Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

chuyển đổi ngành nghê trong nông nghiệp và nông thôn thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa và đô thị hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 95 trang )

Đại học Quốc gia Hà Nội
Trường Đại học Kinh Tế




Phạm Thị Thanh Hiền




Chuyển đổi ngành nghề trong nông nghiệp và nông thôn
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá


Chuyên ngành : Quản trị Kinh doanh
Mã số : 60 34 05



Luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Bích Đào




Hà Nội - Năm 2010



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Chuyển đổi ngành nghề trong nông
nghiệp và nông thôn thời kỳ Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa và đô thị
hóa” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên
cứu trong luận văn này chưa từng được công bố tại bất kỳ công trình nào
khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Trường Đại học
Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội đã truyền đạt cho tôi kiến thức trong
suốt thời gian học tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Bích Đào đã tận tình
hướng dẫn tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Hà Nội, ngày 2 tháng 10 năm 2010
Tác giả luận văn



Phạm Thị Thanh Hiền


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT i
DANH MỤC BẢNG ii
DANH MỤC HÌNH VẼ iii
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHẬN THỨC VỀ CHUYỂN ĐỔI NGÀNH NGHỀ TRONG NÔNG
NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

VÀ ĐÔ THỊ HÓA 6
1.1. Cơ sở lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa 6
1.1.1. Khái niệm cơ bản về Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa và Đô thị hóa 6
1.1.1.1. Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá 6
1.1.1.2. Đô thị hoá 8
1.1.2. Khái niệm về lao động và việc làm 10
1.1.2.1. Lao động, việc làm 10
1.1.2.2. Mối quan hệ giữa lao động và việc làm 11
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa CNH - HĐH và ĐTH với việc làm, thu nhập và
đời sống của người dân ở nông thôn 12
1.2. Nhận thức về chuyển đổi ngành nghề trong nông nghiệp và nông thôn 13
1.2.1. Nhận thức về hiện đại hoá nông nghiệp – nông thôn 14
1.2.1.1. Nông nghiệp truyền thống 14
1.2.1.2. Nông nghiệp hiện đại 16
1.2.2. Điều kiện tiên đề của hiện đại hoá nông nghiệp – nông thôn 19
1.2.2.1. Chuyển đổi ngành nghề trong nông nghiệp nông thôn 19
1.2.2.2. Quản lý sự chuyển đổi ngành nghề cho người dân 20
1.3. Kinh nghiệm của một số nước về chuyển đổi ngành nghề trong nông nghiệp
– nông thôn 22
1.3.1. Trung Quốc 22
1.3.2. Thái Lan 26


1.3.3. Malaysia 28
1.3.4. Bài học đối với Việt Nam 30
Chương 2: THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI NGÀNH NGHỀ TRONG NÔNG
NGHIỆP NÔNG THÔN HIỆN NAY 33
2.1. Tổng quan về nông nghiệp – nông thôn 33
2.1.1. Tình hình sản xuất trong nông nghiệp và nông thôn 33
2.1.2. Phát triển kinh tế nông thôn thời kỳ hội nhập 35

2.1.3. Thực trạng số lượng và chất lượng lao động ở nông thôn 36
2.2. Thực trạng chuyển đổi ngành nghề trong nông nghiệp nông thôn thời kỳ
CNH, HĐH và ĐTH 44
2.2.1. Thực hiện sự chuyển đổi ngành nghề theo hướng CNH, HĐH và ĐTH . 45
2.2.2. Việc làm và đời sống của người dân sau khi chuyển đổi ngành nghề 49
2.3. Đánh giá việc chuyển đổi ngành nghề trong nông nghiệp và nông thôn thời
gian qua 54
2.3.1. Những thành tựu đạt được 54
2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại 56
2.3.3. Những vấn đề đặt ra sau khi chuyển đổi ngành nghề ở nông thôn 58
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHUYỂN ĐỔI
NGÀNH NGHỀ Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM 61
3.1. Định hướng phát triển các dự án chuyển đổi ngành nghề ở nông thôn 61
3.1.1. Định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp và nông thôn 61
3.1.2. Định hướng phát triển sản xuất phi nông nghiệp và các loại hình sản xuất
ở nông thôn 63
3.1.3. Một số chính sách liên quan đến lao động, việc làm trong nông nghiệp
nông thôn 66
3.1.3.1. Chính sách về nhân lực 66
3.1.3.2. Chính sách về tài lực 68
3.1.3.3. Chính sách về vật lực 69
3.1.3.4. Chính sách về tin lực Error! Bookmark not defined.


