đã điểm trúng huyệt vào
Buôn Ma Thuột, làm rung chuyển hệ thống bố trí chiến lược của quân ngụy Sài Gòn, ngụy
quyền hốt hoảng cho rút quân chiến lược khỏi Tây Nguyên, làm rối loạn quân ngụy. Ta giải
phóng hoàn toàn Tây Nguyên.
Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng (từ ngày 21 đến 29-3-1975) đã phá tan âm mưu co
cụm về giữ đồng bằng ven biển miền Trung của địch, đẩy địch lún sâu hơn nữa vào thế suy
sụp, tan vỡ không sao cứu vãn nổi, làm xuất hiện thời cơ tổng tiến công và nổi dậy vào sào
huyệt cuối cùng của địch: Chiến dịch giải phóng Sài Gòn và Nam Bộ - Chiến dịch Hồ Chí
Minh (từ ngày 26 đến 30-4-1975). 17 giờ ngày 26-4-1975, nǎm quân đoàn của ta mở cuộc
tổng tiến công vào Sài Gòn - Gia Định, 11 giờ ngày 30-4-1975, quân ta chiếm dinh tổng
thống ngy, buộc ngụy quyền Sài Gòn đầu hàng vô điều kiện. Sự nghiệp giải phóng hoàn toàn
miền Nam của nhân dân ta toàn thắng.
Tóm lại, qua kết quả thắng lợi của cách mạng Miền Nam cho thấy bên cạnh lòng dũng

cảm, sự bền bỉ của ý chí thì nguyên nhân quan trọng nhất đưa đến chiến thắng là do Đảng ta
đã đề ra và vận dụng một cách linh hoạt nghệ thuật biết thắng từng bước. Với kẻ thù mạnh
hơn ta rất nhiều về tiềm năng kinh tế, quân sự, Đảng ta đã áp dụng chủ trương, sách lược
đúng đắn ở từng thời kỳ để kiềm chế đế quốc Mỹ, giành thắng lợi từng bước để đi đến thắng
lợi hoàn toàn. Nổi bật trong đường lối, chủ trương, sách lược đó là :biết sáng tạo ra nhiều
cách đánh, cách thắng Đế quốc Mỹ, biết tổ chức và chỉ đạo phối hợp chặt chẽ cách mạng hai
miền Nam - Bắc trên nhiều mặt từ chiến lược, sách lược, biết đoàn kết và tranh thủ sự giúp
đỡ quốc tế cao nhất. Với những phân tích trên, chúng ta có thể tin tưởng và khẳng định rằng
vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong cách mạng Miền Nam là nhân tố quyết định cho thắng
lợi của cách mạng Miền Nam nói chung và cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ
quốc ngày nay nói riêng.
13
Vấn đề 4 : Phân tích bài học kinh nghiệm, bài học xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
qua các giai đoạn từ 1930 đến nay. Liên hệ Nghị quyết Trung Ương 7 Khoá IX
Ngay khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, chủ trương đoàn kết toàn dân trong Mặt trận
dân tộc thống nhất là một chính sách lớn của Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Sức mạnh đoàn kết đã được phát huy trong đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định : Đại đoàn kết trong
Mặt trận dân tộc thống nhất là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
Nhìn lại lịch sử Việt Nam, ngay từ thời xa xưa, các nhà lãnh đạo triều đại Lý, Trần, Lê…
cũng đã nhìn thấy sức mạnh của dân, để chủ trương dựa vào dân chống ngoại xâm. Trần
Quốc Tuấn đã rút ra bài học: "phải khoan thư sức dân, làm kế rễ sâu gốc vững, ấy là thượng
sách để giữ nước". Nguyễn Trãi cũng đã nói: "Đỡ thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là
dân"… Kế thừa di sản quý báu của dân tộc, vận dụng di sản đó và kinh nghiệm của thế giới
vào cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định "dân là gốc của nước",
"có dân là có tất cả" và thực hiện chủ trương: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành
công, thành công, đại thành công". Trong tác phẩm "Đường kách mệnh", Người cũng đã
nhấn mạnh “Kách mệnh là việc chung của dân chúng, chứ không phải là việc của một hai
người.

Với tư tưởng cối lõi ấy, ngay từ ngày thành lập, Đảng ta đã coi Mặt trận dân tộc thống
nhất là vấn đề có ý nghĩa chiến lược và đã phê phán mọi biểu hiện coi nhẹ công tác mặt trận,
hạ thấp vai trò của quần chúng, coi thường nhân tố dân tộc trong cách mạng.
Để hình thành được mặt trận, tập hợp được hết thảy các lực lượng cách mạng và tiến bộ
trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã đề ra những chủ trương, chính sách thích hợp nhằm
đoàn kết toàn dân, phấn đấu cho một mục tiêu nhất định xem đó là chương trình hành động
thống nhất của tất cả các giai cấp, các đảng phái, các lực lượng tham gia Mặt trận dân tộc
thống nhất. Thể hiện tính chất quần chúng rộng rãi trong công tác mặt trận và căn cứ vào
từng thời kỳ, Đảng ta đã linh hoạt trong việc chỉ ra cách thức đấu tranh, lựa chọn hình thức
đấu tranh và tên gọi Mặt trận cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể và mục tiêu, nhiệm vụ từng
thời kỳ cách mạng như: Mặt trận dân chủ, Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận
Tổ quốc, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. v.v Có mặt trận được tổ chức
chặt chẽ theo hệ thống từ trung ương đến cơ sở; có mặt trận chỉ mang tính chất liên hiệp hành
động; nhưng tất cả đều nhằm tập hợp, động viên được hết thảy mọi người tích cực tham gia
vào sự nghiệp chung giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Song song đó, Đảng luôn coi đoàn kết dân tộc luôn là nguồn sức mạnh của cách mạng và
là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy,
Đảng ta đã chủ trương xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công -
nông – trí thức. Đảng đã
Ngay từ khi mới thành lập, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã chỉ rõ giai cấp vô sản
phải tranh thủ được nhiều bạn đồng minh, phải tập hợp các lực lượng cách mạng trong Mặt
trận dân tộc thống nhất. Hình thức Mặt trận dân tộc thống nhất đầu tiên lấy tên là Hội phản
đế đồng minh. Trong chỉ thị lập Mặt trận, Đảng đã nhấn mạnh: Nếu không tổ chức được lực
lượng thật rộng, thật kín thì cách mạng cũng khó thành công.
Sau cao trào cách mạng 1930-1931, đế quốc Pháp khủng bố ác liệt, phong trào cách mạng
tạm thời lắng xuống, Đảng chuyển hướng tổ chức quần chúng đấu tranh và quần chúng vẫn
hướng về Đảng. Khi điều kiện và thời cơ thuận lợi xuất hiện, Đảng đã kịp thời đề ra chủ
trương, chính sách đúng nên đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, liên hiệp hành động với các
giai cấp, các tầng lớp yêu nước, các đảng phái dân chủ, hình thành Mặt trận dân chủ Đông
dương trong thời kỳ 1936-1939. Vì vậy, Đảng đã phát động được một cao trào đấu tranh

