Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Tăng cường thu hút vốn đầu tư từ người Việt Nam định cư ở nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 117 trang )



ĐẠI HỌC KINH TẾ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI




NGUYỄN THỊ THANH HÀ




TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGƯỜI

VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI






Người hướng dẫn PGS TS : NGUYỄN HỒNG SƠN






Hà nội: 2007




1
Mở đầu

1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Vốn là một trong những điều kiện hàng đầu của tăng trưởng ở mọi quốc
gia. Vốn ở đây bao gồm cả vốn đầu tư trong nước cũng như nguồn vốn đầu tư
từ nước ngoài. Các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng, đều
thiếu vốn để đầu tư phát triển do nguồn vốn trong nước không đủ để đáp ứng
nhu cầu đầu tư và việc tăng cường huy động các nguồn vốn nước ngoài để bổ
sung cho tổng vốn đầu tư phát triển có ý nghĩa rất quan trọng.
Để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân từ 7,5 - 8%/năm, từ nay
đến năm 2010 nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế Việt Nam lên tới khoảng
136 - 140 tỷ USD, trong đó 35% là vốn nước ngoài. Ngoài các hình thức huy
động vốn nước ngoài đã sử dụng ở Việt Nam, trong những năm gần đây, thu
hút kiều hối và đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang nổi lên
như là một nguồn thu hút vốn nước ngoài khá lớn.
Theo thống kê, hiện nay có khoảng hơn 3,3 triệu người Việt Nam sinh
sống ở trên 118 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới với mức thu nhập hàng
năm khoảng 30 tỷ USD. Trong số đó 80% sống ở các nước công nghiệp phát
triển, nơi có mức sống và thu nhập cao hơn trong nước rất nhiều. Từ năm
1997 đến năm 2005, lượng kiều hối về Việt Nam ước tính đạt khoảng 18,556
tỷ USD, bằng 77% tổng vốn FDI thực hiện và lớn hơn cả tổng số vốn ODA
giải ngân từ năm 1993 đến nay.
Từ năm 1988 đến hết tháng 6/2006, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài đầu tư trực tiếp về Việt Nam có quyền lựa chọn đầu tư theo Luật
Khuyến khích đầu tư trong nước (Luật KKĐTTN) hoặc Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam (Luật ĐTNN tại Việt Nam). Từ ngày 1/7/2006, Luật Đầu
tư mới có hiệu lực, kiều bào đầu tư trực tiếp về nước theo quy định của Luật

Đầu tư (2005). Tuy vậy, việc tiếp cận số liệu, tổng hợp số liệu đầu tư của kiều


2
bào, để làm cơ sở phân tích tình hình đầu tư về nước của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài trên thực tế còn rất nhiều khó khăn.
Ngoài ra, trong khi các nhà đầu tư nước ngoài còn e ngại, còn xa lạ với
môi trường đầu tư ở Việt Nam thì chính các nhà đầu tư người Việt Nam định
cư ở nước ngoài là chất xúc tác, là người môi giới đưa đầu tư nước ngoài về
nước. Nhiều hãng nước ngoài đã bỏ tiền thuê chuyên gia gốc Việt để tìm hiểu,
tư vấn đầu tư.
Tuy nhiên, nhìn chung hoạt động đầu tư của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài còn chưa có một bước chuyển thật sự, còn nhỏ bé so với tốc độ
tăng trưởng của lượng kiều hối và tiềm năng của kiều bào. Qui mô đầu tư còn
rất khiêm tốn, phân bố không đồng đều. Nguồn lực về vốn đầu tư của người
Việt Nam ở nước ngoài vẫn đang có nhiều khả năng để tạo những bước đột
phá trong tương lai. Nghiên cứu nguyên nhân, rào cản, đưa ra giải pháp để thu
hút vốn đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang là câu hỏi cần
có lời giải đáp.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU:
Đã có nhiều nghiên cứu, đánh giá về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, vốn ODA đến tăng trưởng kinh tế.
Song với dòng vốn đầu tư từ người Việt Nam định cư ở nước ngoài các
nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở các báo cáo chuyên đề.
Ở Việt Nam, có một số công trình nghiên cứu về kiều bào như:
- Cuốn sách: “Về người Việt Nam định cư ở nước ngoài" của Bác sỹ
Nguyễn Ngọc Hà, NXB Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1990.
- Cuốn sách: “Người Việt Nam ở nước ngoài” của tác giả Trần Trọng
Đăng Đàn, NXB Chính trị quốc gia phát hành năm 1997.
Ngoài ra, còn một số bài viết trên các báo, tạp chí, tài liệu tham gia hội

thảo như:


3
- Bài viết: “Cần có chính sách khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn
ngoại tệ từ kiều hối” của tác giả Lý Thành Tiến đăng trên Tạp chí Thương
mại số 45/2005.
- Bài viết: “Một số vấn đề về thu hút và quản lý nguồn kiều hối” của tác
giả N.X.Thành và Phạm Thị Phương Anh đăng trên Tạp chí Ngân hàng số
11/2004.
- Bài viết: “Kiều hối và những vấn đề đặt ra trong điều hành chính sách
tiền tệ ở Việt Nam” của TS. Vũ Đình Ánh, ThS Nguyễn Hải Thu - Viện KH
Tài chính, Bộ Tài chính.
- Bài viết: “Một số vấn đề về chuyển tiền kiều hối ở Việt Nam” của
ThS Nguyễn Thị Hồng - Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam.
- Bài viết: “Thu hút và sử dụng kiều hối ở Việt Nam” của PGS. TS Lê
Hoàng Nga - Học viện Ngân hàng.
- Bài viết: “Chính sách thu hút kiều hối thời gian qua: mối quan hệ biện
chứng với điều hành chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ” của tác giả Lê
Diệu Linh - Vụ Quản lý ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Do yêu cầu và mục tiêu nghiên cứu khác nhau nên các nghiên cứu của
các tác giả kể trên thường chỉ đề cập đến những khía cạnh riêng lẻ như vấn đề
chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội hoặc tác động của kiều hối đến chính sách
tiền tệ. Những nghiên cứu kể trên chưa xem xét một cách tổng thể về người
Việt Nam định cư ở nước ngoài như là một đối tượng có nguồn vốn đầu tư
mạnh về Việt Nam trong thời gian tới và giải quyết các vấn đề về chính sách
đầu tư để huy động và quản lý nguồn vốn đó.
Trong khi đó, Chính phủ một số quốc gia và vùng lãnh thổ như Trung

