Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Đồ cương ôn tập tiết học Mac

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.8 KB, 40 trang )

Câu 1 : Trình bày giá trị đích thực và những hạn chế sai lầm trong phép biện
chứng Hêghen , chủ nghĩa duy vật phơBách. Anh chị hãy chứng minh TH
Hêghen và phơBách là tiền đề lý luận trực tiếp của TH Mác.
a) Triết học của Hêghen xét theo hệ thống là triết học duy tâm khách quan.
Toàn bộ triết học của Hêghen đợc bao trùm bằng phạm trù ý niệm tuyệt đối ý
niệm tuyệt đối là xuất phát và là nền tảng của triết học Hê ghen ý niệm tuyệt đối là
một thực thể tinh thần thuộc bên ngoài thế giới sinh ra moị cáI trên thế giới.,sáng
tạo ra thế giới thiên nhiên và con ngời. Bản thân thế giới hiện thực và cả con ngời
xã hội loài ngời là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Con ngời và xã hội là giai đoạn
phát triển cao nhất của ý niệm tuyệt đối. Hoạt động nhận thức là hoạt động cải tạo
thế giới của con ngời chính là công cụ để tinh thần tuyệt đối nhận thức bản thân
mình trở về với chính bản thân mình trong quan niệm về thế giới Hê ghen đã phê
phán Kante nh sau: Kante đã xé lẻ tồn tại và tách nó ra ngoài t duy. Hê ghen kết
hợp chúng và t duy là một và cho mọi nguồn xuất phát đầu tiên, thực thể đầu tiên
thuộc thế giới chính là t duy hay ý thức nhng không phải ý thức cá thể. Hay nói
cách khác ý thức của mỗi ngời ta, mỗi 1 cá thể ở trong các thời đại là biểu hiện ý
niệm tuyệt đối trong đời sống hiện thực ý thức của mỗi con ngời với tính chất là
công cụ của t duy không phải là kết quả của sự phản ánh thế giới bên ngoài mà
nó là sản phẩm của ý niệm tuyệt đối, thông qua con ngời để nhận thức thế giới
hiện thực. Thế giới hiện thực khách quan xung quanh chúng ta cũng không phải là
một thế giới tồn tại thực mà nó chỉ là cái bóng của một ý niệm tuyệt đối. Nh vậy ý
thức cá nhân chính là công cụ của ý niện để nhận thức sản phẩm của ý niệm.
Theo quan niệm của những ngời duy vật, ý niệm là phản ảnh vật chất vào ý thức
của con ngời nhng Hêghen lại tách nó ra khỏi con ngời làm cho nó thành đấng tối
cao sáng tạo ra thế giới của nhân loại. Trong Tp phê phán , sự phê phán có tính
chất phê phán hay còn gọi là gia đình thần thánh Mác đã phê phán thái độ của
BRUNÔ BAZƠ và BRUNO BAOE đối với việc bảo vệ triết học của Hê ghen nh
sau. Khi chúng ta căn cứ vào quả táo, lê, vải, mận có thật trong đời sống hiện thực
để khái quát thành khái niệm trái cây trừu tợng mà chúng ta vừa rút ra từ những
trái cây cụ thể trên đây là thuộc ở ngoài bản thân chúng ta rồi chúng ta cần đến
tiếng nói của t tởng để biểu thị câu chuyện đó. Thế là chúng ta tuyên bố trái cây là


một thực thể tinh thần thuộc ở bên ngoài chúng ta và những trái cây cụ thể chính
là kết quả của sự biểu hiện thực thể tinh thần là trái cây. Trong đời sống hiện
thực không có sự phụ thuộc thực sự của những trái cây cụ thể mà nó chỉ là sự
ngụy biện của khái niệm trái cây.
Hê ghen đã biến khái niệm chung, biến ý niệm do con ngời phía hiện thực -> 1
biện chứng rất độc lập tách rời con ngời, tách rời thực tế khách quan và tuyệt đối
hoá nó thành một thực thể tinh thần và ông gọi nó là ý niệm tinh thần, tinh thần
tuyệt đối và cho rằng tinh thần ấy đẻ ra các lực lợng tự nhiên
Hệ thống của Hêghen bao gồm 3 phần:
1- Lôgích học là khoa học về các quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển
dựa trên nguyên tắc lý tính làm cơ sở cho mọi các đang
2- Triết học về tự nhiên mô tả sự phát triển của tự nhiên theo quan điểm duy tâm .
3- Triết học về tinh thần phản ánh các hình thức lịch sử của tinh thần đợc thể hiện
bằng quá trình tự nhiên của con ngời.
Mỗi một phần tồn tại bị chia thành ba phần nhỏ
VD: Trong lôgíc học có lôgíc , lôgíc bản chất, lôgíc của các khái niệm. Trong triết
học tự nhiên đợc chia làm 3 phần bao gồm thuyết máy móc, thuyết hóa học, vô
cơ. Triết học về tinh thần đợc chia thành: Tinh thần chủ quan, khách quan, tuyệt
đối.
Lô gích của bộ 3 của Hê ghen có thể đợc khái quát nh sau: ý niệm tuyệt đối là một
thực thể tinh thần trớc thiên nhiên Hêghen cho rằng ý niệm tuyệt đối trong sự vận
động nó đạt tới sự hoàn thiện trớc khi giới tự nhiên xuất hiện. í niệm tuyệt đối đã
mang trong nó mọi sự quy định sau này giống nh cái mầm non sẵn trong nó bản
chất của cây,mùi vị, hình dáng của quả. Nh vậy ý niệm tuyệt đối là một trạng thái
ở dạng tiềm năng của các sự vật hiện tợng xung quanh chúng ta.
Sự phát triển biện chứng của ý niệm tuyệt đối thì sẽ đợc biểu hiện thành cái khác
của giới tự nhiên. Dựa vào các thành tựu của các khoa học tự nhiên đơng thời Hê
ghen nhìn nhận thế giới tự nhiên năm trong quá trình vận động và phát triển từ vô
cơ đến hữu cơ và con ngời có một khả năng là phản ánh thế giới tự nhiên và khi
con ngời phản ánh đợc đầy đủ giới tự nhiên cũng có nghĩa là ý thức của con ngời

quay về điểm khởi đầu là ý niệm tuyệt đối, ý thức của mỗi cá nhân theo Hêghen
chỉ là những tái diễn t duy của toàn nhân loại giống nh sự phát triển của bào thai
trải qua các giai đoàn tiền thuỷ, sinh vật đến con ngời.
Nh vậy điểm khởi đầu của Hê ghen là tinh thần, điểm kết thúc cũng là tinh thần chỉ
khác điểm khởi đầu là tinh thần thế giới hay ý niệm tuyệt đối đến mỗi cá nhân con
ngời. Hêghen cho rằng giai đoạn cao nhất là giai đoạn tinh thần tuyệt đối tự kết
thúc mình ở các hình thức, nghệ thuật tôn giáo và triết học.
Triết học của Hênghen xét theo hệ thống là triết học duy tâm khách quan ông
thừa nhận tinh thần là cái có trớc tự nhiên, giới tự nhiên là vật chất cái có sau. Xét
về mặt thực chất triết học của Hêghen mặc dù chứa đựng những t tởng biện chứng
lỗi lạc nhng cũng thừa nhận có giới hạn của sự vận động của ý niệm tuyệt đối thì
ông rơi vào quan điểm siêu hình.
b) Phép biện chứng của Hê ghen một thành tựu vĩ đại của nền triết học cổ điển
Đức
Xét về mặt bản chất hệ thống của TH Hêghen đợc xây dựng dựa trên lập trờng của
TH duy tâm khách quan. Xét về mặt cấu trúc, khi chúng ta mổ xẻ hệ thống TH của
Hêghen mà đặt TH của ông trong mối quan hệ với các khoa học và với cả hoạt
động của con ngời thì Hêghen là một nhà bác học vĩ đại đã tạo ra sự liên hoàn giữa
TH với các khoa học cụ thể, giữa TH với hoạt động của con ngời
Về phơng diện này Hêghen là một nhà bác học vĩ đại đã tạo ra sự liên hoàn giữa
triết học với các khoa học cụ thể, giữa triết học với hoạt động con ngời. Hêghen là
nhà cách mạng đã lật đổ tận gốc dinh luỹ của những siêu hình để đa đến các
khoa học và cho hoạt động con ngời. Hình thức phơng pháp luận mới để rồi sau
đó cả khi những khuyết điểm của ông đã đợc phủ định thì sự nghiệp của ông vẫn
xứng đáng là một thành tựu vĩ đại nhật của mọi nền triết học.
Nội dung cơ bản phép biện chứng của Hêghen mặc dù là phép biện chứng của
khái niệm theo Hêghen phép biện chứng: Nói chung là nguyên tắc của mọi vận
động, mọi sự sống, mọi hoạt động trong hiện thực, phép biện chứng còn là tinh
thần của mọi nhận thức khoa học chân chính.
Các luận điểm về phép biện chứng của Heghen đợc thể hiện đầy đủ trong cả hệ

thống của ông nhng nó đợc phản ánh tập trung nhất trong lôgích học. Luận điểm
xuyên suốt trong phép biện chứng của Hêghen là:Tất cả cái gì là hiện thực mà tất
cả cái hợp lý đều là hiện thực
Luận điểm triết học của Hêghen không chỉ bảo vệ và duy trì mọi cáI đang tồn tại,
thửa nhận về mặt triết học nền chuyên chế nhà nớc quý tộc mà đIũu cơ bản nhất
không phải tất cả những gì đang tồn tại cũng đều là hiện thực. Tính hiện thực thì
thuộc về những điều là tất yếu Hêghen viết : Tính hiện thực trong sự phát triển của
nó tự biểu lộ ra nh là tính tất yếu. Nh vậy theo Hêghen hiện thực không phảI là cái
tồn tại nói chung mà là tồn tịa trong tính tất yếu của nó. Đó là 1 hiện thực trong sự
phát triển. Xa rời t tởng này thì mọi ý kiến, ý tởng và triết học là một hệ thống
những điều bịa đặt rỗng tếch. Tóm lợc tinh thần cơ bản phép biện chứng của
hêgen. Ănghen nhận xét :
trong quan hệ phát triển tất cả những gì trớc kia là hiện thực thì hiện nay trở thành
không hiện thực mất tính tất yếu , mất quyền tồn tại , mất tính hợp lý của chúng và
hiện thực mới đầy sinh lực thay thế cho hiện thực đang tiêu vong. Thông qua
phép biện chứng của Hêghen mà luận đIểm trên của Hêghen đã chuyển thành cái
đối lập với nó : tất cả những gì là hiện thực trong lĩnh vực lịch sử của loài ngời thì
lâu dần cũng trở thành không hợp lý do bản chất của nó Sự đánh giá của
Anghen về phép biện chứng của Hêghen sau khi đã loại bỏ những thiếu xót và sai
lầm của hêghen Đó là thế giới quan duy tâm và lập trờng nhu nhợc của giai cấp t
sản Đức
Tuy đều đã làm sáng tỏ hạt nhân cơ bản của phép biện chứng là sự phát triển
không ngừng với tính chất khoa học và cách mạng của Anghen thừa nhận các sự
vật hiện tợng vận động , biến đổi không ngừng, không có cái gì là bất biến, vĩnh
cửu cáI gì đã sinh ra trong lịch sử thì nó sẽ mất đi trong lịch sử nhng sự mất đI của
một sự vật nay là tiền đề cho sự xuất hiện 1 sự vật mới. Điều đó có nghĩa là :
Hiện thực mới đẩy sinh lực thay thế hiện thực cũ đang tiêu vong Theo các
nguyên tắc phơng pháp t duy của Hêghen thì luận đề về tính hợp lý của mọi cáI gì
là hiện thực đã chuyển thành một luận đề khác mọi cáI đang tồn tại, đều đang tiêu
vong.