cách mạng đòi cải thiện dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình, chống phản động thuộc địa,
chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh.
14
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Đảng đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu. Đồng chí Hồ Chí Minh về nước, cùng Ban Chấp hành Trung ương
Đảng hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ 8 khoá I (tháng 5-1941), dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Hồ Chí Minh đã chủ
trương tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập
đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh) để mở rộng khối đoàn kết dân tộc không chỉ bao
gồm giai cấp công – nông mà còn cả những người Việt Nam yêu nước, tập trung mũi nhọn
đấu tranh vào nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Dưới ngọn cờ đại đoàn kết của
Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã dấy lên một cao trào kháng Nhật cứu nước sôi nổi và đều
khắp, nắm vững thời cơ Đảng đã chỉ đạo Mặt trận khởi nghĩa từng phần, khởi nghĩa vũ trang
dẫn đến tổng khởi nghĩa đưa Cách mạng Tháng Tám 1945 đến thắng lợi.
Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, thì quân Pháp núp sau quân đội Anh trở lại
xâm lược nước ta từ phía Nam, còn quân Tưởng kéo vào phía Bắc. Trước tình thế hiểm nguy
ấy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc thống
nhất. Tháng 5-1946, Mặt trận Liên Việt ra đời, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, làm
hậu thuẫn vững chắc cho chính quyền cách mạng. Với mục tiêu giai đoạn này là đặt nhiệm vụ
đánh đổ đế quốc hàng đầu, Đảng đã huy động lực lượng toàn dân tham gia và áp dụng nhiều
biện pháp linh hoạt để thêm bạn, bớt thù, do đó đã đẩy lùi được mọi âm mưu thâm độc của
thù trong, giặc ngoài.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, ở miền Nam, đế
quốc Mỹ biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và Mỹ trở thành kẻ thù chính của
dân tộc ta. Trong hoàn cảnh mới, Đảng chủ trương thành lập ở mỗi miền một mặt trận dân tộc
thống nhất nhằm mở rộng và tǎng cường khối đoàn kết dân tộc để hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trong cả nước và đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội
Tháng 9-1955, ở miền Bắc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời với mục tiêu xây dựng
CNXH. Tháng 12-1960, ở miền Nam, sau cao trào "đồng khởi", Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam được thành lập với mục tiêu giải phóng Miền Nam.

Nhân dân ta còn đoàn kết với nhân dân các dân tộc Lào và Campuchia anh em, hình thành
Mặt trận đoàn kết ba nước, các lực lượng hoà bình, tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân tiến
bộ Mỹ, ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trong cuộc kháng chiến Mỹ,
cứu nước đã hình thành trên thực tế ba tầng mặt trận : ở trong nước, trên bán đảo Đông
Dương và trên thế giới, đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ mọi lực lượng có
thể tranh thủ để lên án và cô lập đế quốc Mỹ xâm lược.
Sau đại thắng mùa Xuân nǎm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất,
cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động vẫn còn
âm mưu và hành động phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đảng
ta vẫn chủ trương tiếp tục coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nơi tập họp đông
đảo nhân dân cả nước ra sức thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhân dân ta tiếp tục tǎng cường đoàn kết với nhân dân
hai nước Lào và Campuchia, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước, các dân tộc
tiến bộ trên thế giới, đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Từ những kết quả xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất qua các giai đoạn trên, ta
có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau :
Một là phải xác định đúng kẻ thù, sắp xếp đúng bạn đồng minh. Muốn có chính sách mặt
trận đúng đắn, trước hết phải xác định đúng kẻ thù cụ thể, phải chỉ rõ kẻ thù cần phải đánh đổ
trong từng giai đoạn chiến lược, trong từng thời kỳ của một giai đoạn. Có như vậy mới tập
trung được toàn bộ lực lượng cách mạng đánh đổ kẻ thù cũng như mới lợi dụng được những
mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù và vận dụng sách lược mềm dẻo để cô lập cao độ kẻ thù nguy
hiểm nhất. Đảng ta đã có nhiều thành công nổi bật trong việc xác định kẻ thù cụ thể và chính
sách mặt trận trong các thời kỳ cách mạng. Đặc biệt là trong thời kỳ 1945-1946, công tác mặt
trận lúc này hết sức phức tạp, nhưng phong phú và sáng tạo. Tình hình lúc bấy giờ thay đổi
15
từng ngày, từng tháng. Cùng một lúc cách mạng nước ta phải đối phó với nhiều kẻ thù, nhưng
Đảng đã đánh giá đúng các loại kẻ thù, xác định đúng kẻ thù chính, để có sách lược và
phương pháp đấu tranh phù hợp : khi thì hòa với Tưởng để chống Pháp, khi thì tạm thời hoà
với Pháp để đuổi Tưởng nhằm phân hoá, cô lập kẻ thù, tránh thế bất lợi phải chống với nhiều
kẻ thù cùng một lúc, để tǎng thêm sức mạnh giành thắng lợi. Trong kháng chiến chống Mỹ,

