Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Các rủi ro phát sinh khi thực hiện hợp đồng ngoại thương của các doanh nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (971.08 KB, 105 trang )


1


CÁC TỪ VIẾT TẮT 3
LỜI NÓI ĐẦU 4
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ RỦI RO TRONG NGOẠI THƯƠNG 8
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỦI RO. 8
1.1.1. Các khái niệm về rủi ro. 8
1.1.2. Bản chất của rủi ro. 10
1.1.3. Các loại rủi ro. 11
1.1.4. Đo lường và quản lý rủi ro. 12
1.1.4.1. Đo lường rủi ro. 12
1.1.4.2. Xử lý rủi ro. 14
1.2. RỦI RO PHÁT SINH TRONG NGOẠI THƯƠNG. 16
1.2.1. Hoạt động kinh doanh ngoại thương và các nguyên nhân gia tăng rủi ro. 16
1.2.2. Khái quát về hợp đồng mua bán ngoại thương. 19
1.2.2.1. Khái niệm và đặc điểm. 19
1.2.2.2. Nội dung của hợp đồng mua bán ngoại thương. 20
1.2.2.3. Quy trình thực hiện hợp đồng ngoại thương. 21
1.2.2.4. Đặc điểm của rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng. 23
1.2.2.5. Các loại rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng XNK. 24
1.2.2.6. Quan hệ giữa rủi ro và hiệu quả thực hiện hợp đồng XNK. 25
CHƯƠNG 2. RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN
NGOẠI THƯƠNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 28
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM
TỪ ĐẦU NHỮNG NĂM 1990 ĐẾN NAY. 28
2.1.1. Tình hình xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ. 29
2.1.2. Tình hình nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. 34
2.2. RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG. 35
2.2.1. Rủi ro liên quan đến đối tác trong quá trình giao dịch, ký kết hợp đồng ngoại thương. 36


2.2.2. Rủi ro trong việc thực hiện các điều khoản của hợp đồng ngoại thương. 39
2.2.2.1. Rủi ro phát sinh trong việc giao hàng. 39
2.2.2.2. Rủi ro do sự biến động của giá cả. 46
2.2.2.3. Rủi ro phát sinh từ sự biến động về tỷ giá hối đoái. 54
2.2.3. Rủi ro trong thanh toán tiền hàng. 55
2.2.4. Rủi ro trong quá trình chuyên chở, giao nhận hàng hoá XNK. 59
2.3. NGUYÊN NHÂN GÂY RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH GIAO DỊCH, THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG
XUẤT NHẬP KHẨU 64
2.3.1. Nguyên nhân rủi ro từ môi trường chính trị, pháp luật quốc tế. 64
2.3.1.1. Ảnh hưởng của môi trường chính trị quốc tế. 64
2.3.1.2. Rủi ro phát sinh từ sự khác biệt trong hệ thống luật pháp quốc tế. 66
2.3.2. Nguyên nhân rủi ro từ môi trường tự nhiên. 68
2.3.3. Nguyên nhân rủi ro chính sách quản lý và cơ chế điều hành XNK. 70
2.3.4. Nguyên nhân rủi ro từ môi trường cạnh tranh. 76
2.3.5. Nguyên nhân rủi ro từ yếu kém trong năng lực quản lý và trình độ chuyên môn. 77
2.3.6. Các nguyên nhân xuất phát từ các yếu tố khác. 79
2.4. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA RỦI RO ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP KINH DOANH XUẤT
NHẬP KHẨU VIỆT NAM. 83
2.4.1. Những tác động chính của rủi ro đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. 83

2


2.4.2. Một số nhận xét rút ra từ việc đánh giá rủi ro đối với việc thực hiện hợp đồng ngoại thương. 84
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO
TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XNK 87
3.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TRONG
THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG. 87
3.2. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA, HẠN CHẾ RỦI RO TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP. 88
3.2.1. Xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh doanh XNK. 88

3.2.2. Đẩy mạnh công tác dự báo biến động môi trường kinh doanh quốc tế. 89
3.2.3. Bảo hiểm hàng hóa XNK. 89
3.2.4. Các biện pháp về tổ chức và kỹ thuật thực hiện hợp đồng. 95
3.2.5. Nâng cao năng lực quản lý và chuyên môn, nghiệp vụ. 97
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC. 98
3.3.1. Đổi mới hoàn thiện chính sách quản lý và cơ chế điều hành kinh doanh xuất nhập khẩu. 98
3.3.2. Phát triển thị trường bảo hiểm mạnh và cạnh tranh cao. 99
KẾT LUẬN 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO 104


3


CÁC TỪ VIẾT TẮT

XNK : Xuất nhập khẩu
XK : Xuất khẩu
NK : Nhập khẩu
B/L : Vận tải đơn (Bill of Lading)
L/C : Thư tín dụng (Letter of Credit)
TTR : Chuyển tiền bằng điện (Telegraphic Transfer)
D/P : Thanh toán chấp nhận chứng từ trả tiền (Documents against
payment)

4


LỜI NÓI ĐẦU


1. Sự cần thiết của đề tài.
Trước xu thế toàn cầu hoá đang phát triển hết sức mạnh mẽ, Việt Nam đã và
đang tích cực đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Trong đó,
hoạt động kinh tế đối ngoại, mà đặc biệt là ngoại thương nổi lên như là chiếc cầu
nối giữa kinh tế trong nước với nền kinh tế toàn cầu. Kinh doanh XNK không chỉ
đóng vai trò là cầu nối cho giao lưu kinh tế giữa Việt nam và thế giới mà còn là
động lực phát triển cho các lĩnh vực kinh tế trong nước và nâng cao sức cạnh tranh
của toàn bộ nền kinh tế.
Tuy nhiên, kinh doanh XNK không phải lúc nào cũng “thuận buồm xuôi gió”
mà nhiều khi còn gặp phải những rủi ro, dẫn đến những tổn thất cho các bên trong
việc thực hiện những thương vụ quốc tế. Những rủi ro trong kinh doanh XNK rất đa
dạng và phức tạp, và hầu hết xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng bởi đây là
quá trình chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố không thể kiểm soát được.
Rủi ro xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng XNK là hiện tượng tương đối
phổ biến do môi trường kinh doanh XNK có nét đặc trưng là luôn tiềm ẩn các nhân
tố làm gia tăng rủi ro như sự khác biệt về luật pháp, văn hoá, tập quán, ngôn ngữ,
chủ thể hợp đồng Ngoài ra, quá trình thực hiện hợp đồng còn gắn chặt với các mặt
kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương như thanh toán quốc tế, làm thủ tục hải quan, giao
nhận hàng hoá XNK, thuê tàu, mua bảo hiểm, khiếu nại, kiện tụng, vốn dĩ là những
nghiệp vụ phức tạp, chứa đựng nguy cơ rủi ro dẫn đến những tổn thất lớn cho doanh
nghiệp Do đó, nghiên cứu về rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng XNK, để từ
đó hình thành các biện pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro là rất cần thiết, nhất là sau
khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO.
Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã chọn đề tài “Các rủi ro phát sinh khi thực
hiện hợp đồng ngoại thương của các doanh nghiệp Việt Nam” để làm luận văn
tốt nghiệp Thạc sỹ ngành kinh tế đối ngoại.

