Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tài liệu hướng dẫn phòng ngừa tai biến máu não

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.56 KB, 22 trang )

TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN CHĂM SÓC – ĐIỀU TRỊ
CHO NGƯỜI TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
VÀ CÁCH PHÒNG BỆNH


MỤC LỤC
Phần 1: Tìm hiểu về bệnh Tai biến mạch máu não
1. Tai biến mạch máu não là gì

1

2. Nguyên nhân

1

3. Dấu hiệu bị tai biến MMN

4

4. Xử trí khi bạn – người thân bị tai biến MMN

5

Phần 2: Phục hồi sau Tai biến mạch máu não
1. Di chứng có thể phục hồi được khơng?

8

2. Người thân phải làm gì để giúp cho bệnh nhân

8



3. Ngăn ngừa tái phát

9

4. Làm gì sau khi xuất viện

10

5. Hướng dẫn chăm sóc người tai biến MMN tại nhà

10

6. Luyện tập phục hồi chức năng sau tai biến MMN

12

Bài tập PHCN cho người tai biến MMN

14

Bài tập PHCN cho người bị liệt nửa người

16

Phần 3: Phòng ngừa Tai biến mạch máu não
1. Ai dễ bị tai biến MMN

20


2. Phòng ngừa tai biến MMN

20


PHẦN 1: TÌM HIỂU VỀ BỆNH TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
1. Tai biến mạch máu não là gì?
Tai biến mạch máu não, hay đột quỵ, là bệnh lý tổn thương một phần não xảy ra đột
ngột do mạch máu nuôi não bị tắc nghẽn hoặc bị vỡ.
Máu mang Oxy và chất dinh dưỡng lên nuôi não. Khi thiếu máu nuôi, não sẽ ngưng
hoạt động rồi chết đi trong vòng vài giây đến vài phút. Phần nào của não bị chết thì
phần cơ thể tương ứng do nó điều khiển sẽ không hoạt động được, biểu hiện bằng liệt
nửa người, tê và mất cảm giác nửa người, nói khó hoặc khơng nói được, hoặc hơn
mê...
2. Ngun nhân:
Ngun nhân dẫn đến tai biến mạch mãu não có thể là tắc mạch máu não, hoặc vỡ
mạch máu não. Trong đó 80% tai biến mạch máu não là do tắc mạch máu não.
Cơ chế cụ thể như sau:
Cơn thoáng thiếu máu não: mạch máu não bị tắc, nhưng lại được tự thơng nhanh
chóng nên não khơng bị chết, nhờ đó các triệu chứng nhanh chóng phục hồi hồn tồn
trong vịng 24 giờ.
Nhồi máu não - thiếu máu não: mạch máu não bị tắc kéo dài làm não thiếu máu
ni và hoại tử, chết đi.
Có ba nguyên nhân chính làm mạch máu bị tắc:
Xơ mỡ động mạch: do có mảng xơ mỡ đóng ở thành mạch máu, ngày càng dày lên
làm hẹp lòng mạch hẹp dần lại, máu ứ lại và đóng thành cục máu đông gây tắc mạch
tại chỗ hoặc chạy lên cao làm tắc các mạch máu phía sau.





Cục máu đơng: cục máu đơng hình thành và trơi theo dịng máu lên não sẽ mắc
kẹt lại tại đó làm tắc nghẽn mạch máu não.



Bệnh mạch máu nhỏ: ở người tăng huyết áp, đái tháo đường lâu năm không
chữa trị tốt, các động mạch nhỏ trên não bị hư hỏng và tắc nghẽn không cấp máu
cho não được nữa cũng gây thiếu máu não.

Xuất huyết não - chảy máu não:
Mạch máu trong não bị vỡ, máu không đến nuôi não được mà chảy tràn ra chèn ép
vào não làm não bị hư hại.


Tăng huyết áp: là nguyên nhân chính gây vỡ mạch máu não, xảy ra khi tăng
huyết áp lâu ngày không chữa trị tốt. Huyết áp, tức là áp lực máu chảy trong
mạch máu, tăng cao lâu ngày làm mạch máu thường xuyên bị căng, dẫn tới rạn
nứt, tổn thương thành mạch máu, tạo ra các chỗ phình nhỏ, đến một lúc nào đó
sẽ vỡ ra.



Các nguyên nhân khác: dị dạng mạch máu não, thoái hoá mạch máu não, u não,
bệnh máu khó đơng…

3. Dấu hiệu bị tai biến mạch máu não
Làm sao nhận biết tai biến mạch máu não khi nó xảy ra?
Các triệu chứng thường gặp của tai biến mạch máu não gồm:



Méo miệng, yếu, liệt tay chân một bên.



Tê hoặc mất cảm giác ở một nửa bên thân thể



Nói đớ hoặc khơng nói được



Mù một mắt hoặc khơng nhìn được một bên



Lú lẫn, hơn mê.



Ngồi ra có thể có nhức đầu, nơn ói, hoặc co giật.