Đảng ta đã sáng suốt chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất không chỉ của dân tộc ta mà của cả loài
người tiến bộ là đế quốc Mỹ, nên đã hình thành được ba tầng mặt trận: ở trong nước, ở Đông
Dương và trên thế giới, tạo ra sức mạnh để giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước.
Trong công tác mặt trận, vì trong dân tộc có nhiều giai cấp, nên Đảng phải đánh giá đúng
thái độ chính trị của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau để sắp xếp đúng đắn vị trí các
lực lượng trong Mặt trận dân tộc thống nhất: vai trò lãnh đạo, lực lượng nòng cốt, bạn đồng
minh lâu dài và gần gũi, bạn đồng minh tạm thời, v.v Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã
đánh giá đầy đủ vị trí của giai cấp nông dân Việt Nam, giai cấp đông đảo nhất, chiếm 95% số
dân, là bạn đồng minh cách mạng và trung thành nhất của giai cấp công nhân Việt Nam. Hai
giai cấp công nhân và nông dân và tầng lớp trí thức có liên minh chặt chẽ mới phát huy đầy
đủ sức mạnh, thực hiện triệt để nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giai cấp, trong đó giai cấp
công nhân phải đóng vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Bên cạnh đó, Đảng ra sức tập
hợp đông đảo lực lượng về phía cách mạng trên cơ sở đánh giá cao truyền thống yêu nước
của mọi tầng lớp nhân dân. Đảng đã lôi cuốn giai cấp tư sản dân tộc, một bộ phận hoặc từng
cá nhân xuất thân từ giai cấp phong kiến địa chủ có tinh thần yêu nước tham gia cách mạng
giải phóng dân tộc. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng hết sức chú ý phân
tích thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp, nhất là các tầng lớp trên để tranh thủ mọi
khả nǎng có thể tranh thủ nhằm tǎng cường mặt trận dân tộc rộng rãi để chống đế quốc và tay
sai. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta tiếp tục lắng nghe, tìm hiểu quan điểm, tư
tưởng và thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp để kịp thời đề ra những chủ trương
chính sách đúng đắn, những hình thức tổ chức sát hợp để tập hợp lực lượng đông đảo, nhằm
củng cố khối đoàn kết dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hai là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ mặt trận. Để tránh tả và hữu
khuynh trong việc thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn các
mối quan hệ trong nội bộ mặt trận.
- Đối với mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, mặt trận là tổ chức tập hợp lực lượng dân
tộc bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp được tập hợp, đoàn kết trên cơ sở chương trình hành
động chung. Vì vậy, cương lĩnh chung của mặt trận thể hiện đúng mối quan hệ giữa lợi ích
chung toàn dân tộc với lợi ích riêng từng giai cấp. Nếu vượt ra khỏi giới hạn mục tiêu đó là

phạm sai lầm tả khuynh. Trái lại, không đấu tranh để thực hiện những mục tiêu chung đã xác
định là phạm sai lầm hữu khuynh. Trong thời kỳ 1936-1939, Đảng nêu ra mục tiêu đấu tranh
đòi cải thiện dân sinh, dân chủ, chống chủ nghĩa phátxít, chống chiến tranh; trong thời kỳ
1939-1945 là đấu tranh chống Nhật, Pháp, giành độc lập dân tộc; trong thời kỳ chống Mỹ,
cứu nước đã có lúc Đảng nêu ra mục tiêu trước mắt tranh đấu cho miền Nam Việt Nam, hoà
bình, trung lập, v.v .
- Đối với mối quan hệ giữa liên minh công nông và mặt trận, đây là mối quan hệ lớn nhất
trong công tác mặt trận. Chỉ nhấn mạnh liên minh công nông mà không chú ý tranh thủ các
giai cấp, tầng lớp khác là hẹp hòi, tả khuynh. Ngược lại, chỉ chú ý vận động các giai cấp, tầng
lớp khác mà không chú ý củng cố liên minh công nông là phạm sai lầm hữu khuynh. Đảng ta
đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên bằng việc thường xuyên nắm vững mục tiêu lâu dài
và mục tiêu chủ yếu trong từng thời kỳ cách mạng, phân tích được mâu thuẫn chủ yếu để
vạch rõ kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm nhất. Khi cần tập trung lực lượng để giải quyết những
nhiệm vụ cấp bách nhất của cách mạng, Đảng đã giải quyết đúng mức quyền lợi của công
nông và của các giai cấp, các tầng lớp tham gia mặt trận.
16
- Đối với mối quan hệ giữa tranh thủ tầng lớp trên (tiểu tư sản, địa chủ ) đi đôi với phát
động quần chúng cơ bản. Đảng chủ trương “có thể và cần phải” tranh thủ tầng lớp trên, nhất
là những cá nhân có uy tín trong quần chúng, đó là điều cần thiết và có lợi cho việc phát động
quần chúng cơ bản. Nhưng phong trào vững chắc phải là phong trào cách mạng của quần
chúng cơ bản. Chỉ khi nào phong trào đó mạnh mới bảo đảm tranh thủ được tầng lớp trên.
Vận động các dân tộc ít người là một trong những công tác quan trọng bậc nhất của mặt trận,
của chính quyền cách mạng. Để đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo, Đảng đưa ra chính sách
tự do tín ngưỡng và giáo dục quần chúng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của giáo dân,
làm cho họ phân biệt rõ địch - ta, ra sức đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần. Đối với tầng lớp trên trong tôn giáo, Đảng chủ trương đoàn kết với họ trên tinh
thần yêu nước chân chính và giúp đỡ họ hiểu biết đường lối, chính sách của cách mạng, vận
động họ cùng với đồng bào theo các tôn giáo làm những việc có ích cho Tổ quốc, chống lại
mọi âm mưu chia rẽ dân tộc và phá hoại của kẻ thù. Trong việc xây dựng mặt trận, Đảng giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đoàn kết và đấu tranh. Đoàn kết một chiều, thiếu đấu tranh

trong thực tế dẫn đến phá vỡ khối đoàn kết, thủ tiêu mặt trận. Đấu tranh vượt quá cương lĩnh
là phạm sai lầm tả khuynh, trái lại, thiếu đấu tranh để thực hiện cương lĩnh là hữu khuynh,
dẫn đến mất đoàn kết.
Ba là nâng cao sự lãnh đạo của Đảng trong mặt trận. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc
nhằm giữ vững đường lối chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng của Đảng, chống mọi
khuynh hướng hạ thấp vai trò của Đảng, đòi chia quyền lãnh đạo trong mặt trận, xa rời
phương hướng, mục tiêu chiến lược của cách mạng. Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong
mặt trận, phải luôn luôn tránh hai khuynh hướng lệch lạc là: cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ tranh
thủ các lực lượng có thể tranh thủ; hoặc đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không đấu tranh
đúng mức với những tư tưởng và việc làm sai trái của các thành viên trong mặt trận. Về phần
mình, Đảng không ngừng phấn đấu nâng cao nǎng lực lãnh đạo bằng sự hoàn thiện đường lối
chiến lược, đổi mới chủ trương, sách lược cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ và cải tiến
phong cách, phương thức làm việc trong mặt trận, chống tác phong quan liêu, mệnh lệnh,
thiếu kiên trì giáo dục, thuyết phục.
Tóm lại, bài học thành công của Đảng ta về xây dựng khối đoàn kết thống nhất dân tộc
thông qua hình thức tổ chức các mặt trận là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, xuyên suốt quá
trình cách mạng nước ta từ trước đến nay, tạo nên một sức mạnh không gì có thể phá vỡ nổi.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần phải tiếp tục
được coi trọng và ngày càng mở rộng để tập hợp mọi thành phần, lực lượng của đất nước, tạo
thành sức mạnh tổng hợp làm nên sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và vǎn
minh tiến lên chủ nghĩa xã hội
17
Câu 5: Quá trình nhận thức của Đảng để đi đến đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam từ năm 1975 - 2000.
Nắm vững ngọn cờ Ðộc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội là bài học kinh nghiệm xuyên
suốt quá trình cách mạng nước ta từ khi có Ðảng, là nguồn gốc thắng lợi của Cách mạng Việt
Nam. Trên cơ sở nhận thức và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lê Nin, tổng kết kinh nghiệm thành công và cả những kinh nghiệm chưa thành công trong
thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta và các nước khác, đặc biệt là những kinh nghiệm của
những năm đổi mới, Ðảng ta đã nêu ra những phương hướng cơ bản xây dựng CNXH ở nước