2. Tình hình nghiên cứu.

5



Rủi ro thường xuyên xảy ra kéo theo nhiều thiệt hại, đe doạ tới hiệu quả của
hoạt động XNK, ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và toàn bộ
nền kinh tế. Tuy nhiên, rủi ro và hạn chế rủi ro trong thực hiện hợp đồng XNK còn
là phạm trù khá mới mẻ và chưa nhận được sự quan tâm thích đáng của các nhà
nghiên cứu cũng như từ phía các doanh nghiệp.
Viết về vấn đề rủi ro, cho đến nay có các cuốn sách: 1) Cuốn sách “Rủi ro
trong kinh doanh” của tác giả Ngô Thị Ngọc Huyền, Nxb. Chính trị Quốc gia xuất
bản năm 2003. Nội dung cuốn sách đã phân tích khá đầy đủ các khía cạnh của rủi ro
trong hoạt động kinh doanh nói chung. Tuy nhiên, nội dung cuốn sách chưa đi sâu
phân tích về rủi ro và quản lý rủi ro trong kinh doanh XNK; 2) Cuốn sách “Hạn chế
rủi ro trong kinh doanh” của tác giả Nguyễn Dương và Ngọc Quyên, Nxb. Giao
thông Vận tải ấn hành đã nêu ra những rủi ro thường gặp trong hoạt động kinh
doanh và các biện pháp hạn chế rủi ro. Tuy nhiên, cuốn sách này chỉ mới nêu ra
những rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro một cách tổng quát chứ chưa đi vào
một lĩnh vực cụ thể nhất định. 3) Cuốn sách “Nhận biết các tranh chấp và thách
thức trong kinh doanh” của tác giả Trần Trung Hiếu, do Nxb. Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh xuất bản năm 2006, đã nêu những phương pháp giúp các doanh
nghiệp kinh doanh XNK nhận biết được các tranh chấp, thách thức trong kinh
doanh. Tuy nhiên, nội dung cuốn sách chưa nêu được cụ thể các rủi ro trong hoạt
động kinh doanh XNK, đặc biệt là trong việc thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu; 4)
Cuốn sách “Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại thương” của tác giả Nguyễn
Anh Tuấn, Nxb. Lao động xã hội ấn hành năm 2006, đã phân tích khá đầy đủ và
chặt chẽ những nguyên nhân phát sinh rủi ro trong kinh doanh ngoại thương, từ đó
đưa ra các biện pháp phòng chống, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại
thương. Tuy nhiên, cuốn sách chưa nêu ra những rủi ro cụ thể, chưa cập nhật những
nguyên nhân mới nảy sinh trong điều kiện Việt Nam hội nhập và mở cửa nền kinh
tế, đồng thời chưa đi sâu phân tích rủi ro trong một khâu cụ thể của hoạt động kinh
doanh ngoại thương như quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. 5) Chuyên

đề “Thực tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng XNK và bài học kinh
nghiệm” của Trường đại học Ngoại Thương xuất bản năm 2002 đã nêu ra những vụ
tranh chấp trong thực tiễn hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế và cách giải

6


quyết. Tuy nhiên, chuyên đề này không đi vào phân tích các nguyên nhân nảy sinh
tranh chấp và chưa nêu ra được những hậu quả, tức là những tổn thất phát sinh từ
việc tranh chấp đó.
Ngoài ra còn một số bài báo của một số tác giả khác viết về rủi ro trong kinh
doanh, nhưng nhìn chung, những rủi ro luôn là vấn đề mới nên vẫn cần phải nghiên
cứu và cập nhật để cho các doanh nghiệp tham khảo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
- Mục đích nghiên cứu
Qua các bài học kinh nghiệm cụ thể trong hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu và thực hiện hợp đồng thương mại quốc tế, Luận văn mong muốn tổng hợp và
cập nhật các tài liệu có liên quan để nghiên cứu sâu hơn, một cách toàn diện và có
hệ thống những vấn đề rủi ro có thể phát sinh trong khi thực hiện loại hợp đồng này,
từ đó đề xuất các giải pháp phòng ngừa hữu hiệu, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
 Nghiên cứu, phân tích về lý thuyết những rủi ro thường xảy ra trong hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam.
 Nghiên cứu, đánh giá các rủi ro đã từng phát sinh trong khi thực hiện hợp
đồng mua bán quốc tế của một số doanh nghiệp Việt Nam và tìm ra nguyên nhân
của những rủi ro đó.
 Đề xuất giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong khi thực hiện
hợp đồng mua bán quốc tế của Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

- Đối tượng nghiên cứu: Những rủi ro mà các doanh nghiệp Việt Nam đã gặp
phải trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu, đánh giá tình hình các rủi ro khi
thực hiện hợp đồng thương mại quốc tế kể từ đầu những năm 1990 đến nay qua
nghiên cứu một số tình huống cụ thể mà các doanh nghiệp Việt Nam đã gặp phải.
Rủi ro trong kinh doanh XNK là một mảng đề tài rất rộng, song trong giới hạn
phạm vi của một luận văn Thạc sỹ, luận văn chỉ phân tích, nghiên cứu rủi ro trong
quá trình thực hiện hợp đồng XNK hàng hoá hữu hình tại Việt nam.

7


5. Phương pháp nghiên cứu.
- Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để phân tích mối quan hệ
tương tác giữa rủi ro, tổn thất với quá trình phát triển ngoại thương.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải quy nạp được luận văn sử dụng
nhằm nêu rõ quá trình phát triển hoạt động mua bán quốc tế của các doanh nghiệp
Việt Nam cũng như sự phát sinh những rủi ro khi thực hiện các nghiệp vụ buôn bán
quốc tế
- Luận văn sử dụng phương pháp thống kê như là một công cụ phân tích số
liệu để minh chứng cho các vấn đề nghiên cứu.
6. Dự kiến những đóng góp của luận văn.
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của rủi ro trong kinh doanh nói chung và rủi ro
phát sinh trong việc thực hiện hợp đồng ngoại thương nói riêng.
- Phân tích và làm sáng tỏ những nguyên nhân phát sinh rủi ro trong thực hiện
hợp đồng ngoại thương của các doanh nghiệp Việt Nam thời gian vừa qua.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu để phòng ngừa và hạn chế rủi ro.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về rủi ro trong kinh doanh ngoại thương.

Chương 2: Rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương
tại các doanh nghiệp Việt Nam từ những năm 1990 đến nay.
Chương 3: Một số biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong quá trình thực
hiện hợp đồng XNK.

8


CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ RỦI RO TRONG NGOẠI THƯƠNG

Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn ẩn chứa những mầm mống rủi ro.
Xu thế hội nhập kinh tế thế giới và làn sóng tự do hóa thương mại luôn tồn tại trong
nó nhiều “sóng gió lớn” buộc doanh nghiệp phải đối mặt với sự mạo hiểm. Dù
không mong muốn thì các rủi ro vẫn tồn tại khách quan và luôn đe dọa các nhà kinh
doanh. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy lĩnh vực kinh doanh nào có độ rủi ro càng cao
thì càng có nhiều cơ hội đem lại tỷ suất lợi nhuận lớn và ngược lại. Do đó, hiện nay
phổ biến quan điểm chấp nhận rủi ro, mạo hiểm.
Nếu như kinh doanh nói chung luôn mang tính mạo hiểm thì mức độ rủi ro, mạo
hiểm lại tăng lên bội phần trong môi trường kinh doanh XNK.
Rủi ro trong kinh doanh XNK chủ yếu xảy ra trong quá trình thực hiện hợp
đồng, bởi thực hiện hợp đồng thường là khâu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khó
kiểm soát được. Do đó, muốn quy trình thực hiện hợp đồng XNK triển khai suôn sẻ,
doanh nghiệp cần chủ động phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu tổn thất. Để làm được
điều này, trước hết, các doanh nghiệp cần trang bị cho mình những kiến thức cơ bản
về rủi ro.
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỦI RO.
1.1.1. Các khái niệm về rủi ro.
Rủi ro là sự kiện không may mắn. Rủi ro hết sức đa dạng, phức tạp, tồn tại dưới
nhiều hình thái khác nhau và gắn liền với đời sống, hoạt động sản xuất và kinh