Quốc, Ấn Độ, đã có những nghiên cứu và đề ra được những chính sách,


4
giải pháp cụ thể để thu hút đầu tư đối với kiều dân của họ, phát huy tác dụng
tích cực từ nguồn lực của kiều dân vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Luận văn này sẽ cố gắng phần nào lấp những chỗ trống trong các
nghiên cứu kể trên.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
* Mục đích nghiên cứu: Đưa ra một số gợi ý về giải pháp chính sách
nhằm thu hút và quản lý có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, trên cơ sở nghiên cứu vai trò của vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đối với phát triển kinh tế và thực trạng của dòng vốn đầu tư về
nước từ người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích vai trò của vốn đầu tư từ người Việt Nam định cư ở nước
ngoài đối với phát triển kinh tế trong nước.
- Chỉ ra tiềm năng, nguồn lực kinh tế của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài.
- Phân tích, đánh giá thực trạng dòng vốn đầu tư về nước của kiều bào.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và quản lý dòng
vốn đầu tư về nước của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
- Vốn đầu tư về Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Chính sách thu hút và quản lý dòng vốn đầu tư của người Việt Nam ở
nước ngoài.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Luận văn nghiên cứu tình hình đầu tư về nước của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài trong khoảng thời gian từ năm 1988 đến năm 2005. Đây

là khoảng thời gian mà người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư trực tiếp


5
về Việt Nam có quyền lựa chọn theo Luật KKĐTTN hoặc Luật ĐTNN tại
Việt Nam. Vì thế, toàn bộ số liệu và phân tích thực trạng đầu tư của kiều bào
trong khuôn khổ Luận văn này sẽ dựa trên cơ sở Luật KKĐTTN và Luật
ĐTNN tại Việt Nam. Luật Đầu tư mới chỉ được đề cập đến trong một chừng
mực hạn chế do khó khăn về nguồn số liệu.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để có cơ sở làm rõ các vấn đề nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, thống kê
6. DỰ KIẾN NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN:
- Khẳng định tầm quan trọng của dòng vốn đầu tư của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài.
- Đưa ra những đánh giá khoa học về thực trạng dòng vốn đầu tư của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thu hút và quản lý có hiệu quả dòng
vốn đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Khái quát chung về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và kinh
nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ ngoại kiều của một số
nước.
Chƣơng 2: Thực trạng thu hút vốn đầu tư từ người Việt Nam định cư ở nước
ngoài trong thời gian qua.
Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư từ người
Việt Nam định cư ở nước ngoài.






6





CHƢƠNG 1:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VỐN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
VÀ KINH NGHIỆM THU HÚT VỐN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
TỪ NGOẠI KIỀU CỦA MỘT SỐ NƢỚC.

Trước khi Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp được Quốc hội khoá XI,
kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và chính thức có hiệu lực từ ngày
1/7/2006, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư trực tiếp về Việt Nam
có quyền lựa chọn đầu tư theo Luật KKĐTTN hoặc Luật ĐTNN tại Việt Nam
nhưng mỗi dự án đầu tư chỉ áp dụng một trong hai luật đó. Do vậy, luận văn
sẽ trình bày một số lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ sở
nghiên cứu.
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VỐN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
1.1.1. Khái niệm vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong các kênh thu hút vốn
ĐTNN chảy vào một quốc gia. Trên thế giới có nhiều cách diễn giải khái
niệm FDI tuỳ theo góc độ tiếp cận của các nhà kinh tế.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign
Direct Investment) là vốn đầu tư thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong
một doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà
đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong

việc quản lý doanh nghiệp đó.


7
Khái niệm này nhấn mạnh 3 yếu tố: chủ thể đầu tư phải có yếu tố nước
ngoài, tính lâu dài của hoạt động đầu tư và động cơ đầu tư là giành quyền
kiểm soát trực tiếp hoạt động quản lý của doanh nghiệp. Đây là sự phân biệt
FDI với đầu tư gián tiếp trên thị trường vốn trong nền kinh tế hiện đại.
Các nhà kinh tế học B.O Siderten Geoffrey Reed và Dominick
Salvatore cũng có cách tiếp cận tương tự. Trong cuốn International
Economics năm 1995, Salvatore đã đưa ra khái niệm: FDI là đầu tư thực
(real) vào nhà máy các hàng hoá đầu tư, đất đai, hàng hoá tồn kho, ở đó quyền
quản lý và tư bản cùng tồn tại và nhà đầu tư giữ quyền quản lý trong suốt quá
trình sử dụng vốn đầu tư đó.
Khái niệm này chưa thể hiện mục tiêu lớn nhất của nhà đầu tư là lợi
nhuận cao.
Trung Quốc quan niệm FDI là việc người sở hữu tư bản tại nước
này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Theo
đó, nếu khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho thực thể kinh tế này của
nước ngoài có “ảnh hưởng quyết định” đối với thực thể kinh tế ấy
hoặc tăng thêm “quyền cầm cái” trong thực thể kinh tế mà nó có ảnh
hưởng ấy, thì đó là đầu tư trực tiếp. Quyền kiểm soát mà các nhà lý
luận Trung Quốc đề cập tới đó là tỷ lệ chiếm hữu cổ phần; khi cổ
phần đạt tới tỷ lệ nào đó thì có quyền kiểm soát xí nghiệp và quyền
này là vấn đề cốt lõi của đầu tư trực tiếp. Như vậy cách hiểu của
Trung Quốc nhấn mạnh đến khía cạnh sở hữu hoặc kiểm soát trực
tiếp của chủ đầu tư đối với các hoạt động đầu tư bằng vốn đầu tư
của mình. [1, tr 15]
Theo Luật ĐTNN tại Việt Nam năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật ĐTNN tại Việt Nam (số 18/2000/QH10) năm 2000 thì:

Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam


8
vốn hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của
Luật này. Khái niệm này nhấn mạnh chủ đầu tư là người nước ngoài nhằm
xác định được tư bản được chuyển dịch trong đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất
thiết phải vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia.
Nhìn chung, các định nghĩa trên đã nhận dạng đầu tư trực tiếp nước
ngoài tập trung vào các tiêu thức sau:
- Chủ thể đầu tư có thể là Chính phủ, cá nhân hoặc hỗn hợp (chủ yếu
được thực hiện từ nguồn vốn tư nhân) từ một nền kinh tế khác. Nghĩa là chủ
sở hữu vốn phải có yếu tố nước ngoài mà thể hiện là sự khác nhau về quốc
tịch, lãnh thổ giữa bên đi đầu tư và bên nhận đầu tư.
- Về vốn góp: các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng một lượng vốn tối
thiểu theo quy định của mỗi nước nhận đầu tư để họ có quyền trực tiếp tham
gia quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn, tại Mỹ là 10%, các
nước kinh tế thị trường Phương Tây nói chung quy định là 20% hoặc 25%. Ở
Việt Nam, Luật ĐTNN cũng đưa ra điều kiện “Phần vốn góp của bên nước
ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh không bị hạn chế về
mức độ cao nhất theo sự thoả thuận của các bên, nhưng không dưới 30% vốn
pháp định, trừ những trường hợp do Chính phủ quy định” [27].
Căn cứ vào mức vốn góp, nhà đầu tư nước ngoài có quyền điều hành,
quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư 100% vốn thì quyền điều hành hoàn toàn thuộc về họ, họ có thể trực
tiếp quản lý hoặc thuê người quản lý.
Dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lợi nhuận được phân chia theo tỷ
lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi đã trừ các khoản đóng góp.
- Loại hình đầu tư: FDI là loại hình đầu tư dài hạn bởi hoạt động đầu tư
này gắn liền với việc xây dựng các cơ sở, chi nhánh sản xuất kinh doanh tại

nước tiếp nhận đầu tư. Nói cách khác, đây là vốn có tính “bén rễ” ở nước tiếp


9
nhận nên không thể rút trong một thời gian ngắn. Do đó, với tư cách là một
dòng vốn quốc tế, FDI có bản chất là dòng chu chuyển vốn có thời gian tương
đối dài. Dòng vốn này có tính chất khác biệt so với hoạt động đầu tư gián tiếp
(mua, bán chứng khoán) hoặc các giao dịch vay nợ giữa các quốc gia, các
doanh nghiệp trên thế giới. Do gắn với công trình, dự án đầu tư ở một địa
điểm cụ thể, FDI có tính ổn định tương đối cao, dễ theo dõi, dễ kiểm soát,
không biến động bất thường như các dòng tiền ngắn hạn hoặc các khoản đầu
tư gián tiếp.
Qua sự phân tích trên, có thể định nghĩa vốn FDI một cách đầy đủ như
sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) là loại
hình đầu tư dài hạn mà trong đó chủ đầu tư là người nước ngoài đưa vốn vào
một nước khác và tham gia trực tiếp vào việc quản lý sử dụng vốn theo quy
định của Luật đầu tư tại nước sở tại, nhằm mục tiêu thu lợi nhuận cao.
Nguyên nhân cơ bản của di chuyển vốn đầu tư dưới hình thức đầu tư
trực tiếp nước ngoài là do có sự chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận xuất phát từ
lợi thế so sánh khác nhau giữa các quốc gia. Điều kiện thuận lợi cho di
chuyển vốn đầu tư là xu thế tự do hoá thương mại, đầu tư và tài chính ngày
càng tăng trên thế giới hiện nay.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài biểu hiện sự gặp nhau giữa "cung và cầu",
đó là lợi ích của nhà đầu tư và nhu cầu của nước tiếp nhận đầu tư. Khi việc
đầu tư ở trong nước không còn mang lại nhiều lợi nhuận, các nhà đầu tư có sự
chuyển hướng đưa vốn đầu tư ra nước ngoài, nơi các yếu tố chi phí sản xuất
rẻ hơn, cho phép thu lợi nhận cao hơn hoặc đạt được những mục tiêu quan
trọng về mở rộng qui mô, chiếm lĩnh thị phần, tăng sức mạnh so với các đối
thủ cạnh tranh Thông qua thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam có
điều kiện bổ sung vốn đầu tư phát triển, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới

công nghệ, nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế.


10
Để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân từ 7,5 - 8%/năm, từ nay
đến năm 2010 nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế Việt Nam lên tới khoảng
136 - 140 tỷ USD. Trong đó 35% là vốn nước ngoài chủ yếu vào Việt Nam
qua con đường đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp (FII), viện trợ phát triển
chính thức (vốn ODA).
Nghiên cứu các đặc điểm của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp
chúng ta đưa ra được những biện pháp thu hút nguồn vốn này.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
FDI có những đặc điểm nhất định, phân biệt với các hình thức đầu tư
nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài khác. Đặc điểm của FDI cho thấy tính hai
mặt của nó đối với nước tiếp nhận đầu tư: cả tích cực và hạn chế
* Những mặt tích cực:
Thứ nhất, FDI không để lại gánh nặng nợ nần cho chính phủ nước tiếp
nhận đầu tư như ODA hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác như vay
thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài …
Vì chính các nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn ra kinh doanh, trực tiếp
điều hành sản xuất kinh doanh, làm ăn lâu dài tại nước sở tại, hoàn toàn tự
chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư (theo nguyên tắc “lời ăn, lỗ chịu”). Thực
hiện liên doanh với đối tác đầu tư trong nước, họ cùng chia sẻ rủi ro khi gặp
rủi ro về tài chính.
So với những điều kiện ràng buộc khắt khe thường đi kèm với nguồn
vốn ODA của người cung ứng vốn, lãi suất cao của vay thương mại thì rõ
ràng nguồn vốn FDI tương đối ít rủi ro hơn cho nước tiếp nhận đầu tư.
Thứ hai, do đặc điểm và bản chất của FDI, nhà đầu tư nước ngoài
không dễ dàng rút vốn khỏi nước sở tại như đầu tư gián tiếp.