Công lao lớn của Hêghen là phê phán t duy siêu hình, ông là ngời đầu tiên trình
bày toàn bộ giới tự nhiên, Lịch sử và t duy dới dạng 1 quá trình, nghĩa là trong sự
biến đổi và phát triển không ngừng. Angghen cho rằng ý gnhĩa thực sự, tính cách
mạng của Hêghen là ở chỗ đó.
Quan niệm của Phoiơbắc về bản chất con ngời và tôn giáo
Con ngời, theo Phoiơbắc là sản phẩm tự nhiên, là cái gơng của vũ trụ,
thông qua đó giới tự nhiên ý thức và nhận thức chính bản thân mình. Bản chất con
ngời là tổng thể các khát vọng, khả năng, nhu cầu, ham muốn và khả năng tởng t-
ợng của anh ta nữa. Khẳng định sự thống nhất hữu cơ giữa con ngời và tự nhiên:
Ông nói:Có thể tách con ngời khỏi giới tự nhiên không?Không. Con ngời là sản
phẩm của con ngời, của văn hoá và lịch sử. Những điều kiện sống, môi trờng và
hoàn cảnh có tác động to lớn đối với t duy và ý thức con ngời.
Trong một cung điện. Phoiơbắc quả quyết, ngời ta suy nghĩ khác trong một túp lều
tranh. Nếu nh vì đói nghèo mà trong cơ thể anh không có chất trì trong đầu óc
anh, trong trí tuệ và trái tim anh cũng không có chất cho đạo đức cũng nh mọi
quan niệm của anh. Tuy nhiên, những luận điểm trên của Phoiơbắc nh PH.
Ăngghen nhận xét, chẳng đem lại một kết quả gì cả. Phoiơbắc chủ yếu chỉ đề cập
đến con ngời với tính cá thể. Ông tuyên bố: Tôi chỉ đa ra một điểm, nhng đây là
điểm cốt yếu mà mọi cái đều xoay xung quanh nó. Đó là khái niệm cá thể , theo ý
kiến tôi, tính cá thể bao hàm toàn bộ con ngời, bản chất của con ngời là một bản
chất chung và bản thân nó là bản chất cá thể. Mỗi ngời đều có những nét riêng
biệt mà không ai có, vì thế bản chất con ngời đặc biệt đa dạng. Tất cả chúng ta là
những con ngời, nhng mỗi ngời lại là một dạng khác.
Nhìn chung, các quan niệm trên đây của Phoiơbắc về bản chất con ngời
cũng có nhiều điểm hợp lý nhất định. Thứ nhất, nó thể hiện quan niệm duy vật
khẳng định con ngời cũng nh xã hội loài ngời là sản phẩm của tự nhiên. Thứ hai,
nó đề cao tính cá thể của mỗi ngời. Điều này thể hiện nguyện vọng của giai cấp t
sản Đức tiến bộ thời đó muốn đấu tranh đòi giải phong nhân cách cá nhân con ng-
ời khỏi mọi hệ thống qủan lý, trật tự xã hội hà khắc của nớc Đức phong kiến quý
tộc. Tuy nhiên hạn chế của Phoiơbắc ở chỗ, ông không nhận thấy bản chất xã hội

của con ngời, cũng nh vai trò của hoạt động thực tiễn con ngời trong nhận thức và
cải tạo thế giới ( mặc dù ông đôi khi vẫn nói đến hoạt động con ngời)Con ngời
trong quan niệm của Phoiơbắc là con ngời phi lịch sử, phi giai cấp, phi dân tộc, và
vì thế cực kỳ trừu tợng chứ không cụ thể.
Điều này cũng thể hiện trong quan niệm của Phoiơbắc về tôn giáo. Ông coi tôn
giáo là sản phẩm tất yếu cả tâm lý cá nhân và bản chất con ngời. Ngời ta ai cũng
sợ chết, cần có niềm tin và an ủi. Bản chất của thần học, do vậy chứa đựng trong
nhân bản học, là sản phẩm của sự tởng tợng phong phú ở con ngời. Tôn giáo là
thể hiện sự yếu mềm, bất lực của con ngời đối với những điều kiện xã hội. Tôn
giáo thực chất chỉ là sự thể hiện bản chất của con ngời dới hình thức thần bí. T t-
ởng và dụng ý của con ngời nh thế nào thì chúa của con ngời nh thế. Giá trị của
chúa không vợt quá giá trị con ngời. í thức của Chúa là tự ý thức con ngời, nhận
thức của Chúa là tự nhận thức của con ngời. Thực ra Bản chất thần thánh không
là cái gì khác mà là bản chất con ngời, nhng đã đợc tinh chế, khách quan hoá,
tách rời với con ngời hiện thực bằng xơng bằng thịt Tóm lại, tôn giáo là bản chất
của con ngời đã bị tha hoá. Thánh thần của con ngời có trong tinh thần và trái
tim của anh ta
Những quan niệm trên đây của Phoiơbắc về cơ bản vạch ra đợc nguồn gốc,
tâm lý con ngời đối với tôn giáo, đồng thời cho thấy nội dung nhân bản trong các
quan niệm thần thánh. Tuy nhiên, chúng ta cha đề cập đến những cơ sở kinh tế-
xã hội của vấn đề. Đây cũng là hạn chế chung của các nhà t tởng trớc Mác trong
việc lý giải nguồn gốc và bản chất của tôn giáo.
Tuy phê phán kịch liệt tôn giáo, nhng thực tế, Phoiơbắc chỉ phê phán một
tôn giáo cụ thể là Đạo Cơ đốc. Còn tôn giáo nói chung, theo ông, vẫn là điều cần
thiết đối với đời sống con ngời. Cho nên, thay vào Đạo Cơ đốc, con ngời cần
mộ tôn giáo mới, vì theo ông, chỉ có tín ngỡng, niềm tin mới an ủi đợc chúng ta
khỏi những nỗi bất hạnh trong cuộc đời con ngời. Mặc dù sự an ủi trên là giả dối,
nhng chúng ta không thể làm gì hơn, mà đành phải chấp nhận sự dối trá đó.
Cố nhiên không thể trình bày một cách cặn kẽ toàn bộ kho tàng t tởng của
triết học cổ điển Đức, cũng nh ảnh hởng to lớn của nó đối với triết học hiện đại

trong khuôn khổ mọt chơng sách. Hiển nhiên, triết học cổ điển Đức là một trong
những tiền đề lý luận cơ bản của triết học Mác, và toàn bộ chủ nghĩa Mác Lê Nin
nói chung. Phơng pháp biện chứng linh hồn của chủ nghĩa Hêghen- tuyệt nhiên
không ngăn cản Hêghen trở thành ngời đầu tiên trình bày một cách bao quát và có
ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng.
Hay nh Lê Nin nói, không thể hiểu đợc bộ T bản của C.Mác nếu nh không
hiểu lôgích học của Hêghen.
Triết học cổ điển Đức còn đặt ra nhều vấn đề đối với sự phát triển của triết
học hiện đại nói chung. Những t tởng triết học của Cantơ có ảnh hởng to lớn đối
với các nhà hiện sinh. Haiđơgơ, Iaxpéc coi triết học Cantơ là nền tảng thế giới
quan của mình. Lý luận khoa học của Cantơ đóng vai trò tích cực tới thế giới quan
của các nhà triết học và khoa học thực chứng từ Spenxơ tới Makhơ, từ Ognixtơ
Kôntơ tới Vítginsten, Cácnáp, v.v. Nhà hiện tợng luận nổi tiếng Hunsét coi Cantơ
là nhà t tởng vĩ đại sáng lập ra triết học tiên nghiệm khoa học
Tiền đề lý luận trực tiếp của Tricot học Mác
Theo Ănghen chân lý mà triết học có nhiệm vụ phải nhận thức không còn là tập
hợp gíao điều có sẵn.tuy vậy chân lý nằm ngay chính trong quá trình nhận thức.
Trong trình độ phát triển lịch sử lâu dài của khoa học đang tiến từ thấp đến phát
triển cao, xong không bao giờ tìm ra đợc cái gọi là chân lý tuyệt đỉnh cuối cùng.
Trong lịch sử mỗi giai đoạn là một tất yếu trong những triết học đã sản sinh ra nó
song những điều kiện mới cao hơn đang dần dần phát triển ngay trong lòng nó, nó
lại trở nên khôntg có giá trị, không tất yếu và buộc phải nhờng chỗ, suy giảm
Đối với triết học Hêghen không có gì là tối hậu, tuyệt đối hay thiên nhiên, nó chỉ ra
tính chất quá độ tất yếu của mọi sự vật và đối với cả bản thân triết học.
Trong lôgích học Hêghen đã trình bày một cách cụ thể về việc phát triển thông
qua phạm trù lợng - chất, phủ định của phủ định Tính
hiện thực của sự phát triển đã đợc Hêghen giải thích thông qua sự vật động của
những phạm trù nói trên, thể hiện một cách đầy đủ những mặt khác của sự phát
triển nh .Nguồn gốc cách thức, khuynh hớng. Ngoài ra đã chỉ ra một cách có hệ
thống về phơng thức của sự vận động biến đổi và phát triển của các sự vật hiện t-

ợng thông qua sự tác động lẫn nhau của những mặt đối lập, đợc biểu hiện thành
các cặp phạm trù chung - riêng, nguyên nhân kết quả, nội dung- hình thức, tất
nhiên- ngẫu nhiên, bản chất - hiện tợng, khả năng - hiện thực.
Khái quát về sự phát triển đã đợc Hêghen giải thích lại nhất quán bằng học thuyết
mâu thuẫn nhng do bị trói buộc với thế giới quan duy tâm, thuyết về vận động phát
triển của ông là một sản phẩm thuần tuý đối lập hoàn toàn với đời sống hiện thực.
Vì vậy phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng của khái niệm. Lê Nin
cho rằng muốn thấy đợc giá trị đích thực về triết học Hêghen thì phải nghiên cứu
trên tinh thần duy vật nghĩa là luôn luôn VD đặt vấn đề biện chứng khách quan
sinh ra biện chứng chủ quan.
Biện chứng của khái niệm triết học Hêghen trong khoa học lôgích bao gồm những
điểm tổng quát sau:
- Những khái niệm không khác mà còn là chung với nhau tức là có liên hệ với
nhau.
- Mỗi khái niệm đều phải trải qua một quá trình phát triển đợc thực hiện trên cở
sở của 3 nguyên tắc
+ Nguyên tắc chất và lợng quy định lẫn nhau những chuyển hoá về lợng sẽ dẫn tới
những biến đổi về chất và ngợc lại
+ Nguyên Tắc 2: Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập với t cách là
nguồn gốc động lực của sự phát triển.
Khi nghiên cứu các nguyên tắc này Hêghen đã phát triển để giải thích mối liên hệ
và chuyển hoá giữa bản chất và hiện tợng, nguyên nhân - khách quan, khả năng
hiện thực, cái chung, cái riêng.
+ Nguyên tắc 3: Phủ định của phủ định là khuynh hớng biến đổi phát triển nói
chung của mọi sự vật hiện tợng. Tính tất yếu của sự phát triển không diễn ra theo
một đờng thẳng mà diễn ra theo hình thức xoáy ốc. Trong quá trình phát triển biểu
hiện cụ thể của bao hàm sự kế thừa và loại bỏ.
Trong triết học tự nhiên Hêghen đã đa ra những t tởng biện chứng vĩ đại về sự
thống nhất vật chất và vận động và tính chất mâu thuẫn của những phạm trù
không gian và thời gian, vận động về sự phụ thuộc của những đặc tính hoá học

vào sự thay đổi về lợng. Để chứng minh tính chất biện chứng hiện thực. Hêghen
đã đa ra VD tự nhiên biểu hiện của sự phát triển giới tự nhiên cũng đều có nguồn
gốc từ ý niệm. Mặc dù đợc xây dựng trên lập trờng của chủ nghĩa duy tâm khách
quan nhng triết học Hêghen vẫn đợc thừa nhận là một trong những thành tựu vĩ
đại nhất của t tởng triết học nhân loại. Triết học Hêghen là di sản tinh thần trực
tiếp của nền triết học macxit.
Phép biện chứng của Hêghen đã đợc cải tạo kế thừa phát triển thành phép biện
chứng duy vật.
Câu 2 :