doanh của con người. Do đó, nhiều năm qua rủi ro đã trở thành đối tượng nghiên
cứu của nhiều học giả trong lĩnh vực kinh tế và bảo hiểm trên thế giới. Xoay quanh
khái niệm rủi ro hiện đang có rất nhiều quan điểm khác nhau. Sau đây là một số
khái niệm phổ biến nhất.
Frank Knight, một học giả người Mỹ trong lĩnh vực bảo hiểm và quản trị rủi ro,
cho rằng “rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được” [22]. Theo ông, các loại bất
trắc không thể đo lường được thì được gọi là bất trắc, còn loại bất trắc có thể đo
lường được gọi là rủi ro. Cách tiếp cận này dựa trên cơ sở bất trắc có đo lường được
hay không. Tuy nhiên, trên thực tế không phải bất trắc nào cũng có thể đo lường

9


được hoàn toàn.
Một học giả người Mỹ khác, ông Allan Willett trong cuốn “Risk and Insurance”
[24] lại quan niệm rằng “rủi ro là bất trắc cụ thể liên quan đến một biến cố không
mong đợi”. Như vậy, theo ông rủi ro liên quan tới thái độ của con người. Những
biến cố ngoài mong đợi thì được xem là rủi ro còn những biến cố mong đợi không
phải là rủi ro.
Theo ông Nguyễn Hữu Thân, tác giả cuốn “Phương pháp mạo hiểm và phòng
ngừa rủi ro trong kinh doanh” [20] thì “rủi ro là sự bất trắc gây ra mất mát thiệt
hại”. Theo cách tiếp cận này, rủi ro phải là bất trắc gây hậu quả cho con người, còn
những bất trắc không gây tổn thất thì không phải là rủi ro.
Theo giáo trình “Thị trường chứng khoán”, Nxb. Giáo dục 1998, “rủi ro là một
hiện tượng khách quan, liên quan đến và có thể ảnh hưởng tới mục tiêu do con
người vạch ra mà con người có thể thấy được các hiện tượng khách quan đó nhưng
lại không lượng hóa được nó sẽ xảy ra lúc nào, ở đâu và mức độ thiệt hại thực sự
đối với mục tiêu đó”
Nhìn từ góc độ bảo hiểm, rủi ro là những đe dọa nguy hiểm mà con người
không lường trước được và là nguyên nhân trực tiếp gây tổn thất cho đối tượng bảo

hiểm.
Tóm lại, qua các khái niệm khác nhau về rủi ro của các học giả đề cập ở trên, ta
thấy các khái niệm có sự giao thoa và tồn tại mối liên hệ giữa chúng ở hai vấn đề cơ
bản sau:
Một là, các khái niệm đều đề cập tới sự bất định, không chắc chắn và sự ngờ
vực đối với tương lai. Đây chính là thuộc tính cơ bản nhất của rủi ro.
Hai là, các khái niệm đều hàm ý về hậu quả của rủi ro do một hay nhiều nguyên
nhân gây ra cho con người trong một tình huống cụ thể và hậu quả của rủi ro chính
là tổn thất.
Như vậy, rủi ro không chỉ đơn thuần là mối ngờ vực trong tương lai mà còn ám
chỉ cả một thực tế là nó có thể kéo theo thiệt hại cho con người.
Tuy nhiên, các khái niệm nêu trên chưa phân biệt rõ sự kiện nguy hiểm đã xảy
ra hay chưa, rủi ro đã xuất hiện hay chỉ mới ở dạng tiềm ẩn. Do vậy, trong bài viết
này, người viết muốn nhấn mạnh tới việc xem xét xem rủi ro đã xảy ra hay chưa để

10


làm cơ sở đề xuất các biện pháp phòng ngừa hạn chế. Cụ thể là đối với rủi ro chưa
xảy ra, thì sẽ tập trung vào biện pháp ngăn chặn phòng ngừa, còn đối với rủi ro đã
xảy ra sẽ tập trung vào biện pháp khoanh lại rủi ro, giảm thiểu thiệt hại.
Do đó, quan điểm của người viết là rủi ro tồn tại ở hai dạng: rủi ro và nguy cơ
rủi ro.
Rủi ro là những sự kiện không may mắn bất ngờ đã xảy ra gây thiệt hại về lợi
ích cho con người. Lợi ích này tồn tại ở cả hai dạng: vật chất và phi vật chất. Trong
hoạt động kinh doanh, rủi ro là một hoàn cảnh trong đó xảy ra sự sai lệch trái với
kết quả mong muốn, gây ra mất mát về tài sản, thua lỗ cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
Những sự kiện bất lợi chưa xảy ra nhưng có khả năng xảy ra được gọi là nguy
cơ rủi ro. Nói khác đi, nguy cơ rủi ro là những rủi ro có khả năng xảy ra.

Nguy cơ là tình thế có thể gây ra những sự cố bất lợi, có nghĩa là, nó phản ánh
trạng thái của hoàn cảnh có thể là nguồn gốc tạo ra sự kiện bất lợi.
Nguy cơ được đặc trưng bởi hai tính chất cơ bản:
- Nguy cơ diễn tả khả năng xảy ra sự cố.
- Nguy cơ tồn tại với mức độ cao thấp khác nhau tùy thuộc vào các yếu tố tác
động tạo ra nguy cơ.
Nguy cơ rủi ro phản ánh trạng thái tiềm ẩn và khả năng xảy ra rủi ro. Nguy cơ
càng cao thì khả năng xảy ra rủi ro càng lớn. Nguy cơ rủi ro luôn tiềm ẩn song hành
với hoạt động kinh doanh và làm cho rủi ro có thể xảy ra bất kỳ lúc nào gây thiệt hại
mất mát cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, nguy cơ rủi ro ít nhiều mang tính quy luật.
Nó luôn vận động, biến đổi theo môi trường tự nhiên, chính trị, kinh tế do vậy,
khả năng làm chủ tự nhiên và khả năng tư duy của con người càng cao thì việc nhận
dạng, dự đoán nguy cơ rủi ro càng chính xác.
1.1.2. Bản chất của rủi ro.
Nói tới rủi ro là đề cập tới sự kiện không may mắn, bất ngờ xảy ra gây thiệt hại
về lợi ích cho con người. Qua nghiên cứu khái niệm về rủi ro có thể rút ra một số
bản chất cơ bản nhất của rủi ro như sau:
Một là, rủi ro tồn tại khách quan. Bản chất này xuất phát từ thực tế là rủi ro
khộng phụ thuộc vào ý chí của con người do mọi hiện tượng trong môi trường kinh

11


doanh luôn vận động, biến đổi không ngừng. Trong quá trình vận động, biến đổi,
sự vật, hiện tượng có thể đem lại lợi ích nhưng cũng có thể gây tác động có hại.
Những tác động có hại này buộc nhà kinh doanh phải đối mặt với rủi ro, tổn thất.
Hai là, rủi ro là những sự cố ngẫu nhiên, bất ngờ. Đó là sự kiện mà ta không
lường trước được một cách chắc chắn. Con người có thể thấy được các hiện tượng
khách quan và chủ quan có thể gây ra rủi ro nhưng lại không thể lượng hóa được
chắc chắn nó sẽ xảy ra lúc nào, ở đâu.