Phải nghĩ đến tai biến mạch máu não nếu một hoặc nhiều triệu chứng kể trên xuất
hiện đột ngột, bất ngờ ở một người đang có vẻ rất khỏe mạnh, khi họ đang nghỉ ngơi,
đang ngủ, hoặc đang làm việc bình thường.
4. Xử trí khi bạn – người thân bị tai biến mạch máu não
Phải làm gì khi gặp người bị tai biến mạch máu não?



Đỡ người bệnh để không bị té ngã chấn thương.



Để người bệnh nằm xuống chỗ thống, nghiêng qua một bên nếu nơn ói, móc
hết đàm nhớt cho bệnh nhân dễ thở.



Gọi xe đưa ngay người bệnh đến cơ sở y tế gần nhất.



Nếu bệnh viện gần nhà có đủ điều kiện chữa trị thì khơng nên chuyển viện đi xa,
trừ khi bác sĩ có chỉ định, vì càng di chuyển xa càng có thể làm bệnh nặng hơn.



Không tự ý cho uống hoặc nhỏ thuốc hạ huyết áp hay bất kỳ loại thuốc nào
khác.



Không để nằm chờ xem có khỏe lại khơng.



Khơng cạo gió, cắt lễ, cúng vái…


Tại sao phải đưa người bệnh tới bệnh viện ngay?


Não người rất quan trọng nhưng lại rất nhạy cảm.



Nếu bị thiếu máu, thiếu oxy, hoặc bị chảy máu thì não sẽ bị hoại tử chết đi rất
nhanh chóng.



Để càng lâu thì phần não bị chết càng lớn, khơng thể chữa trị phục hồi lại được.



Chỗ não bị hư sau đó cịn bị sưng lên gây nguy hiểm đến tính mạng.

Do đó phải đưa người bệnh vào bệnh viện càng nhanh càng tốt để có thể cứu sống
kịp thời các phần não chưa chết nhưng đang bị thiếu máu nuôi, đang bị sưng, hoặc bị
chèn ép.


Bệnh viện sẽ giúp gì cho bệnh nhân?


Định bệnh chính xác và tìm nguyên nhân gây bệnh: bằng cách thăm khám và
làm xét nghiệm. Các xét nghiệm quan trọng gồm có xét nghiệm máu, chụp CT
(xi-ti) não, siêu âm mạch máu, siêu âm tim, điện tim...




Điều trị khẩn cấp, làm thơng mạch máu nếu tình trạng cho phép và người bệnh
đến sớm trước 3 giờ tính từ lúc mắc bệnh. Tăng cường cấp máu cho não, giảm
mức độ thiếu oxy não, giảm chèn ép não, ngăn không cho bệnh lan rộng, ngăn
khơng cho tái phát.



Chăm sóc, ni ăn, phịng ngừa và điều trị các triệu chứng.



Tập vật lý trị liệu để giúp phục hồi chức năng.



Hướng dẫn cách điều trị tiếp theo sau xuất viện và đề phòng bệnh tái phát.



PHẦN 2: PHỤC HỒI SAU TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
1. Di chứng có thể phục hồi được khơng?


Nhiều bệnh nhân có thể hồi phục một phần hoặc hồn tồn, nếu được chăm sóc
điều trị thích hợp. Thời gian để hồi phục: từ một vài ngày đến vài tháng, tùy theo
mức độ bệnh. Thời gian hồi phục nhanh và nhiều nhất là ba tháng đầu tiên sau
đột quỵ.




Trường hợp nặng có thể để lại di chứng tàn phế nặng nề, không thể tự sinh hoạt
được.



Các trường hợp nặng nhất sẽ tử vong, hầu hết tử vong xảy ra trong tuần đầu tiên.



Các trường hợp nặng là những người bị nhồi máu não hoặc xuất huyết não với
kích thước quá lớn hoặc xảy ra ở các vị trí quan trọng.
2. Người thân phải làm gì để giúp cho bệnh nhân?

Trong giai đoạn đầu mắc bệnh, cần phối hợp với y bác sĩ để chăm sóc điều trị cho
bệnh nhân:


Cho nằm với đầu giường cao 30 độ với đầu, cổ và thân người thẳng nhau, tránh
gối cao gập cổ làm khó thở.



Xoay trở đổi tư thế nằm của bệnh nhân thường xuyên mỗi giờ để chống loét
(luân phiên giữa nằm ngửa, nghiêng trái, và nghiêng phải).



Giữ quần áo, tấm trải, giường, nệm, và da bệnh nhân khô ráo, sạch sẽ để tránh

loét và nhiễm trùng.



Làm vệ sinh răng miệng mỗi ngày 2 đến 3 lần.



Cho ăn theo hướng dẫn tránh bị sặc, tránh ọc thức ăn: cho ăn tư thế ngồi (nếu
bác sĩ cho phép) hoặc nằm đầu cao 30 độ; dùng muỗng đút từng phần nhỏ thức
ăn, đợi bệnh nhân nhai nuốt được rồi mới cho tiếp; nếu ăn bằng ống thông thì
phải để điều dưỡng (y tá) thử ống, cho ăn, cho uống nước và thuốc.