Phân tích nội dung học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. ý nghĩa
phơng pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội? Quan niệm
của Anh Chị về sự vận dụng học thuyết này vào thời kỳ quá độ ở nớc ta.
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng
để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những quan hệ
sản xuất của nó thích ứng với lực lợng sản xuất ở một trình độ nhất định và với
một kiến trúc thợng tầng đợc xây dựng lên trên những quan hệ sản xuất đó.
Hình thái kinh tế - xã hội đợc coi là bộ xơng sống của nghĩa duy vật lịch sử.
Học thuyết Mác - Lê nin về hình thái kinh tế - xã hội vạch rõ kết cấu cơ bản và
phổ biến của mọi xã hội, quy luật vận động và phát triển tất yếu của xã hội. Xã
hội không phải là tổng số những hiện tợng, sự kiện rời rạc, mà là những cơ cấu
phức tạp trong đó có những mặt cơ bản nhất là: lực lợng sản xuất, quan hệ sản
xuất và kiến trúc thợng tầng. Mọi mặt đó có vai trò nhất định và tác động đến
các mặt khác, tạo nên sự vận động của cơ thể xã hội.
Nền sản xuất xã hội là một thể thống nhất gồm nhiều mặt, nhiều mối liên hệ,
trong đó nổi lên hai loại quan hệ cơ bản: 1) Lực lợng sản xuất : quan hệ con
ngời với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất bao gồm : ngời lao động (thói
quen, ý thức, kỷ luật lao động, kỹ năng sử dụng công cụ lao động) 2) Quan hệ
sản xuất là biểu hiện quan hệ giữa ngời với ngời trong quá trình sản xuất.
Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất không phải là 2 bộ phận, mà là 2 loại

quan hệ trong một thực thể thống nhất, cấu thành phơng thức sản xuất. Lực l-
ợng sản xuất và quan hệ sản xuất qui định, chế ớc, tác động qua lại, thúc đẩy
nhau phát triển, trong đó lực lợng sản xuất luôn luôn giữ vai trò quyết định,
quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lợng sản
xuất. Sự thống nhất mâu thuẫn này không ngừng tự sản sinh và tự giải quyết,
là động lực vận động nội tại của phơng thức sản xuất, cơ sở phát triển cuả
toàn bộ lịch sử loài ngời. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ lực lợng sản xuất thì quan hệ sản xuất trở thành phơng thức đảm bảo cho
sự phát triển của lực lợng sản xuất, ngợc lại sẽ kìm hãm sự phát triển của lực l-
ợng sản xuất. Trong mối quan hệ giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất
thì lực lợng sản xuất là yếu tố động còn quan hệ sản xuất là yếu tố tĩnh, trong
khi lực lợng sản xuất có xu hớng thờng xuyên biến đổi thì quan hệ sản xuất lại
có xu hớng bảo thủ. Vì vậy khi lực lợng sản xuất biến đổi đến một giới hạn nào
đó, quan hệ sản xuất không sẽ không còn biến đổi kịp với sự phát triển lực l-
ợng sản xuất. Quan hệ sản xuất bắt đầu kìm hãm sự phát triển lực lợng sản
xuất, sự xung đột này càng ngày càng trói buộc sự phát triển của tất cả các
mặt của nền sản xuất và của cả đời sống xã hội. Sức sản xuất muốn đợc giải
phóng thì phải xoá bỏ quan hệ sản xuất đã lỗi thời. Khi quan hệ sản xuất cũ bị
xoá bỏ, quan hệ sản xuất mới ra đởi phù hợp với lực lợng sản xuất đang phát
triển thì không những sức sản xuất đợc giải phóng mà mọi mặt khác của đời
sống xã hội cũng đợc phát triển lên ở một trình độ cao hơn. Quan hệ sản xuất
cũ bị bỏ qua cũng có nghĩa là phơng thức sản xuất cũ bị bỏ qua, phơng thức
sản xuất mới ra đời, một hình thái kinh tế - xã hội mới ra đời thay cho hình thái
kinh tế xã hội cũ đã lạc hậu. Toàn bộ xã hội loài ngời từ lĩnh vực kinh tế cho
đến đời sống chính trị xã hội đợc phát triển lên một trình độ cao hơn. Quan hệ
sản xuất mới, lực lợng sản xuất mới ở trong phơng thức sản xuất mới lại tiếp
tục tác động biện chứng với nhau và đến một mức độ nào đó lại xảy ra sự
xung đột giữa lực lợng sản xuất với quan hệ sản xuất, dẫn tới nhu cầu khách
quan, tiếp tục xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, mở đờng cho lực lợng sản xuất
phát triển, cứ nh thế các phơng thức sản xuất không ngừng thay thế nhau

trong lịch sử làm cho xã hội loài ngời không ngừng vận động từ thấp tới cao.
Các Mác đã chứng minh trong phơng thức sản xuất đầu tiên (cộng sản nguyên
thuỷ) do sự phát triển của lực lợng sản xuất dẫn tới sự phân công lao động
thành nhiều ngành nghề khác nhau làm cho quan hệ sở hữu cộng đồng về t
liệu sản xuất không còn phù hợp nữa đã dẫn tới sự ra đời của phơng thức sản
xuất chiếm hữu nô lệ dựa trên cơ sở của chế độ sở hữu t nhân về TLSX. LLSX
của chế độ CHNL lại tiếp tục vận động và phát triển đến một giai đoạn nhất
định lại làm xuất hiện nhu cầu xoá bỏ QHSX của chế độ CHNL đã trở nên chật
hẹp dẫn đến PTSX phong kiến ra đời, phép biện chứng giữa LLSX và QHSX
lại tiếp tục lặp lại dẫn tới sự xuất hiện của nền SX t bản. Sự phát triển của
LLSX T bản càng ngày càng có tính xã hội hoá cao, trong tơng lai sẽ dẫn tới
sự xung đột với QHSX đợc dựa trên những hình thức sở hữu t nhân khác nhau.
Mối quan hệ giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị đợc khái quát trong
phạm trù cơ sở hạ tầng và kiến trúc thợng tầng. Sự biến đổi và thay thế nhau
của các phơng thức sản xuất kéo theo sự thay đổi cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thợng tầng của xã hội bởi vì cơ sở hạ tầng của xã hội là toàn bộ những quan
hệ sản xuất hợp thành một cơ cấu kinh tế của xã hội ở từng thời giai đoạn lịch
sử nhất định. Trong từng thời kỳ lịch sử sẽ có các kiểu quan hệ sản xuất đặc
trng và trong các kiểu quan hệ sản xuất ấy sẽ có kiểu quan hệ sản xuất thống
trị mang tính chỉ đạo đặc trng cho một kiểu nhà nớc hiện thời, kiểu quan hệ
sản xuất tàn d đó là những kiểu quan hệ sản xuất đã có từ trớc nhng vẫn tồn
tại do đòi hỏi của mối quan hệ biện chứng giữa lực lợng sản xuất phù hợp với
quan hệ sản xuất, kiểu quan hệ sản xuất mầm mống đây là kiểu QHSX mà xã
hội tơng lai sẽ vơn tới ví dụ: Trong thời kỳ quá độ sẽ cùng đồng thời tồn tại
những kiểu quan hệ sản xuất :
+ QHSX thống trị chỉ đạo đó là: Nền kinh tế nhà nớc và kinh tế tập thể
+ QHSX tàn d đó là: QHSX t bản, QHSX cá thể
+ QHSX mầm mống đó là: nền kinh tế nhà nớc
Mỗi hình thức sở hữu TLSX sẽ tơng ứng có một QHSX tổng hợp tất cả các mối
quan hệ đó sẽ biểu thị các mối quan hệ đan xen trong một nền kinh tế. Nh

Lênin đã từng viết Trên thế giới không có và cũng không thể có thứ chủ
nghĩa t bản nào là thuần tuý cả, vì chủ nghĩa t bản luôn luôn có lẫn các yếu
tố phong kiến, tiểu thị dân hoặc những cái khác nữa
Khi cơ sở hạ tầng của xã hội đợc hình thành thì KTTT của xã hội cũng đợc
thiết lập tơng ứng bởi vì KTTT là toàn bộ nhơng t tởng xã hội, những thiết chế
tơng ứng và mối quan hệ nội tạng của chúng đợc xây dựng trên một cơ sở hạ
tầng nhất định nghĩa là khi QHSX đợc thiết lập thì những t tởng xã hội nh: Văn
hoá, đạo đức, chính trị, pháp quyền, triết học, tôn giáo và những thể chế:
các cơ quan, tổ chức vật chất tơng ứng với những t tởng xã hội cũng dần đợc
thiết lập. Có thể nói CSHT thế nào thì KTTT thì sẽ phải tơng ứng phù hợp nh
vậy CSHT quyết định KTTT và ngợc lại KTTT có khả năng tác động ngợc lại
CSHT vì chức năng của KTTT là để duy trì và bảo vệ CSHT sinh ra nó đồng
thời xoá bỏ CSHT khi không còn phù hợp với nó.
CSHT quyết đinh KTTT: CSHT sinh ra KTTT. CSHT của một xã hội nhất định
nh thế nào tính chất của nó ra sao, giai cấp đại diện cho nó nh thế nào thì hệ
thống t tởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học và các mối quan hệ,
các thể chế tơng ứng với những t tởng ấy cũng nh vậy.
Sự tác động qua trở lại của KTTT đối CSHT thể hiện trớc hết ở chức năng
chính trị - xã hội của KTTT nhằm bảo vệ, dyu trì, củng cố và phát triển CSHT
sinh ra nó, đấu tranh xoá bỏ CSHT và KTTT cũ. Trong mỗi hình thái kt-xh,
KTTT có những quá trình biến đổi nhất định. Quá trình đó càng phù hợp với
CSHT thì sự tác động của nó đối với CSHT càng có hiệu quả: ngợc lại, qúa
trình đó không theo cung chiều với quy luật vận động của CSHT thì nó sẽ cản
trở sự phát triển của CSHT. Trong thời đại ngày nay, vai trò của KTTT tăng lên
rõ rệt, càng thể hiện với t cách là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến tiến trình
lịch sử. Song nếu quá nhấn mạnh hoặc thổi phồng vai trò của KTTT đến mức
phủ định tính tất yếu kinh tế xủa xã hội, thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ
quan, duy ý chí.
ý nghĩa phơng pháp luận:
Trớc khi nói đến ý nghĩa phơng pháp luận chúng ta nói đến ý nghĩa của học

thuyết hình thái kt-xh : Việc vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự
phát triển xã hội, những nguyên nhân và xơ sở của sự xuất hiện và biến đổi
của các hiện tợng xã hội đã biến xã hội học thành khoa học thật sự, khắc phục
mọi quan điểm duy tâm về lịch sử; Là công cụ lý luận giúp chúng ta nhận thức
những quy luật phổ biến đang tác động và chi phối sự vận động của xã hội. Vũ
trạng cho chúng ta phơng pháp khoa học để nghiên cứu xã hội; Là cơ sở lý
luận của việc hoạch định các đờng lối cách mạng của các đảng cộng sản.
Qua đó ta thấy ý nghĩa phơng pháp luận của hình thái kinh tế - xã hội : Phạm
trù hình thái kinh tế - xã hội đặt cơ sở nguyên tắc phơng pháp luận để nghiên
cứu tất cả các mặt của xã hội. Chẳng những nó chỉ ra bản chất của một xã hội
cụ thể, phân biệt chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác, mà còn thấy đợc
tính lặp lại, tính liên tục của mối quan hệ giữa ngời với ngời trong quá trình sản
xuất và sinh hoạt ở những xã hội khác nhau. Nói cách khác, phạm trù hình thái
kt-xh cho phép nghiên cứu xã hội cả về mặt loại hình và về lịch sử. Xem xét
đời sống xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, coi nh một cấu
trúc thống nhất tơng đối ổn định, đang vận động trong khuôn khổ của chính
hình thái ấy (nghiên cứu xã hội về mặt loại hình). Xem xét sự sinh thành của
một hình thái kinh tế xã hội nhất định là nghiên cứu nó trong sự vận động, bớc
quá độ, sự chuyển tiếp, sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội. Hai cách tiếp
cận này thống nhất với nhau, xem xét cả sự vận hành của xã hội ở một giai
đoạn phát triển nhất định, cả quá trình phát triển theo theo giai đoạn của xã
hội trong tiến trình vận động lịch sử chung.
Quan niệm của cá nhân về sự vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã
hội vào thời kỳ quá độ ở nớc ta
Đáng tiếc là trong nhiều năm qua, đối với chúng ta, lý luận về chủ nghĩa xã hội
không những không đợc bổ sung phát triển cho phù hợp với biến đổi của thực
tiễn, mà lại đợc giải thích một cách máy móc giáo điều và đợc áp dụng rập
khuôn làm cho chủ nghĩa xã hội hiện thực bị biến dạng, dẫn đến khủng hoảng
và tan rã ở nhiều nơi. Nguyên nhân chủ yếu là do chúng ta mắc phải những
sai lầm chủ quan, duy ý chí, không tôn trọng các qui luật khách quan. Thực

tiễn cuộc sống đó đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại chủ nghĩa xã hội, tiến
hành đổi mới một cách toàn diện, sâu sắc cả lý luận và thực tiễn của chủ
nghĩa xã hội.
Khi vận dụng hình thái kinh tế - xã hội vào trờng hợp cụ thể từng quốc gia,
từng dân tộc phải tính đến sự tác động phức tạp của hoàn cảnh lịch sử - cụ thể
của tổng hợp nhiều yếu tố. Lịch sử đã chứng minh không phải bất kỳ nớc nào
cũng phải tuần tự trải qua các hình thái kt-xh, mà dựa vào sự phát triển đặc
thù của những quốc gia, dân tộc trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, có thể "bỏ
qua" hình thái kinh tế - xã hội này, nhảy vọt lên hình thái cao hơn. Chẳng hạn,
ngời thổ dân châu úc, châu Mỹ đi từ chế độ nô lệ lên thẳng chủ nghĩa t bản. ở
nớc ta cũng đã có những tiền đề và điều kiện cho phép chúng ta lựa chọn con đ-
ờng xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, làm cho đất nớc
ngày càng phồn vinh.
Quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta là con đờng phát triển tất yếu. Tuy nhiên,
xuất phát từ đặc điểm riêng của đất nớc mà cần có những bớc đi thích hợp. Nghị
quyết Đại hội VIII ghi rõ : Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng
nớc ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với sự phát triển của lực lợng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu
nớc mạnh. Xã hội công bằng văn minh từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đ-
a nớc ta cơ bản trở thành một nớc công nghiệp.
Đảng ta chỉ rõ con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội của nớc ta là sự phát triển hợp
quy luật. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của QHSX và kiến trúc thợng tầng t bản chủ nghĩa, nhng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt đợc dới chế độ t bản, đặc biệt là
về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lợng sản xuất, xây dựng
nền kinh tế hiện đại. Đồng thời, chúng ta xác định rõ ràng là cần phải từng bớc
xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển theo định
hớng xã hội chủ nghĩa; chống t tởng duy lực lợng sản xuất, chủ nghĩa kỹ trị.