3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác chuyển đổi ngành nghề ở nông thôn 71
3.2.1. Quản lý công tác chuyển đổi ngành nghề 72
3.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng lao động nông thôn thôn qua công tác đào
tạo nghề 73
3.2.3. Phát triển các làng nghề truyền thống 78
3.2.4. Giải pháp hỗ trợ chuyển đổi nghề, tìm việc làm mới cho người dân có đất

bị thu hồi 80
3.2.5. Nhóm giải pháp đẩy mạnh phát triển thị trường lao động nông thôn 82
KẾT LUẬN 85
TÀI LIỆU KHAM KHẢO 87

i

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT
Từ viết tắt
Nguyên nghĩa
1
CMKT
Chuyên môn kỹ thuật
2
CN
Công nghiệp
3
CNH
Công nghiệp hoá
4
ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long
5
ĐBSH
Đồng bằng sông Hồng
6
ĐTH
Đô thị hoá

7
FDI
Vốn đầu tư trực tiếp
8
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
9
HĐH
Hiện đại hoá
10
KCN
Khu công nghiệp
11
KCX
Khu chế xuất
12
KT-XH
Kinh tế - xã hội
13
NGTK
Niên giám Thống kê
14
NN
Nông nghiệp
15
NN
Nông thôn
16
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức

17
QSD
Quyền sử dụng
18
XHCN
Xã hội chủ nghĩa

ii

DANH MỤC BẢNG

STT
Bảng
Nội dung
Trang
1
Bảng 1.2
Tăng trưởng các ngành trong giai đoạn 2006 - 2009
33
2
Bảng 2.2
Dân số nông thôn và thành thị của cả nước
37
3
Bảng 3.2
Cơ cấu lao động theo nhóm ngành
38
4
Bảng 4.2
Dân số và lao động khu vực nông thôn tính đến

1/8/2007
39
5
Bảng 5.2
Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm của lực
lượng lao động trong độ tuổi năm 2008 theo vùng
44




iii

DANH MỤC HÌNH VẼ


STT
Hình
Nội dung
Trang
1
Hình 1.2
Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu GDP
34
2
Hình 2.2
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động trong nông
thôn
40
3

Hình 3.2
Trình độ học vấn của lao động nông thôn năm
2008
40
4
Hình 4.2
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng
lao động nông thôn năm 2008
41
5
Hình 5.2
Tỷ lệ lao động có việc làm năm 1997 -2007
42
6
Hình 3.1
Các giải pháp nâng cao chất lượng lao động
nông nghiệp, nông thôn qua đào tạo nghề
75

1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động việc làm là vấn đề đang được quan tâm ở hầu hết các quốc
gia trên thế giới. Việt Nam là một quốc gia có truyền thống sản xuất nông
nghiệp, gần 80% dân số cả nước là nông dân, có hơn 70% lực lượng lao động
cả nước làm nông nghiệp, giá trị sản phẩm nông nghiệp chiếm gần 40% tổng
giá trị của các ngành sản xuất vật chất. Giải quyết sự dư thừa lao động và
thiếu việc làm là một trong những yếu tố góp phần cho công cuộc xóa đói
giảm nghèo, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí. Chính vì vậy, trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế,

Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm sâu sắc tới vấn đề này, thể hiện
trong việc đề ra các chủ trương lớn như giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội trong từng chính sách phát triển, xây dựng hệ
thống an ninh xã hội… đến việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chương
trình lao động việc làm cụ thể. Lực lượng lao động nước ta trong những năm
qua ngày càng lớn mạnh, đang trong quá trình phát triển lên trình độ ngày
càng cao hơn, cơ cấu lao động chuyển dịch khá tích cực từ khu vực nông
nghiệp sang các ngành công nghiệp, dịch vụ…
Tuy nhiên, cùng với việc đẩy mạnh Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa và
Đô thị hóa (CNH- HĐH và ĐTH) trong những năm qua trên các vùng miền của
cả nước, nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất với quy mô khác nhau được hình
thành và đi vào hoạt động có hiệu quả. Đi liền với nó là việc thu hồi đất, bao
gồm cả đất sản xuất nông nghiệp và đất ở của một bộ phận dân cư đã và đang
đẩy người nông dân vào tình trạng mất đất thiếu việc làm. Do vậy cần phải
quan tâm đến việc chuyển đổi ngành nghề trong nông nghiệp và nông thôn
nhằm tạo điều kiện cho người nông dân có hướng chuyển đổi ngành nghề cho

2
phù hợp với xu thế phát triển của xã hội.
Chính vì lý do trên, tôi chọn chủ đề “Chyển đổi ngành nghề trong
nông nghiệp và nông thôn thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị
hóa” là đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua vấn đề lao động và việc làm đã thu hút được nhiều
sự quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu này đã đi vào khai thác
nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau của vấn đề lao động và việc làm. Có thể
khái quát lại như sau :
Vũ Thị Mão (2008) đã sử dụng cách tiếp cận khá tổng hợp về lý thuyết
phát triển lao động, việc làm trong nông nghiệp, nông thôn gắn với phát triển

kinh tế trên cơ sở khai thác nhiều nguồn tư liệu, số liệu thứ cấp và sơ cấp. Đã
phác họa bức tranh khá đầy đủ về thực trạng lao động và việc làm trong nông
nghiệp, nông thôn hiện nay và các nhân tố ảnh hưởng tới tạo việc làm cho lao
động nông nghiệp, nông thôn, từ đó đã đề xuất kiến nghị tiếp tục tạo việc làm
cho lao động nông nghiệp, nông thôn thời gian tới.
Tăng Minh Lộc (2008) đã đi vào nghiên cứu nội dung về chất lượng
nguồn nhân lực ở nông thôn cho thấy do ảnh hưởng của sản xuất tiểu nông,
nhỏ lẻ và phân tán, năng lực ứng dụng khoa học – công nghệ và các tiến bộ kỹ
thuật vào thực tiễn còn hạn chế, nên đa số lao động nông thôn thụ động, tư
duy cạnh tranh và tính kỷ luật lao động kém, từ đó thu nhập của họ thấp, khả
năng chuyển đổi nghề khi bị mất đất hoặc cơ hội tham gia vào khu vực lao
động công nghiệp đòi hỏi các kỹ năng và tính kỷ luật lao động cao là không
dễ dàng.
TS. Chu Tiến Quang (2008) cho rằng để giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp, nông thôn cần tập trung vào khuyến khích mọi thành phần
kinh tế cùng tham gia tạo việc làm cho xã hội, chú trọng việc người lao động