Xoa bóp bắp cơ, vận động các khớp tay chân cho bệnh nhân cho máu lưu thông
và tránh cứng khớp, teo cơ. Phối hợp với nhân viên vật lý trị liệu tập cho bệnh
nhân.

Trong giai đoạn hồi phục trong bệnh viện và sau khi xuất viện, người nhà có vai trị
chính trong việc chăm sóc bệnh nhân, tập luyện để hồi phục sức cơ, và tập cho bệnh
nhân thích nghi với các sinh hoạt trong điều kiện còn yếu một nửa người.
3. Ngăn ngừa tái phát
Người đã bị tai biến mạch máu não sẽ có nhiều nguy cơ tái phát ngay từ những
ngày đầu và trong suốt thời gian sống cịn lại, do đó phải chú ý điều trị tích cực để
phịng ngừa.
Để phịng ngừa tái phát, có nhiều việc cần phải làm đồng thời:



Thay đổi lối sống: tránh lối sống ít vận động, giảm cân chống béo phì. Nghĩa là
phải tăng cường tập thể dục, tập vận động; làm việc nhẹ nhàng vừa sức; không
ăn nhiều mỡ béo, không ăn nhiều chất ngọt, chất đường, bột; không ăn thức ăn
nhiều mắm muối (ăn lạt); ăn nhiều rau, củ, trái cây.



Điều trị bệnh tăng huyết áp, nếu có, giữ huyết áp ổn định, với mức huyết áp tối
ưu lý tưởng cho mọi lứa tuổi là không quá 120/80 mmHg. Muốn vậy ngoài việc
thay đổi lối sống như trên, cần phải theo chế độ ăn giảm muối (không nêm nếm
quá mặn, không chấm thêm mắm muối, tránh các thức ăn nhiều muối như cá
khô, mắm, chao, dưa muối, thịt cá kho mặn…), theo dõi huyết áp định kỳ (mỗi
ngày, mỗi tuần… tùy mức độ bệnh) và uống thuốc theo toa hằng ngày cùng với
tái khám định kỳ. Tránh chữa tăng huyết áp theo kiểu khi nào thấy mệt, thấy
nhức đầu mới uống thuốc.



Điều trị đái tháo đường nếu có, bằng cách ăn uống đúng chế độ (cữ đường, giảm
bột, ăn nhiều rau, đủ chất đạm, ít chất béo), chia nhỏ bữa ăn, uống hoặc chích
thuốc đầy đủ theo toa, tái khám và xét nghiệm đường máu định kỳ.




Điều chỉnh các yếu tố nguy cơ khác như chữa tăng cholesterol máu, bỏ thuốc lá,
ngưng rượu, điều trị bệnh tim nếu có.




Với các bệnh nhân nhồi máu não, cần uống thêm thuốc dự phịng huyết khối
(Aspirin, Nattocare).
4. Làm gì sau khi xuất viện
Bệnh nhân và người thân sau cần làm gì sau khi xuất viện?



Uống thuốc theo toa.



Tái khám đúng hẹn để được điều trị liên tục, điều chỉnh thuốc phù hợp với tình
trạng bệnh nhân lúc đó. Thảo luận với bác sĩ điều trị lúc xuất viện để chọn nơi
tái khám tốt nhất và thuận tiện nhất.



Tập vận động tại nhà hoặc tại phòng tập vật lý trị liệu.



Cố gắng cho bệnh nhân tự làm các hoạt động sinh hoạt hàng ngày với sự trợ
giúp của thân nhân để có thể hồi phục sớm và sống độc lập. Khơng nên làm thay
hồn tồn cho bệnh nhân.



Cho bệnh nhân ăn uống theo đúng chế độ được hướng dẫn, ví dụ ăn lạt, cữ mỡ
với người tăng huyết áp, cữ đường giảm bột với người đái tháo đường…




Động viên, khuyến khích bệnh nhân tập luyện.



Một số bệnh lý phải điều trị liên tục suốt đời như: tăng huyết áp, đái tháo đường,
xơ vữa động mạch, bệnh tim mạch…



Tránh một sai lầm thường mắc là tự ý ngưng điều trị khi thấy trong người khỏe
khoắn và cho là đã hết bệnh.
5. Hướng dẫn chăm sóc người tai biến mạch máu não tại nhà

Tai biến mạch máu não là một hình thức rối loạn tuần hồn não cấp tính, có thể gây
đột tử hoặc liệt nửa người, thất ngôn, rối loạn tâm thần... Để giảm bớt các di chứng và
phòng tái phát, khi trở về nhà sau giai đoạn cấp cứu, bệnh nhân vẫn phải được chăm


sóc và điều trị theo chế độ đặc biệt.
Sau đây là các hướng dẫn cụ thể:
1. Sinh hoạt, tập luyện
Trong trường hợp bệnh nặng, bệnh nhân chưa tự vận động được, người nhà phải
giúp họ thay đổi tư thế 3 giờ một lần để tránh loét. Mỗi lần lật người, cần xoa rượu,
cồn hoặc phấn rôm vào lưng, mông và các vị trí bị tì đè khác. Khi cho ăn uống, nên kê
gối sau lưng bệnh nhân để giữ họ ở tư thế nửa nằm, nửa ngồi.
Đối với trường hợp nhẹ hơn, tùy mức độ di chứng liệt, cần đề ra một kế hoạch cụ
thể cho bệnh nhân tập luyện hằng ngày. Cố gắng để cho họ tự làm ở mức tối đa, người
nhà chỉ hỗ trợ hoặc giúp đỡ khi bệnh nhân khơng thể tự làm được. Q trình tập luyện