Đảng chỉ rõ "Nớc ta quá đọ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản, từ một
xã hội vốn là nửa thuộc địa, nửa phong kiến, llsx rất thấp". Đặc điểm này xét
về tính chất và trình độ, biểu hiện ở hai đặc trng cơ bản: một là, llsx rất thấp
quy định tính tất yếu kinh tế - xã hội của xã hội ta cha đầy đủ, cha chín muồi
trong sự phát triển tự nhiên, nội tại của nó, hai là tồn đọng nhiều tàn d quan hệ
xã hội, ý thức, t tởng, tâm lý do chế độ thực dân, phong kiến cũ để lại. Đó là
những khó khăn, trở ngại trong bớc chuyển tiếp lịch sử từ một xã hội kém phát
triển sang một xã hội hiện đại phù hợp với những chuẩn mực và giá trị của nền
văn minh nhân loại và của tiến bộ xã hội.
Điều cần đặc biệt chú ý là, có thể bỏ qua chế độ t bản, quá độ lên chủ nghĩa
xã hội nhng không thể bỏ qua việc chuẩn bị những tiền đề cần thiết, nhất là
tiền đề kinh tế cho sự qúa độ ấy. Nói cách khác có thể bỏ qua chế độ t bản
chủ nghĩa nhng phải tiến hành sao cho sự bỏ qua này không hề vi phạm tiến
trình lịch sử- tự nhiên của sự phát triển. Do đó cần có sự phát triển nhất định
nhân tố t bản chủ nghĩa trong thời kỳ qúa độ là một yêu cầu khách quan.
Trong thời đại ngày nay nhà nớc ta phải cháp nhận nền kinh tế thị trờng, Đảng
và Nhà nớc phải có sự định hớng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, không chỉ bó hẹp trong nền kinh tế quốc doanh mà phải hoạt
động bao quát cả trong những thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nhằm
từng bớc xã hội hoá nền sản xuất với những hình thức và bớc đi thích hợp theo
hớng: kinh tế quốc doanh đợc củng cố và phát triển ỏ những vị trí chủ đạo,
kinh tế tập thể dới hình thức thu hút phần lớn những ngời sản xuất nhỏ trong
các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh,
kinh tế t nhân và gia đình phát huy đợc mọi tiềm năng, các tập đoàn kinh
doanh lớn có sức chi phối trong nền kinh tế đợc hình thành.
Để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta trong thời kỳ quá độ, chúng ta cần
quán triệt một số quan điểm cơ bản sau đây:
- Coi trọng vai trò và bản chất của nhà nớc, thể hiện đầy đủ quyền lực và
nguyện vọng vủa nhân dân. Thiết lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền lực
của nhân dân đợc khẳng định và đợc thực hiện bằng pháp luật mang tính công

khai, bình đẳng, dân chủ và tiến bộ.
- Thực hiện những biến đổi mang tính cách mạng trên cả ba lĩnh vực: lực l-
ợng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thợng tầng. Trong đó phát triển
lực lợng sản xuất là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, tạo tiền đề kinh tế vững
chắc cho phơng thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Trong kỷ nguyên bùng nổ
thông tin và cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển nh vũ bảo
chúng ta cần đẩy mạnh phát triển nền kinh tế tri thức, coi đó là một khâu then
chốt để phát triển lực lợng sản xuất.
- Phù hợp với sự phát triển lực lợng sản xuất, thiết lập từng bớc quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Chế
độ công hữu phải là kết quả của qúa trình xã hội hoá thực sự chứ không phải
bằng biện pháp hành chính gợng ép. Chuyển từ quan hệ hiện vật sang quan
hệ hàng hoá - tiền tệ, trở lại đúng qui luật phát triển tự nhiên của kinh tế. Thực
hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế là chủ yếu.
- Tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực t tởng văn hoá.
Phát huy nhân tố con ngời, con ngời vừa là mục tiêu, vừa là động lực để xây
dựng một xã hội văn minh. Giải phóng cá nhân để giải phóng xã hội, kết hợp
sức mạnh cá nhân với sức mạnh cộng đồng là động lực quan trọng của chủ
nghĩa xã hội.
-

Câu 3 : Chứng minh sự ra đời của Triết học Mác là 1 tất yếu khách quan
- là bớc ngoặt - cách mạng và khoa học Mác - Anghen đã thực hiện
- * Triết học Mác ra đời là một tất yếu khách quan
- Sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử, nhờ đó mà giai cấp vô sản
và chính đảng của nó có một thế giới quan thực sự khoa học. Nó là kế thừa các
tinh hoa của t duy triết học, văn học, khoa học của lịch sử nhân loại, đồng thời
dựa trên những tiền đề về kinh tế, xã hội ở thời đó.
-


Tiền đề kinh tế - xã hội
- Vào giữa nhng năm 40 của thế kỷ XIX, phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa
đã phát triển mạnh, trở thành chủ đạo, tỏ rõ u việt hơn so với nền sản xuất
phong kiến. Sự phát triển của phơng thức sản xuất TBCN đã làm bộc lộ những
mâu thuẫn, xung đột không thể khắc phục đợc, đó là mâu thuẫn llsx càng ngày
càng có tính xã hội hoá cao với quan hệ sx dựa trên sở hữu t nhân về llsx, từ đó
dẫn đến các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống các nhà t bản. Chính
nhu cầu khách quan này là phải có một vũ khí lý luận sắc bén phản ánh đợc một
cách khoa học quá trình vận động cách mạng của giai cấp công nhân. Các Mác
và Anghen sáng lập ra lý luận khoa học bằng tất cả thiên tài của trí tuệ, sự nồng
cháy của tình cảm cách mạng cũng nh sự phong phú của hoạt động thực tiễn
của các ông. Triết học Mác ra đời phản ánh đúng đắn lịch sử phong trào đấu
tranh cách mạng của giai cấp công nhân trên toàn thế giới. Với sự ra đời của
Triết học Mác, giai cấp công nhân đã tìm thấy ở đó sức mạnh và vũ khí tinh thần
của mình, đồng thời dẫn dắt phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân từ tự
phát đến tự giác.
- Có thể nói vào những năm 40 thế kỷ XIX sự ra đời của TH Mác là một tất yếu
lịch sử, không thể sớm hơn và cũng không thể muộn hơn, vì chính ở thời điểm
lịch sử đó các điều kiện đã đợc chín muồi.
-

Tiền đề lý luận
- Nhu cầu lịch sử tự nó không đợc thực hiện và khả năng cũng không tự hiện
thực hoá, chúng cần có sự hoạt động của con ngời của nhân tố chủ thể. Chủ thể
ở đây không chỉ là quần chúng nhân dân mà còn là những cá nhân lỗi lạc, có
tầm trí tuệ cao, đủ sức nắm lấy và giải quyết những vấn đề mà t tởng tiên tiến
của loài ngời đặt ra. Mác và Anghen là những con ngời nh thể, 2 ông đã tiếp thu
và phê phán TH của các bậc tiền bối một cách có chọn lọc, đặc biệt là phép
biện chứng cảu Hêghen.

- Công lao của Heghen phát triển phép biện chứng, đồng thời 2 ông phê phán
chủ nghĩa duy tâm của Heghen trong học thuyết về "ý niệm tuyệt đối", trong
quan niệm về nhà nớc và pháp quyền.
- Những t tởng triết học duy vật và vô thần của Phoiơbắc tạo tiền đề lý luận
quan trọng cho bớc chuyển biến của C.Mác và Ph. Angghen từ chủ nghĩa duy
tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ lập trờng dân chủ - cách mạng sang lập trờng
cộng sản. Phoiơbắc đã từ bỏ chủ nghĩa duy tâm của Hêghen một cáh triệt để,
phê phán mạnh mẽ tôn giáo, bác bỏ quan niệm sai lầm của phái Hêghen tre lẫn
lộn tự nhiên với ý thức. Ông khẳng định giới tự nhiên là tính thứ nhất, không phụ
thuộc vào con ngời và tồn tại vĩnh viễn, không do ai sáng tạo. Con ngời cũng là
sản phẩm của giới tự nhiên. Thần thánh không sáng tạo ra con ngời mà con ngời
sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình tuỳ thuộc vào những điều kiện
sống nhất định.
- Tuy Mác và Angghen chịu ảnh hởng mạnh mẽ của triết học Phoiơbắc, nhng
C.Mác và Ph.Angghen đã tiếp thu triết học đó một cách có phê phán. Hai ông
khác Phoiơbắc ở chỗ không vứt bỏ hoàn toàn triết học của Hêghen - phép biện
chứng nh Phoiơbắc đã làm. Chủ nghĩa duy vật của C.Mác và Ph.Angghen là chủ
nghĩa duy vật triệt để, còn chủ nghĩa duy tâm của Phoiơbắc vẫn cha thót khỏi
tính chất duy tấm và siêu hình, đặc biệt khi ông xem xét xã hội. Phoiơbắc cha
hiểu đúng vấn đề thực tiễn xã hội, quan niệm về đấu tranh chính trị xã hội còn
nhiều sai lầm. Mác và Angghen đánh giá vai trò to lớn của Phoiơbắc trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, trong việc làm hình thành thế
giới quan duy vật khoa học của mình.
- Sự ra đời cảu TH Mác là kết quả của sự tiếp thu tinh hoa t tởng triết học nhân
loại.
-

Tiền đề khoa học tự nhiên
- Thế kỷ 17, 18 căn bản là của các khoa học cụ thể, khoa học nghiên cứu các
bộ phận riêng rẽ của tự nhiên và do đó làm xuất hiện phơng pháp siêu hình, thì

những năm cuối thế kỷ 19, sự phát triển của khoa học tự nhiên đã chuyển sang
một giai đoạn mới - giai đoạn phát triển khoa học tự nhiên lý luận. Khoa học này
đòi hỏi phải chuyển phơng pháp nghiên cứu từ siêu hình, máy móc sang phơng
pháp biện chứng, coi sự phát triển của tự nhiên nh một quá trình vận động, liên
hệ thống nhất.
- Vào đầu thế kỷ 19, có ba phát minh lớn có ý nghĩa đối với sự hình thành triết
học duy vật biện chứng là định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lợng của
Robet X Maye, thuyết tế bào của Slayđen Sơvanơ, thuyết tiến hoá của Đác uyn,
ba phát minh này góp phần 1 cách toàn diện thế giới quan biện chứng từ tự
nhên đến xã hội.
- Phát minh ĐL bảo toàn và chuyển hoá năng lợng vạch ra mối liên hệ thống
nhất giữa các hình thức vận động khác nhau cảu thế giới vật chất; thuyết tế bào
đã phá tan quan niệm sai lầm của phơng pháp siêu hình về thế giới sinh vật, nó
chứng minh cho sự thống nhất, sự phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp của thế giới sinh vật; thuyết tiến hoá chống lại quan điểm quy tâm về
nguồn gốc của sự sống, nó giải thích tính chất biện chứng của sự phát triển
phong phú, đa dạng của các giống loài trong thế giới tự nhiên hữu sinh, khi có
sự biến đổi về điểu kiện tự nhiên, các loài động vật, thực vật phải biến đổi để
thích nghi với điều kiện mới và nó cũng chỉ ra sự phát triển động vật từ sinh vật
cho đến con ngời là kết quả của sự tiến hoá.
- Từ sự phát triển của giới tự nhiên đã góp phần vào duy vật biện chứng về tự
nhiên của C.Mác và Ph.Angghen, Mác và Angghen đã xây dựng chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ gnhĩa duy vật lịch sử nh một triết học phù hợp sự phát
triển của các khoa học cụ thể nh khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đồng
thời TH Mác trở thành thế giới quan và phơng pháp luận cho các khoa học đó.
- Sự ra đời của triết học Mác là do chín muồi của các điều kiện về kinh tế- xã
hội, lý luận và điều kiện về khoa học tự nhiên do vậy mà triết học Mác ra đời là
một tất yếu lịch sử không thể sớm hơn và cũng không thể muộn hơn và chính ở
thời điểm lịch sử đó các điều kiện kinh tế-xã hội đã đợc chín muồi.
- * Cuộc cách mạng mang tính bớc ngoặt do Mác và Angghen thực hiện