3
được chủ động và sáng tạo tự tìm kiếm việc làm mới trên cơ sở khai thác các
lợi thế sẵn có, đa dạng hóa các hoạt động kinh tế tại chỗ, mở rộng các hình
thức hợp tác giữa người lao động với các tổ chức sản xuất kinh doanh, mở
rộng sản xuất để tạo việc làm mới. Kết hợp đa dạng hóa trong sản xuất nông
nghiệp với đẩy mạnh các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn để giải
quyết việc làm cho người lao động.
Phạm Lan Hương (2005) đã tổng kết tình hình lao động, việc làm trong
khoảng 15 năm gần đây, nêu ra các xu hướng thiếu việc làm theo các tiêu chí
khác nhau trên phạm vi cả nước từ đó suy ra xu hướng của lao động nông
thôn với ¾ lực lượng lao động của cả nước.
Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (2006) triển khai nghiên
cứu xây dựng Chiến lược việc làm ở Việt Nam thời kỳ 2005-2015 theo các

kịch bản được dự đoán trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu hơn với khu
vực và thế giới. Các nội dung nghiên cứu nhằm vào: xây dựng mô hình dự
báo lao động, việc làm dựa trên các biến số về dân số, kinh tế, xã hội và các
nguồn lực khác; dự báo lao động việc làm Việt Nam thời kỳ 2005-2015 trên
cơ sở dữ liệu cần thiết thu thập được và xây dựng một dự báo tổng hợp chiến
lược việc làm đến năm 2015 với các giải pháp thực hiện.
Tuy nhiên một số công trình nghiên cứu kể trên còn ít quan tâm đến
hiệu quả trong công tác chuyển đổi ngành nghề cho người dân trong khu vực
nông nghiệp và nông thôn. Hy vọng nội dung của đề tài luận văn sẽ khắc phục
được những mặt còn hạn chế của những đề tài đã nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu.
- Nhận thức về chuyển đổi ngành nghề trong nông nghiệp và nông thôn
thời kỳ CNH, HĐH và ĐTH ở Việt Nam.
- Thực trạng chuyển đổi ngành nghề trong nông nghiệp, nông thôn.

4
- Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chuyển đổi ngành nghề ở nông
thôn Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Tổng quan về cơ sở lý thuyết về chuyển đổi.
- Phân tích thực trạng chuyển đổi ngành nghề trong nông nghiệp, nông thôn.
- Đưa ra giải pháp có hiệu quả thực hiện chuyển đổi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài :
- Nghiên cứu về chuyển đổi ngành nghề trong nông nghiệp, nông thôn.
- Nghiên cứu về những vấn đề quản lý sự thay đổi trong chuyển đổi
ngành nghề trong nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Phạm vi nghiên cứu :
- Phạm vi không gian : Đề tài tập trung nghiên cứu tại một số tỉnh.

- Phạm vi thời gian : Thời kỳ hội nhập với nền kinh tế thế giới và tiến
trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa nền kinh tế Việt
Nam trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến năm 2009.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Cách tiếp cận nghiên cứu đề tài : Phân tích định lượng số liệu thống
kê, phân tích định tính số liệu điều tra, phỏng vấn và khảo sát thực tế.
- Các phương pháp sử dụng nghiên cứu : Phương pháp duy vật biện
chứng, phương pháp duy vật lịch sử và các phương pháp khác như : thống kê,
so sánh, phân tích v.v…
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về chuyển đổi ngành nghề ở nông
nghiệp, nông thôn thời kỳ CNH, HĐH và ĐTH.
- Đánh giá khách quan về thực trạng chuyển đổi ngành nghề trong nông
nghiệp nông thôn hiện nay.

5
- Đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả chuyển đổi ngành nghề cho
lao động mất việc làm ở nông thôn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Nhận thức về chuyển đổi ngành nghề trong nông nghiệp và
nông thôn thời kỳ CNH, HĐH và ĐTH ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng chuyển đổi ngành nghề trong nông nghiệp, nông
thôn hiện nay.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chuyển đổi ngành
nghề ở nông thôn Việt Nam.