11
Những cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ thường làm nhà đầu tư
nước ngoài ồ ạt rút vốn bằng cách “bán tống, bán tháo” cổ phiếu, trái phiếu
đang nắm giữ, làm sụt giá chứng khoán, gây đổ vỡ thị trường chứng khoán.
Đối với FDI, nhà đầu tư nước ngoài thường tính chuyện làm ăn lâu dài,
không mang tính đầu cơ như đầu tư gián tiếp. Vốn của họ nằm trong nhà
xưởng, thiết bị nên trong trường hợp không muốn đầu tư tiếp thì họ phải
chuyển đổi thành tiền hoặc bán lại, thanh lý nhà máy mới thu hồi được vốn và
chuyển về nước định cư.
Thứ ba, nguồn vốn này không chỉ đơn thuần là vốn mà kèm theo đó là
công nghệ, kỹ thuật, phương thức quản lý tiên tiến, cho phép tạo ra những sản
phẩm mới, mở ra thị trường mới cho nước tiếp nhận đầu tư.
Thứ tư, thông qua tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài mà nước tiếp
nhận đầu tư có điều kiện thuận lợi để gắn kết nền kinh tế trong nước với hệ
thống sản xuất, phân phối, trao đổi quốc tế, thúc đẩy mạnh hơn quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
* Một số hạn chế: Bên cạnh những mặt tích cực, vốn FDI có thể cũng
gây ra những bất lợi nhất định cho nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư. Đó
là:
- Việc sử dụng nhiều vốn đầu tư từ nước ngoài có thể dẫn đến việc
thiếu chú trọng huy động và sử dụng tối đa nguồn vốn trong nước, gây ra sự
mất cân đối trong cơ cấu đầu tư (giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài), ảnh
hưởng đến tính độc lập, tự chủ, nền kinh tế phát triển có tình trạng lệ thuộc
bên ngoài, thiếu tính vững chắc.
- Mục tiêu lớn nhất của nhà đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận vì vậy không
thể tránh được việc những nhà đầu tư lợi dụng trình độ công nghệ thấp, trình
độ quản lý yếu kém của nước tiếp nhận đầu tư để tiêu thụ những máy móc,
thiết bị đã lạc hậu, thậm chí là hàng thải loại. Nếu không có những qui định



12
và sự kiểm soát chặt chẽ, nước nhận FDI dễ trở thành “bãi rác công nghệ” của
các đối tác đầu tư, gây thiệt hại to lớn cho nền kinh tế.
- Việc đầu tư vào các vùng kinh tế trong nước có khả năng gây ra một
số ảnh hưởng bất lợi về kinh tế - xã hội như làm tăng chênh lệch về thu nhập,
làm gia tăng phân hoá trong các tầng lớp nhân dân, tăng mức độ chênh lệch
phát triển trong một vùng hoặc giữa các vùng … Quyết định đầu tư (qui mô,
địa điểm, hình thức, sản phẩm, công nghệ, phân phối sản phẩm ….) thuộc về
nhà đầu tư nên nước chủ nhà khó chủ động trong việc điều phối, phân bổ
nguồn vốn FDI.
Tuy nhiên, những mặt hạn chế của FDI gây ảnh hưởng như thế nào còn
phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của nước tiếp nhận đầu tư (quan điểm, nhận
thức, chiến lược, thể chế, chính sách…) Nếu có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đầy đủ
và các biện pháp phù hợp, nước tiếp nhận FDI vừa có thể hạn chế, giảm thiểu
được những tiêu cực, bất lợi, xử lý hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích của nhà
đầu tư và lợi ích quốc gia, tạo ra lợi ích tổng thể cho tiến trình phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước theo mục tiêu, định hướng của mình.
1.1.3. Các hình thức cơ bản của đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI):
Việc nghiên cứu các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ giải
thích rõ hơn khái niệm về hoạt động đầu tư này, đồng thời là cơ sở lựa chọn
khi kêu gọi chấp nhận FDI. Mặc dù, mục tiêu cuối cùng của các nhà đầu tư
khi đầu tư ra nước ngoài đều nhằm thu lợi nhuận cao nhưng mỗi quốc gia và
mỗi nhà đầu tư thực hiện các hình thức đầu tư cũng rất khác nhau, tuỳ vào
điều kiện cụ thể. Các hình thức FDI của một quốc gia do luật pháp từng nước
qui định và được áp dụng phổ biến là:
- Xét theo mục đích đầu tư: FDI được phân thành hai loại: đầu tư theo
chiều ngang và đầu tư theo chiều dọc.



