Trường Đại Học Ngoại Thương
Khoa Lý Luận Chính Trị
Tiểu Luận Kinh Tế Chính Trị
Đề tài:
Sức lao động và thị trường sức lao động
Hà Nội, 4/2011
MỤC LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
2
Việt Nam đang trên bước đường hội nhập kinh tế quốc tế, hiện đại hoá nền
sản xuất và từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Trong bối
cảnh đó nhiều thị trường đã hình thành, ngày càng có những biến chuyển tích cực
như: thị trường hàng tiêu dùng, hàng xuất nhập khẩu, hàng nông lâm thủy sản…
Nhưng một trong những thị trường có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng đó chính
là thị trường sức lao động. Trong những năm gần đây nhờ sự nỗ lực điều chỉnh của
hệ thống chính sách cũng như nhờ những tác động của cơ chế mở, thị trường này
đã thu được một số kết quả khả quan, có những bước tiến nhanh chóng cả về số
lượng lẫn chất lượng, cơ cấu…. Tuy nhiên, thị trường lao động Việt Nam vẫn
đang trong giai đoạn thành, phát triển khá chậm chạp và vẫn tồn tại những mặt trái
gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nói chung của nền kinh tế đất nước.
Lao động và việc làm hiện nay và trong tương lai vẫn là vấn đề bức xúc, nhạy cảm
đối với mỗi quốc gia trên thế giới. Đặc biệt đối với những nước đang phát triển
như Việt Nam chúng ta, đây là vấn đề rất được quan tâm vì nó có tác động trực
tiếp đến mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi tổ chức, mỗi hộ gia đình và từng người lao động
trong cả nước. Một đất nước chỉ thật sự phát triển khi thị trường sức lao động ổn
định, mang lại những lợi ích căn bản cho người dân, tạo điều kiện để mọi thành
viên trong xã hội phát huy được khả năng, thế mạnh của mình.
Mục đích của tề tài “Sức lao động và thị trường sức lao động” nhằm làm
rõ một số vấn đề liên quan đến lý luận và thực tiễn trong hoạt động, vận hành của
thị trường lao động ở nước ta, cung cấp một số khuyến nghị, chính sách để sử
dụng có hiệu quả nguồn lao động, tăng việc làm và thu nhập, ổn định xã hội, đảm
bảo phát triển bền vững.
Tuy nhiên thị trường sức lao động là một vấn đề mang tính quốc gia, cần phải
được nghiên cứu chi tiết cụ thể với nhiều thời kỳ, nhiều thủ tục phức tạp, hơn nữa
do thời gian có hạn và tài liệu không thật đầy đủ cũng như trình độ người viết còn
non trẻ, chắc chắn bài viết này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, bởi vậy em
mong được sự chỉ, đóng góp của cô để tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn Cô !
3
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I. HÀNG HOÁ SỨC LAO ĐỘNG
1. Khái niệm sức lao động
Sức lao động là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con người,
trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm
cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích.
2. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động
* Giá trị hàng hóa sức lao động
Giá trị hàng hóa sức lao động do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
và tái sản xuất sức lao động quyết định. Thời gian lao động xã hội cần thiết để tái
sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt nhất định về ăn, mặc, ở, học nghề… của người
công nhân và gia đình, hay nói cách khác, giá trị của hàng hóa sức lao động được
đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức
lao động.
Là hàng hóa đặc biệt, giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông
thường ở chỗ nó còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó có nghĩa là
ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có những nhu cầu về tinh
thần, văn hóa… Tuy giá trị hàng hóa sức lao động bao hàm yếu tố tinh thần và lịch
sử, nhưng đối với mỗi nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định, thì quy mô
những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định,
do đó có thể xác định được giá trị hàng hóa sức lao động do những bộ phận sao
đây hợp thành:
- Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản
xuất ra sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân.
- Phí tổn đào tạo người công nhân.
- Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái
người công nhân.
* Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động
4
Hàng hóa sức lao động không chỉ có giá trị, mà còn có giá trị sử dụng như bất
kỳ một loại hàng hóa thông thường nào. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao
động, cũng chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình
lao động của người công nhân. Nhưng quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa
sức lao động khác với quá trình tiêu dùng hàng hóa thông thường ở chỗ: hàng hóa
thông thường sau quá trình tiêu dùng hay sử dụng thì giá trị lẫn giá trị sử dụng của
nó đều tiêu biến mất theo thời gian. Trái lại, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao
động, đó lại là quá trình sản xuất ra một loai hàng hóa nào đó, đồng thời là quá
trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động.
Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nó là
nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản
thân nó. Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động đã
trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.
3. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa
Sự tồn tại của hai điều kiện dưới đây tất yếu biến sức lao động thành hàng
hóa: - Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được
sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa
- Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và
tư liệu sinh hoạt, họ trở thành người “vô sản”, để tồn tại anh ta buộc phải bán sức
lao động của mình để sống.
II. THỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG
1. Định nghĩa về thị trường sức lao động
- Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO - International Labour Organization):
Thị trường lao động là thị trường trong đó các dịch vụ lao động được mua và bán
thông qua một quá trình để xác định mức độ có việc làm của lao động cũng như
mức độ tiền công và tiền lương.
- Ở nước ta: Thị trường lao động là một bộ phận của hệ thống thị trường,
trong đó diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự do và một
bên là người có nhu cầu sử dụng lao động. Sự trao đổi này được thoả thuận trên cơ
5
sở các mối quan hệ lao động như tiền công, tiền lương, điều kiện làm việc, bảo
hiểm xã hội,…thông qua hợp đồng lao động.
2. Các nhân tố cấu thành thị trường lao động
2.1. Lực lượng lao động
- Theo ILO: lực lượng lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động, thực tế
có việc làm và những người thất nghiệp.
- Theo quan niệm của nước ta, lực lượng lao động đồng nghĩa với dân số hoạt
động kinh tế.
2.2. Cung lao động
* Khái niệm cung về lao động
Có nhiều cách hiểu về cung lao động trên thị trường lao động khi nhìn từ góc độ lý
luận, khoa học:
- Cung về lao động biểu hiện khối lượng lao động sống (số lượng, chất lượng, cơ
cấu của lực lượng lao động) tham gia vào thị trường lao động trong một thời gian
nhất định.
- Cung về lao động chính là lực lượng lao động
- Cung về lao động là toàn bộ những người có nhu cầu về việc làm (bao gồm
những người trong và ngoài độ tuổi lao động).
* Hai loại cung lao động
- Cung tiềm năng về lao động: bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang
làm việc và những người đang thất nghiệp; những người trong độ tuổi lao động có
khả năng lao động đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình mình; hoặc không
có nhu cầu làm việc, và những tình trạng khác.
- Cung thực tế về lao động: bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang
làm việc và những người thất nghiệp.
2.3. Cầu về lao động
* Khái niệm cầu về lao động
6
Cầu về sức lao động là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa
phương, một ngành trong một thời gian nhất định. Cầu về lao động bao gồm hai
mặt, đó là: cầu về số lượng và cầu về chất lượng:
- Xét từ góc độ số lượng, trong điều kiện năng suất lao động không đổi thì cầu
về lao động tỷ lệ thuận với quy mô sản xuất. Trái lại, trong trường hợp quy mô sản
xuất không đổi thì cầu về lao động tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
- Xét từ giác độ chất lượng, việc nâng cao năng suất lao động, hiện đại hoá
công nghệ sản xuất, mở rộng quy mô,… của doanh nghiệp luôn gắn liền với việc
nâng cao chất lượng lao động.
* Hai loại cầu về lao động
- Cầu thực tế: Là nhu cầu thực tế cần sử dụng lao động tại một thời điểm nhất
định, bao gồm chỗ làm việc trống và chỗ làm việc mới.
+ Chỗ làm việc trống: là chỗ làm việc đã từng sử dụng lao động, nay không có
người lao động làm việc và đang có nhu cầu sử dụng lao động.
+Chỗ làm việc mới: là chỗ làm việc mới xuất hiện và đang có nhu cầu sử dụng
lao động.
- Cầu tiềm năng: Là số lao động tương ứng với tổng số chỗ làm việc có được sau
khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến tạo mở việc làm trong tương lai như vốn,
đất đai, máy móc thiết bị, công nghệ, chính trị, xã hội, …
2.4. Quan hệ cung cầu và giá cả sức lao động
Trên thị trường lao động, cung và cầu lao động có mối quan hệ biện chứng hữu
cơ. Khi kinh tế chậm phát triển, khả năng mở mang ngành nghề, tạo mở việc làm
thu hút thêm nhiều lao động còn thấp, thì cung lớn hơn cầu. Khi kinh tế phát triển,
các ngành nghề mới được mở ra, tạo mở được thêm nhiều việc làm thu hút thêm
nhiều lao động, thì cầu lao động tăng lên; và tới một độ nào đó thì cầu lớn hơn
cung. Khi nhà nước có những biện pháp quản lý tích cực, thì cung và cầu lao động
đạt trạng thái cân bằng cung cầu lao động, tức cung bằng cầu.
Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động dưới dạng
tiền lương hay tiền công. Giá cả hàng hoá sức lao động cũng chịu ảnh hưởng bởi
các quy luật chung của thị trường. Khi cung sức lao động vượt quá cầu, giá cả sức
7
lao động sẽ thấp hơn giá trị sức lao động. Ngược lại, khi cung sức lao động không
đáp ứng đủ cầu, giá cả sức lao động sẽ tăng lên. Theo quy luật của thị trường lao
động, giá tiền công luôn có xu hướng để cung và cầu lao động được cân bằng.
Song, trên thực tế của thị trường lao động, nhất là ở các nước đang phát triển, thì
tiền công chưa hoàn toàn phản ánh đúng giá cả của sức lao động, nên quan hệ
cung - cầu lao động diễn ra rất phức tạp.
3. Thị trường lao động ngoài nước (xuất khẩu lao động)
3.1. Khái niệm
- Xuất khẩu lao động là sự di chuyển lao động quốc tế có thời hạn, có tổ chức, vì
mục đích kinh tế, được pháp luật cho phép, dưới sự quản lý và hỗ trợ của nhà
nước.
- Thị trường lao động ngoài nước là một bộ phận của thị trường lao động nước ta.
So với thị trường lao động trong nước, nó còn nhỏ bé, song sự vận động của nó
trong thời kỳ vừa qua có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo mở sự hội nhập của
thị trường lao động Việt Nam với thị trường lao động khu vực và thị trường lao
động quốc tế.
3.2. Các hình thức xuất khẩu lao động
* Căn cứ vào không gian di chuyển của người lao động:
- Xuất khẩu lao động trực tiếp
- Xuất khẩu lao động giáp ranh
- Xuất khẩu lao động tại chỗ
- Xuất khẩu lao động phi chính thức.
* Căn cứ vào chất lượng nguồn lao động xuất khẩu:
- Xuất khẩu lao động có tay nghề gồm chuyên gia, kỹ thuật viên, lao
động lành nghề
- Xuất khẩu lao động phổ thông, tay nghề thấp.
* Các hình thức xuất khẩu lao động của Việt Nam:
- Thông qua các doanh nghiệp, tổ chức xuất khẩu lao động
8
- Thông qua doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc đầu tư ra nước
ngoài
- Thông qua chương trình tu nghiệp sinh, thực tâp sinh
- Theo hợp đồng cá nhân của người lao động ký với chủ sử dụng lao
động.
3.3. Thành tựu của thị trường lao động ngoài nước
- Đến cuối năm 2009, cả nước có hơn 490 ngàn LĐ đang làm việc tại 41 quốc gia
và vùng lãnh thổ trong đó: Malaysia 85 ngàn, Đài Loan 81 ngàn, Hàn Quốc 55
ngàn, Nhật Bản 20 ngàn, Trung Đông 25 ngàn, Đông Âu 80 ngàn, Nga 30 ngàn,
Lào 24 ngàn, số còn lại ở các nước Bắc Phi, Macao, Úc, Bắc Mỹ…. Từ năm 2003,
bình quân mỗi năm đưa được khoảng gần 75.000 lao động, chiếm gần 5% tổng số
lao động được giải quyết việc làm hàng năm
- Mỗi năm người lao động gửi về nước khoảng 1,7-2 tỉ đôla Mỹ, làm cho xuất
khẩu lao động trở thành một trong 5 - 6 ngành xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD/năm
của nước ta.
- Cơ cấu lao động xuất khẩu của nước ta theo trình độ tay nghề thời gian qua có
những chuyển biến tích cực theo hướng tăng cả về số lượng và tỷ lệ đối với
chuyên gia, lao động có tay nghề và giảm đối với LĐ phổ thông, năm 2009 lao
động phổ thông chiếm 51,03% trong tổng số lao động xuất khẩu, trong khi lao
động đã qua đào tạo chiếm 48.97%, trong đó chuyên gia kỹ thuật và lao động lành
nghề là 12,49%. Cơ cấu ngành nghề có sự chuyển dịch dần từ khu vực nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giúp việc gia đình là nơi công việc nặng nhọc,
làm việc đơn lẻ, có nhiều rủi ro cho người lao động sang khu vực ít rủi ro và công
việc ổn định hơn.