6

Chương 1: NHẬN THỨC VỀ CHUYỂN ĐỔI NGÀNH NGHỀ TRONG
NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA VÀ ĐÔ THỊ HÓA
1.1. Cơ sở lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa
1.1.1. Khái niệm cơ bản về Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa và Đô thị hóa
1.1.1.1. Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa (CNH - HĐH) là quá trình tạo ra
những điều kiện vật chất - kỹ thuật, khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nói chung hay cơ cấu ngành kinh tế nói riêng, nhằm huy
động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, để không ngừng tăng năng suất
lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất
và văn hóa cho nhân dân. Từ đó thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ
và cải thiện môi trường sinh thái.
Quan niệm về CNH, HĐH được Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định tại
Đại hội VIII như sau: “ Xây dựng Việt Nam trở thành một nước có cơ sở vật
chất – kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và
tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu Nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh”. [ 24 ]

- CNH, HĐH nông nghiệp là quá trình bao gồm:
Thứ nhất, là quá trình chuyển sản xuất nông nghiệp từ dựa trên lao động
thủ công, kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, sang nền nông nghiệp sản xuất dựa
trên lao động trí tuệ, với kỹ thuật và công nghệ hiện đại gồm 6 nội dung: thủy
lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, hóa học hóa, tự động hóa và sinh học hóa.
Thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp là công việc trực tiếp của người
làm nông nghiệp, do đó người nông dân cũng phải tính toán kỹ lưỡng và có sự
đầu tư thích hợp để cho quá trình đó được đẩy mạnh và đạt hiệu quả tốt.

7
Thứ hai, là quá trình chuyển nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, phân tán,
mang nặng tính tự nhiên, tự cấp, tự túc, dựa trên nền tảng quản lý lạc hậu,
quản lý theo kinh nghiệm cha truyền con nối của các hộ nông dân, sang nền
nông nghiệp sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, nền nông nghiệp gắn
với thị trường trong nước và quốc tế, dựa trên nền tảng quản lý khoa học và
hiện đại của các doanh nghiệp và các trang trại.
Thứ ba, là quá trình chuyển cơ cấu của sản xuất nông nghiệp theo nghĩa
rộng (bao gồm cả nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp); và cơ cấu sản
xuất nông nghiệp theo nghĩa hẹp (cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi, cơ cấu
của bản thân ngành trồng trọt và bản thân ngành chăn nuôi) từ lạc hậu sang
tiến bộ.
Thứ tư, là quá trình chuyển nền nông nghiệp từ sản xuất chủ yếu dựa
trên việc bóc lột, tàn phá và hủy hoại các nguồn lực tự nhiên là chính, sang
nền nông nghiệp thân thiện với môi trường.
Thứ năm, là quá trình chuyển tác phong, lối sống và cách làm việc tùy
tiện của người nông dân sang theo kiểu công nghiệp, văn minh, hiện đại;
sống, làm việc và học tập theo pháp luật.
- CNH, HĐH nông thôn là quá trình bao gồm:
Thứ nhất, là quá trình xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
nông thôn đồng bộ và hiện đại, tạo điều kiện cho kinh tế và đời sống của người

dân ở khu vực này phát triển nhanh, sớm hội nhập với khu vực đô thị. Trong đó
đặc biệt coi trọng hệ thống giao thông, thủy lợi, cung cấp điện, nước sinh hoạt,
hệ thống thông tin liên lạc, trường học, bệnh viện, các công trình văn hóa, thể
dục thể thao.
Thứ hai, là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn từ lạc hậu,
sang tiến bộ và hiện đại, giảm tỷ trọng của nông nghiệp, tăng tỷ trọng của
công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Phát triển mạnh các

8
hoạt động phi nông nghiệp để dân nông thôn ly nông mà không ly hương.
Thứ ba, là quá trình cơ cấu lại dân cư giữa các vùng, bố trí lại dân cư,
kiến trúc lại làng, xã cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, với bản sắc văn hóa
của từng vùng và từng dân tộc.
Thứ tư, là quá trình đổi mới và hoàn thiện thể chế chính trị - xã hội của
nông thôn theo hướng dân chủ, văn minh và hiện đại.
Thứ năm, là quá trình giáo dục, đào tạo và rèn luyện để giúp cho người
dân nông thôn có tác phong, lối sống, cách làm việc theo kiểu công nghiệp.
1.1.1.2. Đô thị hoá
Hiện nay, khái niệm về đô thị hóa không còn quá xa lạ đối với một thế
giới ngày càng tiếp cận với nhiều kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong hệ
thống đô thị của các quốc gia trên thế giới.
Theo từ điển Bách Khoa “Đô thị hoá là quá trình biến đổi và phân bố
các lực lượng sản xuất, bố trí dân cư, những vùng không phải đô thị trở thành
đô thị”. [ 22 ]
Tiền đề của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp, thương mại, dịch
vụ thu hút nhiều nhân lực từ nông thôn đến sinh sống và làm việc, làm cho
tỷ trọng dân cư ở các đô thị tăng nhanh.
Theo từ điển Tiếng Việt (1995) “Đô thị hoá là quá trình tập trung dân
cư ngày càng đông vào các đô thị và làm nâng cao vai trò của thành thị đối
với sự phát triển của xã hội”. [21, tr 22]

Nhìn chung lại đều cho rằng, do sự sản xuất của nhiều ngành công
nghiệp và dịch vụ, thương mại…nhiều điểm dân cư đô thị đã hình thành. Trải
qua quá trình phát triển, những điểm dân cư đó phát triển với quy mô ngày
càng lớn và được trang bị bởi những tiện nghi hiện đại và kỹ thuật tiên tiến để
trở thành các điểm dân cư đô thị; những đô thị đó tập trung lại trên một vùng
lãnh thổ với những mối quan hệ mật thiết với nhau về kinh tế xã hội, không