địi hỏi sự kiên trì của cả bệnh nhân và người hướng dẫn. Nên duy trì việc này cả khi
các di chứng đã được phục hồi.
2. Chế độ ăn
Cần đảm bảo chế độ ăn đủ chất và cân đối. Nên dùng dạng thức ăn mềm, dễ tiêu như
cháo, súp, sữa, nước hoa quả tươi. Kiêng sử dụng các chất béo và chất kích thích
(rượu, bia, chè đặc, cà phê); hạn chế dùng muối.
3. Điều trị
Điều trị duy trì theo đơn của thầy thuốc. Trường hợp bệnh nhân có tăng huyết áp,
nên dùng thuốc hạ huyết áp và duy trì ở mức 140-150/90 mmHg.
Nên kết hợp châm cứu, bấm huyệt, xoa bóp và dùng thuốc để nhanh chóng phục hồi
các chi bị liệt.
4. Thực hiện các biện pháp phòng bệnh
- Cẩn thận giữ mình khi thời tiết chuyển lạnh vào mùa đơng và khi áp suất khơng khí
lên cao vào mùa hè.
- Tránh tắm khuya hoặc ở nơi gió lùa, nhất là với người bị cao huyết áp.
- Tránh trạng thái căng thẳng thần kinh, xúc động mạnh. Tránh mất ngủ.
- Điều trị các nguyên nhân gây tai biến mạch máu não như tăng huyết áp, xơ vữa động
mạch, tiểu đường, rối loạn nhịp tim.


- Tránh táo bón. Kiêng rượu, bia và các chất kích thích.
- Tránh vận động thể lực quá mức như mang vác nặng, chạy nhanh...
6. Tập phục hồi chức năng sau tai biến MMN
Khoảng 1/3 số người bị tai biến mạch máu não sau đó bị liệt nửa người.
Sau 6 tháng, gần 2/3 bệnh nhân không thể tự làm các hoạt động bình thường. Vì
vậy, ngay khi chưa xuất viện, người nhà đã phải nghĩ đến kế hoạch tập luyện
phục hồi chức năng cho họ.
Tại bệnh viện
Tuần đầu tiên: Đánh giá khả năng nuốt và trợ giúp cho bệnh nhân những hoạt
động của cuộc sống hằng ngày.

Tuần thứ 2 đến tuần thứ 6: Rèn luyện cho bệnh nhân dùng một tay để làm các
công việc như mặc quần áo, tắm rửa, đi vệ sinh. Cho bệnh nhân rèn luyện ở tay
bị liệt, dùng vai và khuỷu tay để trợ giúp cho những động tác như cầm, nắm và
kéo. Cho tập luyện có theo dõi và trợ giúp ở những khoảng cách khoảng 10 m.
Ở nhà sau khi nằm viện
Tháng thứ 1 đến tháng thứ 6: Tập cho bệnh nhân đi bộ mỗi ngày khoảng 5
phút; cho tập những động tác như cầm cốc, cầm sách, gấp quần áo, tập cầm nâng
những đồ vật kích cỡ, nặng nhẹ khác nhau. Mỗi ngày tập luyện khoảng 20 phút
cho đến khi bệnh nhân có thể tự làm được động tác này. Nếu bệnh nhân khơng
thể tự làm, có thể dùng các dụng cụ trợ giúp tay hoặc chân. Cho bệnh nhân tập
theo các dụng cụ này.
Ngoài 6 tháng: Tăng cường đi bộ. Nếu bệnh nhân mất tiếng nói, nên cho nghe
và đọc các câu chuyện trên báo chí, truyền hình, rồi ngay lập tức cho bệnh nhân
tập kể lại câu chuyện. Tập những kỹ năng này với mức độ khó tăng dần, khoảng
20 giờ mỗi tuần.


Khoảng 20% bệnh nhân có mất tiếng nói sau tai biến mạch máu não. Việc
điều trị cho bệnh nhân mất tiếng nên bắt đầu từ sớm, ngay trong 3 tháng đầu
tiên. Các chuyên gia tiếng nói khi tập luyện cho bệnh nhân trong giai đoạn đầu
cần có sự tham gia của những người thân trong gia đình hoặc những người tình
nguyện. Họ chính là những người sẽ tiếp tục giúp đỡ cho bệnh nhân ở giai đoạn
sau. Thời gian cho tập luyện tiếng nói phải là 40-100 giờ trong 3 tháng đầu tiên.
Sự hồi phục thường cơ thể chỉ có ở những bệnh nhân có tổn thương mức
độ trung bình. Với những bệnh nhân bị tổn thương mức độ nặng thì sự hồi phục
gần như là khơng có. Với những bệnh nhân bị liệt nửa người, phải tập luyện
những động tác hỗ trợ, như tự chuyển từ giường qua xe lăn hoặc tự di chuyển
bằng kỹ năng dùng một tay. Sự tập luyện tích cực với cường độ cao 16 giờ hoặc
hơn mỗi tuần có tác dụng hồi phục tốt hơn hẳn những bệnh nhân chỉ tập luyện
vài giờ mỗi tuần.