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
9
I. TÌNH TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM
* Nguồn nhân lực từ nông dân:
Nông dân chiếm tỷ lệ cao về lực lượng lao động xã hội, khoảng hơn 61 triệu
433 nghìn người, bằng khoảng 73% dân số của cả nước. Tuy nhiên, nguồn nhân
lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai thác, chưa được tổ chức, vẫn bị
bỏ mặc. Hiện có tới 90% lao động nông, lâm, ngư nghiệp và những cán bộ quản lý
nông thôn chưa được đào tạo. Chất lượng nguồn nhân lực còn rất yếu kém, dẫn
đến tình trạng sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn còn tình trạng sản xuất nhỏ, manh
mún, sản xuất theo kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp. Từ 2000 - 2007, mỗi
năm nhà nước thu hồi khoảng 72 nghìn ha đất nông nghiệp để phát triển công
nghiệp, xây dựng đô thị. Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho
một bộ phận lao động ở nông thôn dôi ra, không có việc làm. Tình trạng hiện nay
là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề cao, trong khi đó,
lực lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều.
* Nguồn nhân lực từ công nhân:
Về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay có khoảng dưới 5 triệu
người, chiếm 6% dân số của cả nước, trong đó, công nhân trong các doanh nghiệp
nhà nước chiếm tỷ lệ thấp, khoảng gần 2 triệu người, bằng khoảng 40% so với lực
lượng công nhân cả nước; lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước có
khoảng 2,70 triệu, chiếm gần 60%. Xu hướng chung là lực lượng công nhân trong
các doanh nghiệp nhà nước ngày càng ít đi, trong khi đó, lực lượng công nhân của
khu vực ngoài nhà nước ngày càng tăng lên. Trình độ văn hóa, tay nghề, kỹ thuật
của công nhân còn thấp. Số công nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam
có khoảng 150 nghìn người, chiếm khoảng 3,3% so với đội ngũ công nhân nói
chung ở Việt Nam. Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí
và công nghiệp nặng còn rất thấp, khoảng 20% trong tổng số công nhân cả nước,
trong khi đó, công nhân trong các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm lại
chiếm tỷ lệ cao, khoảng 40%. Sự già đi và ít đi của đội ngũ công nhân Việt Nam
đã thấy xuất hiện. Với tình hình này, công nhân khó có thể đóng vai trò chủ yếu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về mặt chính trị, thực
chất, công nhân Việt Nam chưa có địa vị bằng trí thức, công chức, viên chức, rất
khó vươn lên vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội và trong sản xuất, kinh doanh.
10
* Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức:
Nếu tính sinh viên đại học và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì đội
ngũ trí thức Việt Nam trong những năm gần đây tăng nhanh. Cả nước đến nay có
14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131 giáo sư; 5.253 phó giáo sư; 16 nghìn
người có trình độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ;
52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, gần 14 nghìn giáo viên trung cấp chuyên
nghiệp, 11.200 giáo viên dạy nghề và 925 nghìn giáo viên hệ phổ thông.
Bên cạnh nguồn nhân lực là trí thức trên đây, nguồn nhân lực là công chức,
viên chức (cũng xuất thân từ trí thức) công tác tại các ngành của đất nước cũng
tăng nhanh: Tổng số công chức, viên chức trong toàn ngành xuất bản là gần 5
nghìn người làm việc tại 54 nhà xuất bản trong cả nước. Tổng số nhà báo của cả
nước là 14 nghìn phóng viên chuyên nghiệp và hàng nghìn cán bộ, kỹ sư, nghệ sĩ,
nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí và hàng chục nghìn người khác là
cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị quảng
cáo, phát hành. Đội ngũ công chức, viên chức của ngành thuế Việt Nam hiện có
gần 39 nghìn người; ngành hải quan của Việt Nam là 7.800 người, ngành kho bạc
là 13.536 người. Tổng nhân lực các hội, liên hiệp hội, viện, trung tâm (NGO) hiện
có 52,893 người.