ta ngày càng rõ ràng hơn thông qua Nghị quyết qua các kỳ đại hội đặc biệt giai đọan từ năm
1976 đến nay. Trong chặng đường này, nhận thức của Đảng có thể khái quát hóa qua hai giai
đọan :
Giai đọan thứ nhất từ năm 1975 đến năm 1985 đây là quá trình Đảng ta tìm tòi thực
nghiệm, tích lũy về lượng để đi đến biến đổi về chất trong tư duy nhận thức của Đảng ta.
Khởi đầu từ ĐH IV năm 1976, Đảng ta đã thiết kế mô hình CNXH ở Việt Nam theo mô
hình bốn mục tiêu của thời kỳ quá độ, đó là: xây dựng chế độ làm chủ của nhân dân lao động,
xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa và
xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Biện pháp để thực hiện mô hình trên thông qua
việc : Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động; Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng : cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa
học kỷ thuật, cách mạng về tư tưởng văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then
chốt; Đẩy mạnh CNH XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH, chú
trọng phát triển CN nặng hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; xây
dựng kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong cơ cấu nền kinh tế thống nhất; kết hợp
kinh tế đối nội, kinh tế đối ngoại dựa trên cơ sở hợp tác cùng có lợi; kết hợp xây dựng và phát
triển kinh tế với bảo vệ an ninh, quốc phòng. Tất cả nội dung đường lối trên nhằm xóa bỏ chế
độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, xác lập quyền làm chủ của nhân dân lao
động, củng cố an ninh quốc phòng, đẩy mạnh phát triển kinh tế nhằm xây dựng nước Việt
Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, góp phần cùng nhân dân thế giới đấu tranh vì hòa bình
độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, ĐH IV đã phát họa những nét lớn về CNXH Việt Nam với mô hình bốn “cái
mới”. Mô hình này về cơ bản giống mô hình XHCN củ Liên Xô và Trung Quốc, được thực
thi trong phe XHCN những năm 1950 – 1970. Trong đó nhấn mạnh tính thuần khiết lý tưởng
của CNXH ngay trong thời kỳ quá độ. Từ nhận thức đó chúng ta đã nôn nóng cải tạo XHCN
các thành phần kinh tế, nôn nóng xóa bỏ kinh tế thị trường, nóng vội phát triển CN nặng
trong những năm 1976 – 1986 đưa đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã sớm nhận thức và có những chỉ đạo kịp thời. Đó là Nghị
quyết TW 6 khóa IV (8/1979) đánh dấu sự biến đổi sâu sắc về chất trong tư duy của Đảng ta,
đánh dấu bước mở đầu cho quá trình tìm con đường mới đi lên CNXH ở Việt Nam. Lần đầu

tiên Đảng đã thừa nhận những khó khăn nghiêm trọng về KT-XH của đất nước : Đời sống
nhân dân khó khăn, kinh tế không tăng trưởng, lạm phát phi mã, nhân dân mất niềm tin ở
Đảng, chính quyền từ đó đưa ra những quyết sách mới là đẩy mạnh phát triển hàng tiêu
dùng, xuất khẩu, công nghiệp địa phương, đặc biệt là thừa nhận việc tồn tại nhiều thành phần
kinh tế là khách quan, quan tâm đến yếu tố thị trường, sản xuất hàng hóa. Đồng thời giải
quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, đặc biệt quan tâm lợi ích chính đáng của người lao
động Trên cơ sở đó, Chính phủ đã có Quyết định 279/CP cho phép các xí nghiệp, đơn vị
kinh doanh, khai thác các mặt hàng không do nhà nước quản lý tạo điều kiện mở đường cho
sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tạo nhiều sản phẩm cho xã hội.
Đến năm 1981 chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm đến nhóm người lao động,
đây thực sự là một bước đột phá, tạo động lực mạnh mẽ cho sản xuất phát triển. Tiếp đến
Chính phủ có quyết định 25-26/CP (tháng 01/1981) cho phép các công ty, các xí nghiệp lập
hai kế hoạch: kế hoạch của nhà nước hoạt động theo cơ chế bao cấp, kế hoạch của xí nghiệp
5-
2
18
hoạt động theo cơ chế thị trường. Đây được xem là bước chuyển chuyển mình tìm hướng đi
thích hợp để chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường.
Những nhân tố mới nêu trên tạo điều kiện để Đảng tiếp tục nhận thức con đường lên
CNXH ở Việt Nam
Đại hội V (1982) của Đảng một mặt khẳng định tiếp tục phương hướng, mục tiêu do đại
hội IV đề ra. Mặt khác căn cứ vào tình hình thực tiễn của đất nước, đại hội có những bổ sung
và cụ thể hóa một số nội dung quan trọng trong đường lối cơ bản : Một là khẳng định thời kỳ
quá độ là thời kỳ tương đối dài là quá trình đấu tranh xóa bỏ những trì trệ, hậu quả chiến
tranh, sản xuất hàng hóa tìm con đường hay mô hình đi lên CNXH phù hợp với điều kiện cụ
thể thể của Việt Nam, do đó những vấp váp, những sai lầm là không tránh khỏi. Tuy nhiên,
thời kỳ quá độ được Đảng ta xác định dài nhưng không trừu tượng, mà phải trải qua nhiều
chặn đường, nhiều giai đọan ta đang ở chặn đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Đây là bước
phát triển về chất trong tư duy nhận thức của Đảng ta trong định lượng nhiệm vụ chiến lược.
Hai là, khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải đồng thời thực hiện

nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là hai nhiệm vụ có mối quan hệ mật thiết và
đảm bảo cho nhau trong quá trình phát triển và ổn định đất nước.
Về đường lối kinh tế, đại hội V đã cụ thể hóa nội dung công nghiệp hóa của chặng đường
trước mắt của thời kỳ quá độ: Tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, đồng thời đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành
công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp
nặng trong một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm tạo ra lực lượng sản xuất mới, chuẩn bị tiền đề
và lực lượng cho việc đẩy mạnh CNH trong chặng đường tiếp theo.
Trong quá trình chi đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội V, Đảng và Nhà nước đã đưa ra
nhiều quyết định rất quan trọng, giải quyết những vấn đề cấp bách về lưu thông, phân phối,
về quản lý kinh tế đặc biệt tổng điều chỉnh giá tiền lương năm 1985.
Như vậy, Đại hội V của Đảng đã dựa trên thực tiển đất nước, đã có bước phát triển trong
việc tìm tòi con đường quá độ lên CNXH, bước đầu đã xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật
cho CNXH, dđã đánh bại hai cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây Nam và phía bắc.
Tuy nhiên trong tư duy lý luận vẫn còn lạc hậu giáo điều chưa nắm vững và vận dụng đúng
quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX; chính sách lớn ở tầm vĩ mô còn
nhiều khiếm khuyết mà theo nhận định của Đại hội VI là “những sai lầm nghiêm trọng và kéo
dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”. Bên
cạnh đó, thiên tai và hai cuộc chiến tranh biến giới phía bắc và Tây Nam làm cho tình hình
kinh tế – xã hội của đất nước rơi vào khủng hỏang trầm trọng, đặt ra vấn đề bức xúc đòi hỏi
phải đổi mới tòan diện để tồn tại.
Tóm lại, có thể nói giai đọan 1975-1985 là một chặn đường đầy thử thách. Bên cạnh
những thắng lợi giành được, chúng ta đã mắc một số khuyết điểm và sai lầm. Cách mạng
nước ta có những nhân tố thuận lợi mới nhưng cũng đang đứng trước nhiều khó khó khăn gay
gắt nhưng cốt lõi là mô hình kinh tế mới về cơ bản đã hình thành.
Đại hội VI (12-1986) của Đảng, đây là đại hội đổi mới toàn diện, Đại hội dựa trên cơ sở
phân tích sâu sắc cụ thể tình hình quốc tế và trong nước và tổng kết quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội từ 1975 đến 1985 bằng việc nhìn thẳng và nói đúng sự thật. Đảng ta đã rút ra
bốn bài học lớn về lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa :
Một là, trong tòan bộ họat động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm

gốc” xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng.
Ba là, phải biết kết hợp với sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
19
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của Đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN.
ĐH VI đã xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của
chặn đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế – xã hội, tiếp tục xây dựng những
tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH XHCN trong chặn đường tiếp theo.
Khẳng định là ĐH đổi mới tòan diện, nhận thức mới của Đảng đã thể hiện xuyên suốt
trong tòan bộ Nghị quyết. Đó là :
Nguyên tắc tiến hành đổi mới là đổi mới toàn diện, sâu sắc bắt đầu từ đổi mới tư duy, đặc
biệt là tư duy về kinh tế, đổi mới công tác tổ chức và cán bộ. Tập trung phát triển kinh tế, cải
cách chính trị thực hiện từng bước nhằm bảo đảm giữ vững trật tự an ninh, an toàn xã hội
phục vụ phát triển kinh tế.
Về kinh tế là: Sử dụng các thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng tồn đọng
trong xã hội. Xây dựng kinh tế thị trường với cơ chế một giá. Tập trung đầu tư để thực hiện 3
chương trình kinh tế lớn: sản xuất lương thực, thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng và sản
xuất hàng xuất khẩu. Cải tạo quan hệ sản xuất phải được thực hiện thường xuyên và đảm bảo
đúng quy luật.
Về chính trị là cải cách dân chủ phải được thực hiện từng bước và phù hợp với trình độ
dân trí dưới sự lãnh đạo của đảng đảm bảo giữ vững trật tự an toàn xã hội. Tiến hành cải cách
hệ thống chính trị cả nước trên 3 lĩnh vực trọng tâm: đổi mới phương thức, phong cách lãnh
đạo của đảng; cải cách hành chính công để giảm phiền hà đối với dân chúng; đổi mới phương
thức hoạt động của các tổ chức dân cử để đảm bảo quyền lợi của người dân.
Trên lĩnh vực ngoại giao chủ trương thực hiện chính sách mở cửa làm bạn với tất cả các
quốc gia trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị.
Tóm lại, tư tưởng chỉ đạo cốt lỏi của ĐH VI là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có,

khai thác mọi tiềm năng của đất nước và sử dụng hiệu quả sự giúp đở của quốc tế, phát triển
lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và cũng cố quan hệ sản xuất XHCN.
Trong tổ chức thực hiện Nghị quyết đại hội VI của Đảng. Đảng và Nhà nước vừa tập trung
đề ra các chính sách mới, vừa giải quyết những vấn đề kinh tế cấp bách đặc biệt là Nghị
quyết 10 năm 1988 của Bộ chính trị về hoàn thiện cơ chế khoán, trong đó lần đầu tiên hộ gia
đình được xem là đơn vị kinh tế. Nghị quyết Trung ương 6 khóa 6 năm 1989 đã đề ra những
quan điểm và phương hướng chỉ đạo công cuộc đổi mới với những nguyên tắc cơ bản về đổi
mới như sau :
Một là, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà làm cho mục tiêu ấy thực hiện
tốt hơn bằng quan niệm đúng đắn, hình thức, biện pháp và bước đi thích hợp.
Hai là, Đổi mới không phải là xa rời Chủ nghĩa Mác –Lênin mà là vận dụng sáng tạo Chủ
nghĩa Mác – Lênin và khắc phục những quan niệm không đúng về học thuyết đó.
Ba là, Đổi mới tổ chức và phương thức họat động của hệ thống chính trị phải nhằm tăng
cường chứ không phải là làm suy yếu sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô sản.
Bốn là, Xây dựng nền dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây
dựng CNXH, song dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ với
nhân dân nhưng phải chuyên chính với kẻ địch.
Năm là, kết hợp Chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế XHCN, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh của thời đại.
Qua thực tiễn 5 năm đổi mới kể từ sau đại hội VI, đại hội VII năm 1991 của Đảng đã có
điều kiện xem xét, khẳng định rõ hơn những vấn đề đã được đặt ra từ đại hội VI tiếp tục bổ
sung và hoàn thiện nhận thức. Đại hội VII khẳng định quyết tâm không gì lay chuyển nổi của
Đảng và nhân dân Việt Nam kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới.
Đại hội VII đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội”. Cương lĩnh vạch rõ : Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
20
bản chủ nghĩa; Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ cùng xu hướng quốc tế nền kinh tế thế
giới là thời cơ để các nước phát triển có thể phát triển nhanh hơn. Do đó, phải coi trọng sự
nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực và phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng
đầu; trong quá trình xây dựng CNXH phải phát huy ý chí tự lực tự cường, đồng thời mở rộng

hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Đồng thời Cương lĩnh
cũng đã xác định mô hình chủ nghĩa xã hội gồm 6 đặc trưng cơ bản là: Xây dựng chế độ làm
chủ tập thể của nhân dân lao động; kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại với chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu; xây dựng nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo
năng lực và hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện; các dân tộc sống trong quốc gia Việt Nam bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau tiến
bộ. Thực hiện chính sách làm bạn với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Để đạt được mục tiêu trên đảng chủ trương phát triển kinh tế, cải cách xã hội đẩy lùi 4
nguy cơ: Tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế so với các nước trong khu vực. Chệch hướng xã hội
chủ nghĩa. Tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí. Nguy cơ diễn biến hòa bình.
Cương lĩnh cũng đã nêu 7 biện pháp chiến lược để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân và quản lý mọi mặt của xã hội
một cách hữu hiệu dựa trên cơ sở luật pháp; Phát triển lực lượng sản xuất, thông qua công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thông qua cách mạng khoa học công nghệ; Xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; Đẩy mạnh cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa làm cho thế giới quan Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động; Thực
hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc và chính sách đối ngoại hòa bình hữu nghị hợp tác với
tất cả các nước; Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng : xây dựng thành công và
bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa; Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức nhằm nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng ngang tầm với
nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
ĐH VIII : 6-1996
Sau 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đảng đã tổng kết, đánh giá thành công cũng như
thất bại và rút ra những bài học kinh nghiệm. Điểm nổi bật là Đại hội VIII đã khẳng định một
số nhận thức về xây dựng cơ chế quản lý mới : Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH,
tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc XD CNXH; Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần ở nước ta, thị trường theo định hướng XHCN là thể thống nhất với nhiều lực

lượng tham gia sản xuất và lưu thông. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, thị
trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế họach, kế họach chủ yếu mang tính định hướng
còn thị trường trực tiếp hướng dẫn, lựa chọn lĩnh vực họat động, tổ chức sản xuất và kinh
doanh. Do vậy, cơ chế thị trường phải có sự điều tiết ủa Nhà nước, vì thế cần nâng cao quản
lý vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh
doanh.
Trên cơ sở đó, Đại hội VIII đã xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam đến năm
2020:” tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp”.
Đến Đại hội IX (4-2001) nhận thức con đường đi lên CNXH được Đảng ta bổ sung và
hoàn thiện. Đó là :
Thứ nhất, về mục tiêu lý tưởng của Đảng “Độc lập dân tộc gắn liền CNXH” là nguyên tắc,
là sự chỉ đạo xuyên suốt tòan bộ đường lối cách mạng nước ta.
Thứ hai, về thời kỳ quá độ báo cáo chính trị đã chỉ ra con đường đi lên của nước ta là sự
phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
21
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng XHCN nhưng tiếp thu kế thừa những thành tựu
của nhân lạoi đặc biệt là khoa học & công nghệ.
Thứ ba, Về mô hình kinh tế tổng quát vẫn xác định “kinh tế thị trường định hướng
XHCN” có bổ sung thêm thành phần kinh tế thứ 6 có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, về đấu tranh gia cấp là động lực phát triển đất nước. Trong đó động lực chủ yếu để
phát triển đất nước là đại đòan kết tòan dân dựa trên cơ sở liên minh giữa giai cấp CN, ND và
trí thức do Đảng lãnh đạo.
Thứ năm, về nền tảng tư tưởng : Đại hội đã làm rõ khái niệm và nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, từ những bài học của cách mạng Việt Nam trong mấy chục năm qua, nhất là
những kinh nghiệm thu được trong những năm đổi mới, chúng ta có cơ sở khoa học để tin
tưởng rằng: Với chủ nghĩa yêu nước, truyền thống quý báu của dân tộc ta, với tinh thần chủ
động sáng tạo, ý chí tự lực tự cường của nhân dân ta, lại có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng

cách mạng kiên cường, với sự giúp đỡ và hợp tác của bạn bè quốc tế, nhân dân ta có đủ khả
năng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội
Câu 6 : Phân tích cao trào cách mạng chống đế quốc, chống phong kiến giai đoạn 1930-
1945?
Trong thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, lực lượng chính của dân tộc là
nông dân đã bị mòn mỏi sau các cuộc chiến tranh Nam Bắc Triều, rồi Trịnh Nguyễn phân
tranh; triều đình nhà Nguyễn lại thối nát, đầu hàng, nên đế quốc Pháp đã đặt được ách thống
trị lên đầu lên cổ nhân dân Việt Nam. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta đã nổ ra rất
mãnh liệt, song đều thất bại vì không có đường lối đúng. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời
năm 1930 đánh dấu bước chuyển biến quyết định của cách mạng Việt Nam, mở đường thắng
lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Bắt đầu từ đó một đường lối, chiến lược
cách mạng rõ ràng, đúng đắn được xác định và đưa hoạt động cách mạng của nhân dân VN đi
đến thành công, đặc biệt là trong cao trào cách mạng chống đế quốc Pháp và phong kiến
1930-1945.
Ngay sau khi ra đời, trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, tiếp đó là Luận cương
chính trị, Đảng đã xác định đường lối cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai giai đoạn:
trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa, mục đích cuối cùng của Đảng là thực hiện
chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì vậy đã giải quyết đúng đắn hàng loạt
vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam và đã giành được những thắng lợi vĩ đại.
Cương lĩnh chính trị (tháng 2/1930) và Luận cương chính trị (tháng 10/1930) đều khẳng
định : dưới thời Pháp thuộc, xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa dân
22
tộc ta với chủ nghĩa đế quốc và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân, với giai cấp
địa chủ phong kiến. Cụ thể hơn, Đảng nhận định nước ta là nước nông nghiệp, nông dân
chiếm hơn 90% số dân, chủ nghĩa đế quốc dựa vào chế độ phong kiến để bóc lột nhân dân,
chủ yếu là bóc lột nông dân. Nguyện vọng tha thiết và trực tiếp của nông dân là dân tộc độc
lập, người cày có ruộng. Từ đó chỉ ra con đường cách mạng VN là “tư sản dân quyền CM và