Nên tập luyện sớm tay ngay khi tay có thể tự di chuyển được chút ít. Nếu
như tay khơng di chuyển được trong vịng 6 tuần đầu thì hầu như sẽ không thể
hồi phục được. Nên tập tay 3-6 giờ một ngày trong khoảng 3-6 tuần sau tai biến.
Việc dùng điện châm có thể giúp cho bệnh nhân tăng được lực co cơ, hỗ trợ
động tác duỗi và gấp tay. Tuy nhiên, nếu chỉ châm cứu đơn thuần thì khả năng
cải thiện ít hơn.
Trong tai biến mạch máu não, liệt được chia ra liệt cứng và liệt mềm. Đa
phần các bệnh nhân là liệt cứng, chỉ một số nhỏ bệnh nhân có liệt mềm. Những
bệnh nhân liệt mềm thường bị tàn tật nhiều hơn do tay liệt mềm khó sử dụng
được. Trong khi đó, những bệnh nhân liệt cứng có thể sử dụng được tay và chân
nhiều hơn cho các động tác.
Từ “đi bộ” là mong muốn của tất cả các bệnh nhân tai biến mạch máu
não. Khi đang nằm viện, nếu bệnh nhân đã có thể co chân lại được, phải tập đi
từng bước. Có thể cho tập đi từng đoạn ngắn dưới nạng hoặc được người trợ


giúp. Để hồi phục khả năng đi bộ, thậm chí ngay cả đoạn ngắn, cần phải có tập
luyện. Mỗi bệnh nhân phải có ít nhất 15 phút mỗi ngày tập cho đi bộ. Dù tập sau
3 tháng, thậm chí cả sau một năm thì vẫn có cải thiện rõ ràng. Tuy nhiên, nếu
tập sớm thì sẽ hồi phục tốt hơn.
BÀI TẬP PHỤC HỒI CHỨC NĂNG CHO NGƯỜI TAI BIẾN MẠCH
MÁU NÃO
Các bài tập phục hồi chức năng chia làm 2 giai đoạn. Thời gian tập luyện
các bài tập ở mỗi giai đoạn trung bình từ 30 đến 45 phút.
* Giai đoạn đầu: Giúp BN thực hiện các bài tập nhẹ nhàng, đều đặn để vận
động được tay chân bên liệt.
- Tập lăn nghiêng sang 2 bên: BN nằm ngửa, người điều trị giúp BN nâng chân,
tay bên liệt lên, đưa ra phía trước rồi lăn người sang bên lành. Tập lăn nghiêng
sang bên liệt thì làm ngược lại.
- Tập vận động vai, tay: BN nằm ngửa, cài các ngón tay 2 bên vào nhau. Ngón

cái bên liệt ở ngồi ngón cái bên lành. Duỗi thẳng 2 tay ra trước, đưa 2 tay lên
phía đầu và xuống phía chân, càng xa càng tốt.
- Tập dồn trọng lượng lên chân liệt: BN nằm ngửa, 2 gối gập. Người nhà giúp
giữ chân liệt cho khỏi đổ. BN nâng chân lành lên khỏi mặt giường để dồn trọng
lượng lên chân liệt.
- Làm cầu: BN nằm ngửa, 2 gối gập. Người nhà giúp giữ chân liệt cho khỏi đổ.
BN cố gắng tự nâng mông lên khỏi mặt giường. Giữ 2 bên hông ngang nhau rồi
nâng chân lành lên khỏi mặt giường để toàn bộ trọng lượng dồn lên chân liệt.
* Giai đoạn sau: việc tập luyện được thực hiện ở những tư thế khác nhau như:
nằm, ngồi, đứng, quỳ, vận động trên đệm, tập lăn, tập chuyển tư thế từ nằm sang
quỳ chống tay, tập đứng lên. Trong khi tập, BN cần chú ý là luôn phối hợp với