13
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang (Horizontal
integration - HI): là việc một công ty tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào chính ngành sản xuất mà họ đang có lợi thế cạnh tranh một loại sản phẩm
nào đó. Với lợi thế này, họ muốn tìm kiếm lợi nhuận cao hơn ở nước ngoài
nên đã mở rộng và thôn tính thị trường nước ngoài do đó thường dẫn tới cạnh
tranh độc quyền. Mỹ, Nhật Bản đang dẫn đầu với hình thức đầu tư này ở các
nước phát triển.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc (Vertical integration -
VI): khác với hình thức đầu tư theo chiều ngang, hình thức này nhằm mục
đích khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào rẻ như lao
động, đất đai ở các nước nhận đầu tư. Do các nhà đầu tư thường chú ý khai
thác các lợi thế cạnh tranh của các yếu tố đầu vào giữa các khâu trong quá
trình sản xuất ra một loại sản phẩm trong phân công lao động quốc tế nên các
sản phẩm thường được hoàn thiện qua lắp ráp ở các nước nhận đầu tư. Sau
đó, sản phẩm này có thể lại được nhập khẩu về nước đầu tư hay xuất khẩu
sang nước khác. Đây là hình thức đầu tư ra nước ngoài khá phổ biến tại các
nước đang phát triển.
- Xét theo chiến lược đầu tư: các công ty đầu tư ra nước ngoài theo hai
hình thức chủ yếu: đầu tư mới (Greenfield investment - GI) và mua lại & sáp
nhập (Mergers and acquisitions - M & A).
+ Đầu tư mới là các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở nước ngoài thông
qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới. Đây là kênh đầu tư truyền thống
của FDI và cũng là kênh chủ yếu để các nhà đầu tư ở các nước phát triển đầu
tư ở các nước đang phát triển. Mục đích cơ bản của hình thức đầu tư này là
xây dựng các cơ sở sản xuất, kinh doanh mới ở nước ngoài và mở rộng (dịch
chuyển hoặc phát triển thêm) mạng lưới sản xuất, phân phối của công ty trên


14

phạm vi toàn cầu. Đầu tư mới thường có tư cách pháp nhân và hoạt động theo
qui định của luật pháp nước chủ nhà.
+ M & A: các chủ đầu tư tiến hành đầu tư thông qua việc mua lại và
sáp nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài với mục tiêu chủ yếu là tiếp
cận thị trường mới (mở rộng mạng lưới phân phối), tăng sức cạnh tranh và
giảm chi phí quản lý.
Các công ty xuyên quốc gia thường thực hiện hỗn hợp giữa hai hình
thức GI và M & A trong chiến lược đầu tư ra nước ngoài.
- Xét về hình thức sở hữu: đầu tư trực tiếp nước ngoài thường có các
hình thức sau:
+ Hình thức doanh nghiệp liên doanh: Doanh nghiệp liên doanh do hai
hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên
doanh. Hình thức này có các đặc trưng: pháp nhân mới được thành lập theo
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật
của nước chủ nhà. Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một
pháp nhân riêng. Nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập
với các bên tham gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn đã qui định vào liên
doanh thì dù một bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Mỗi
bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh
trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
Thông qua hình thức liên doanh, nước nhận đầu tư sẽ kiểm soát, học
được kinh nghiệm quản lý tiên tiến và được chia sẻ lợi nhuận với các chủ đầu
tư nước ngoài. Về phía nhà đầu tư nước ngoài lại tận dụng được hệ thống
phân phối sẵn có của đối tác nước chủ nhà, được đầu tư vào những lĩnh vực
dễ thu lời, lĩnh vực bị cấm hoặc hạn chế với hình thức đầu tư khác. Ngoài ra,
họ không mất thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới và xây


15
dựng các mối quan hệ, chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư với đối tác nước

chủ nhà.
Doanh nghiệp liên doanh cũng có những hạn chế như: Ban lãnh đạo
gồm nhiều bên nên sẽ mất thời gian khi bàn bạc và ra quyết định các vấn đề
liên quan đến hoạt động kinh doanh và dễ xuất hiện mâu thuẫn trong điều
hành. Nếu đối tác nước chủ nhà tham gia liên doanh chủ yếu bằng tiền thuê
đất, năng lực quản lý hạn chế sẽ dẫn đến việc hoạt động kém hiệu quả của
doanh nghiệp liên doanh.
Còn đối với nhà đầu tư nước ngoài, vì hoạt động liên doanh diễn ra
trong môi trường kinh doanh của nước nhận đầu tư nên họ cũng phải đối mặt
với những khó khăn phát sinh do sự khác biệt về tập quán, văn hoá. …
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: đây là doanh nghiệp thuộc
quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng
toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự
quản lý, điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Về
mặt pháp lý, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là công ty trách nhiệm hữu
hạn hoặc công ty cổ phần, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước nhận
đầu tư, chịu sự kiểm soát của pháp luật nước sở tại.
Ưu điểm của hình thức này là nước chủ nhà có thể thu ngay được tiền
thuế đất, tiền thuế mặc dù doanh nghiệp bị lỗ, giải quyết được công ăn việc
làm mà không cần bỏ vốn đầu tư, tập trung thu hút vốn, công nghệ nước ngoài
vào những lĩnh vực khuyến khích xuất khẩu. Tuy nhiên, nước chủ nhà khó
tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ để nâng cao trình độ cán bộ quản
lý, cán bộ kỹ thuật so với hình thức liên doanh.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài, hình thức đầu tư này giúp họ có thể chủ
động trong quản lý, điều hành doanh nghiệp, chủ động trong tuyển dụng và
đào tạo nguồn nhân lực, đẩy nhanh được tiến độ triển khai dự án đầu tư theo