9
gian lãnh thổ, cơ sở hạ tầng, môi trường sinh thái… trên một mật độ đô thị tập
trung nào đó… lúc đó quá trình đô thị hoá xuất hiện.
Do đó, có thể nói: “Quá trình đô thị hoá là quá trình phát triển của một
hệ thống đô thị với nhiều quy mô khác nhau, có mối quan hệ mật thiết với
nhau… trên cùng một không gian lãnh thổ nhất định và một thời gian nhất
định”. [ 11 ]
Theo Giáo sư Ummreddy Venkateswarlu thì: “Đô thị hoá là một hệ quả
tự nhiên về sự thay đổi kinh tế xảy ra vì sự phát triển của đất nước. Với việc
tăng thu nhập đầu người, làm tăng nhanh hàng hoá và thực phẩm, và tất yếu,
nhu cầu về các hoạt động phi nông nghiệp cũng tăng lên. Nhu cầu tăng lao
động khu vực hoạt động phi nông nghiệp này kích thích quá trình đô thị hoá.
Các chùm đô thị (Agglomerations) đã trở thành khu vực kinh tế gồm các hoạt
động sản xuất công nghiệp, dịch vụ và cơ sở hạ tầng. Trong quá trình phát
triển đó, các khu vực đô thị phụ thuộc vào quy mô và hình thái của chúng, sự
đổi mới các vùng sâu, vùng xa thông qua các mối liên kết vùng và đô thị -
nông thôn. Quá trình này và sự liên kết đó đã mở rộng các loại hình phát triển
đô thị như phát triển các cực (Poles) với những khoảng cách nhất định, các
loại hành lang đô thị (Corridors) và các khu vực đô thị - nông thôn liên hoàn
(Urban and Rural ontinum)”. [ 11, tr 7 ]
Như vậy, đô thị hoá là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp diễn ra
trên một không gian rộng lớn, có thể biểu thị thông qua các yếu tố: sự tăng
nhanh của tỷ lệ dân số đô thị trong tổng số dân; sự tăng lên của số lượng các

đô thị đồng thời với sự mở rộng không gian đô thị; sự chuyển hoá của lao
động từ giản đơn sang phức tạp, từ công cụ thô sơ sang tinh vi cũng là từ
sectơ I (lao động nông, lâm, ngư) sang sectơ II (công nghiệp, thủ công
nghiệp) và sang sectơ III (quản lý, nghiên cứu, dịch vụ); sự chuyển hoá từ lối
sống dàn trải (mật độ thấp) sang tập trung (mật độ cao), từ điều kiện kỹ thuật

10
hạ tầng giản đơn sang điều kiện hạ tầng kỹ thuật phức tạp.
Quá trình đô thị hoá là quá trình phân bố lại cơ cấu lao động theo
hướng ngày càng tăng lao động trong khu vực công nghiệp, thương mại dịch
vụ; xuất hiện và phát triển một hệ thống đô thị, các khu công nghiệp, các khu
thương mại. Bản chất đô thị hoá làm cho lao động phi nông nghiệp ngày càng
tăng lên trong một vùng lãnh thổ với những đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội,
sinh thái… nhất định.
Tóm lại, đô thị hoá là quá trình chuyển hoá từ dạng phân bố dân cư
nông nghiệp phân tán sang dạng tổ chức các quần cư tập trung do các hoạt
động phi nông nghiệp với tỷ trọng ngày càng cao của dân số sống và làm việc
trong khu vực đô thị. Đô thị hoá xuất hiện hàng loạt những thay đổi về mặt
kinh tế - xã hội, gắn liền với việc phát triển công nghiệp và kinh tế thị trường,
gắn liền với những thay đổi trong thái độ ứng xử của con người trong quá
trình chuyển hoá từ lối sống, nếp sống nông thôn sang lối sống, nếp sống đô
thị, do vậy tính chất của lao động và việc làm cũng bị thay đổi
1.1.2. Khái niệm về lao động và việc làm
1.1.2.1. Lao động, việc làm
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật
chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và
hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước.
Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định
của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao động và
những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang làm việc

trong các ngành kinh tế quốc doanh. Việc quy định về độ tuổi lao động là
khác nhau ở các nước, thậm chí khác nhau ở các giai đoạn của mỗi đất nước.
Điều đó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế.
Lao động đang làm việc là những người đang có việc làm để tạo ra thu

11
nhập, thời gian làm việc chiếm nhiều thời gian nhất trong các công việc mà
người đó tham gia. Lao động đang làm việc không giới hạn trong độ tuổi lao
động mà bao gồm những người ngoài độ tuổi đang tham gia lao động.
Lao động trong độ tuổi lao động là những lao động trong độ tuổi theo quy
định của Nhà nước có nghĩa vụ và quyền lợi đem sức lao động của mình làm
việc cho xã hội. Theo quy định của luật lao động hiện hành, độ tuổi lao động tính
từ 15 đến hết 60 tuổi đối với nam và từ 15 đến hết 55 đối với nữ, tính theo năm
dương lịch.
Lao động ngoài độ tuổi lao động là những lao động chưa đến hoặc quá
tuổi lao động quy định của Nhà nước: bao gồm nam trên 60 tuổi; nữ trên 55
tuổi; thanh niên dưới 15 tuổi.
Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm
thì được gọi là việc làm. Các hoạt động được xác định là việc làm bao gồm:
- Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật.
- Những công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo thu
nhập cho gia đình mình, nhưng không được trả công (bằng tiền hoặc hiện vật)
cho công việc đó.
1.1.2.2. Mối quan hệ giữa lao động và việc làm
Việc làm có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao
động và đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với người lao động, việc làm vừa là niềm vui được đóng góp sức
khỏe và trí tuệ của mình cho xã hội, vừa là nguồn thu nhập để đảm bảo cuộc
sống bản thân và gia đình. Thông qua việc làm, người lao động trau dồi đạo
đức và trình độ nghề nghiệp, nâng cao chất lượng lao động, mở rộng giao