thở sâu. Ở giai đoạn này, BN cần chú trọng thực hiện những bài tập chống tình
trạng co cứng cơ.
- Phòng ngừa co rút khớp vai: BN nằm ngửa, cài các ngón tay 2 bên vào nhau,
ngón cái bên liệt ở ngồi ngón cái bên lành. Duỗi thẳng 2 tay ra trước, đưa 2 tay
lên quá đầu cho đến khi 2 tay chạm vào mặt giường rồi đưa tay xuống phía chân.
- Phịng ngừa khuỷu tay, cổ tay và ngón tay bị co rút:
+ Bài tập 1: Giúp BN đứng cạnh bàn, cài các ngón tay 2 bên vào nhau. Xoay
ngửa lòng bàn tay và áp lòng bàn tay xuống mặt bàn. Duỗi thẳng 2 tay, ngả
người về phía trước để dồn trọng lượng lên 2 tay cho tới khi khớp cổ tay duỗi tối
đa.
+ Bài tập 2: BN ngồi. Dùng tay lành làm duỗi các ngón tay bên liệt và làm duỗi
cổ tay rồi đặt xuống mặt giường cạnh thân. Dùng tay lành giữ khớp khuỷu bên
liệt duỗi thẳng và nghiêng người sang bên liệt để dồn trọng lượng lên tay liệt.
+ Bài tập 3: Cài các ngón tay 2 bên vào nhau. Đưa 2 bàn tay lên sát cằm, dùng
lực của bàn tay làm duỗi tối đa cổ tay bên liệt. Có thể tựa vào má và cằm rồi giữ
yên trong thời gian lâu.
- Phòng ngừa co cứng chân ở tư thế duỗi: BN nằm ngửa, cài các ngón tay 2 bên

vào nhau. Co 2 gối lại và vòng 2 tay qua 2 gối. Kéo 2 gối về phía ngực và nâng
đầu lên. Sau đó, trở về vị trí ban đầu.
- Phịng ngừa co rút gân gót và gấp ngón chân: dùng một cuộn băng thun đặt
dưới ngón chân bên liệt. Đứng lên, bước chân lành ra phía trước, phía sau. BN
có thể vịn vào một chỗ nếu đứng chưa vững.
BÀI TẬP CHO NGƯỜI BỊ LIỆT NỬA NGƯỜI


Mục tiêu cuối cùng của phục hồi chức năng cho bệnh nhân liệt nửa người do tai
biến mạch máu não là giúp bệnh nhân tái hoà nhập với cuộc sống của gia đình và cộng
đồng. Muốn tái hồ nhập bệnh nhân phải tự thực hiện được các loại vận động và chức
năng tương ứng ở các vị thế, đặc biệt là vị thế đứng vì có nhiều động tác vận động
bệnh nhân có thể làm được khi nằm hoặc ngồi nhưng chưa chắc đã làm được khi đứng.
1. Tập đứng lên từ vị thế ngồi


Người tập trợ giúp đứng lên từ phía trước:
Người bệnh ngồi trên ghế hoặc trên giường có chiều cao phù hợp, hai tay duỗi

thẳng ra trước, cài các ngón vào nhau, đặt trên hai vai của người tập.Người tập đứng ở
phía trước bệnh nhân, gấp khớp háng và khớp gối để hạ thấp người xuống, hai tay duỗi
thẳng, hai bàn tay đặt lên hai bên bả vai để đỡ hai tay bệnh nhân. Sau đó người tập
giúp và hướng dẫn bệnh nhân cúi người về phía trước bằng cách gấp hai khớp háng,
duỗi thẳng cột sống, dồn trọng lượng cơ thể về phía trước đều lên hai chân Khi bệnh
nhân đã dồn trọng lượng về phía trước đầy đủ, người tập yêu cầu bệnh nhân chủ động
đứng lên. Sau khi đứng bệnh nhân thường bị khuỵu khớp gối và khớp háng bên liệt, do
vậy người tập cần lưu ý để sẵn sàng đỡ cho bệnh nhân bằng khớp gối và tay của mình.


Người tập trợ giúp đứng lên từ phía bên: Khi khả năng phục hồi của bệnh nhân

tốt hơn, bệnh nhân có thể thực hiện được một số phần trong động tác đứng lên
thì người tập chỉ cần hỗ trợ phần động tác mà bệnh nhân không tự làm được.

Người bệnh ngồi trên ghế hoặc trên giường có chiều cao phù hợp, trọng lượng dồn
đều lên hai bên mơng, cài các ngón tay hai bên vào nhau, duỗi thẳng ra trước. Người
tập đứng về phía bên liệt của bệnh nhân, một tay đỡ hai tay bệnh nhân giúp cho bệnh
nhân dồn trọng lượng về phía trước, tay kia đặt trên khớp gối, một bàn chân đặt sát bàn
chân bên liệt. Sau đó người tập hướng dẫn bệnh nhân dồn trọng lượng về phía trước
đều trên hai chân. Nếu cần hỗ trợ người tập lấy tay mình làm mốc, giúp bệnh nhân
duỗi thẳng hai tay, cúi về phía trước bằng cách gấp khớp háng hai bên, giữ cột sống ở


tư thế duỗi. Khi trọng lượng đã dồn về phía trước đầy đủ, người tập yêu cầu bệnh
nhân chủ động đứng lên cùng với sự trợ giúp của mình. Trong khi đứng dậy và sau khi
đứng lên bệnh nhân có thể xê dịch bàn chân bên liệt, gập khuỵu khớp háng và khớp gối
bên liệt do đó người tập cần lưu ý đề phòng và đỡ cho bệnh nhân bằng bàn chân, khớp
gối và tay của mình.