16
chiến lược toàn cầu của tập đoàn. Nhưng đồng thời, họ cũng phải gánh chịu

toàn bộ rủi ro và chi phí lớn cho việc nghiên cứu tiếp cận thị trường mới. Với
những quốc gia có những quy định hạn chế đối với doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài thì nhà đầu tư nước ngoài còn gặp khó khăn trong việc xâm nhập
những lĩnh vực có nhiều thuận lợi và trong quan hệ với các cơ quan quản lý
Nhà nước sở tại.
+ Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh
doanh: đây là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh
doanh được ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh)
để tiến hành một hay nhiều hoạt động kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong
đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham
gia mà không cần thành lập xí nghiệp kinh doanh hoặc pháp nhân mới.
Về mặt pháp lý, hợp doanh là một thực thể kinh doanh theo pháp luật
của nước sở tại, chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại. Hình thức này
không làm hình thành một công ty hay một xí nghiệp mới. Mỗi bên vẫn hoạt
động với tư cách pháp nhân độc lập của mình và thực hiện các nghĩa vụ của
mình trước Nhà nước. Kết quả kinh doanh thu được được phân chia theo tỷ lệ
góp vốn hoặc theo thoả thuận giữa các bên.
Với nước chủ nhà hình thức này giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn,
thiếu công nghệ, tạo ra thị trường mới nhưng vẫn đảm bảo được an ninh quốc
gia và nắm được quyền điều hành dự án. Tuy vậy, rất khó thu hút được đầu tư
dưới hình thức này, chỉ có thể thực hiện đối với một số lĩnh vực dễ sinh lời.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài, hình thức hợp doanh giúp họ tận dụng
được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác, thâm nhập được thị trường truyền
thống của nước chủ nhà và vào được những lĩnh vực hạn chế đầu tư. Giúp
giảm chi phí và thời gian cho việc nghiên cứu thị trường mới, xây dựng được
các mối quan hệ, không bị tác động lớn do sự khác biệt về văn hoá, chia sẻ


17
được chi phí và rủi ro đầu tư. Tuy nhiên, ở hình thức hợp doanh nhà đầu tư

nước ngoài không được trực tiếp quản lý điều hành dự án và mối quan hệ hợp
tác với đối tác nước sở tại thiếu tính chắc chắn khiến họ trở nên e dè hơn khi
đầu tư theo hình thức này.
Ngoài ba hình thức cơ bản trên, theo yêu cầu đầu tư về hạ tầng, các
công trình xây dựng còn có hình thức:
+ Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT): là một
phương thức đầu tư trực tiếp được thực hiện trên cơ sở văn bản được ký kết
giữa nhà đầu tư nước ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ
quan nước ngoài có thẩm quyền để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ
tầng trong một thời gian nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển
giao không bồi hoàn công trình đó cho nước chủ nhà.
Hợp đồng BOT thường được thực hiện bằng 100% vốn nước ngoài,
cũng có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần vốn góp của chính
phủ hoặc các tổ chức, cá nhân của nước chủ nhà. Trong hình thức đầu tư này,
các nhà đầu tư nước ngoài có toàn quyền tổ chức xây dựng, kinh doanh công
trình trong một thời gian đủ thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý, sau đó
có nghĩa vụ chuyển giao cho nước chủ nhà mà không được bồi hoàn bất kỳ
khoản tiền nào.
+ Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO): là phương
thức đầu tư dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình
kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao
công trình cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà có thể sẽ dành cho nhà đầu tư
quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn
đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.


18
+ Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT): là một phương thức đầu tư
nước ngoài trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền

của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ
tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình
cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước
ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Các hình thức đầu tư xây dựng hạ tầng, công trình xây dựng giúp nhiều
quốc gia nhận đầu tư có thể thu hút được vốn đầu tư vào những dự án hạ tầng
đòi hỏi vốn lớn, giảm sức ép cho ngân sách nhà nước, đồng thời nhanh chóng
có công trình kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, giúp khai thác các nguồn lực trong
nước và thu hút thêm FDI để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nhược điểm của
các hình thức này là khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý và khó kiểm soát
được công trình. Nhà nước cũng phải chịu mọi rủi ro ngoài khả năng kiểm
soát của nhà đầu tư.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài, việc chủ động quản lý điều hành và tự
chủ kinh doanh giúp đảm bảo hiệu quả đồng vốn đầu tư và lợi nhuận không bị
chia sẻ. Các dự án đầu tư được Nhà nước sở tại đảm bảo, tránh được rủi ro bất
thường ngoài khả năng kiểm soát. Tuy vậy, chi phí đầu tư cho những dự án
xây dựng hạ tầng lớn, việc đàm phán cũng như thực thi hợp đồng thường gặp
nhiều khó khăn, tốn nhiều thời gian, công sức, nhất là việc đàm phán và ký
kết hợp đồng với các nhà cung cấp nguyên liệu đầu vào và khách hàng tiêu
thụ sản phẩm, dịch vụ.
Ngoài ra, còn có các hình thức như: Công ty cổ phần có vốn ĐTNN,
Công ty hợp danh, Công ty mẹ - con (Holding Company)
Tóm lại, FDI có nhiều hình thức đầu tư khác nhau. Mỗi hình thức đầu
tư có những đặc điểm, ưu thế và hạn chế nhất định. Do đó, để kết hợp hài hoà
lợi ích của nhà đầu tư, cũng như thực hiện mục tiêu thu hút vốn phù hợp với


19
từng vùng và toàn bộ nền kinh tế cần phải đa dạng hoá các hình thức đầu tư.
Việc lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp còn tuỳ thuộc vào khả năng và điều

kiện cụ thể.
1.2. THU HÚT VỐN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
1.2.1. Sự cần thiết của thu hút vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài của một
quốc gia
- Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là phù hợp và đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế:
Ngày nay, do tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, lực
lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh mẽ phá vỡ sự biệt lập của các quốc
gia, tạo ra sự gắn kết, sự tương tuỳ giữa các quốc gia, dân tộc trong sự vận
động phát triển. Các quốc gia dù muốn hay không đều chịu tác động của quá
trình toàn cầu hoá và quốc tế hoá. Để có thể tồn tại và phát triển trong điều
kiện đó, các quốc gia buộc phải thực hiện mở cửa, khai thông, hội nhập kinh
tế quốc tế khu vực và toàn cầu.
Tham gia hội nhập, các quốc gia có cơ hội và điều kiện tiếp cận
với dòng vốn, công nghệ, mở rộng thị trường, tiếp nhận kỹ năng và
kinh nghiệm quản lý từ các nền kinh tế phát triển cao nhất. Các nền
kinh tế đang phát triển và kinh tế chuyển đổi, do đó sẽ có cơ hội để
thực hiện mô thức phát triển và rút ngắn, nghĩa là thông qua hội
nhập kinh tế quốc tế để đi tắt đón đầu và tiến tới phát triển cao hơn
trên cơ sở thụ hưởng và vận dụng hiệu quả các nguồn lực ở bên
ngoài đã được khai thông và kết nối với các nguồn lực bên trong.
[19, tr 18]
Trong tiến trình hội nhập, việc thu hút và sử dụng các nguồn lực bên
ngoài, trong đó có vốn đầu tư nước ngoài từ người Việt Nam định cư ở nước
ngoài có ý nghĩa quan trọng đến tăng trưởng kinh tế bền vững của Việt Nam.