tiếp, xây dựng mối quan hệ xã hội lành mạnh. Nhờ có việc làm ổn định, lâu
dài mà đời sống vật chất, tình thần của người lao động và gia đình họ được
nâng cao.

12
Đối với nền kinh tế, việc làm tạo ra của cải vật chất, việc làm càng
nhiều, càng đầy đủ, phù hợp thì của cải, vật chất càng lớn, tốc độ tăng trưởng
kinh tế càng cao, xã hội càng phát triển. Khi việc làm đạt được sự ổn định,
bền vững thì xã hội đạt được sự ổn định, kinh tế tăng trưởng bền vững. Vì vậy
lao động - việc làm - phát triển kinh tế, ổn định xã hội là một sự liên kết tương
tác, vừa là kết quả vừa là hệ quả.
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa CNH - HĐH và ĐTH với việc làm, thu nhập và
đời sống của người dân ở nông thôn
Trong nền kinh tế hiện đại, CNH, HĐH và ĐTH có sự gắn bó chặt chẽ
với nhau, tạo thành một tiến trình thống nhất thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội. Về mặt kinh tế, CNH, HĐH làm thay đổi phương thức sản xuất và cơ
cấu nền kinh tế dựa trên nền đại công nghiệp và dịch vụ chất lượng cao. Về
mặt xã hội, đô thị hóa không chỉ đơn thuần là sự hình thành các đô thị mới mà
là một nấc thang tiến hóa vượt bậc của xã hội với một trình độ văn minh mới,
một phương thức phát triển mới. Đó chính là cách thức tổ chức, bố trí lực
lượng sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế. Tất cả những vấn đề nêu trên liên quan
đến việc làm, thu nhập của người dân có liên quan, nhất là việc thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển công nghiệp, đô thị ảnh hưởng trực tiếp đến việc
làm, thu nhập và đời sống của nông dân bị thu hồi đất.
Trong quá trình CNH, HĐH, sự hình thành các đô thị hiện đại có vai
trò đặc biệt quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bao gồm: tạo
việc làm, thu nhập cho nền kinh tế quốc dân; cung cấp lượng đáng kể sản
phẩm công nghiệp, dịch vụ với chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất
khẩu; là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, thương mại
của vùng và cả nước, cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng và cả

nước; là đầu mối tiếp nhận, trao đổi thông tin, nhất là kinh tế và thị trường
giữa các tỉnh, vùng và cả nước với quốc tế, góp phần nâng cao năng suất chất

13
lượng cao lao động cho toàn bộ nền kinh tế, thông qua việc đào tạo nguồn
nhân lực; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thông qua việc
gia tăng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp vừa để tiêu dùng, chế biến; bổ sung
nguồn vốn đáng kể cho sự phát triển các vùng nông thôn, thông qua sử dụng
lao động, chuyển vốn đầu tư công nghiệp, dịch vụ về nông thôn.
Theo GS Tewari - 1997: “ Mối quan hệ tích cực đầy ý nghĩa giữa đô thị
hoá và phát triển kinh tế được thể hiện bởi các yếu tố như công nghiệp hóa,
thương mại hoá, tăng năng suất, tạo nhiều việc làm và cải thiện sự tiếp cận đối
với những yếu tố khác nhau về sản xuất, thị trường và những cơ sở hạ tầng và
các tiện nghi khác. Đô thị hoá dẫn đến tăng thu nhập, thay đổi cách sống, đem lại
chất lượng cao về dịch vụ và cũng phù hợp với dân số ngày càng tăng lên; bên
cạnh đó đô thị hoá cũng đem lại một số hiệu quả tiêu cực về phát triển đô thị và
môi trường nếu không có biện pháp quản lý và kiểm soát chặt chẽ.” [ 11, tr 8 ]
1.2. Nhận thức về chuyển đổi ngành nghề trong nông nghiệp và nông thôn
Hê-ra-li-tut nhà Triết học cổ đại người Hy Lạp đã từng nói rằng: “Mọi
sự vật đều tồn tại mâu thuẫn và không ngừng biến đổi; và bất cứ sự vật nào
cũng đều tồn tại bằng cách phá bỏ một cái gì đó”. Sự thay đổi là quá trình
diễn ra thường xuyên, liên tục và không thể tránh khỏi trong mọi mặt của đời
sống xã hội. Thay đổi vừa mang tính tích cực, song cũng không thể tránh khỏi
những thiệt hại từ thay đổi mang lại. Nhận thức được sự thay đổi từ đó biết
làm chủ được nó bằng các kế hoạch/ hoạch định khoa học hợp lý, biết tổ chức
thực hiện, biết kiểm tra, đánh giá…Như vậy, sẽ hạn chế được những rủi ro mà
thay đổi mang đến, và cũng là phát huy tối đa những mặt tích cực của sự thay
đổi đó. Chuyển đổi ngành nghề ở khu vực nông thôn cũng được xem là một
sự kiện mang tính chất thay đổi. Chúng ta có thể hiểu: đó là sự chuyển đổi từ
công việc này sang công việc khác, chuyển đổi lao động từ thành phần cơ cấu