Bên cạnh sự tăng nhanh từ nguồn nhân lực trí thức, công chức, viên chức, ở
Việt Nam hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức
còn quá yếu. Hiện vẫn còn khoảng 80% số công chức, viên chức làm việc trong
các cơ quan công quyền chưa hội đủ những tiêu chuẩn của một công chức, viên
chức như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, ảnh hưởng nhiều
đến chất lượng công việc. Có 63% tổng số sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa có
việc làm, không ít đơn vị nhận người vào làm, phải mất 1-2 năm đào tạo lại. Trong
số 37% sinh viên có việc làm, thì cũng không đáp ứng được công việc. Bằng cấp
đào tạo ở Việt Nam chưa được thị trường lao động quốc tế thừa nhận.
II. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
11
* Lực lượng lao động cả nước năm 2008 có 48,34 triệu người (chiếm 70% dân
số), trong đó trong độ tuổi lao động là 44,17 triệu người (chiếm 91,4%); lực lượng
lao động Việt Nam có cơ cấu trẻ, nhóm tuổi 15-34 là 20,97 triệu người (chiếm
43,4%). Tốc độ tăng lực lượng lao động hàng năm giảm dần (năm 2005: 2,26%,
năm 2007: 2%, năm 2008: 1,65%), mỗi năm lực lượng lao động được bổ sung
khoảng 1 triệu người. Cả nước hiện có 47,25 triệu lao động có việc làm; tỷ lệ lao
động làm việc trong các ngành nông – lâm – ngư nghiệp, công nghiệp – xây dựng
và thương mại – dịch vụ lần lượt là 47,7%; 21,5% và 30,8%. Người lao động làm
việc trong kinh tế gia đình không hưởng lương (người làm việc trong các nông
trại, hoặc công việc sản xuất kinh doanh của gia đình mà không được trả lương)
chiếm tỉ lệ cao nhất (42%), những người làm công ăn lương chiếm gần 23% tổng
số người có việc làm. Năng suất lao động có xu hướng tăng trong những năm qua
(năm 2000: 11,7 triệu đồng/người/năm, năm 2005: 19,7 triệu đồng/người/năm,
năm 2008: 32,9 triệu đồng/người/năm). Tiền lương và thu nhập của người lao
động có xu hướng tăng, khoảng 10% - 20%/năm, đời sống của người lao động
được cải thiện.
* Dịch chuyển lao động đang tăng, nhưng tự do hóa lao động còn hạn chế khiến
tính linh hoạt của thị trường lao động chưa cao, đặc biệt là sự chuyển dịch lao
động trong nước và nước ngoài, giữa các khu vực, các ngành còn bị hạn chế, còn
nhiều rào cản do cung lớn hơn cầu, chất lượng, cơ cấu ngành nghề và tổ chức,
cung cấp thông tin, cung ứng lao động… chưa phù hợp với cơ chế thị trường.
* Kỹ năng, tay nghề thấp do chất lượng đào tạo, cơ cấu ngành, nghề đào tạo
chưa đáp ứng yêu cầu thị trường lao động. Tỷ lệ dạy nghề ngắn hạn chiếm khoảng
80% nên thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật cao, lao động dịch vụ cao cấp (tài
chính, ngân hàng, du lịch, bán hàng….), nhiều nghề và công việc phải thuê lao
động nước ngoài, xuất khẩu lao động đa phần là lao động trình độ chuyên môn kỹ
thuật thấp hoặc chỉ qua giáo dục định hướng. Thể lực của người lao động yếu, kỷ
luật lao động, tác phong làm việc công nghiệp cơ bản chưa được hình thành. Do
vậy, khả năng cạnh tranh yếu, nhất là ở thị trường yêu cầu lao động có trình độ cao
như các khu công nghiệp, khu chế xuất và thị trường lao động nước ngoài.
* Nhu cầu lao động trong nước có xu hướng tăng về cả số lượng và chất lượng.
Hiện nay, cả nước có trên 4,145 triệu cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp, thu hút
12
gần 17 triệu lao động vào làm việc. Hàng năm các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
kinh doanh thu hút thêm lao động vào làm việc từ 1,2 đến 1,5 triệu người. Cả nước
có khoảng 219 khu công nghiệp được thành lập, phân bố trên 54 tỉnh/thành phố,
trong đó có 118 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động (chủ yếu ở các thành phố
lớn), 101 khu công nghiệp đang xây dựng cơ bản. Các doanh nghiệp trong các khu
công nghiệp thu hút trên 1 triệu lao động.