20
Với cả hai bên (bên đầu tư và bên nhận đầu tư), lợi ích thu được từ việc đầu
tư về nước đã mở ra cơ hội hợp tác và hội nhập cho toàn bộ nền kinh tế, góp

phần đảm bảo nguồn lực lâu dài và có hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế bền
vững.
Thực tế cho thấy, tốc độ tăng trưởng GDP của các quốc gia tham
gia vào quá trình toàn cầu hoá gần đây đã tăng từ 2,9%/năm trong
thập kỷ 70 lên 3,7%/năm trong thập kỷ 80 và 5,0%/năm trong thập
kỷ 90. Còn các quốc gia đang phát triển không nằm trong trong
nhóm “toàn cầu hoá” thì tốc độ tăng trưởng GDP giảm từ
3,3%/năm trong thập kỷ 70 xuống 0,8%/năm trong thập kỷ 80 và
chỉ tăng lên mức 1,4%/năm trong thập kỷ 90. [41, tr 18]
Vì vậy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là phù hợp và đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nhu cầu về vốn đầu tư phát triển:
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế của
một quốc gia. Nhưng cần bao nhiêu, từ đâu và vào đâu thì luôn là bài toán
khó. Hầu hết các nước đang phát triển để đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao và
bền vững đều đang đứng trước hai vấn đề quan trọng có liên quan đến vốn
đầu tư. Một là, tỷ lệ huy động vốn qua kênh tiết kiệm và các khoản thu của
Nhà nước không đáp ứng đủ nhu cầu vốn đầu tư. Khoản thiếu hụt vốn nếu
không tìm được nguồn bổ sung thì sẽ tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Hai là, tình trạng nhập siêu là không thể tránh khỏi trong giai đoạn
đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước dẫn đến sự thiếu hụt ngoại tệ
trong một thời gian dài. Cả hai vấn đề đó có thể giải quyết bằng cách thu hút
vốn ngoài nước trong đó có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của chính người
Việt Nam định cư ở nước ngoài.


21
Một nước phát triển cao như Mỹ, năm 1995 với tổng vốn đầu tư là
1.029 tỷ USD nhưng vẫn cần đến nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
khoảng 20 tỷ USD (mặc dù Mỹ đầu tư ra ngoài một khối lượng vốn tương tự

như vậy). Tuy chỉ chiếm khoảng 8% tổng vốn đầu tư của Mỹ nhưng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào Mỹ góp phần tăng thêm nguồn sinh khí mới cho
thị trường đầu tư của Mỹ và có vai trò nhất định đối với sự phát triển kinh tế
Mỹ.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có ưu thế hơn so với các nguồn vốn
đầu tư nước ngoài khác:
FDI là kênh đầu tư tương đối an toàn, do nhà đầu tư nước ngoài tự chịu
trách nhiệm về chi phí và hiệu quả đầu tư, chịu trách nhiệm vay và trả nợ;
không để lại gánh nặng nợ nần cho ngân sách Nhà nước như vay thương mại,
không phải chịu sức ép bởi các ràng buộc điều kiện kinh tế, chính trị như vốn
vay ODA. Đồng thời, tránh cho nước chủ nhà khỏi những biến động đầy rủi
ro từ những thăng trầm trên thị trường chứng khoán.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một đặc trưng nổi bật của nền kinh tế thế
giới hiện đại, vừa là kết quả, vừa là công cụ và động lực quan trọng thúc đẩy
quá trình toàn cầu hoá.
1.2.2. Cơ cấu thu hút vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Mục tiêu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các quốc gia là
thu hút vốn, công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến của các nền kinh tế
phát triển nhằm khai thác tốt nhất các điều kiện hiện có của mình, từ đó làm
thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước
tiếp nhận đầu tư. Chính vì vậy, cơ cấu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu kinh tế của quốc gia tiếp nhận. Một cơ cấu
thu hút phù hợp sẽ đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối, hợp lý, đáp