kinh tế này sang thành phần kinh tế khác,…nhằm đem lại lợi ích về thu nhập

14
cho người dân.
1.2.1. Nhận thức về hiện đại hoá nông nghiệp – nông thôn
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, hiện đại hóa nông nghiệp
không chỉ là một cụm từ rất thông dụng, mà còn là mục tiêu theo đuổi của rất
nhiều nước. Hiện đại hóa nông nghiệp đó là một cuộc cải cách rộng rãi và sâu
sắc trên hai phương diện kỹ thuật và xã hội nhằm đưa nền nông nghiệp của
một quốc gia chuyển từ nông nghiệp truyền thống lên nông nghiệp hiện đại.
1.2.1.1. Nông nghiệp truyền thống
Nền nông nghiệp truyền thống ra đời từ xã hội nguyên thuỷ, kéo dài
hàng nghìn năm, phát triển ở những quốc gia khác nhau và trong những thời
kỳ khác nhau, nó thể hiện rất nhiều hình thái, đặc điểm rất khác biệt. Tuy
nhiên nông nghiệp truyền thống có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Đó là một nền nông nghiệp gắn với kinh tế tự nhiên, chứ không gắn với
nền kinh tế hàng hoá. Mục đích sản xuất chủ yếu của những người kinh doanh
và hoạt động trong nền nông nghiệp này là đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng
của mình và của người nhà chứ không phải là đáp ứng nhu cầu thị trường. Nền
nông nghiệp này cũng sản xuất ra sản phẩm thặng dư và chuyển một phần
trong số đó thành hàng hoá, nhưng những người trực tiếp sản xuất và có sản
phẩm thặng dư khi bán sản phẩm thặng dư của mình cũng là nhằm đổi lại
những sản phẩm mà mình cần, chứ không phải để thực hiện giá trị trao đổi.
Các điều kiện vật chất, kỹ thuật trong sản xuất còn lạc hậu, chủ yếu
dựa vào sức người, sức kéo động vật và công cụ thủ công. Nguyên nhân chủ
yếu là do tình trạng lạc hậu về cơ sở vật chất kỹ thuật kéo dài, khó khăn trong
việc mở rộng tái sản xuất khiến cho năng suất lao động trong sản xuất nông
nghiệp truyền thống rất thấp, tốc độ nâng cao năng suất lao động rất chậm.
Cũng vì vậy, sản phẩm dôi ra để bán đi rất hạn chế. Tỷ lệ nông sản hàng hoá
thấp chính là nguyên nhân rất quan trọng khiến cho nông nghiệp lạc hậu.


15
Đề cao kinh nghiệm thực tế truyền từ đời này sang đời khác, bảo thủ
trong việc sử dụng phương pháp kinh doanh và kỹ thuật sản xuất mới. Điều
này không những khiến cho tiến bộ trong nền nông nghiệp truyền thống diễn
ra rất chậm chạp, hàng nghìn năm vẫn không thay đổi, mà ở một mức độ nào
đó, nó còn khiến cho nền nông nghiệp này không thể tiếp nhận hoặc khó khăn
trong việc tiếp nhận và phổ biến tri thức khoa học kỹ thuật hiện đại. Đây
chính là một nguyên nhân quan trọng khiến cho ở hầu hết các vùng nông thôn
mà nông nghiệp truyền thống chiếm ưu thế, trình độ văn hoá của người nông
dân nhìn chung còn rất thấp, tỷ lệ mù chữ rất cao.
Quy mô kinh doanh thường là rất nhỏ, nền kinh tế tiểu nông thường giữ
vai trò chủ yếu. Đặc điểm kinh doanh với quy mô nhỏ này của nền nông
nghiệp truyền thống không phải là tồn tại trong bất kỳ điều kiện kinh tế, xã
hội nào. Mấy chục năm qua, một số nước xã hội chủ nghĩa thông qua hợp tác
hoá đã chuyển nền kinh tế tiểu nông sang kinh tế tập thể, mở rộng quy mô
kinh doanh, một số đặc điểm của nền kinh tế tiểu nông trước đây cũng theo đó
mất đi, tuy nhiên, sự thay đổi này chưa vì thế mà đưa nền nông nghiệp chuyển
từ truyền thống sang hiện đại. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, vấn đề quy mô
kinh tế lớn hay nhỏ không phải là vấn đề quan trọng để nhận định một nền
nông nghiệp nào đó có thuộc loại hình nông nghiệp truyền thống hay không.
Nhưng, cũng không thể vì thế mà phủ nhận, nông nghiệp truyền thống có mối
liên hệ bản chất với kinh tế tiểu nông kinh doanh quy mô nhỏ: kinh tế tiểu
nông luôn luôn thể hiện và đại diện cho nông nghiệp truyền thông.
Trình độ phân công chuyên môn hoá trong nội bộ ngành rất thấp, thậm
chí ở nhiều nơi và trong nhiều hoàn cảnh không hề có sự phân công chuyên
môn hoá. Đặc điểm này được thể hiện rõ nhất trong nền kinh tế tiểu nông.
Một hộ tiểu nông, thường là sự tiêu thụ của nền nông nghiệp truyền thống có
quy mô nhỏ nhưng toàn diện trong trạng thái kinh tế tự nhiên: họ gần như