thổ địa CM để đi tới XH cộng sản”; bằng bạo lực cách mạng đánh đuổi đế quốc Pháp và xóa
bỏ chế độ phong kiến VN, tiến đến cách mạng XHCN bỏ qua phát triển TBCN.
Tuy nhiên, việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống
phong kiến để có thể phát huy cao độ yếu tố dân tộc là vấn đề phức tạp, Đảng ta đã phải mất
một thời gian tương đối dài mới đạt được sự nhất trí cao. Luận cương chính trị có hạn chế là
chưa vạch ra được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc địa nửa phong kiến; đặt nhiệm vụ
chống phong kiến lên hàng đầu, chống đế quốc là hàng thứ yếu, cho việc phân loại địa chủ là
một sai lầm. Ngược lại với chính cương vắn tắt cho rằng: Mâu thuẩn giữa dân tộc và đế quốc
là mâu thuẩn cơ bản của xã hội nhưng đồng thời là mâu thuẩn chủ yếu của xã hội, thì phải
giải quyết nó trước hết; từ đó Đảng phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc - giải phóng dân tộc lên
hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết" để phát huy cao độ sức mạnh dân tộc nhưng
không coi nhẹ những nhiệm vụ dân chủ; chống phong kiến được rải ra từng bước, chia ra 3
loại địa chủ: tiểu địa chủ, trung địa chủ và đại địa chủ để có sách lược phù hợp với từng đối
tượng, nhằm lôi kéo tranh thủ tập hợp lực lượng CM. Hai nhiệm vụ chiến lược trên phải được
tiến hành khǎng khít với nhau, không được tách rời. Đó là tư tưởng đúng đắn về chỉ đạo chiến
lược, sách lược của Đảng ta.
Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh dân tộc, dân chủ tạo nên cao trào CM 1930-1931, xây
dựng lực lượng ctrị với nòng cốt là công – nông… với đỉnh cao là phong trào Xô viết - Nghệ
tĩnh, đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của CM VN dưới sự lãnh đạo của Đảng, đem lại cho
Đảng một số kinh nghiệm về xác định mục tiêu đấu tranh, lựa chọn phương pháp CM phù
hợp với giai đoạn CM và về tập hợp lực lượng CM.
Từ giữa năm 1935, Đảng tập trung củng cố và phát triển Đảng trong các xí nghiệp, hầm
mỏ và nông thôn…; đẩy mạnh công tác vận động, thu phục quần chúng và mở rộng tuyên
truyền chống đế quốc, chống chiến tranh.
Suốt giai đoạn thực hiện phong trào vận động dân chủ (1936 - 1939), vận dụng nghị quyết
của quốc tế cộng sản vào đông dương, hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến của CM
VN là không hề thay đổi. Tháng 7/1936, CM VN chuyển hướng chỉ đạo chiến lược; đề ra
nghị quyết đấu tranh chống phát xít và bọn phản động nội địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo,
hòa bình. Thành lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi bao gồm các giai cấp, các đảng phái,
các đoàn thể chính trị, tôn giáo và dân tộc. Chuyển hướng hình thức tổ chức từ bí mật, bất

hợp pháp là chủ yếu chuyển sang đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp là chủ yếu
như: hội cày, hội cấy, hội đá banh…để đấu tranh. Cao trào CM dân chủ phát triển mạnh mẽ,
đòi hỏi Đảng phải tiếp tục bổ sung chủ trương và biện pháp để chỉ đạo phong trào, tháng 3-
1938, TW họp quyết định tổ chức thực hiện Mặt trận thống nhất dân chủ và coi đó là nhiệm
vụ trọng tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Thời gian này, Đảng còn sử dụng báo chí
công khai làm vũ khí đấu tranh CM; xuất bản nhiều sách giới thiệu về đấu tranh giai cấp, về
CNXH, CNCS.
Cao trào dân chủ 1936-1939 là thắng lợi to lớn, đánh dấu bước phát triển mới của phong
trào CM VN. Qua phong trào, Đảng và các lực lượng CM VN trưởng thành nhanh chóng.
Cao trào 36-39 là cuộc tổng diễn tập lần thứ 2 cho tổng khởi nghĩa sau này. Để lại cho Đảng
ta nhiều bài học kinh nghiệm quý giá về: xác định kẻ thù và mục tiêu đấu tranh trước mắt; tập
hợp lực lượng rộng rãi trên cơ sở động viên sự tham gia của mọi tầng lớp XH; để lãnh đạo
được mặt trận, Đảng phải vững mạnh về chính trị và tổ chức, phải xây dựng khối liên minh
công – nông làm nòng cốt; phải biết sử dụng linh hoạt nhiều hình thức đấu tranh.
Giai đoạn 1939 – 1945 trước những biến động to lớn của tình hình thế giới và trong nước,
Đảng quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tiếp tục hoàn chỉnh mối quan hệ 2 nhiệm
23
vụ chống đế quốc và phong kiến. Thể hiện qua Nghị quyết TW 6 (11/1939); NQ TW 7
(11/1940); NQ TW 8 (5/1941). Các nghị quyết đều khẳng định những nhiệm vụ chống đế
quốc và phong kiến của CM nước ta là không thay đổi, nhưng mục tiêu trước mắt là đánh đổ
đế quốc và tay sai, làm cho nước nhà hoàn toàn độc lập; tạm gác khẩu hiệu CM ruộng đất,
thay vào đó là khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và tai sai chia cho dân cày.
Lợi dụng Pháp thua Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật vào chiếm nước ta, buộc
Pháp thỏa hiệp với Nhật cùng cai trị VN. Nhân dân ta chịu một cổ hai tròng. Xu hướng đấu
tranh vũ trang phát triển mạnh trong nhân dân, mở đầu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, tiếp theo
là khởi nghĩa Nam Kỳ (11/1940), khởi nghĩa Đô Lương (1/1941) đã thức tỉnh nhân dân cả
nước vùng lên tranh đấu.
Hội nghị lần thứ tám BCH TW (5/1941), Đảng chủ trương thành lập Mặt trận VN độc lập
đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, thành lập Chính phủ nhân
dân của nước VN dân chủ cộng hòa. Trên cơ sở lực lượng chính trị được xây dựng, Đảng chỉ