Tuy nhiên, mức độ bất ngờ của rủi ro còn phụ thuộc vào khả năng dự đoán của
con người. Nếu không dự đoán được rủi ro thì khi rủi ro xảy ra hoàn toàn bất ngờ
với con người. Nếu khoa học nhận dạng và dự báo giúp con người biết được chính
xác tuyệt đối sự kiện xảy ra khi nào, rủi ro sẽ giảm tới mức được coi là sự kiện chắc
chắn và do vậy sự kiện đó không được coi là rủi ro mà chỉ là sự kiện bất lợi.
Ba là, rủi ro là sự kiện ngoài mong đợi của con người. Rủi ro xảy ra, sẽ gây ra
tổn thất. Tổn thất đến lượt nó lại là những thiệt hại mất mát về lợi ích của con
người. Do đó, không ai mong muốn rủi ro tổn thất xảy ra với mình. Vì thế, rủi ro là
sự kiện ngoài mong đợi.
Nghiên cứu bản chất của rủi ro giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về rủi
ro. Một sự kiện được coi là rủi ro phải đồng thời thỏa mãn cả ba thuộc tính trên.
Nếu sự kiện đã biết trước chắc chắn xảy ra hoặc xảy ra nhưng không gẩy tổn thất
hoặc xảy ra do mong muốn của con người thì không được coi là rủi ro.
1.1.3. Các loại rủi ro.
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau có thể phân rủi ro chung thành các loại sau:

a. Căn cứ vào khả năng đo lường
- Rủi ro có thể tính toán được: Là rủi ro mà tần số xuất hiện của nó có thể tiên đoán
được ở mức độ tin cậy nào đó.
-Rủi ro không thể tính toán được: Là rủi ro mà tần số xuất hiện của nó bất thường,
khó tiên đoán.
b. Căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng của rủi ro
- Rủi ro cơ bản: Là rủi ro xuất phát từ các biến cố khách quan và ảnh hưởng đến
toàn xã hội. Ví dụ: bão, lũ, chiến tranh, bạo động chính trị.

12


- Rủi ro riêng biệt: Là rủi ro xuất phát từ biến cố chủ quan của từng cá nhân,
doanh nghiệp và chỉ ảnh hưởng đến một số ít người. Ví dụ: rủi ro phát sinh do hàng

hoá hỏng hóc, thương vụ thua lỗ do biến động giá cả.
c. Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh rủi ro
- Rủi ro do thiên tai: Là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra như bão gió lốc,
sét, sóng thần, động đất, núi lửa, lở đá
- Rủi ro do các hiện tượng chính trị, xã hội: Là những rủi ro chiến tranh, đình công,
hành động khủng bố
- Rủi ro do tai họa của biển: Là những tai nạn xảy ra đối với con tàu ở ngoài biển
như: tàu bị mắc cạn, cháy, nổ, đâm va, mất tích
d. Căn cứ vào nguyên nhân gây ra rủi ro
- Rủi ro có nguyên nhân khách quan: Là rủi ro do tác động của môi trường vĩ mô và
nguyên nhân bên ngoài mà doanh nghiệp không thể kiểm soát chi phối được, như
rủi ro do chính trị bất ổn, kinh tế suy thoái, tỷ giá biến động
- Rủi ro có nguyên nhân chủ quan: Là rủi ro bắt nguồn từ các nguyên nhân chủ quan
như những yếu kém của doanh nghiệp về nghiệp vụ chuyên môn, thiếu thông tin,
sai lầm trong chính sách kinh doanh
e. Căn cứ vào nghiệp vụ của bảo hiểm
- Rủi ro thông thường được bảo hiểm: Là rủi ro có tính chất bất ngờ, ngẫu nhiên,
xảy ra ngoài ý muốn của người và được bảo hiểm theo các điều kiện bảo hiểm A, B,
C. Ví dụ: Rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ.
- Rủi ro phải bảo hiểm riêng, không được bồi thường theo các điều kiện bảo hiểm
gốc A, B, C. Ví dụ: chiến tranh, đình công
- Rủi ro loại trừ: Là rủi ro không được bảo hiểm trong mọi trường hợp. Ví dụ: Rủi
ro do nội tỳ, ẩn tỳ của hàng hóa, lỗi của người được bảo hiểm
Ngoài ra, người ta còn phân biệt rủi ro mang tính đầu cơ và rủi ro thuần tuý. Rủi
ro mang tính đầu cơ là rủi ro mà doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận với hy vọng có
cơ hội tạo ra lợi nhuận. Rủi ro thuần tuý là rủi ro chỉ đem lại thiệt hại.
1.1.4. Đo lường và quản lý rủi ro.
1.1.4.1. Đo lường rủi ro.

13



Đo lường có vai trò quan trọng vì nó ảnh hưởng tới việc phân bổ các nguồn
lực cho quản lý và kiểm soát rủi ro. Đo lường giúp doanh nghiệp biết được rủi ro đó
xảy ra nhiều hay ít, mức độ và tác hại của rủi ro và những ảnh hưởng của nó đến
khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Các phương pháp đo lường có thể được sử dụng:
 Phương pháp định lượng: cân, đong, đo, đếm, tính toán, thống kê…
 Phương pháp định tính: đo lường tổn thất dựa trên cơ sở kinh nghiệm, suy
đoán tổn thất, tính toán tình huống tương tự, giả định, thăm dò…
Phương pháp định lượng thường được sử dụng sau khi rủi ro đã xảy ra gây tổn
thất và tổn thất đó là tổn thất hữu hình, có thể xác định được bằng phương pháp vật
lý thông thường. Phương pháp định tính được sử dụng cả trước khi rủi ro xảy ra lẫn
sau khi rủi ro đã xảy ra.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, cần đẩy mạnh áp dụng phương
pháp định tính vì nó mang tính tích cực hơn cho quá trình quản lý rủi ro của doanh
nghiệp .
Ví dụ cụ thể về áp dụng phương pháp định tính để đánh giá các nhân tố ảnh
hưởng tới rủi ro trong thanh toán quốc tế của doanh nghiệp:
Bước 1: Liệt kê các nhân tố ảnh hưởng tới rủi ro trong thanh toán quốc tế
A: Tỷ giá hối đoái
B: Sai sót trong bộ chứng từ thanh toán
C: Yếu kém về nghiệp vụ ngân hàng
D: Ý thức thực hiện hợp đồng của đối tác
E: Phương thức thanh toán
Bước 2: Xác định phương pháp đo lường: phương pháp so sánh liên hoàn
Phương pháp cho điểm:
- Nếu mức độ ảnh hưởng lớn hơn : điểm số đạt được là 3
- Nếu mức độ ảnh hưởng bằng nhau : điểm số đạt được là 1
- Nếu mức độ ảnh hưởng nhỏ hơn : điểm số đạt được là 0

Bước 3: Lập bảng so sánh liên hoàn theo mức độ ảnh hưởng của nhân tố tác
động tới rủi ro trong khâu thanh toán quốc tế của doanh nghiệp :