* Hệ thống giao dịch thị trường lao động đa dạng về hình thức, phong phú về
hoạt động. Hệ thống này bao gồm giao dịch gián tiếp (thông qua các tổ chức môi
giới bao gồm giao dịch chính thức và phi chính thức) và giao dịch trực tiếp.
- Giao dịch gián tiếp chính thức (các tổ chức giới thiệu việc làm, hội chợ việc
làm và sàn giao dịch việc làm): Tính đến tháng 7/2006 đã có 170 trung tâm giới
thiệu việc làm được thành lập và hàng ngàn doanh nghiệp hoạt động giới thiệu
việc làm, cung ứng lao động. Hoạt động của trung tâm giới thiệu việc làm còn hạn
chế về khả năng tư vấn, giới thiệu việc làm và thu thập thông tin về cung – cầu
trên thị trường, còn nặng về dạy nghề và dịch vụ thu phí. Hàng năm, cả nước tổ
chức trên 40 hội chợ việc làm cấp tỉnh, và hàng trăm phiên chợ, sàn giao dịch việc
làm tại các trung tâm giới thiệu việc làm, trường học, doanh nghiệp… với hàng
vạn lao động tham gia, số lao động được phỏng vấn tại chỗ chiếm hơn 60%,
khoảng 25-39% số lao động được tuyển dụng. Tuy vậy, do các hội chợ mới tập
trung ở đô thị lại chưa thường xuyên nên chưa sát với nơi có nhiều lao động.
- Giao dịch phi chính thức thông qua các doanh nghiệp, báo chí, đoàn thể
cũng có những tác động tích cực đến thị trường lao động. Hình thức này phổ biến
ở các tỉnh có cung lao động lớn, nhu cầu về việc làm nhiều như các thành phố lớn
và các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất.
Song, vẫn còn đang tồn tại những hoạt động dưới dạng môi giới tìm việc làm thu
tiền trái phép, kể cả lừa đảo gây hậu quả, tác động xấu đến thị trường, tổn hại đến
người lao động.
- Giao dịch trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động: Thực tế
các thông tin được cung cấp thông qua khâu trung gian cả kênh chính thức và phi
chính thức đều không đầy đủ và tin cậy, do vậy giao dịch trên thị trường lao động
chủ yếu vẫn là hình thức trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động
(chiếm trên 80% số người tìm được việc làm)
13
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
I. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nâng cao hơn nữa đến chất lượng con người, trước hết, phải tính đến vấn
đề chất lượng sinh nở. Ngành y tế phải có những quy định cụ thể về chất lượng
sinh nở như kiểm tra sức khỏe, bệnh tật, tính di truyền,… trước khi đăng ký giá
thú và vợ chồng quan hệ để sinh con. Hiện nay, tại Việt Nam, đang có tình trạng
đẻ vô tội vạ, đẻ không tính toán, cân nhắc, nhất là ở nông thôn, làm cho những đứa
con sinh ra bị còi cọc, không phát triển được trí tuệ. Có người tính rằng, tại Việt
Nam, cứ 10 đứa trẻ sinh ra, có 1 đứa bị dị tật bẩm sinh. Vì vậy, phải tăng cường
chất lượng hoạt động của các cơ quan chức năng.
Khi có chất lượng con người, phải tính đến chất lượng cuộc sống, có nghĩa
là phải nuôi dưỡng về vật chất và tinh thần của con người sinh ra, bảo đảm cho họ
có thể lực dồi dào, có trí tuệ minh mẫn. Hiện nay, nhìn chung, trình độ học vấn
bình quân của cả nước mới khoảng lớp 6-7/ đầu người. Vì vậy, vấn đề đặt ra một
cách gay gắt là phải bằng mọi biện pháp và đầu tư để nâng cao trình độ học vấn
của cả nước lên, bằng không, sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội. Tăng cường hoạt động đào tạo nghề với phương thức mới để tăng chất
lượng cho lao động xã hội, đặc biệt là kỹ năng và đạo đức hành nghề trong thị
trường lao động. Tăng tỷ trọng lao động có tay nghề trong tổng lao động đi xuất
khẩu lao động. Tăng cường giáo dục pháp luật và phổ biến pháp luật lao động tới
người lao động và người sử dụng lao động. Đặc biệt, cần phổ biến rộng rãi luật
sửa đổi bổ sung Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật xuất khẩu lao
động, đào tạo nghề,…
2. Nhà nước xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhà nước phải có kế hoạch phối hợp tạo nguồn nhân lực từ nông dân, công
nhân, trí thức; có kế hoạch khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng các nguồn nhân
lực cho đúng; cần có chính sách rõ ràng, minh bạch, đúng đắn đối với việc việc sử
dụng, trọng dụng nhân tài, nhất là trọng dụng các nhà khoa học và chuyên gia thật
sự có tài năng cống hiến.