Người tập hướng dẫn bệnh nhân tự đứng lên: Khi khả năng vận động của

bệnh nhân đã phục hồi tốt hơn, người tập hướng dẫn bệnh nhân cách tự đứng
lên.
Bệnh nhân ngồi trên ghế, trên giường hoặc trên xe lăn có chiều cao phù
hợp, thân mình thẳng, trọng lượng cơ thể dồn đều lên hai bên mông và hai chân.
Hai bàn chân sát trên sàn nhà cách nhau 20-30cm, bàn chân bên liệt ở ngang
mức hoặc phía sau bàn chân bên lành, hai tay duỗi, hai bàn tay cài các ngón với
nhau, đặt giữa hai đùi.Người tập hướng dẫn bệnh nhân duỗi thẳng hai tay ra
trước, cúi người để dồn trọng lượng cơ thể về phía trước đều trên hai mơng và
hai chân. Lưu ý bệnh nhân để hai bàn chân ngang nhau, hoặc bàn chân bên liệt ở

phía sau, khơng kéo bàn chân bên lành ra sau bàn chân bên liệt. Khi bệnh nhân
đã cúi và trọng lượng đã dồn về phía trước đầy đủ, người tập yêu cầu bệnh nhân
tự đứng lên. Lưu ý bệnh nhân đề phòng khuỵu khớp gối, khớp háng và ngã về
phía bên liệt.
2. Tập vận động ở tư thế đứng
2.1 Tập đứng thăng bằng
Bệnh nhân đứng thẳng, cân xứng hai bên, trọng lượng cơ thể dồn đều lên hai
chân (thăng bằng tĩnh), nếu cần trợ giúp người tập đứng về phía bên liệt. Hướng dẫn
bệnh nhân tập quay đầu nhìn ra sau qua vai bên liệt và vai bên lành; đứng và vận động
thân mình: cúi, ngửa, nghiêng, xoay; đứng và vận động tay: đưa tay lên trên, xuống
dưới, sang phải, sang trái (thăng bằng động).


2.2 Tập dồn trọng lượng lên chân liệt
Bệnh nhân đứng thẳng, trọng lượng cơ thể dồn đều lên hai chân. Người tập đứng về
phía bên liệt của bệnh nhân, giúp bệnh nhân duỗi thẳng tay sang ngang, khớp vai
vng góc. Yêu cầu bệnh nhân chuyển và dồn trọng lượng sang bên chân liệt, bước
chân lành lên một vật gì đó bên cạnh, cao 15-20cm. Có thể hướng dẫn bệnh nhân tự
tập bằng cách đứng trong thanh song song, hai tay vị nhẹ lên hai bên, trọng lượng cơ
thể dồn đều trên hai chân. Yêu cầu bệnh nhân chuyển và dồn trọng lượng sang bên
chân liệt, bước chân lành lên một vật gì đó phía trước cao 15-20 cm. Khi khả năng
thăng bằng và vận động của bệnh nhân đã tốt hơn, có thể hướng dẫn bệnh nhân tự tập
bằng cách đứng thẳng, sau đó chuyển trọng lượng sang bên chân liệt, bước chân lành
lên một vật gì đó cao 20- 30cm ở phía trước mặt để dồn trọng lượng cơ thể lên chân
bên liệt. Cũng có thể hướng dẫn bệnh nhân đứng, bước và đặt bàn chân liệt lên một
bục tập (hoặc vật gì đó cố định vững chắc) cao 15-20 cm ở phía trước. Sau đó nhấc
chân lành lên rồi đặt xuống như cũ, hoặc đặt bàn chân lành lên bục tập cùng với chân
liệt, hoặc bước chân lành qua bục tập sang phía bên kia.
2.3 Tập đứng, dồn trọng lượng lần lượt lên hai chân
Người tập hướng dẫn bệnh nhân đứng thẳng, cân xứng hai bên, hai tay thả lỏng dọc

theo thân, hai bàn chân cách nhau 15 - 20 cm, trọng lượng cơ thể dồn đều lên hai chân.
Sau đó yêu cầu bệnh nhân lần lượt lấy chân trái làm trụ, dạng chân bên phải ra, nhấc
bàn chân lên khỏi sàn nhà để toàn bộ trọng lượng cơ thể dồn lên chân bên trái. Người
tập luôn đứng về phía bên liệt của bệnh nhân để hỗ trợ khi cần thiết và đề phịng bệnh
nhân ngã về phía bên liệt. Tiếp đến lấy chân phải làm trụ, dạng chân bên trái ra, nhấc
bàn chân trái lên khỏi sàn nhà để toàn bộ trọng lượng cơ thể dồn lên chân bên phải.Để đảm bảo an toàn nên cho bệnh nhân đứng bên cạnh một vật gì đó (bàn, tường,
thanh song song...) để bệnh nhân có thể vịn đỡ khi cần thiết. Dụng cụ tập chuyển và
dồn trọng lượng lần lượt sang hai bên (đơn giản và rất tốt là hai chiếc cân được ghép
lại với nhau trong một chiếc hộp gỗ). Bệnh nhân đứng mỗi chân lên một bên cân, sau
đó tập chuyển và dồn trọng lượng từ bên chân lành sang bên chân liệt và từ bên chân