A
B
C
D
E
Tổng điểm
Xếp thứ bậc ưu tiên

14


A

0
1
0
0
1
4
B
3

3
1
3
10
1

C
1
0

0
0
1
4
D
3
1
3

3
8
2
E
3
1
3
0

7
3
Số điểm trung bình
5,4

Bước 4: Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
Từ bảng so sánh có thể kết luận như sau: nguyên nhân chủ yếu của rủi ro trong
thanh toán quốc tế là do sai sót trong bộ chứng từ thanh toán, tiếp đến là do ý thức

thực hiện hợp đồng, phương thức thanh toán. Yếu tố tỉ giá hối đoái và yếu kém về
nghiệp vụ ngân hàng có mức độ ảnh hưởng như nhau.
Do đó, doanh nghiệp nên quan tâm nhiều tới khâu lập bộ chứng từ thanh toán và
giám sát chặt chẽ tiến độ thanh toán.
1.1.4.2. Xử lý rủi ro.
Xử lý rủi ro, tổn thất là triển khai tổng hợp các biện pháp cần thiết để ngăn chặn
kịp thời rủi ro, tổn thất.
Xử lý rủi ro, tổn thất có thể bao trùm các nội dung sau:
1. Kế koạch hành động: bao gồm toàn bộ hoạt động tác nghiệp của bộ phận
liên quan khi rủi ro xảy ra
2. Kế koạch tài chính: gồm khoản phải chi cho xử lý sơ bộ rủi ro, tổn thất như
chi phí khắc phục, sửa chữa, bồi thường thiệt hại
3. Kế hoạch nhân lực: chuẩn bị nhân lực xử lý rủi ro, tổn thất, hành động
nhanh, thống nhất, hiệu quả khi xảy ra rủi ro, tổn thất.
Xử lý rủi ro, tổn thất gồm các bước cụ thể:
 Khoanh lại rủi ro, tổn thất: không làm rủi ro, tổn thất lan rộng cả về phạm vi
lẫn mức độ trầm trọng để không trở thành nguyên nhân gây rủi ro, tổn thất khác.
Tuỳ loại rủi ro, tổn thất mà người ta sử dụng biện pháp khoanh lại khác nhau. Ví
dụ: rủi ro về chất lượng do lây bẩn lây hại thì phải tách riêng phần hàng bị tổn thất
để xử lý và tiến hành giám định ngay để có căn cứ khiếu nại.

15


 Tìm kiếm biện pháp kỹ thuật: khôi phục giá trị sử dụng, giá trị thương
mại của hàng hoá
 Giám sát xử lý rủi ro, tổn thất: đảm bảo quá trình xử lý hiệu quả
 Di chuyển rủi ro, tổn thất: khiếu nại người bảo hiểm nếu hàng hoá được bảo
hiểm
Tài trợ rủi ro tổn thất: Là biện pháp trích lập quỹ để :

 Xây dựng kế hoạch phục hồi kinh doanh: là tổng thể các biện pháp khả thi
để hạn chế hậu quả lâu dài nếu rủi ro, tổn thất xảy ra
 Thực hiện kế hoạch phục hồi kinh doanh:
 Biện pháp khẩn cấp: bảo đảm an toàn, bảo vệ hàng hoá, chứng từ
 Thông báo cho khách hàng, bạn hàng về kế hoạch
 Xử lý tai biến: hỏi ý kiến chuyên gia, phân công nhiệm vụ
 Thực hiện chương trình cứu giữ thị trường, quan hệ bạn hàng
 Tái đầu tư kinh doanh
 Kiểm tra, đánh giá lại kế hoạch

16


1.2. RỦI RO PHÁT SINH TRONG NGOẠI THƯƠNG.
1.2.1. Hoạt động kinh doanh ngoại thương và các nguyên nhân gia tăng rủi ro.
Ngoại thương là hoạt động gắn liền với việc trao đổi hàng hóa vượt qua đường
biên giới quốc gia; đó là nguyên nhân nảy sinh một loạt vấn đề phức tạp, từ vấn đề
pháp lý cho đến việc di chuyển hàng hóa và thanh toán quôc tế. Dưới góc độ nghiên
cứu hoạt động kinh doanh ngoại thương để có nhận thức đày đủ bản chất, nhằm
phục vụ cho công tác quản lý, điều hành và kinh doanh có hiệu quả, sau đây sẽ đề
cập đến một số đặc trưng cơ bản cũng là nguyên nhân làm tăng rủi ro trong kinh
doanh ngoại thương.
a. Nguồn luật áp dụng trong kinh doanh
Luật áp dụng và điều chỉnh kinh doanh ngoại thương có sự khác nhau cơ bản so
với kinh doanh trong nước. Trong kinh doanh ngoại thương, ngoài việc tôn trọng
luật quốc gia của các bên còn buộc phải lựa chọn và quy định một cách thống nhất
nguồn luật áp dụng trong hợp đồng.
Thực tế, bất kỳ một thương nhân nào cũng muốn áp dụng nguồn luật của nước
mình vì họ cho rằng sẽ bảo vệ tốt hơn quyền lợi hợp pháp của họ. Vì vậy thường
nảy sinh vấn đề tranh chấp trong việc thỏa thuận luật áp dụng ngay từ khi đàm phán

hợp đồng. Việc phải lựa chọn nguồn luật của nước đối tác, hoặc của nước thứ ba sẽ
gây ra cho các thương nhân một nguy cơ rủi co cao trong quá trình kinh doanh, đó
là vì sự thiếu hiểu biết, sự phức tạp, thiếu công khai, thiếu nhất quán hay thay đổi…
của nguồn điều chỉnh.
b. Chủ thể trong kinh doanh ngoại thương
Kinh doanh ngoại thương cần phải thiết lập các mối quan hệ với các chủ thể
nước ngoài. Chủ thể nước ngoài là những thương nhân có quốc tịch, có trụ sở giao
dịch ở các quốc gia khác nhau, họ bị điều chỉnh bởi một hệ thống luật pháp khác,
ngôn ngữ bất đồng, tập quán buôn bán không đồng nhất, nền văn hóa khác biệt, tư
cách pháp nhân, sự tôn trọng luật pháp và trình độ hiểu biết về chuyên môn cũng
khác nhau… Đó chính là mối hiểm họa, nguy cơ rủi ro cao trong kinh doanh ngoại
thương. Mặt khác, vì có nhiều khác biệt và ở quá xa nhau nên không phải bao giờ,
khi nào cũng có đủ điều kiện tìm hiểu, nắm bắt thường xuyên tình hình kinh doanh
của đối tác, nên thường nảy sinh những rủi ro như đối tác bị phá sản, lừa đảo, chiếm

17


đoạt… trong buôn bán.
c. Giao dịch thông qua các phương tiện thông tin làm môi giới.
Trao đổi thông tin và ý định của các chủ thể là yêu cầu cần thiết trong quá trình
kinh doanh Chi phí giao dịch sẽ là rất lớn và hiệu quả kinh tế sẽ không thể đạt được
nếu các doanh nghiệp không biết khai thác triệt để lợi thế của các phương tiện thông
tin ngày càng hiện đại nhằm phục vụ kinh doanh.
Mặt khác, thời cơ là yếu tố rất quan trọng trong kinh doanh; nhiều khi thành
công hoặc thất bại được xác định bằng giây, bằng phút do chớp được hoặc bỏ lỡ
thời cơ. Ví dụ: thương mại điện tử là hoạt động trao đổi mua, bán hàng hóa thông
qua hệ thống thông tin nhằm giảm chi phí, rút ngắn thời gian giao dịch nhưng chính
thương mại điện tử là nguồn phát sinh rủi ro mới trong kinh doanh. Vì vậy, sử dụng
thông tin hiện đại để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là một