14
Hằng năm, Nhà nước cần tổng kết về lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực
ở Việt Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra những kinh
nghiệm, trên cơ sở đó mà xây dựng chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có
về nguồn nhân lực ở Việt Nam, như chính sách hướng nghiệp, chính sách dạy
nghề, chính sách quản lý … Chính phủ và các cơ quan chức năng phải có chính
sách, biện pháp kết hợp thật tốt giữa đào tạo và sử dụng trong tổng thể phát triển
kinh tế của đất nước, đáp ứng có hiệu quả nguồn lao động có chất lượng cao cho
yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
II. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG NƯỚC TA
1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế và chính sách thị trường lao động
- Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện Bộ luật Lao động và các luật hữu quan, tổ chức
thực hiện có hiệu quả. Tiếp tục cụ thể hoá luật thành các quy định cụ thể, chi tiết
nhằm đảm bảo quyền tự do di chuyển và tự do tìm việc làm của người lao động.
Hoàn thiện cơ chế 3 bên trong việc thực thi pháp luật lao động và giải quyết các
tranh chấp trong quan hệ lao động.
- Sớm hoàn thiện chính sách tiền lương - tiền công: Tiền lương, tiền công
phải được tính đủ, tính đúng nhằm đảm bảo cho nó thực sự là động lực kích
thích nâng cao năng suất lao động và hiệu quả lao động. Tạo lập thị trường lao
động lành mạnh, hạn chế luồng phân phối, thu nhập ngầm làm đảo lộn giá cả
trên thị trường lao động. Đổi mới tiền lương tối thiểu nhằm làm cho nó phản
ánh đúng sự thay đổi cơ cấu nhu cầu về chi tiêu của người lao động. Tăng
cường quản lý nhà nước về quỹ tiền lương và biên chế trong khu vực hưởng
lương từ ngân sách nhà nước, đảm bảo thu nhập hợp lý giữa các khu vực, gắn
cải cách hành chính với nâng cao năng suất, hiệu quả lao động.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách về dịch vụ, tư vấn việc làm: Dịch vụ, tư vấn
việc làm là hoạt động quan trọng trong thị trường lao động, giúp cho cung - cầu
lao động gặp nhau. Cần hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với loại hoạt động này,
quy định rõ các yêu cầu và quy tắc đạo đức trong các hoạt động đó, như: bảo vệ bí
mật các thông tin của khách hàng; cung cấp dịch vụ miễn phí cho người tìm việc;
cấm cung cấp hoặc giới thiệu lao động trẻ em; chống các hoạt động phi đạo đức;
15
chống quảng cáo gian dối hoặc không công bằng. Cần sớm xây dựng quỹ dịch vụ
việc làm trong Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, hình thành từ 3 nguồn: doanh
nghiệp đóng góp, người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp, ngân sách nhà nước
hỗ trợ một phần.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách về xuất khẩu lao động: Cùng với việc thực
thi các quy định hiện hành về xuất khẩu lao động, cần tiếp tục hoàn thiện chính
sách đầu tư và ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính trong đấu thầu quốc tế và mở rộng thị
trường lao động ở ngoài nước; chính sách tín dụng bảo hiểm xã hội cho người đi
xuất khẩu lao động; chính sách khuyến khích chuyển tiền và hàng hoá về nước…
2. Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý thị trường lao động
- Tiếp tục nâng cao năng lực quản lý nhà nước của ngành lao động thương
binh xã hội và các ngành, địa phương đối với thị trường lao động. Chú trọng: đào
tạo và đào tạo lại đội ngũ công chức, viên chức quản lý thị trường lao động; tăng
cường trang thiết bị hiện đại và đồng bộ cho cơ quan quản lý thị trường lao động;
trang bị kiến thức và kỹ năng cho cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý thị trường lao
động trong bối cảnh hội nhập.
- Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với Chương trình Quốc gia giải
quyết việc làm, hoàn thiện cơ chế về mức vay, đối tượng vay, thời hạn và mục
đích sử dụng vốn vay để tạo việc làm mới cho người lao động.
- Tăng cường quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động xuất
khẩu lao động trên tất cả các khâu, từ tuyển chọn, giáo dục định hướng cho người
lao động, tới quá trình làm việc ở nước ngoài, tới khi trở về nước. Tăng cường vai
trò của toàn bộ hệ thống chính trị trong việc tham gia phát triển thị trường lao động và
bảo vệ người lao động trong cơ chế thị trường.
- Hoàn thiện hệ thống thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường lao động. Đặc
biệt có quy định mẫu về quy trình, thủ tục thanh tra hoạt động của các thị trường
giới thiệu việc làm, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, các doanh nghiệp nợ
đọng hoặc trốn nộp bảo hiểm xã hội,…
3. Một số biện pháp tác động tới cung và cầu lao động
- Thực hiện tốt chiến lược dân số và phát triển nhằm nâng cao chất lượng
cung lao động. Chú trọng thực hiện tốt chính sách di dân, kiểm soát hiệu quả
16
hơn dòng lao động di chuyển từ nông thôn ra thành thị; tăng cường các biện
pháp chính sách điều tiết vĩ mô thay thế vác chính sách kiểm soát hành chính.
Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo nghề cho lao động theo
định hướng thị trường. Đặc biệt, hệ thống đào tạo nghề cần trở thành mắt xích
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nguồn lao động trong cơ chế thị
trường.
- Phát triển cầu lao động trên cơ sở áp dụng đồng bộ các giải pháp kích thích
tăng trưởng kinh tế và kích thích tiêu dùng của dân cư; các giải pháp chuyển dịch
cơ cấu kinh tế để tạo mở nhiều việc làm, nâng cao năng suất lao động và chất
lượng việc làm. Trong chiến lược dài hạn, cần chú trọng lựa chọn mô hình tăng
trưởng, sao cho có sự cần bằng hợp lý giữa phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn
với phát triển các ngành kinh tế truyền thống sử dụng nhiều lao động. Phát triển
mạnh khu vực doanh nghiệp để tăng tính cạnh tranh của từng doanh nghiệp cũng
như của toàn nền kinh tế, thu hút nhiều lao động. Tập trung thực hiện chiến lược
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn để tạo điều kiện phát triển
thị trường lao động trên địa bàn này.
17
KẾT LUẬN
Đề tài vận dụng lý luận và phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để phân
tích, đánh giá và giải quyết các vấn đề. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương
pháp thống kê, tổng hợp, tổng kết thực tiễn và một số các số liệu cụ thể.
Tiểu luận hoàn thành sẽ có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn sau: Bổ
sung và làm phong phú cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường lao động; phân
tích tình hình phát triển thị trường lao động của nước ta, chỉ ra những kết quả đạt
được và chưa đạt được, đồng thời đưa ra các tồn tại và hạn chế; đưa ra các định
hướng chiến lược, các mục tiêu phát triển thị trường lao động, từ đó đề xuất hệ
thống các giải pháp cơ bản, đồng bộ, có tính khả thi kết hợp với các kiến nghị đối
với cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người lao động nhằm đẩy mạnh và
nâng cao hiệu quả hoạt động thị trường.
Những phân tích của em trong tài liệu này vẫn còn rất nhiều thiếu sót, vì thế
chưa thể làm sáng tỏ một cách thực sự vai trò vô cùng to lớn của thị trường lao
động Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy vậy em vẫn mạnh dạn đưa ra những
quan điểm của mình, bởi lẽ, cống hiến sức mình cho sự nghiệp xây dựng đất nước,
xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đó là mong muốn của sinh
viên nói chung và của em nói riêng. Và em mong rằng những giải pháp em đã nêu
ra có thể góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp chung của cả dân tộc- sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
18
- Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
-Một số Website
-Tạp chí phát triển kinh tế.
- Kinh tế và dự báo
- Giáo trình Kinh tế chính trị
- Phát triển thị trường lao động định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Thị trường lao động Việt Nam hướng tới chất lượng tăng trưởng-hội nhập phát
triển bền vững
19