16
phải trồng tất cả những loại cây nông nghiệp mà địa phương họ đã trồng, sản
xuất phần lớn nhu yếu phẩm mà họ cần có; ngoài trồng trọt, họ còn chăn nuôi
gia súc, gia cầm, làm các ngành thủ công, thậm chí còn tự mình xây, sửa nhà.
Không chú trọng đến việc giảm giá thành sản xuất và nâng cao năng
suất lao động. Đặc điểm của nền nông nghiệp truyền thống là sản xuất ra các
loại hàng hoá vật chất phục vụ cho nhu cầu của người sản xuất và gia đình họ,
chứ không phải để thực hiện giá trị trao đổi các thành quả lao động của mình.
Vì vậy, những người lao động trong nền nông nghiệp truyền thống khi sản
xuất thường không quan tâm đến cái giá phải trả, nhất là cái giá phải trả cho
sức lao động. Họ không có ý thức cạnh tranh, điều đó khiến cho tiến bộ trong
nông nghiệp truyền thống diễn ra rất chậm chạp, hiệu quả thấp.
Nền nông nghiệp truyền thống khiến cho người sản xuất có xu hướng
sinh nhiều con và trọng nam giới. Đó là do nền nông nghiệp này chủ yếu dựa
vào sức người, đặc biệt là dựa vào lao động nam giới. Trong cùng một điều
kiện sản xuất và điều kiện tự nhiên, sự chênh lệch về thành quả lao động giữa
các hộ nông dân hoạt động trong nền nông nghiệp truyền thống chủ yếu là do
tình hình lao động, đặc biệt là lao động nam giới của họ quyết định; những hộ
gia đình có nhiều sức lao động khoẻ mạnh thì tốt hơn những hộ gia đình có ít
sức lao động, lại yếu ớt. Khi hộ nông dân muốn mở rộng tái sản xuất, việc có
đầy đủ lực lượng lao động hay không cũng trở thành một nhân tố có tính
quyết định. Chính vì vậy, nói chung các hộ nông dân trong nền nông nghiệp
truyền thống đều muốn đẻ nhiều con, đặc biệt là con trai để có nhiều sức lao
động.
1.2.1.2. Nông nghiệp hiện đại
Nông nghiệp hiện đại có những biểu hiện cụ thể khác nhau ở những
quốc gia khác nhau hoặc ở những thời kỳ khác nhau ngay trong cùng một
quốc gia. Tuy nhiên nó cũng có những đặc điểm cơ bản chung:

17

Về bản chất, nó là một loại hình nông nghiệp thương phẩm hoá, theo
hướng thị trường, mục đích sản xuất cơ bản của những người hoạt động trong
nền nông nghiệp này không chỉ là đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp mà còn đáp
ứng nhu cầu thị trường (bao gồm nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước),
do vậy, việc họ sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu đều do nhu cầu của thị
trường chứ không phải do nhu cầu của bản thân họ quyết định. Trong nền
nông nghiệp hiện đại phát triển cao, các loại hàng nông sản phục vụ cho nhu
cầu của chính người kinh doanh là do thị trường đáp ứng chứ không phải do
việc sản xuất của chính họ đáp ứng, tỷ lệ sản phẩm hàng hoá của họ hầu như
đạt 100%. Tình hình này đã tương đối phổ biến trong nền nông nghiệp của
các nước phát triển.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, quá trình sản xuất chủ yếu đều không
còn phụ thuộc vào sức người, sức gia súc và các công cụ thủ công, mà thực
hiện cơ khí hoá, hoá học hoá, kỹ thuật sinh học hoá. Mấy chục năm trước, động
lực hay năng lượng của nền nông nghiệp này chủ yếu là dầu mỏ, vì vậy còn
được gọi là “nông nghiệp dầu mỏ”. Nhưng đây chỉ là một hiện tượng của nông
nghiệp hiện đại trong một giai đoạn phát triển nhất định chứ không phải trong
mọi giai đoạn. Để tránh sự phụ thuộc vào nguồn dầu mỏ ngày càng khan hiếm
và đắt đỏ, ngày nay nền nông nghiệp hiện đại đang xây dựng quá trình sản xuất
trên cơ sở rộng rãi hơn về năng lượng và động lực, như năng lượng sinh học,
năng lượng mặt trời, sức gió… Mặt khác, để tránh tác động xấu của hóa chất
đối với môi trường sống và sức khoẻ con người, người ta đã nghiên cứu và
bước đầu thực hiện nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh học…
Coi trọng khoa học, kỹ thuật, không vận dụng kinh nghiệm truyền thống
một cách bảo thủ, do vậy đã nhanh chóng tiếp thu và phổ biến những phát
minh mới, sáng tạo mới về khoa học kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm này của nền
nông nghiệp hiện đại không những khiến cho nó đòi hỏi và đào tạo ra những

×