trong những nguyên nhân làm gia tăng nguy cơ rủi ro trong kinh doanh thông qua
trao đổi ý định bằng các phương tiện thông tin.
d. Di chuyển hàng hóa.
Đồng thời với việc chuyển giao quyền sở hữu về hàng hóa giữa thương nhân
trong và ngoài nước là di chuyển hàng hóa vượt qua đường biên giới quốc gia; tức
là sản xuất ở quốc gia này còn tiêu dùng lại ở quốc gia khác. Do vậy hoạt động kinh
doạnh ngoại thương sẽ gây ra những hiệu ứng rất khác nhau đối với nền kinh tế và
đời sống nhân dân các nước.
Thông thường, đẩy mạnh xuất khẩu sẽ có nhiều ảnh hưởng tích cực, còn nếu
nhập khẩu quá nhiều mặt hàng tiêu dùng sẽ có ảnh hưởng đối với nền kinh tế của
các nước đang phát triển. Chính vì vậy, thông qua một số cơ quan như Hải quan,
biên phòng và các đơn vị chức năng, Chính phủ các nước luôn kiểm soát, giám sát
chặt chẽ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp nhằm đảo bảo
nguyên tắc hiệu quả trong kinh doanh ngoại thương, trên cơ sở thực hiện tốt chính
sách ngoại thương của Chính phủ trong từng thời kỳ.
Việc di chuyển hàng hóa vượt đường biên giới quốc gia là một đặc trưng quan
trọng luôn gắn liền với các ngành vận tải quốc tế, bảo hiểm quốc tế… Đây là một
trong những nguồn rủi ro lớn nhất về tài sản trong buôn bán quốc tế. Vì việc di
chuyển hàng hóa luôn phải đối mặt với những nguy cơ, hiểm họa trong quá trình

18


vận chuyển.
e. Di chuyển chứng từ sở hữu hàng hóa.
Trong hoạt động kinh doanh ngoại thương, chứng từ hàng hóa là một bộ phận
quan trọng của quá trình lưu thông, thậm chí nhiều khi nó còn quan trọng hơn hàng
hóa. Hàng hóa thông thường bao gồm tính hai mặt: mặt hữu hình, phản ánh giá trị
sử dụng của hàng hóa; mặt vô hình, phản ánh giá trị của hàng hóa. Thực tế cho thấy
giá trị của hàng hóa được phản ánh thông qua giá trị trao đổi, mà thực chất là trao

quyền sở hữu, quyền định đoạt của hàng hóa từ người bán sang người mua. Quyền
sở hữu là quyền do pháp luật quy định, nó có thể thay đổi do người ta chuyển giao
quyền sở hữu một cách hợp pháp như: mua, bán, cho, biếu, tặng hoặc bất hợp pháp
như: cưỡng đoạt, chiếm đoạt…
Trong quá trình chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa hợp pháp của chủ hàng,
người ta có thể chuyển nhượng bộ chứng từ đó để lấy tiền mà không cần biết hàng
hóa đó là gì, miễn sao là được người mua chấp nhận. Quá trình di chuyển bộ chứng
từ hàng hóa luôn đối mặt với những nguy cơ rủi ro ngoài mong đợi như giả mạo, sai
sót, không đồng bộ. Chính nguy cơ này là nguyên nhân dẫn đến những rủi ro lừa
đảo hoặc rủi ro cho người sở hữu hợp pháp bộ chứng từ đó nhưng không được ngân
hàng trả tiền hoặc không có quyền nhận hàng. Thật đáng tiếc, trong kinh doanh
ngoại thương thì những rủi ro loại này lại chiếm một phần đáng kể.
f. Thanh toán tiền hàng trong hợp đồng mua bán ngoại thương.
Trao đổi, buôn bán quốc tế được thực hiện dưới nhiều phương thức khác nhau.
Khi trao đổi, mua bán đối lưu tiền tệ chỉ đóng vai trò tính toán, do vậy không có sự
di chuyển tiền tệ giữa các quốc gia buôn bán với nhau. Khi trao đổi hàng hóa mà
mua và bán tách rời, độc lập với nhau, tức là người mua không nhất thiết là người
bán và ngược lại, thì tất yếu sự bồi hoàn ở đây phải thông qua tiền tệ tự do chuyển
đổi (thông thường là những ngoại tệ mạnh). Từ đây rất nhiều vấn đề nảy sinh: vấn
đề về hệ thống thanh toán quốc tế và phương thức thanh toán làm sao vừa hiệu quả,
vừa an toàn phù hợp với thông lệ quốc tế đặt ra; vấn đề tỷ giá hối đoái biến động sẽ
ảnh hưởng đến quyền lợi hoặc của người bán hoặc của người mua… Đây là một
trong số nguồn rủi ro có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh ngoại thương. Ví
dụ: tỷ giá hối đoái thay đổi nhanh chóng, bất thường có thể làm cho mọi cố gắng, nỗ
lực tìm kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp trở nên vô nghĩa. Hoặc sau khi đã trả tiền

19


L/C theo quy định, doanh nghiệp vẫn phải cầu viện vào sự may rủi để quyết định

kết quả kinh doanh của mình.
g. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp.
Sự khác biệt giữa các quốc gia về luật pháp, pháp chế, về phong tục, tập quán,
về ngôn ngữ, văn hóa, điều kiện tự nhiên, xã hội, sự thiếu hiểu biết về chuyên môn,
nghiệp vụ buôn bán quốc tế, sự thiếu thận trọng trong đàm phán và kinh doanh… là
những nguyên nhân chủ yếu gây ra những bất đồng dẫn đến tranh chấp giữa các chủ
thể và cũng là nguyên nhân làm cho việc giải quyết tranh chấp quốc tế trở nên khó
khăn hơn rất nhiều so với giải quyết tranh chấp kinh tế trong nước. Đây là nguồn
phát sinh rủi ro trong kinh doanh khi mà doanh nghiệp là người bị vi phạm nhưng
không bảo vệ được quyền lợi của mình.
Tóm lại, kinh doanh ngoại thương là hoạt động không những mang lại lợi nhuận
cho các doanh nghiệp trực tiếp tham gia mà còn mang lại lợi ích cho đất nước. Tuy
nhiên, người ta biết và đến với ngoại thương không chỉ vì những mặt thuận lợi mà
còn phải chấp nhận cả những mặt bất lợi, rủi ro.
Nguyên nhân gây ra rủi ro trong kinh doanh ngoại thương rất nhiều, đa dạng
trong đó có những đặc trưng của kinh doanh ngoại thương quyết định.
Sự khác biệt đó thường làm phức tạp hơn mối quan hệ kinh tế và cũng là nhân tố
làm gia tăng nguy cơ rủi ro trong kinh doanh. Nhận thức bản chất nhóm nguyên
nhân này giúp các nhà quản lý, điều hành kinh doanh, các nhà quản trị kinh doanh
xác định các biện pháp thích hợp để phòng ngừa, hạn chế rủi ro.


