Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 90 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
*****************

NGUYỄN MẠNH TUẤN



NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÀ PHÊ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60.31.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. MAI THỊ THANH XUÂN

Hà Nội – 2009

87

MC LC

Trang
LI M U
1


ch-ơng 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm
quốc tế về cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh
tranh sản phẩm



5
1.1. Cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các nhân tố ảnh h-ởng đến
năng lực cạnh tranh
1.1.1. Khỏi nim cạnh tranh, các cấp độ cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.2 Các nhân tố ảnh h-ởng đến năng lực cạnh tranh

5

5
11
1.2 Vai trũ ca việc nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm đối với
doanh nghiệp
1.2.1. Tăng doanh thu, thị phần và lợi nhuận cho doanh nghiệp
1.2.2. Tạo dựng th-ơng hiệu và nâng cao vị thế của doanh nghiệp

16
17

17
1.3. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
1.3.1. Thị tr-ờng và thị phần
1.3.2. Chi phí sản xuất
1.3.3. Lợi nhuận
1.3.4. Giá trị kim ngạch xuất khẩu

17
18
18
19
19
19
1.4. Kinh nghim của một số n-ớc trong việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngành cà phê
1.4.1. Kinh nghim của Braxin
1.4.2. Kinh nghim của Colombia
1.4.3. Bài học rút ra cho Việt Nam

20
20
22
23
CHNG 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của cà
phê Việt Nam từ năm 2000 đến nay


24

88
2.1. Khái quát về sản xuất và xuất khẩu cà phê ở Việt Nam từ năm
2000 đến năm 2008
2.1.1. Tình hình sản xuất
2.1.2. Về xuất khẩu

24
27

30
2.2. Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam
2.2.1. Cạnh tranh về chất l-ợng và chủng loại
2.2.2. Cạnh tranh về chi phí và giá cả
2.2.3. Cạnh tranh thị tr-ờng
32
32
39
42

2.3. ỏnh giỏ chung về năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam
2.3.1. Những điểm mạnh
2.3.2. Những hạn chế và thách thức đặt ra cho ngành cà phê Việt Nam
43
43

45
CHNG 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
của cà phê Việt Nam


55
3.1. Dự báo thị tr-ờng cà phê trong những năm tới
3.1.1. Bối cảnh mới tác động đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê
3.1.2. Dự báo thị tr-ờng cà phê thế giới đến năm 2015
55
55
57
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh của cà
phê Việt Nam

3.2.1. Tăng c-ờng đầu t- cho nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ
chế biến
3.2.2. Phát triển vùng nguyên liệu tập trung, chuyên canh, công nghệ cao
3.2.3. Đa dạng hoá các chủng loại sản phẩm cà phê
3.2.4. Xây dựng th-ơng hiệu mạnh cho cà phê Việt Nam
3.2.5. Nâng cao hiểu biết của ng-ời dân về kinh tế thị tr-ờng và hội nhập
kinh tế quốc tế
3.2.6. Nâng cao vai trò của Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam( Vicofa)

59

59

65
67
69

74

75
KT LUN
78
TI LIU THAM KHO
80
PH LC
85

89
Danh mục các từ viết tắt


ASEAN: (The Association Of South East Asian Nations): Hiệp hội các quốc
Gia Đông Nam á.
ICO : (The International Coffee Organization): Tổ chức Cà phê thế giới.

OECD : (The Organization for Economic Cooperation And Deverlopment):
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế.

VICOFA: (The Vietnam Cocoa Coffee Asociation): Hiệp hội Cà phê Ca
Cao Việt Nam

Wto : (The world Trade Organization): Tổ chức Th-ơng mại Thế giới.

Wef: (The world Economic Forum): Diễn đàn Kinh tế Thế giới.

ISO: (The International Organization for Standardiration): Hiệp hội
Tiêu chuẩn quốc tế.

CECAFE: (The Council of Brazilian Green Coffee Exporters): Hi ng Cỏc
Nhà xuất khẩu cà phê Braxin.

FNC: (The Colombian Coffee Federation): Liên đoàn cà phê quốc gia
Colombia.
GCI : (The Growth Competitiveness Index) năng lực cạnh tranh tăng tr-ởng.

WIPO : (The World Intellectual Property Organization): Tổ chức sở hữu
trí tuệ thế giới.

90
Danh mục bảng biểu


Bảng 2.1: Thống kê sản l-ợng cà phê các n-ớc trên thế giới từ
2002 - 2007

Bảng 2.2: Sn xut v xut khu c phờ ca Vit Nam (2000 - 2008).