- Thực chất của bớc ngoặt cách mạng trong triết học do Mác và Angghen thực
hiện :
- Khác với tất cả các hệ thống TH trớc đó, TH Mác đã chỉ ra vai trò quyết định
của hoạt động thực tiễn trong sự tồn tại, phát triển của xã hội và trong nhận
thức. Nếu không hiểu đúng vai trò cảu thực tiễn, nhât là thực tiễn sx xã hội thì tất
yếu dẫn đến chủ nghĩa duy tâm. Trong nhận thức thực tiễn là cơ sở, động lực.
mục đích của nhận thức, là nơi mà lý luận hớng đến để giải thích và cải tạo thế
giới. Mác cho rằng : "Các nhà TH trớc kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách
khác nhau, song vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới".
- Bớc ngoặt cách mạng vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác thực hiện là đã đa ra
quan điểm duy vật lịch sử. Trớc Mác các nhà triết học hiểu sự phát triển của xã
hội một cách duy tâm, coi động lực phát triển của xã hội là ở trong ý thức, tinh
thần của con ngời. Đối lập với quan điểm trên Mác - Angghen đã giải quyết đúng
đắn vấn đề cơ bản của TH trong đời sống xã hội không phải ý thức xã hội quyết
định tồn tại xã hội, sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào ý thức của con ngời:
Sự phát triển của xã hội mang tính quy luật, là quá trình lịch sử tự nhiên. Do sự
tác động của các quy luật vốn có của xã hội, các hình thái kinh tế - xã hội thay
thế nhau một cách khách quan độc lập với ý chí và ý thức của con ngời, trong sự
phát triển ấy, quần chúng nhân dân là lực lợng quyết định, sáng tạo ra lịch sử.
- Với chủ nghĩa DV biện chứng và chủ nghĩa DVLS Mác - Angghen đã biến đổi
căn bản tính chất TH, đối tợng nghiên cứu và mối liên hệ của nó với các khoa
học khác. TH Mác đóng vai trò là thế giới quan và phơng pháp luận của các
khoa học cụ thể. Các tri thức của các khoa học cụ thể là cơ sở để cụ thể hoá và
phát triển TH Mác.
- Phép biện chứng giữa LLSX và QHSX, đó là quy luật về sự phù hợp của
QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Trong mỗi một PTSX, QHSX và LLSX
là hai mặt đối lập, trong đó LLSX là nội dung của PTSX còn QHSX là hình thức
xã hội của PTSX. Giữa QHSX và LLSX thờng xuyên tác động qua lại lẫn nhau.
Khi QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì QHSX trở thành phơng
thức đảm bảo cho sự phát triển của LLSX. Khi QHSX không phù hợp với tính

chất và trình độ của LLSX thì QHSX kìm hãm sự phát triển của LLSX. QHSX là
yếu tố tĩnh còn LLSX là yếu tố động, trong khi LLSX có xu hớng thờng xuyên
biến đổi thì QHSX lại có xu hớng bảo thủ. Vì vậy khi LLSX biến đổi đến một giới
hạn nào đó, QHSX sẽ không còn biến đổi kịp với sự phát triển của LLSX nữa.
QHSX bắt đầu kìm hãm sự phát triển của LLSX. Sức sản xuất muốn đợc giải
phóng thì phải xoá bỏ QHSX đã lỗi thời. QHSX mới, LLSX mởi PTSX mới lại tác
động biện chứng với nhau và đến một mức độ nào đó lại xảy ra sự xung đột giữa
LLSX và QHSX, dẫn đến nhu cầu khách quan tiếp tục xoá bỏ QHSX cũ để mở
đờng cho LLSX phát triển cứ nh thế các FTSX không ngừng thay thế nhau
trong lịch sử làm cho xã hội loài ngời không ngừng vận động từ thấp đến cao.
- Tính cách mạng trong TH Mác xoá bỏ cái cũ, lỗi thời và xác lập cái mới, tiến
bộ hơn. Với bản chất ấy, cách mạng không phải là quá trình dễ dàng, thẳng tắp,
trơn tru mà là một quá trình khó khăn, phức tạp, thậm chí có sự thụt lùi tạm thời
nhng cuối cùng cái mới tiến bộ hơn là cái chiến thắng. Với việc phủ định các
quan điểm Duy tâm và siêu hình của các nền Triết học khác, đồng thời phát triển
từ t duy siêu hình lên phép BCDV, TH Mác đãvạch ra quá trình phát triển, với nội
dung và hình thức hết sức phong phú. Đối với phép BCDV không có gì là tối
hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả. Nó chỉ ra tính chất quá độ của mọi sự vật, và
đối với nó không có gì tồn tại ngoài quá trình không ngừng của sự tiến triển vô
cùng, vô tận từ thấp đến cao. Chính quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn
bên trong sụe vật, quá trình tích luỹ dần dần về lợng, đến một giai giới hạn nhất
định, khi điều kiện chín muồi, tất yếu dẫn đến sự tự phủ định của sự vật, làm cho
sự vật phát triển lên một giai đoạn mới cao hơn, tiến bộ hơn.
- Có thể nói phép DVBC là cơ sở phơng pháp luận, chỉ đạo chủ thể xác định ph-
ơng pháp cách mạng khoa học và đúng đắn.
- Tính khoa học trong TH Mác: Triết học Mác với Phép DVBC là sự thống nhất
hữu cơ giữa lý luận và phơng pháp. Hệ thống các quy luật, phạm trù của phép
DVBC không chỉ phán ánh đúng đắn thế giới khách quan mà còn chỉ ra những
cách thức để định hớng cho con ngời trong nhận thức và cải tạo thế giới. Phép
DVBC không chỉ khái quát những thành tựu của tất cả các khoa học cụ thể, mà

còn là kết tinh những tinh hoa trong qúa trình phát triển t tởng TH của nhân loại.
- TH Mác là 1 học thuyết sáng tạo, không ngừng đợc bổ sung, đợc làm phong
phú thêm bởi chính thực tiễn và cũng phát triển cùng thực tiễn. Sự ra đời của
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản năm 1848 đánh dấu bớc chuyển căn bản về thế
giới quan cũng nh lập trờng chính trị nhng TH Mác không dừng tại đó mà 2 ông
đã sáng tạo nhiều công trình TH lớn nhằm tổng kết mặt lý luận, những kinh
nghiệm thực tiễn phong phú của phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, đa TH Mác phát triển lên một
đỉnh cao mới. TH Mác là kim chỉ nam cho hành động.
- Qua đó ta thấy C.Mác và Ph.Angghe đã tạo ra bớc ngoặt mang tính cách
mạng trong lịch sử triết học.
-

Câu 4 : Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
- Vận dụng lý luận của Mác vào thực tiễn ở nớc ta trong thời kỳ đổi mới
- Phạm trù thực tiễn là phạm trù cao nhất của TH Mác, là toàn bộ những hoạt
động vật chất của con ngời mang tính lịch sử xã hội nhất định. Hoạt động thực
tiêcn đợc biểu hiện cụ thể ở những hình thức cơ bản sau : hoạt động sx vật chất
là hình thức cơ bản nhất, nó quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của xã hội
loài ngời. Vì vậy nó phải đợc tiến hành thờng xuyên trong mọi thời đại và mọi
hoàn cảnh của lịch sử; hoạt động thực nghiệm nghiên cứu khoa học là hình thức
đặc biệt đợc tiến hành trong mọi điều kiện nhân tạo nhằm tăng cờng khả năng
khai thác tự nhiên của con ngời; hoạt động cải tiến xã hội là hình thức cao nhất
nhằm làm hoàn thiện các quan hệ xã hội đa xã hội vận động qui luật tiến bộ xã
hội và đi đến nền văn minh xã hội.
- Lý luận xuất hiện do sự phát triển của nhận thức loài ngời, lý luận là sự khái
quát những kinh nghiệm thực tiễn, là tổng hợp các tri thức về tự nhiên xã hội đã
đợc tích luỹ trong quá trình lịch sử của con ngời. Nh vậy lý luận là sản phẩm của
quá trình nhận thức nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan. Lý luận đợc hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong

mối liên hệ với thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định.
- Thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức
nói chung trong đó có lý luận. Con ngời quan hệ với thế giới bắt đầu không phải
bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ các hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới
mà nhận thức, lý luận ở con ngời mới đợc hình thành và phát triển. Bằng hoạt
động thực tiễn, con ngời tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộ lộ những
thuộc tính, những quy luật để con ngời nhận thức chúng. Ban đầu con ngời thu
nhận những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so sánh,
phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tợng hoá để phát triển thành lý tính,
xây dựng thành lý luận, khoa học phản ánh bản chất, quy luật vận động của các
sự vật, hiện tợng trong thế giới. Do đó, có thể nói thực tiễn cung cấp tài liệu cho
nhận thức, cho lý luận. Không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có lý
luận. Hay lý luận là gốc của thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, lý luận ra đời do
yêu cầu của thực tiễn.
- Trong quá trình tồn tại, con ngời cũng luôn biến đổi, phát triển năng lực bản
chất, trí tuệ của mình, nhờ đó con ngời ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới,
khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú, sâu sắc tri thức của mình
về thế giới. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phơng hớng phát triển của
nhân thức, lý luận. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết
kinh nghiệm, khái quát lý luận, thúc đẩy sự ra đời phát triển của các ngành khoa
học.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức, lý luận sau khi ra đời
phải quay về phục vụ thực tiễn, hớng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, phải biến thành
hành động thực tiễn của quần chúng. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự
khi chúng đợc vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn phục vụ mục tiêu phát
triển nói chung.
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, thực tiễn trớc hết là điểm xuất phát của
nhận thức, nhận thức xuất phát từ thực tiễn, phản ánh thực tiễn cho nên thực tiễn
qui định nhận thức. Thực tiễn là động lực của nhận thức, thực tiễn luôn luôn vận