1.2.2. Khái quát về hợp đồng mua bán ngoại thương.
1.2.2.1. Khái niệm và đặc điểm.
a. Khái niệm
Hợp đồng mua bán quốc tế còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu hoặc hợp đồng
mua bán ngoại thương là sự thoả thuận giữa các đương sự có trụ sở kinh doanh ở
các nước khác nhau, theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu (Bên bán) có nghĩa vụ
chuyển vào quyền sở hữu của một bên khác gọi là bên nhập khẩu (Bên mua) một tài


20


sản nhất định, gọi là hàng hoá; bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng.
Định nghĩa trên đây nêu rõ:
Bản chất của hợp đồng này là sự thoả thuận của các bên ký kết trên cơ sở hai
bên cùng có lợi (các bên đương sự).
Chủ thể của hợp đồng là bên bán (bên xuất khẩu) và bên mua (bên nhập khẩu).
Họ có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau. Bên bán giao một hàng hóa, hoặc
dịch vụ có giá trị nhất định, và để đổi lại, bên mua phải trả một đối giá (Counter
value) cân xứng với giá trị đã được giao (Contract with consideration).
Đối tượng của hợp đồng này là tài sản; do được đem ra mua bán tài sản này biến
thành hàng hoá. Hàng hoá này có thể là hàng đặc tính (Specific goods) và cũng có
thể là hàng đồng loại (Generic goods). Khách thể của hợp đồng này là sự di chuyển
quyền sở hữu hàng hoá (chuyển chủ hàng hoá). Đây là sự khác biệt so với hợp đồng
thuê mướn (vì hợp đồng thuê mướn không tạo ra sự chuyển chủ), so với hợp đồng
tặng biếu (vì hợp đồng tặng biếu không có sự cân xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi).
b. Đặc điểm
So với những hợp đồng mua bán trong nước, hợp đồng xuất nhập khẩu có một
số đặc điểm chính sau:
- Đặc điểm 1: (đặc điểm quan trọng nhất) chủ thể của hợp đồng, người mua,
người bán có cơ sở kinh doanh đăng ký tại hai quốc gia khác nhau. Ở đây cần lưu ý
rằng quốc tịch không phải là yếu tố để phân biệt: dù người mua và người bán có
quốc tịch khác nhau nhưng nếu việc mua bán được thực hiện trên lãnh thỗ của cùng
một quốc gia thì hợp đồng mua bán cũng không mang tính chất quốc tế.
- Đặc điểm 2: Đồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ đối với một trong hai bên
hoặc cả hai bên.
- Đặc điểm 3: Hàng hóa - đối tượng mua bán của hợp đồng được chuyển ra khỏi
đất nước người bán trong quá trình thực hiện hợp đồng.
1.2.2.2. Nội dung của hợp đồng mua bán ngoại thương.

Một hợp đồng mua bán quốc tế thường gồm có hai phần: Những điều trình bày
(representations) và các điều khoản và điều kiện (terms and conditions)
*Trong phần những điều trình bày, người ta ghi rõ:
a. Số hợp đồng (contract No.)

21


b. Địa điểm và ngày tháng ký kết hợp đồng. Điều này có thể được ghi ngay trên
cùng như: Hanoi, June 20
th
2003
hoặc
“The present contract was made and entered into at Hanoi on this June 20
th
2003 by
and between”.
Cũng có nhiều trường hợp, người ta lại ghi địa điểm và ngày tháng ký kết ở phần
cuối hợp đồng. Ví dụ:
“The present contract was made at Hanoi on June 20
th
2003 in quadruplicate of
equal force, two of which are kept by each party”.
c. Tên và địa chỉ của các đương sự.
d. Những định nghĩa dùng trong hợp đồng. Những định nghĩa này có thể rất nhiều,
ví dụ: hàng hoá có nghĩa là…, thiết kế có nghĩa là… Chí ít, người ta cũng đưa ra
định nghĩa sau đây:
“ABC company, address…, Tel … represented by Mr. … herein-after referred to as
the Seller (or the Buyer)”
e. Cơ sở pháp lý để ký kết hợp đồng. Đây có thể là hiệp định chính phủ ký kết ngày

tháng, cũng có thể là Nghị định thư ký kết giữa một Bộ của quốc gia với một Bộ
của quốc gia khác. Chí ít, người ta cũng nêu ra sự tự nguyện của hai bên khi ký kết
hợp đồng. Ví dụ: “It has been mutually agreed that the Seller commits to sell and
the Buyer commits to buy the undermentioned goods on the following terms and
conditions”.
*Trong phần các điều khoản và điều kiện người ta ghi rõ các điều khoản thương
phẩm (như tên hàng, số lượng, phẩm chất, bao bì); Các điều khoản tài chính (như
giá cả và cơ sở của giá cả, thanh toán, trả tiền hàng, chứng từ thanh toán); Các điều
khoản vận tải (như: điều kiện giao hàng, thời gian và địa điểm giao hàng); Các điều
khoản pháp lý (như: Luật áp dụng vào hợp đồng, khiếu nại, trường hợp bất khả
kháng, trọng tài)
1.2.2.3. Quy trình thực hiện hợp đồng ngoại thương.
Quá trình thực hiện hợp đồng XNK thông thường là quá trình lâu dài, phức tạp
và trải qua nhiều công đoạn. Nó bắt đầu sau khi hợp đồng được ký kết và kết thúc
khi các bên đã hoàn thành mọi nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong quan hệ hợp

22


đồng. Trong quá trình đó, rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào khi điều kiện phát
sinh rủi ro xuất hiện. Do đó, muốn tìm hiểu về rủi ro trong quá trình thực hiện hợp
đồng XNK, trước hết phải nắm vững quy trình thực hiện hợp đồng XNK.
Thực hiện hợp đồng XNK là một quá trình hết sức phức tạp vì các bên tham gia
thường là những chủ thể có quốc tịch khác nhau, có sự xa cách nhau về mặt địa lý,
khác biệt về hệ thống luật pháp, tập quán thương mại và chính sách kinh tế đối
ngoại. Do đó, thực hiện hợp đồng XNK thường liên quan tới nhiều khâu công việc
hơn thực hiện hợp đồng mua bán trong nước. Tùy vị trí là nhà XK hay NK mà các
khâu công việc phải thực hiện có khác nhau.
Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp phải tiến hành các công
việc sau:

- Giục mở L/C và kiểm tra L/C (nếu hợp đồng quy định sử dụng phương thức tín
dụng chứng từ).
- Xin giấy phép XK (nếu mặt hàng XK thuộc diện quản lý Nhà nước bằng giấy
phép).
- Chuẩn bị hàng XK, thu gom, tập trung hàng hoá, đóng gói bao bì, kẻ kí mã hiệu.
- Kiểm tra, kiểm dịch hàng hóa ở cấp cơ sở và cấp cửa khẩu
- Thuê tàu hoặc lưu cước (nếu cần).
- Mua bảo hiểm (nếu cần).
- Làm thủ tục hải quan.
- Giao hàng lên tàu.
- Làm thủ tục thanh toán quốc tế.
- Giải quyết khiếu nại (nếu có).
Để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp thường phải tiến hành
các công việc sau:
- Xin giấy phép NK (nếu mặt hàng thuộc diện quản lý nhà nước bằng giấy phép).
- Mở L/C (nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C).
- Thuê tàu hoặc lưu cước (nếu cần).
- Mua bảo hiểm (nếu cần).
- Làm thủ tục hải quan.
- Nhận hàng từ tàu.