liệt sang bên chân lành. Dụng cụ này cũng có thể dùng để khám và đánh giá mức độ
mất cân bằng của bệnh nhân khi đứng, đồng thời đánh giá kết quả tập luyện bằng cách
kiểm tra khả năng phân bổ trọng lượng của bệnh nhân lên hai bên cân. Một trong
những dụng cụ tốt nhất để bệnh nhân tập dồn trọng lượng lần lượt sang hai bên ở tư thế
đứng là dụng cụ "leo núi." Dụng cụ này được cải tiến từ một dụng cụ luyện tập thông
thường thành dụng cụ chuyên biệt tập luyện cho người bệnh liệt nửa người. Kỹ thuật
cải tiến là làm sao cho hệ thống pít tơng phù hợp để bệnh nhân có thể sử dụng được.
2.4 Tập chuyển trọng lượng lần lượt sang hai chân
Bệnh nhân đứng tựa hông bên lành cạnh mép bàn, hoặc vịn nhẹ tay lành lên mặt
bàn, hai bàn chân ngang bằng nhau, cách nhau 15-20cm. Người tập hướng dẫn bệnh
nhân đưa hông ra trước, gấp chân liệt lại, chuyển trọng lượng cơ thể sang bên chân
lành, giữ như vậy vài giây. Sau đó từ từ duỗi chân liệt ra. Rồi gấp chân lành lại, chuyển
trọng lượng cơ thể sang chân bên liệt. Giữ như vậy vài giây rồi làm lại như lúc bắt
đầu.Có thể hướng dẫn bệnh nhân tập bằng cách đứng tựa nhẹ mông vào mép bàn, hai
bàn chân ngang nhau, cách nhau 15-20 cm, trọng lượng cơ thể dồn đều lên hai chân.
Sau đó bệnh nhân lần lượt chuyển trọng lượng sang chân bên lành, giữ như vậy vài
giây rồi lại chuyển sang chân bên liệt luân phiên như vậy.
2.5 Tập gấp, duỗi khớp háng và khớp gối bên liệt

Hoặc người tập hướng dẫn bệnh nhân đứng vịn nhẹ tay vào một vật nào đó bên
cạnh, hai bàn chân cách nhau khoảng 15-20 cm, chân lành ở trước chân liệt ở sau. Sau
đó bệnh nhân chuyển trọng lượng ra trước, dồn trọng lượng lên chân bên lành.Khi toàn
bộ trọng lượng cơ thể đã dồn lên chân lành ở phía trước, người tập yêu cầu bệnh nhân
tập gấp và duỗi khớp háng và khớp gối bên chân liệt. Lưu ý khi gấp khớp háng và
khớp gối chỉ nâng gót chân bên liệt (khơng nhấc cả bàn chân) lên khỏi sàn nhà.Hoặc
người tập hướng dẫn bệnh nhân đứng vịn nhẹ tay vào một vật nào đó bên cạnh, hai bàn
chân ngang nhau cách nhau khoảng 15-20 cm ,sau đó dồn trọng lượng lên chân bên
lành rồi tập gấp, duỗi khớp gối và khớp háng bên liệt


PHẦN 3: PHÒNG NGỪA TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
1. Ai dễ bị tai biến mạch máu não?
- Càng lớn tuổi càng dễ bị tai biến mạch máu não.
- Đàn ông dễ bị tai biến mạch máu não hơn phụ nữ một chút.
Một số bệnh và thói quen làm tăng nguy cơ bị tai biến mạch máu não:
- Tăng huyết áp
- Đái tháo đường (tiểu đường)
- Xơ mỡ động mạch
- Tăng mỡ (cholesterol) trong máu
- Bệnh tim
- Hút thuốc lá, nghiện rượu
- Béo phì, ít vận động...
2. Phịng ngừa tai biến mạch máu não
Mặc dù tai biến mạch máu não là bệnh nguy hiểm song hồn tồn có thể giảm được
nguy cơ bệnh nếu biết cách phịng ngừa, đó là:


Liệu pháp thay đổi lối sống (thực hiện chế độ ăn kiêng và hoạt động thể lực) là
biện pháp quan trọng làm giảm nguy cơ bị vữa xơ động mạch nói chung và tai

biến mạch máu não nói riêng. Liệu pháp thay đổi lối sống bao gồm: Cai thuốc
lá; có chế độ dinh dưỡng giàu vitamin, khoáng chất, hạn chế ăn quá nhiều chất
béo và các thực phẩm giàu calo, liệu pháp dinh dưỡng còn nhằm làm giảm lượng
lipid máu, giảm huyết áp và giảm đường máu nếu bệnh nhân bị đái tháo đường;
Tăng hoạt động thể lực sẽ làm cải thiện tình trạng tim mạch và làm cải thiện các
yếu tố nguy cơ tim mạch như rối loạn lipid máu, béo phì và tăng huyết áp.



×