22
ứng mục tiêu gọi vốn. Trong khuôn khổ nghiên cứu đã đặt ra, Luận văn này
đề cập tới cơ cấu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên một số tiêu chí:
- Cơ cấu ngành: là cốt lõi của chiến lược kinh tế và là nhân tố quan
trọng nhất quyết định hiệu quả kinh tế. Nhìn chung, vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài sẽ được thu hút mạnh ở các ngành có khả năng đem lại lợi nhuận cao,
giá nhân công rẻ, khả năng tiêu thụ sản phẩm tốt. Vì thế, nếu nước tiếp nhận
đầu tư không có chiến lược thu hút hợp lý thì nền kinh tế dễ đi đến phát triển
mất cân đối.
- Cơ cấu vùng: với động lực chủ yếu là lợi nhuận, các dự án đầu tư vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu sẽ tập trung ở các vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội phát triển, đặc biệt là các vùng có ưu thế vượt trội về cơ sở hạ tầng,
về điều kiện giao thông và năng động trong kinh doanh. Điều đó sẽ góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn ở vùng kinh tế sôi động nhưng lại
càng tạo nên khoảng cách đối với vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Vì vậy, nước tiếp nhận FDI cần có chính sách phù hợp để ưu tiên phát triển
các vùng có khả năng thu hút vốn FDI nhanh nhất nhưng vẫn giảm thiểu sự
cách biệt lớn giữa các vùng khi tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Cơ cấu đối tác đầu tư: nghiên cứu cơ cấu đối tác đầu tư cho phép
nước tiếp nhận FDI đánh giá được tiềm lực vốn và công nghệ cũng như trình
độ quản lý của nhà đầu tư, từ đó có các đối sách thu hút phù hợp. Phân tích
bức tranh cơ cấu đối tác đầu tư, ta có thể nhận thấy: nếu tỷ trọng vốn đầu tư từ
các nhà đầu tư nước ngoài ở các nước công nghiệp phát triển (có tiềm lực
kinh tế lớn, công nghệ hiện đại) thì khả năng giải ngân cao hơn và công nghệ
chuyển giao cũng tiên tiến hơn và ngược lại. Tuy nhiên, điều kiện thu hút vốn
đầu tư từ các quốc gia này cũng phải khắt khe và hấp dẫn hơn.
Tóm lại, việc phân tích tình hình thu hút vốn FDI từ hình thức đầu tư
cũng như cơ cấu thu hút giúp nước tiếp nhận đầu tư đánh giá được những kết


23
quả và hạn chế của hoạt động này, rút ra bài học để từ đó có các điều chỉnh,
đối sách phù hợp với các mục tiêu thu hút đã định. Tuy nhiên, nếu muốn thu
hút được nhiều hay ít nguồn vốn này còn phải tìm hiểu các nhân tố chi phối
sự vận động của dòng vốn quốc tế này.

1.2.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến thu hút vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài
Khả năng thu hút FDI với mỗi quốc gia phụ thuộc vào khá nhiều nhân
tố, có nhân tố thuộc về quốc gia tiếp nhận, có nhân tố do các yếu tố bên ngoài.
Theo hướng nghiên cứu của luận văn, tôi xin đi sâu xem xét các nhân tố chủ
yếu ảnh hưởng tới thu hút FDI được phân tích dưới góc độ của quốc gia tiếp
nhận. Ngoài ra, có thể xem xét đến một số yếu tố ảnh hưởng bên ngoài.
1.2.3.1. Các nhân tố thuộc về quốc gia tiếp nhận
Đây là nhân tố cơ bản quyết định đến khả năng thu hút FDI của một
quốc gia. Các nhân tố sau đây có thể xem như là những nhân tố bên trong tác
động trực tiếp tới sự di chuyển của dòng FDI vào một quốc gia. Đó là:
* Chiến lược huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế:
Đối với một quốc gia, vốn cho đầu tư phát triển thường được chia
thành: vốn trong nước và vốn nước ngoài. Chiến lược huy động vốn phục vụ
phát triển kinh tế có thể coi là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến các hoạt
động triển khai và kết quả thu hút FDI của quốc gia đó. Chiến lược này thể
hiện tập trung ở một số điểm: có mở cửa để thu hút vốn bên ngoài hay không
? Đặt trọng tâm thu hút vốn trong nước hay ngoài nước ? Nguồn vốn nước
ngoài tập trung chủ yếu vào nguồn nào: FDI, ODA hay vay thương mại ?
Định hướng các lĩnh vực thu hút vốn ? Tiêu chuẩn để xây dựng phương
hướng lựa chọn dự án đầu tư nước ngoài ? Việc định hướng chiến lược thu
hút vốn có ý nghĩa quan trọng để thiết lập các điều kiện thu hút phù hợp nhất.
Nói cách khác, do bị quy định bởi chiến lược phát triển được lựa chọn, mỗi


24
mô hình xác định mục tiêu, giải pháp huy động và sử dụng vốn nước ngoài
khác nhau.
Nếu theo đuổi chiến lược tăng trưởng kinh tế hướng nội, dựa vào sản
xuất thay thế nhập khẩu, hình thức huy động vốn được ưa thích hơn cả là vay

thương mại ngắn hạn, phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ ra
nước ngoài. Tính chất ngắn hạn của nguồn vốn này tạo ra áp lực sử dụng vốn
theo những mục tiêu ngắn hạn (thường có tính đầu cơ), không có lợi cho quá
trình phát triển bền vững.
Nếu lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại, tăng trưởng
dựa vào xuất khẩu, hình thức vốn được ưa thích là FDI và vay dài hạn. Các
hình thức này không chịu sức ép của yêu cầu trả nợ cũng như sự gia tăng quá
nhanh khối lượng nợ mà còn tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật hiện đại hơn,
tận dụng tốt các quan hệ thị trường để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
* Mối quan hệ kinh tế quốc tế của quốc gia tiếp nhận:
Trong xu thế quốc tế hoá ngày càng tăng, tính tuỳ thuộc lẫn nhau ngày
càng lớn, không một quốc gia dân tộc nào tự khép kín, cô lập với thế giới mà
có thể phát triển được. Do đó, sự hợp tác, cùng tồn tại và phát triển giữa các
quốc gia, dân tộc có chế độ chính trị - xã hội khác nhau ngày càng tăng.
Trong đó, quan hệ kinh tế quốc tế là mối quan hệ quan trọng nhất vì nó vừa là
trung tâm, vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy mối quan hệ ở các lĩnh
vực khác.
Các mối quan hệ kinh tế quốc tế của một quốc gia vừa là hệ quả của
chiến lược huy động vốn của quốc gia đó, vừa là cơ hội để tìm kiếm đối tác
đầu tư. Nhiều quốc gia khi thực hiện mở cửa tham gia các tổ chức kinh tế khu
vực hoặc quốc tế, hoạt động ngoại thương phát triển một cách nhanh chóng,
thu hút đầu tư nước ngoài đã gia tăng, chất lượng đầu tư nước ngoài được cải

×