23


- Kiểm tra hàng hóa - Kiểm dịch và giám định.
- Làm thủ tục thanh toán.
- Khiếu nại (nếu có).
Tóm lại, trên đây là những bước cơ bản và quan trọng của quá trình thực hiện
hợp đồng XNK. Nghiên cứu quy trình thực hiện hợp đồng XNK giúp ta có một cái
nhìn tổng quan về thực hiện hợp đồng XNK để từ đó có thể nhận dạng, phát hiện ra

những khâu nào tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao, ở những khâu nào nếu rủi ro xảy ra
thường đem lại tổn thất nặng nề và qua đó có thể đề ra các phương án phòng ngừa
thích hợp.
1.2.2.4. Đặc điểm của rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Kinh doanh XNK diễn ra trong môi trường đặc biệt phức tạp. Quá trình thực
hiện hợp đồng bao gồm một chuỗi các bước nghiệp vụ kế tiếp nhau và trong từng
khâu của quá trình này, các nhân tố ảnh hưởng và nguyên nhân gây rủi ro xuất hiện
ngày càng nhiều. Tất cả những điều này làm cho rủi ro trong kinh doanh XNK mà
chủ yếu là trong quá trình thực hiện hợp đồng xảy ra thường xuyên hơn, mức độ
nghiêm trọng hơn và biểu hiện dưới các hình thức đa dạng, phức tạp hơn so với
kinh doanh trong nước.
a. Rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng XNK xảy ra với tần suất lớn hơn
thực hiện hợp đồng trong nước
Trong quá trình thực hiện hợp đồng XNK, nhà kinh doanh phải luôn đối mặt với
môi trường kinh doanh đầy biến động, kèm theo đó là muôn vàn nguy cơ rủi ro ở tất
cả các lĩnh vực hoạt động diễn ra trong và ngoài nước. Các nhân tố ảnh hưởng, các
nguyên nhân chủ quan và khách quan ở cả trong nước và nước ngoài làm cho rủi ro
xảy ra thường xuyên hơn với tần suất lớn hơn so với kinh doanh trong nước. Sự
xuất hiện dồn dập, thường xuyên của các sự cố bất lợi có thể lý giải bằng sự khác
biệt trong hệ thống luật pháp, văn hóa kinh doanh, chủ thể trong quan hệ hợp đồng,
khoảng cách địa lý Nguyên nhân gây rủi ro càng nhiều thì rủi ro xảy ra với tần số
càng lớn và ngược lại. Việc rủi ro xảy ra thường xuyên với tần số lớn hơn chính là
đặc điểm nổi trội của rủi ro trong thực hiện hợp đồng XNK.
b. Rủi ro xảy ra với mức độ nghiêm trọng hơn
Khi đã xảy ra, rủi ro thường gây hiệu quả nghiêm trọng hơn cho người kinh

24


doanh XNK vì hai lý do. Một là, giá trị của thương vụ XNK thường lớn hơn so với

các thương vụ kinh doanh trong nước. Hai là, quá trình thực hiện hợp đồng XNK
thường liên quan tới nhiều bên hơn nên khi xảy ra rủi ro, tổn thất có thể tất cả các
bên cùng phải gánh chịu. Nói một cách khác, mức độ nghiêm trọng hơn được thể
hiện ở phạm vi ảnh hưởng của rủi ro, tổn thất rộng lớn hơn.
c. Rủi ro đa dạng phức tạp hơn
Đặc điểm này xuất phát từ thực tế là các nguyên nhân làm phát sinh rủi ro trong
kinh doanh hoạt động ngoại thương vốn dĩ đa dạng và phức tạp hơn so với hoạt
động kinh doanh thông thường trong nước. Do đó, rủi ro trong thực hiện hợp đồng
XNK liên quan tới nhiều lĩnh vực như vận tải quốc tế, thanh toán quốc tế, bảo
hiểm Hơn nữa, đặc trưng của hợp đồng mua bán ngoại thương là có yếu tố nước
ngoài, thể hiện ở chủ thể của hợp đồng là các bên có quốc tịch khác nhau hoặc có
trụ sở ở các nước khác nhau, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng thường được di
chuyển qua biên giới quốc gia hoặc từ khu vực pháp lý này sang khu vực pháp lý
khác, đồng tiền tính giá, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ với một trong các bên, luật
điều chỉnh hợp đồng hoặc cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng có
yếu tố nước ngoài. Vì vậy rủi ro xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng XNK đa
dạng, phức tạp hơn so với hợp đồng kinh doanh trong nước.
Tóm lại, rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng XNK xảy ra với tần suất lớn
hơn, mức độ nghiêm trọng hơn và đa dạng, phức tạp hơn. Điều đó có nghĩa là các
nhà kinh doanh XNK cần hết sức thận trọng trong thực hiện hợp đồng và cần có các
biện pháp đảm bảo để ngăn ngừa hạn chế rủi ro.
1.2.2.5. Các loại rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng XNK.
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng có thể
phân rủi ro thành các loại sau:
a. Căn cứ vào khả năng đo lường
- Rủi ro có thể tính toán được: là rủi ro mà tần số xuất hiện của nó có thể tiên
đoán được ở mức độ tin cậy nào đó.
- Rủi ro không thể tính toán được: rủi ro mà tần số xuất hiện của nó bất thường,
khó tiên đoán.
b. Căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng của rủi ro

- Rủi ro cơ bản: Là rủi ro xuất phát từ các biến cố khách quan và ảnh hưởng đến

25


toàn xã hội. Ví dụ: bão, lũ, chiến tranh, bạo động chính trị.
- Rủi ro riêng biệt: Là rủi ro xuất phát từ biến cố chủ quan của từng cá nhân,
doanh nghiệp và chỉ ảnh hưởng đến một số ít người. Ví dụ: rủi ro phát sinh do hàng
hoá hỏng hóc; thương vụ thua lỗ do biến động giá cả.
c. Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh rủi ro
- Rủi ro do thiên tai: Là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra như bão gió lốc,
sét, sóng thần, động đất, núi lửa, lở đá
- Rủi ro do tai họa của biển: Là những tai nạn xảy ra đối với con tàu ở ngoài
biển như tàu bị mắc cạn, cháy, nổ, đâm va, mất tích
- Rủi ro do các hiện tượng chính trị, xã hội: rủi ro chiến tranh, đình công, hành
động khủng bố
d. Căn cứ vào nguyên nhân gây ra rủi ro
- Rủi ro có nguyên nhân khách quan: Là rủi ro do tác động của môi trường vĩ
mô và nguyên nhân bên ngoài mà doanh nghiệp không thể kiểm soát chi phối được.
Như rủi ro do chính trị bất ổn, kinh tế suy thoái, tỷ giá biến động
- Rủi ro có nguyên nhân chủ quan: Là rủi ro bắt nguồn từ các nguyên nhân chủ
quan như những yếu kém của doanh nghiệp về nghiệp vụ chuyên môn, thiếu thông
tin, sai lầm trong chính sách kinh doanh
e. Căn cứ vào nghiệp vụ của bảo hiểm
- Rủi ro thông thường được bảo hiểm: Là rủi ro có tính chất bất ngờ, ngẫu
nhiên, xảy ra ngoài ý muốn của người và được bảo hiểm theo các điều kiện bảo
hiểm A, B, C. Ví dụ: rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ.
- Rủi ro phải bảo hiểm riêng, không được bồi thường theo các điều kiện bảo
hiểm gốc A, B, C. Ví dụ: chiến tranh, đình công
- Rủi ro loại trừ: Là rủi ro không được bảo hiểm trong mọi trường hợp. Ví dụ:

rủi ro do nội tỳ, ẩn tỳ của hàng hóa, lỗi của người được bảo hiểm
Ngoài ra, người ta còn phân biệt rủi ro mang tính đầu cơ và rủi ro thuần tuý. Rủi
ro mang tính đầu cơ là rủi ro mà doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận với hy vọng có
cơ hội tạo ra lợi nhuận. Rủi ro thuần tuý là rủi ro chỉ đem lại thiệt hại.
1.2.2.6. Quan hệ giữa rủi ro và hiệu quả thực hiện hợp đồng XNK.
a. Hiệu quả thực hiện hợp đồng XNK
Hiệu quả thực hiện hợp đồng XNK là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử

×