động và biến đổi để phản ánh thực tiễn, thực tiễn là thớc đo, tiêu chuẩn để kiểm
tra nhận thức, kiểm tra chân lý. Chân lý là những tri thức phù hợp với khách thể
trong quá trình phản ánh. Chân lý có những tính chất cơ bản sau, chân lý mang
tính khách quan, tính khách quan của chân lý đợc qui định bởi tính khách quan
của đối tợng phản ánh; ngoài tính khách quan chân lý đợc qui định bởi tính cụ
thể của đối tợng, phản ánh cũng nh nhu cầu của con ngời để thoả mãn mục đích
lịch sử ở trong điều kiện cụ thể. Chân lý có 2 loại: chânlý tyuệt đối và chân lý t-
ơng đối. Chân lý tuyệt đối là sự phản ánh hoàn toàn của chủ thể đối với khách
thể. Xét về mặt nguyên tắc thì con ngời có thể nhận thức đợc chân lý tuyệt đối
bởi vì trong thế giới chỉ có những lĩnh vực con ngời cha biết chứ không có những
lĩnh vực con ngời không thể biết. Nhng do tính chất vô hạn của đối tợng nhận
thức thờng xuyên mâu thuẫn với khả năng hứu hạn của nhận thức của con ngời
và loài ngời ở trong những giai đoạn lịch sử sã hội nhất định cho nên nhận thức
của con ngời chỉ là quá trình tiệm cận đến chân lý tuyệt đối mà không bao giờ
đạt đến chân lý tuyệt đối. Đó cũng là động lực thúc đẩy sự nhận thức của con
ngời. Chân lý tơng đối là những tri thức đúng nhng nó chỉ phù hợp với bộ phận
của khách thể vì thế chân lý luôn luôn là chân lý cụ thể.
- Qua sự phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận đòi hỏi chúng
ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức
phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi
trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn. Nếu xa
rời thực tiễn sẽ dẫn tới sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh
quan liêu, chủ nghĩa xét lại.
- Bên cạnh coi trọng thực tiễn không có nghĩa là coi nhẹ lý luận, hạ thấp vai trò
của lý luận. Không nên đề cao cái này hạ thấp cái kia và ngợc lại. Không thể
dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận đợc trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng
lên thành lý luận.
- Tri thức kinh nghiệm là tri thức chủ yếu thu đợc từ quan sát và thí nghiệm, tri
thức kinh nghiệm có vai trò không thể thiếu đợc trong cuộc sống hàng ngày của
con ngời và có vai trò quan trọng trong đấu tranh cách mạng, nhất là trong sự

nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy không nên coi thờng kinh nghiệm song
cũng không nên cờng điệu kinh nghiệm, không nên dừng lại ở kinh nghiệm mà
cần nâng lên trình độ lý luận. Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh
nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức khái quát từ tri thức kinh nghiệm, nó tồn tại
trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật của lý luận nói chung.
- Lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa
là có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó, phạm vi ứng dụng của nó cũng phổ
biến hơn, rộng hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm.
- Nhờ có những u điểm trên, lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động
trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con
ngời. Lý luận là kim chỉ nam cho hành động, soi đờng, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn.
Lên nin viết " Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào
cách mạng".
- Lý luận một khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành sức mạnh vật chất,
lý luận có thể dự kiến đợc sự vận động và phát triển của sự vật trong tơng lai, chỉ
ra những phơng hớng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa
học mới làm cho hoạt động của con ngời trỏ nên chủ động, tự giác, hạn chế tình
trạng mò mẫm, tự phát.
- Tuy nhiên, do tính gián tiếp, tính từu tợng cao trong sự phản ánh hiện thực nên
lý luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tởng, giáo điều. Khả năng ấy
càng tăng lên nếu lý luận đó lại bị chi phối bởi hệ t tởng không khoa học, phản
động và thái độ đọc quyền chân lý.
- Vì vậy, phải coi trọng lý luận, nhng không cờng điệu vai trò lý luận, coi thờng
thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn. Đều đó có nghĩa, phải quán triệt nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động
cách mạng. Hồ Chí Minh viết " Thông nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hớng
dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là
lýluận suông".
- Chính chủ nghĩa Mác - Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luận

với thực tiễn trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Lý luận Mác - Lênin
là sự khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sử xã hội, là sự đúc kết những tri thức
kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực cụ thể để xây dựng nên hệ thống
lý luận khoa học hoàn chỉnh. Sức mạnh của nó là ở chỗ nó gắn bó hữu cơ với
thực tiễn xã hội. Chính Lênin là ngời đã nêu một tấm gơng sáng về sự phát triển
sáng tạo cảu chủ nghĩa Mác trong điều kiện thực tiễn mới. Khi chuyển sang thời
lý chính sách kinh tế mới, Lênin nhận xét " Toàn bộ quan điểm của chúng ta về
chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản".
- Đáng tiệc là ở nhiều nớc xã hội chủ nghĩa đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, từ đó làm cho lý luận lạc hậu, giáo điều, dẫn
đến khủng hoảng về lý luận của chúng ta hiện nay.
- * Vận dụng lý luận của Mác vào thực tiễn ở nớc ta trong thời kỳ đổi mới
- Đáng tiếc là trong thời kỳ đổi mới ở nớc ta đã vi pham nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tế dẫn đến bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều chủ nghĩa.
Đây là hai căn bệnh mà cán bộ, đảng viên chúng ta đã ít nhiều mắc phải trong
quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, cho nên trong Đại hộ VII của Đảng ta đã đề
ra nhiệm vụ phải xây dựng phơng pháp t duy khoa học, chống chủ nghĩa giáo
điều, chủ nghĩa kinh nghiệm.
- Bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng ở câu chữ , hiểu lý luận
một cách trừu tợng mà không thâu tóm đợc thực chất cách mạng khoa học của
nó, nặng về diễn giải những gì đã có trong sách vở mà không đối chiếu với cuộc
sống, thoát ly thực tiễn; tiếp nhận những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội một
cách đơn giản, phiến diện mang tính chất cảm tính, từ đó, biến chúng trở thành
những tín điều và áp dụng rập khuôn mô hình chủ nghĩa xã hội của nớc ngoài.
- Một biểu hiện khác của bệnh giáo điều là áp dụng một cách rập khuôn, máy
móc kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của nớc khác hay nói khác bệnh
giáo điều là khuynh hớng cờng điệu vai trò của lý luận, cio nhẹ thực tiễn, tách rời
lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử, áp dụng kinh nghiệm một cách
rập khuôn, máy móc.
- Đã có thời kỳ chúng ta rơi vào lý luận cách mạng lạc hậu, giáo điều, do không

đợc bổ sung, phát triể, không theo kịp yêu cầu của thực tiễn nên đã dẫn đến
khủng hoảng về lýluận cho nên vừa qua do quá trình cải cách, cải tổ ở một số n-
ớc xã hội chủ nghĩa không đợc soi snág bởi lý luận đúng đắn, nên đã đa lại
những hậu quả hết sức nặng nề. Chế độ xã hội chủ nghĩa không những không
đợc tăng cờng mà trái lại còn bị suy yếu thêm và đi đến bị sụp đổ trong một loạt
nớc.
- ở nớc ta, công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội do Đảng ta khởi xớng đã thu đợc
những thành tựu bớc đầu rất quan trọng. Tuy nhiên, tính chất khó khăn và ơhức
tạp của sự nghiệp đòi hỏi cũng nh chiều sâu và tầm cỡ cảu nó đang đặt ra rất
nhiều vấn đề lý luận lớn lao và gay cấn, đòi hỏi phải đợc giải quyết. Cho nên, có
thể nói " cha bao giờ lý luận lại cần thiết và có tầm quan trọng lớn nh hiện nay.
Lý luận có vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới nói riêng và với toàn bộ
vận mệnh của chủ nghĩa xã hội nói chung.
- Muốn sự nghiệp đổi mới đi đến thành công, Đảng ta cần phải tự đổi mới và tự
chỉnh đốn, trớc hết phải nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận, nhận thức lại lý
luận của Mác.
- Trong công cuộc đổi mới xã hội ngày nay, cúng ta cần tiến hành đổi mới đồng
bộ. Trớc hết là đổi mới kinh tế: đổi mới cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý,
đổi mới phơng thức phân phối, đổi mới quy trình công nghệ nhằm làm cho nền
kinh tế nớc ta phát triển hoà nhập đợc với trình độ phát triển kinh tế của khu vực
và thế giới. Chúng ta phải thừa nhận nền kinh tế thị trờng, chứ không tuyệt đối
hoá xã hội chủ nghĩa, chỉ đa ra nền kinh tế quốc doanh, sở hữu nhà nớc, sử hữu
tập thể nh hình thức hợp tác xã nh trớc đây, mà chúng ta phải phát triển nền kinh
tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, thành phần kinh tế nhà nớc và kinh tế
hợp tác xã là nền tảng của nền kinh tế nhng cha thích nghi với cơ chế thị trờng,
làm ăn còn kém hiệu quả, chúng ta phải thực hiện đờng lối mở cửa bằng cách
giao lu hợp tác với các nớc t bản để từ đó khai thác tối đa các công nghệ về
quản lý, khoa học kỹ thuật tiên tiến của các nớc t bản. Bên cạnh đó Đảng và
Nhà nớc phải có những chính sách đối ngoại đúng đắn để thu hút vốn, khoa học
- kỹ thuật cà công nghệ cảu khu vực và thế giới.

- Đảng và Nhà nớc nhận thức đúng và vận dụng đúng cá quy luật khách quan
của lịch sử mà trớc hết là các quy luật kinh tế.
- Đảng và Nhà nớc không chỉ cần có trí tuệ mà còn cần phải trong sạch, vững
mạnh, phải kiên định định hớng xã hội chủ nghĩa, phải lấy chính sách, luật pháp
để tập hợp, phát huy mọi tiềm năng trong nhân dân theo đờng lối phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần. Đồng thời phải tạo ra sức mạnh tổng hợp trong
nớc và thế giới để nớc ta "bỏ qua" chế độ t bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã
hội
- Cõu 5 : Bng s hiu bit ca anh ch v vi nhng tỏc phm ó hc. Anh ch hóy
chng minh phộp bin chng duy vt l khoa hc v mi quan h ph bin v s phỏt
triển. Những tư tưởng khoa học nói trên giúp được anh chị những gì trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Bài làm
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa cơ sở lý luận và phương pháp hệ
thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng hoạt động của
thế giới tự nhiên, xã hội, tư duy mà còn là công cụ sắc bén để nhận thức thế giới khách
quan của con người, chỉ ra được những cách thức để định hướng đúng hoạt động cụ thể
nhằm mang lại hiệu quả, khả năng cao trong thực tiễn. Biện chứng là thuật ngữ có nghĩa
là nghệ thuật tiến hành tranh luận, thảo luận. Trong lịch sử Triết học, thuật ngữ biện
chứng được sử dụng với những nghĩa khác nhau, song nhìn chung các quan niệm triết
học trước Mác về phép biện chứng đều có những hạn chế nhất định.
- Phép biện chứng duy tâm về khái niệm được nghiên cứu trong trường phái Xocrat
và Platon.
- Các yếu tố của quan niệm biện chứng về thế giới cũng có trong triết học của Platon,
cụ thể trong sự phân tích của ông về mối quan hệ qua lại giữa vật chất và hình thức với
tư cách khả năng và hiện thực trong sự chuyển hoá lẫn nhau của chúng.
- Các luận điểm biện chứng dưới hình thức thần bí đã có mặt trong triết học của chủ
nghĩa Platon mới.
- Ở thời kỳ thống trị của phương pháp siêu hình trong triết học(Thế kỉ XI-XVIII), phép
biện duy vật chứng không biến mất mà nó chuyển sang một hình thức mới.

- Với tư cách là một khoa học triết học, phép biện chứng được chuẩn bị trong suốt một
quá trình phát triển kéo dài cuả triết học và bắt đầu xuất hiện cùng với sự ra đời của
triết học. Các yếu tố tự phát đã có trong triết học Phương Đông cổ đại, đặc biệt là trong
triết học Trung Quốc và Ấn Độ.
- Căn cứ trên sự quan sát ban đầu, biện chứng tự phát thể hiện dưới hình thức tư duy rõ
ràng, đầy đủ nhất trong triết học Hi Lạp cổ đại và đặc biệt trong triết học Hêraclít. Theo
Hêraclít tất cả đều tồn tại và đồng thời cũng không tồn tại, tất cả đều biến đổi, đều trong
quá trình xuất hiện, phát triển, vận động, biến đổi và tiêu vong không ngừng, thể hiện rõ
qua câu nói nổi tiếng của ông : "Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông".
- Và trong một giai đoạn mới trong sự phát triển của phép biện chứng gắn liền với triết
học Đức cuôí thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX. Trong các tác phẩm của các nhà triết học
Đức, phép biện chứng được phát triển trên cơ sở duy tâm, trở thành phương pháp nhận
thức phổ biến, vạch rõ cấu trúc biện chứng của tư duy mà họ coi là bán nguyên đầu
tiên của tồn tại : Như Heghen phát triển đầy đủ và sâu sắc hơn cả. Theo ông, mọi thứ
bao quanh chúng ta đều có thể được xem là mẫu mực của biện chứng, chúng ta biết
rằng, mọi cái hữu hạn là biến đổi nhất thời, mà đó không phải là cái gì khác hơn là biện
chứng của cái hữu hạn, nhờ đó mà cái hữu hạn vượt ra khỏi khuôn khổ của mình để
chuyển thành mặt đối lập với mình học thuyết về mâu thuẫn là cái cấu thành cơ sở phép
biện chứng Heghen.
- Nhưng trước Xôcrát đã có phép biện chứng tự phát gắn liền với tên tuổi của
Hêracơlít Phép biện chứng tự phát cổ đại đã phải lùi bức trước phép biện chứng duy
tâm của Xôcrát và Platôn bởi vì, về cơ bản tuy phép biện chứng ấy là đúng, nhưng mới
chỉ là kết quả của những trực biến chứ chưa phải là kết quả của sự nghiên cứu khoa học
nghiêm chỉnh. Đến lượt mình, phép biện chứng duy tâm của Xôcrát và Platôn lai bị phép
siêu hình (thế kỷ XII - XVIII) phủ định. Sau đó, phép biện chứng duy tâm cận đại Đức
lại phủ định phép siêu hình, do đòi hỏi một sự phát triển của khoa học phải có một cách
nhìn biện chứng do nền triết học cận đại Đức phát triển bắt đầu từ Cantơ và hoàn chỉnh
ở Hêghen. Tính chất duy tâm của phép biện chứng ấy. (mà triết học Hêghen được coi là
hệ thống hoàn chỉnh ) thể hiện: coi biện chứng là sự phát triển của "ý niệm tuyệt đối".
Trong quá trình ấy, "ý niệm tuyệt đối" "tự tha hoá", tức là chuyển hoá thành giới tự