đạo tổ chức lực lượng vũ trang CM gồm Hội cứu quốc quân, Đội VN tuyên truyền giải phóng
quân; thành lập các khu căn cứ địa CM; xác định khởi nghĩa từng phần tiến đến tổng khởi
nghĩa, xác định kẽ thù của CM là Phát Xít Nhật và thực dân Pháp. Đồng thời thúc đẩy mạnh
mẽ các hoạt động trên mặt trận văn hóa tư tưởng, xây dựng Đảng…chờ đợi thời cơ tổng khởi
nghĩa giành chính quyền.
Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương; cũng đêm đó BTV TW Đảng họp tại
Đình Bảng (Bắc Ninh) quyết định và Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”; chỉ rõ phát xít Nhật giờ đây là kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương và nêu các khẩu
hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”, “Thành lập chính quyền CM của nhân dân” để chống lại
chính phủ bù nhìn tay sai của Nhật, phát động cao trào kháng Nhật, làm tiền đề cho cuộc tổng
khởi nghĩa.
Giữa tháng 8-1945, tình thế trực tiếp CM đã xuất hiện, khi chính phủ Nhật đầu hàng Liên
Xô và quân đồng minh vô điều kiện, quân đội Nhật ở Đông Dương bị tê liệt hoàn toàn. Cơ
hội ngàn năm cho dân tộc ta vùng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã tới. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng tháng Tám thành công. Và ngày
2/9/1945 tại Quảng Trường Ba Đình Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã đọc bảng Tuyên ngôn độc
lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa- mở đầu một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
độc lập tự do, dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH cho dân tộc VN.
Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá trình đấu
tranh lâu dài, gian khổ của nhân dân ta; là bước nhảy vọt vĩ đại đánh dấu sự biến đổi cực kỳ
to lớn trong lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam, từng cống hiến to lớn về lý luận và thực
tiễn đối với CM thế giới, đặt biệt là CM giải phóng dân tộc. Nói lên sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng và tinh thần quật khởi mạnh mẽ của toàn dân.
Nhưng với dã tâm đế quốc, thực dân pháp đã không từ mọi thủ đoạn, đã quay lại tái xâm
lược nước ta một lần nữa. Nhưng với bản lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền đã trãi qua thử
thách trong thực tiễn đấu tranh trên mọi lĩnh vực để giải phóng dân tộc, một lần nữa Đảng ta
lãnh đạo nhân dân đi vào đấu tranh ở giai đoạn mới với hình thức, tính chất và quy mô ác liệt
hơn.
Chủ tịch HCM ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Đảng ta khẳng định đường lối
kháng chiến chống thực dân Pháp của ta là: toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình

là chính; tuy lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.
Đại hội Đảng lần thứ II (2/1951), Đảng đổi tên là Đảng lao động Việt Nam (được tách ra
từ ĐCS Đông Dương) và ra hoạt động công khai. Đảng đã xác định đối tượng của CM Việt
Nam lúc là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể là thực dân Pháp can thiệp Mỹ, phong kiến
phản động làm tay sai cho đế quốc là đối tượng thứ 2 của CM. Vạch ra 3 nhiệm vụ cơ bản
của CM Việt Nam là đánh đuổi đế quốc giành độc lập dân tộc; xóa bỏ di tích phong kiến, làm
cho người cày có ruộng phát triển chế độ dân chủ nhân dân; xây dựng cơ sở vật chất CNXH.
Nhiệm vụ chính vẫn là hoàn thành giải phóng dân tộc. Động lực của cuộc kháng chiến CM
6-4
24
dân tộc dân chủ nhân dân là giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản tri
thức và tư sản dân tộc. Ngoài ra còn có những nhân sĩ yêu nước và tiến bộ. Người lãnh đạo
CM là giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của giai cấp công nhân là Đảng Lao
Động Việt Nam.
Song, đồng thời Đảng chỉ đạo thực khẩu hiệu “Người cày có ruộng”, tiến hành cải cách
ruộng đất ở vùng tự do và phát động quần chúng triệt để giảm tô ở các vùng địch chiếm đóng.
Các hội nghị TW 1 (tháng 3/1951), TW 2 (10/51), TW 3 (4/52), TW 4 (tháng 1/1953) và đặc
biệt là hội nghị TW 5 (tháng 11/191953) đều trực tiếp chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ trên.
Quá trình thực hiện CM ruộng đất diễn ra đồng thời với cuộc tiến công chiến lược Đông –
Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ, quân dân ta đã đánh bại hoàn toàn mọi cố
giắng quân sự của Pháp ở VN. Hiệp định Giơnevơ được ký kết (tháng 7/1954), hòa bình lập
lại ở Miền Bắc.
Phản ánh đúng tư tưởng chiến lược về tính không tách rời của hai nhiệm vụ chống đế quốc
và phong kiến, phản ánh nhận thức của Đảng muốn giữ quyền lãnh đạo dân tộc phải thực
hiện những yêu cầu dân chủ đối với nông dân, Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-
1951) đã định rõ "nhiệm vụ giải phóng dân tộc bao gồm nhiệm vụ phản phong kiến", và thay
khái niệm "cách mạng tư sản dân quyền" bằng khái niệm "cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân". Nhận thức của Đảng đã rõ ràng. Tuy nhiên, trong việc tổ chức thực hiện, Đảng đã phạm
sai lầm hữu khuynh, có lúc quá chú trọng tranh thủ tầng lớp trên, coi nhẹ phát triển lực lượng
công nhân, và sai lầm tả khuynh trong cải cách ruộng đất.

Từ những thành công cũng như sai lầm nghiêm trọng dù là tạm thời, Đảng đã rút ra bài
học quan trọng về mối quan hệ giữa chiến lược và sự chỉ đạo chiến lược. Đó là: "nắm vững
và giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ với hai khẩu hiệu chiến lược "dân tộc độc lập" và
"người cày có ruộng", Đảng ta đã lôi cuốn được đông đảo nông dân đi theo giai cấp công
nhân, động viên được các tầng lớp nhân dân khác cùng với công, nông bước lên trận tuyến
cách mạng chống đế quốc và phong kiến. Trong quá trình cách mạng, những nhiệm vụ chiến
lược đó đã được cụ thể hoá bằng những mục tiêu thích hợp với từng thời kỳ, dựa trên sự phân
tích những mối quan hệ giai cấp cụ thể và khả nǎng phân hoá hàng ngũ kẻ thù đế quốc và
phong kiến, nhằm tập trung ngọn lửa cách mạng vào kẻ thù nguy hại nhất trong từng lúc một.
Song, dù ở bất cứ thời kỳ nào, những mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng đề ra, về
cơ bản đều bao hàm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, về cơ bản đều gắn liền hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến". Như vậy về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược,
Đảng đã nhận thức đầy đủ hơn, diễn đạt rõ ràng hơn, có tính lý luận sâu sắc và bảo đảm cho
Đảng tránh mắc sai lầm tả hữu khuynh trong việc lãnh đạo hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ ở miền Nam trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược và can thiệp của Mỹ đã kết thúc thắng lợi, đã đi vài lịch sử dân tộc như một chiến
công hiển hách. Với thắng lợi của kháng chiến chống Pháp, nhiệm vụ của cuộc cách mạng
dân tộc, dân chủ mà Đảng ta đã vạch ra trong cương lĩnh chính trị đầu tiên đã căn bản hoàn
thành trên một nửa nước, mở đường cho miền Bắc bước lên thời kỳ quá độ lên CNXH, xây
dựng hậu phương vững mạnh để nhân dân tiếp tục đấu tranh hoàn thành CM dân tộc, đưa chủ
trương cả nước, giải phóng miền nam, thực hiện thống nhất đất nước đi lên xây dựng CNXH,
đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho người dân
6-6
25

×