nhiên và sau đó lại trở về với bản thân mình trong tinh thần. Vì vậy, ở Hêghen, sự phát
triển biện chứng của thế giới chỉ là thể hiện sự tự vận động của "ý niệm tuyệt đối" mà
thôi.
- Phép biện chứng duy vật không chỉ khái quát những thành tựu của tất cả các khoa học
cụ thể, mà còn kết tinh những tinh hoa trong quá trình phát triển tư tưởng triết học của
nhân loại. Đi sâu vào từng nguyên lý, phạm trù và quy luận của phép biện chứng duy
vật, chúng ta sẽ càng tháy rõ phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ
biến và sự phát triển.
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật khái quát bức tranh
toàn cảnh chằng chịt những mối liên hệ của thế giới ( tự nhiên, xã hội và tư duy). Vì vậy,
quán triệt quan điểm toàn diện là nguyên tắc phương pháp luận chung nhất chỉ đạo mọi
hoạt động nhận thức của con người. Nội dung chính của nguyên tắc đó là:
- - Phải xem xét toàn diện các mối liên hệ;
- - Trong tổng số các mối liên hệ phải rút ra được những mối liên hệ bản chất, chủ yếu
để hiểu thấu bản chất của sự vật;
- - Từ bản chất của sự vật phải quay lại hiẻu rõ toàn bộ sự vật trên cơ sở liên kết mối
liên hệ bản chất, chủ yếu với tất cả các mối liên hệ khác của sự vật để bảo đảm tính đồng
bộ khi giải quyết mọi vấn đề trong đời sống. Quan điểm toàn diện, đối lập với mọi suy
nghĩ và hành động phiến diện, chiết trung, siêu hình.
- Qua phân tích các quan điểm và những tư tưởng khoa học của các trường phái triết
học, ta thấy mỗi nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng. Vì vậy, chúng phải được vận dụng tổng hợp trong nhận
thức khoa học thực tiễn cách mạng.
- Tính cách mạng của phép biện chứng duy vật và ý nghĩa phương pháp luận của nó đối
với thực tiễn cách mạng trong thời đại ngày nay.
- Phép biện chứng duy vật mang tính khoa học và tính cách mạng sâu sắc. Tính khoa
học và tính cách mạng của phép biện chứng duy vật thống nhất với nhau bởi vì phép
biện chứng duy vật là học thuyết "Về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc
nhất và không phiến diện"
- Vận dụng phép biện chứng duy vật vào thực tiễn.

- Hoạt động thực tiễn, nhất là trong hoạt động xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mỗi
người cần biết trang bị cho mình tri thức về thế giới khách quan và phương pháp luận
khoa học và triết học Mác- Lê nin, nắm vững nó giúp chúng ta tránh sai lầm đáng tiếc và
có thế giành thắng lợi trong hoạt động thực tiễn, quản lý doanh nghiệp.
- ở đây, tôi chỉ nêu một số ý kiến được rút ra từ thực tiễn điều hành, chỉ đạo sản xuất và
biểu hiện của nó : Sản xuất là hoạt động thực tiễn phong phú. Quản lý sản xuất là sự tác
động qua lại một cách tổng hợp nhiều quan hệ kỹ thuật kinh tế xã hội. Biểu hiện duy tâm
chủ quan là tư tưởng chỉ đạo thoát ly hiện thực khách quan : xác định chỉ tiêu, kế hoạch
là mạo hiểm, bảo thủ và tách con người ra khỏi vật, không thấy vai trò to lớn và tính
năng động chủ quan là khi đặt kế hoạch sản xuất thì thiếu biện pháp về kỹ thuật và tổ
chức có hiệu lực.
- Gặp vấn đề phức tạp không tìm ra đầu mối không vạch ra được mâu thuẫn chủ yếu,
thứ yếu. Do đó không giải quyết được thẳng vấn đề. Quản lý sản xuất thiếu linh hoạt đó
là chỉ đạo thực hiện chỉ tiêu sản xuất tuỳ tiện sử đổi hoặc tuyệt đối không sửa đổi.
- Bất cứ nơi nào, người quản lý nào, nếu mắc bện chủ quan duy ý chí thì trong chỉ
đạo sản xuất sẽ dẫn đến trì trệ kém hiệu quả.
- Do vậy, người quản lý phải nắm được chính xác quy luật khách quan.
- Người quản lý sản xuất phải ý thức rõ ràng, muốn tiến hành sản xuất thuận lợi, phải
có điều kiện vật chất thích hợp, cung cấp kịp thời tư liệu sản xuất, máy, thiết bị, công cụ,
vật liệu nghĩa là cả điều kiện chủ quan và khách quan, yếu tố vật chất kỹ thuật và con
người. Cần xem xét tỉ mỉ mọi điều kiện cho quá trình sản xuất sau đó tranh thủ, đề ra
nghị quyết và kế hoạch thực hiện. Có kế hoạch sẽ chỉ đạo công việc thuận lợi và đẩy
mạnh sản xuất phát triển. Đó là vấn đề căn bản của nhận thức lý luận duy vật biện
chứng coi vấn đề tồn tại là tính thứ nhất, tư duy là tính thứ hai.
- Người quản lý sản xuất phải cố gắng phân tích cụ thể tất cả mọi sự vật cụ thể để nhận
thức được quy luật khách quan vốn có bản thân sự vật. Phát huy tính sáng tạo của nhân
viên, viên chức trong doanh nghiệp.
- Đó là tôn trọng mọi giá trị của người lao động làm ra, coi người lao động là chủ nhân
mọi sáng tạo. Muốn phát huy tinh thần tích cực sáng tạo, thì nhiệm vụ quan trọng là phải
giải phóng tư tưởng "bài trừ mê tín" làm cho đông đảo công nhân viên chức xây dựng

được phong cách lao động cộng sản chủ nghĩa, bồi dưỡng tác phong dám nghĩ dám làm
dám nói, dám chịu trách nhiệm, cổ vũ tinh thần hăng hái lao động của quần chúng.
- Cuối cùng kịp thời phát hiện, phân tích giải quyết mâu thuẫn đúng lúc, đúng chỗ đủ
điều kiện.
- Tóm lại vận dụng nguyên lý chủ nghĩa duy vật biện chứng để xem xét việc quản lý
sản xuất, chủ yếu làm cho mỗi người chúng ta có một phương pháp xem xét, phân tích
sự vận động phát triển mâu thuẫn của sự vật. Từ đó đưa ra các biện pháp quản lý giúp
chúng ta tránh sai lầm đáng tiếc và có thể giành thắng lợi trong hoạt động thực tiễn,
quản lý doanh nghiệp.
Trong tác phẩm: “Biện chứng tự nhiên” Anghen viết : “ Trong khoa học tự nhiên
mỗi khi có những phát minh mang tính vạch thời đại thì chủ nghĩa duy vật không tránh
khỏi phải thay đổi hình thức của mình”. Hãy dựa vào những phát minh của vật lý học hiện
đại ở những năm cuối của thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, giải thích tư tưởng trên.
Sự ra đời của triết học Mac với lý luận duy vật biện chứng gắn liền với sự “bùng
phát” của khoa học kỹ thuật.
Chủ nghĩa duy vật (CNDV) đã trải qua những giai đoạn phát triển cùng với lịch sử
phát triển của con người trong việc đi tìm câu trả lời cho sự sống và tồn tại. CNDV xuất
hiện có thể nói là muộn hơn chủ nghĩa duy tâm(CNDT) nhưng lại đóng vai trò là nhân tố
đối nghịch.Tính duy vật bắt đầu nhen nhóm từ quan niệm giải thích nguồn gốc của thế giới
và mối quan hệ của con người với tự nhiên. Từ Âm Dương Ngũ Hành giải thích khởi
nguồn thế giới là thái cực và 5 yếu tố kim,mộc,thuỷ,hoả,thổ tới việc coi lửa là nhân tố hình
thành thế giới của Heracht và coi mặt trời là trung tâm của vũ trụ của Gallilê Song tất cả
mới chỉ là những quan điểm thô sơ mộc mạc và đơn lẻ.
CNDV được hình thành ngay từ những quan điểm trái ngược với CNDT. Trong suốt quá
trình tách ra nó phải đấu tranh để tồn tại .Sau lần sinh ra , CNDV đã phải chìm đắm trong
“đêm dài trung cổ” và chế độ phong kiến . Chịu sự đè ép của tôn giáo , thần giáo (những
lực lượng đại diện cho CNDT) .CNDV đã phải nép mình phục vụ tôn giáo và thần học.
Thế kỉ 19 và đầu 20 đánh giấu sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên. Sự ra
đời của chủ nghĩa tư bản (CNTB ) cùng với những thành tựu trong các khoa học cụ thể đã
khiến loài nhìn nhận hoàn toàn khác về thế giới .CNDT hoàn toàn sụp đổ trong mớ lý luận

duy lý của mình , còn CNDV thì lúng túng trong giải thích những phát minh khoa học và
dẫn đến quan điểm siêu hình trong tất cả các môn khoa học cụ thể giai đoạn này. Mặc dù,
đây là giai đoạn lịch sử có nhiều điêù kiện thuận lợi cho sự phát triển của CNDV. Song sử
dụng lý luận cũ và các quan điểm cũ của CNDV chỉ có thể nói cho 1 đối tượng, khi đi tới
giải thích tổng thể khái quát các nhà khoa học lại rơi vào những quan điểm siêu hình. Vậy
có được một quan điểm duy vật phù hợp làm cơ sở lý luận cho các khoa học đương thời là
đòi hỏi của các nhà triết học Triết học Mac – Anghen ra đời là sự phát triển toàn diện và
rực rỡ nhất của chủ nghĩa duy vật . Có thể nói đây là giai đoạn CNDV phát triển đầy đủ
nhất và trở thành tư tuởng căn bản , là mọi nguồn gốc lý luận cho các khoa học tự nhiên
Đặc trưng lớn nhất trong CNDV của triết học Mác – Anghen đó là lý luận biện chứng
.Không chỉ trong giải thích các sự vật hiện tượng cùng với sự vận động của chúng mà còn
biện chứng trong cách lý luận về lịch sử xã hội .Có thể kể tới những lý do ( về mặt khoa
học tự nhiên đòi hỏi ) cho sự phát triển của lý luận biện chứng :.
- Các phát minh khoa học lớn tạo ra những bước ngoặt trong sự phát triển của khoa học
tự nhiên đòi hỏi phải đánh giá ý nghĩa triết học của chúng.
- Đấu tranh tư tưởng diễn ra gay gắt trong lĩnh vực khoa học tự nhiên.Đa số các nhà
khoa học còn bị “ cầm tù” bởi thế giới quan siêu hình và xa lạ với phép biện chứng
điều đó làm trở ngại con đường nhận thức khoa học.
- Các thành tựu khoa học tự nhiên là những lời khẳng định cho quan điểm duy vật biện
chứng một cách rõ ràng nhất .CNDT đang lợi dụng các khoa học tự nhiên để phát triển
và chống lại CNDV dưới đủ loại màu sắc khác nhau .
Triết học Mac – Anghen ra đời là sự kế thừa không chỉ chủ nghĩa duy vật của các nhà
khoa học trước đó như Heghen, Phoiơbac, chủ nghĩa xã hội không tưởng mà đó là thành
quả đúc kết nhưng lý luận tiến bộ , phê phán những tư tưởng sai lầm của “các bậc tiền bối”
và quan trọng hơn đó là sự cập nhật kịp thời các thành tựu của khoa học tự nhiên đương
thời . Sử dụng khoa học tự nhiên như những chứng minh lý luận duy vật biện chứng của
mình là cách khôn ngoan và có sức thuyết phục nhất . Theo Anghen: những phát minh vĩ
đại thời kì này đã hình thành nên quan điểm tổng quát về thế giới tự nhiên như là cái toàn
vẹn cho nên tổng hợp chúng lại sẽ cho những lý luận hoàn thiện và xác thực nhất về thế
giới . Chính vì vậy, triết học Mác – Anghen có sức sống vô tận, ngay lập tức trở thành lý

luận chân lý cho những tư tưởng khoa học tiến bộ trên thế giới.
Song CNDVBC luôn luôn phải vận động phát triển như mọi quy luật vận động khác
của thế giới , cho phù hợp với điều kiện lịch sử cũng như để đủ sức phá tan mọi lý luận đối
nghịch CNDT và quan điểm siêu hình. Do vậy “mỗi khi có những phát minh mang tính
vạch thời đại của khoa học tự nhiên thì CNDV không tránh khỏi việc thay đổi hình thức
của mình”.
Những thay đổi trong lý luận trước những thành tựu vật lý cho tới các quan điểm về
thế giới :
Từ những năm 30-50 của thế kỷ 19 khoa học tự nhiên đã có những thành tựu to lớn
trên hầu hết các lĩnh vực chủ chốt như vật lý , sinh học , hoá học , thiên văn , toán học
Cùng với sự xuất hiện đó,khoa học bước sang giai đoạn khoa học tự nhiên lý luận với
phương pháp biện chứng của Mac-Anghen đề ra . Biện chứng khoa học là trình bày sự
phát triển của tự nhiên như một quá trình vận động , liên hệ và thống nhất .Lấy những phát
hiện mới làm dẫn chứng cụ thể cho từng quan điểm. Mac-Anghen đã coi 3 phát minh lớn
có ý nghĩa nhất đối với sự hình thành duy vật biện chứng là : Quy luật bảo toàn và chuyển
hoá năng lượng; học thuyết tế bào và thuyết tiến hoá của Dacuyn. Phát minh thứ nhất cho
phép vạch ra được mối liên hệ thống nhất giữa các hình thức vận động khác nhau của vật
chất . Phát minh thứ hai chứng minh cho sự thống nhất , sự phát triển từ thấp tới cao, từ
đơn giản đến phức tạp của thế gới sinh vật.Phát minh thứ ba chứng minh cho sự phát triển
phong phú, đa dạng của các giống loài trên tự nhiên hữu sinh và cho câu trả lời nguồn gốc
loài người không phải do thế lực siêu nhiên sinh ra mà là sự tiến hoá của sinh vật từ thấp
tới cao .
Từ những năm 1842-1845 các nhà vật lý học nêu ra quy luật bảo toàn và chuyển
hoá năng lượng (Maye - Đức , Gơrơp - Anh , Lenxơ -Nga ) . Phát minh này đã chứng
minh rằng lực cơ học , nhiệt, ánh sáng, điện tử và các quá trình hoá học là các hình thức
khác nhau của quá trình vận động vật chất không tách rời nhau mà liên hệ với nhau .
Trong những điều kiện nhất định thì chuyển hoá lẫn nhau mà không có lực nào mất đi cả .
Điều đó chứng minh rằng không có sự phát sinh và mất đi của năng lượng , chỉ có sự
chuyển biến không ngừng của năng lượng từ dạng này sang dạng khác . Trước khi quy luật
này được nêu ra hầu hết các nhà khoa học hoạt động trong những lĩnh vực riêng lẻ của

khoa học tự nhiên có những cách riêng trong việc giải thích vật chất và sự vận động của
vật chất . Tất cả đều dựa trên quan điểm siêu hình chỉ nhìn nhận thế giới qua lĩnh vực
mình nghiên cứu. Ví dụ Newtown coi thế giới vật chất tồn tại tương tác nhau qua lực hấp
đẫn tức là mọi vật đều hút nhau. Nếu vậy thì sẽ không có vật nào chuyển động được .
Newton chỉ nhìn thấy lực hấp dẫn của trái đất với vạn vật trên nó rồi suy ra đối với mọi vật
trên vũ trụ. Điều đó là siêu hình bởi sau này khoa học đã chứng minh lực hấp dẫn còn phụ
thuộc nhiều vào vận tốc chuyển động và không phải lúc nào lực hấp dẫn cũng tồn tại trong
mọi vật của vũ trụ. Tuy nhiên những lý luận của Newton tồn tại và ăn sâu vào tư tưởng các
nhà khoa học suốt thế kỷ 18 . Phải đến thế kỷ 19 –20 với sự nghiên cứu sâu của các môn
khoa học cụ thể đã làm thay đổi quan niệm về thế giới .Và đương nhiên những lý luận cũ
không còn phù hợp . Có thể nói tới những phát minh : cảm ứng điện từ của Faraday , định
luật phóng xạ và phân rã của Becoren và Maricurie , thuyết lượng tử của Pauly , học
thuyết tương đối của Einstanh, tia rơnghen của Rơnghen Những phát minh này đều đã
làm đảo lộn những quan điểm cũ về vật chất và sự tồn tại và vận động của vật chất.Nếu
như trước đây các nhà khoa học coi vật chất cấu tạo từ nguyên tử , phân tử và sự tương tác
giữa chúng tạo nên những đặc trưng riêng cho từng vật, thì nay đã hoàn toàn khác . Thế
giới vật chất đương nhiên tồn tại ngoài ý muốn của con người , được khởi nguồn từ thế
giới tự nhiên , cấu tạo từ phân tử , nguyên tử thậm chí còn nhỏ hơn rất nhiều đó là các hạt
photon, nơtoron,broton.Và không chỉ là sự tương tác của phân tử , nguyên tử mà đó là sự
tác độngkhông ngừng của các hạt khác nhau trong thế giơí vật chất . Mỗi hình thức tồn tại
của vật chất chỉ là sự tồn tại tạm thời của trạng thái các hạt trong một mức năng lượng
nhất định. Khi chúng nhận hay mất đi năng lượng của mình chúng sẽ chuyển sang dạng
khác . Như vậy cơ học , hoá học , lượng tử , tia phóng xạ là những hình thức khác nhau
trong sự tồn tại ở các dạng khác nhau của quá trình vận động không ngừng , chúng luôn
luôn biến đổi qua nhau trong sự tồn tại của sự vật . Như vậy, những phát minh này phong
phú và hoàn thiện hơn cho phép con người nhìn nhận thế giới không thể bó gọn trong một
vài quan điểm xưa cũ .Những phát minh mới ra đời phủ định những phát minh cũ . Và đòi
hỏi các nhà khoa học phải lý giải nhìn nhận nó đúng hơn . Mối lần có những phát minh
như thế triết học có vai trò là cơ sở lý luận cho các môn khoa học lại không khỏi phải xem
xét lại những quan điểm cũ của mình. Đối với CNDV vốn đã đem lại niềm tin lý luận cho

các nhà khoa học cũng phải thay đổi các hình thức của mình nếu không sẽ là sự “coi
thường” của khoa học. Với quan điểm siêu hình các nhà khoa học sẽ lúng túng khi những
phát minh mới ra đời . Do vậy CNDV cần có những cách nhìn mới, quan điểm mới phù
hợp -Phép biện chứng của triết họcMac – Anghen đã đảm nhận xuất sắc vai trò này.
Sự hình thành các khoc học tự nhiên mang tính lý luận như vậy đã làm cho triết học
về tự nhiên trước đây có tham vọng là “khoa học của các khoa học” không còn nữa .Các
khoa học tự nhiên mang tính lý luận , song tạo ra khả năng chuyển từ phương pháp siêu
hình sang phương pháp biện chứng đã làm nảy sinh khuynh hướng sai lầm trong một số
các nhà khoa học tự nhiên ,đó là xem thường triết học và phép biện chứng. Điều đó chứng
tỏ sự không phù hợp của phương pháp cũ cũng như sự cố thủ trong phương pháp siêu hình
đã ăn sâu vào lý luận các nhà khoa học . Tạo ra phép biện chứng đó là lý luận theo cách
mới song đó vẫn là nền tảng của CNDV.Tuy vậy muốn có được sức thuyết phục đối với
các nhà khoa học không có gì tốt hơn là sử dụng chính những thành tựu mà họ phát minh
ra . Anghen từng viết : “không thể giải thích được một cách hợp lý nếu không tổng hợp
được những thực tế mới nhất của khoa học mà sự biện chứng trong thế giới tự nhiên dã chỉ
ra.” Chính vì vậy , khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên , phát triển và cụ thể
hoá các vấn đề của CNDV biện chứng biến nó thành lý luận , tư tưởng và niềm tin chân lý
cho khoa học thì triết học Mac –Anghen có sức sống lâu dài.
Mỗi thời đại của lịch sử là những bước khác nhau của cuộc đấu tranh bền bỉ giữa
CNDV và CNDT . Trong mỗi thời điểm có những điều kiện khó khăn và thuận lợi cho cả
hai trường phái . Thế kỷ 19 –20 với sự phát triển của khoa học tự nhiên và thực tiễn các
cuộc đấu tranh giai cấp là điều kiện cho sự phát triển của triết học duy vật. Chính vì vậy ,
CNDV không thể dừng tại chỗ với nội dung cũ mà phải vận động thay đổi cho phù hợp
với thực tế . Phải “chính danh”để nắm lấy vai trò là lý luận và vũ khí cho các phong trào
đấu tranh giải phóng và là lý luận cho các nghành khoa học cụ thể. Thế giới luôn luôn vận
động.Giữ cho mình không bị “lu mờ” và đủ sức giải quyết đúng đắn theo quan điểm duy
vật các hiện tượng của thế giới , là một quá trình trau dồi và thay đổi thường xuyên của
các nhà triết học , khoa học . Lý luận duy vật nếu không được thay đổi về cách lý giải và
con đường lý giải các phát hiện mới của khoa học thì sẽ không lý giải được những phát
kiến đó và dễ dàng rơi vào quan điểm siêu hình , bị coi thường và “lu mờ” . Nên nhớ

những phát minh có tính vạch thời đại là những lần loài người giật mình nhìn lại các hệ
thống lý luận đã qua xem có còn đúng hay sai. Vận dụng những lý luận đúng đắn để giải
thích cho những phát kiến là không dễ dàng bởi khoa học tiến nhanh hơn triết học mỗi
phát minh mới luôn là một câu hỏi khó cho triết học.
Những lý luận của CNDV tuy đúng đắn và phù hợp với khoa học tự nhiên , song nó
chỉ được công nhận khi có những chứng minh rõ ràng từ thực tế nếu không nó chỉ là
những lý thuyết giáo điều và xa vời. Khoa học tự nhiên ngày càng phát triển mạnh mẽ ,
phát triển thành khoa học thực nghiệm. Tính thực nghiệm đã phổ biến và ăn sâu vào nhận
thức loài người. Cho nên CNDVvà phép biện chứng cũng phải mang tính thực nghiệm .
Muốn vậy các nhà khoa học tự nhiên cần phải nắm vững những quan điểm duy vật biện
chứng một cách có ý thức . Thường xuyên đúc kết , tổng hợp thực tế ,khái quát thực tế
thành hệ thống lý luận và khoa học. Lenin viết” Nếu không có một cơ sở triết học vững
vàng thì tuyệt nhiên không có khoa học tự nhiên nào hay chủ nghĩa duy vật nào có thể tiến
hành đấu tranh chống được sự lấn bước của những tư tưởng tư sản và sự phục hồi của thế
giới quan tư sản . Muốn tiến hành được cuộc đấu tranh ấy và đưa nó đến thành công hoàn
toàn , nhà khoa học tự nhiên phải là một nhà duy vật hiện đại , một đồ đệ tự giác của chủ
nghĩa duy vật . Nghĩa là phải là một nhà duy vật biện chứng”.Lý luận biện chứng của Mac
– Anghen là lý luận từ thực tiễn cũng như các nhà triết học khác đều có sự gò bó của hoàn
cảnh lịch sử , song nó tồn tại bởi đó là một hệ thống lý luận mở ( nói như Mac: không thể
nói gì về những gì cụ thể ?) “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như một cái gì đã
xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm: Trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng
cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi
mặt nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống.”
Câu 9 : Anh chị hãy chứng minh mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể,
qua đó chỉ ra sự khác biệt giữa triết học Mác với các dòng triết học khác.
Trước hết chúng ta khẳng định rằng triết học là một môn khoa học; giữa các môn khoa học
với nhau bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau, ví dụ như trong Vật lý học, các môn khoa
học xã hội, Lôgíc học đều dùng các ký hiệu của Toán học vào để chứng minh, hay giải
thích một vấn đề nào đó vì vậy Triết học sẽ có các mối liên hệ với các khoa học khác;
Phương pháp nghiên cứu trong triết học dựa vào sự phát triển của các môn khoa học khác

×