Bảng 2.3: Khối l-ợng nhập khẩu cà phê Việt Nam của 10 n-ớc hàng
đầu trong các vụ cà phê từ 2000/01 đến 2006/07

Bảng 2.4: Cơ cấu chi phí sản xuất trung bình cho 1 tấn cà phê.

Bảng 2.5: Din tớch v n giỏ xut khu ca c phờ Vit Nam t
2000 - 2008

Bảng 2.6: Thị phần cà phê Việt Nam trên thế giới.





1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Quá trình toàn cầu hóa mang đến nhiều cơ hội phát triển cũng đặt ra
không ít những thách thức cho nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp, trong
đó có cả các doanh nghiệp kinh doanh cà phê Việt Nam. Cạnh tranh không
chỉ diễn ra ở thị trường nước ngoài mà ở ngay cả thị trường trong nước.
Sau mấy chục năm phát triển ngành cà phê nước ta đã đạt được rất nhiều
thành tựu đáng tự hào. Từ một nước không có trên bản đồ cà phê thế giới, nay
đã vươn lên đứng thứ hai trên thế giới, thậm chí năng suất thuộc hàng cao

nhất thế giới. Nếu như những năm 80 của thế kỷ trước cả nước chỉ có khoảng
hơn 22 ngàn ha cà phê, xuất khẩu hàng năm không quá 10.000 tấn thì đến
hiện nay cả nước đã có trên 500 ngàn ha cà phê, với sản lượng hàng năm đạt
khoảng 800 ngàn tấn và trở thành nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế
giới. Trong lĩnh vực nông sản thì cà phê đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ
lực, chỉ sau lúa gạo.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới thì những yếu kém của ngành cà phê Việt Nam ngày càng bộc lộ rõ
ràng hơn. Dù là một nước xuất khẩu cà phê lớn trên thế giới, nhưng cà phê
Việt Nam không những không chi phối được giá cả, mà ngược lại, tình trạng
đó là do năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam quá yếu kém, chất lượng
cà phê quá thấp, dẫn đến các nhà nhập khẩu có cớ ép giá.
Vấn đề làm thế nào để nâng vị thế ngành cà phê Việt Nam lên ngang tầm
trên thị trường quốc tế đang là câu hỏi đặt ra cho nhiều cấp, nhiều ngành và
nhiều giới. Để góp phần nhỏ bé và trả lời câu hỏi trên tôi chọn đề tài “Nâng


2
cao năng lực cạnh tranh cho cà phê Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ kinh
tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Vấn đề cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh luôn là vấn đề nóng
đối với mọi quốc gia và mọi doanh nghiệp. Đã có các cơ quan, các nhà nghiên
cứu, các nhà hoạch định chính sách đề cập đến vấn đề này, trong đó nổi bật là:
- “Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010”– Bộ Thương
mại, 2005. Đề án này đã tìm ra các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nói chung
của Việt Nam giai đoạn 2006-2010.
- “Tiêu thụ nông sản Việt Nam: thực trạng và những vấn đề đặt ra trong
hội nhập kinh tế quốc tế”. Đề tài NCKH, ĐHQG Hà Nội Của Phan Huy
Đường. Đề tài nghiên cứu thực trạng và giải pháp cho tiêu thụ nông sản ở

Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
- “Phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam” - NXB
Chính Trị Quốc Gia Hà Nội, 2006 Của Mai Thị Thanh Xuân, Ngô Đăng
Thành .Đánh giá thực trạng công nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam,
định hướng mục tiêu phát triển công nghiệp chế biến nông sản đến năm
2010 và đưa ra một số giải pháp chủ yếu phát triển công nghiệp chế biến
nông sản ở Việt Nam.
- “Một số nguyên nhân làm suy yếu năng lực cạnh tranh của cà phê Việt
Nam”, (2002), tạp chí phát triển kinh tế tháng 9/2002 Của Trần Ngọc Hưng .
Đánh giá những nguyên nhân quan trọng nhất làm suy yếu năng lực cạnh
tranh của cà phê Việt Nam.
- “Cà phê Việt Nam- những vấn đề cần cải thiện”(2006), Tạp chí thương
mại số 32/2006 Của Hoàng Lan . (Tác giả đưa ra những phân tích sâu sắc nhất
về thực trạng của cà phê Việt Nam và một số gợi ý về những giải pháp nên
được áp dụng.


3
- “Cà phê Việt đối mặt với thách thức mới”,(2008), Vneconomy số ngày
13/08/2008 Của Hồ Khánh Thiện. (Thị trường trong nước cũng như thị trường
quốc tế đã có rất nhiều thay đổi và tác giả tập trung nghiên cứu và đưa ra
những thách thức mới đối với cà phê Việt Nam.
Và còn rất nhiều nghiên cứu của các cơ quan, các tác giả khác.
Tuy vậy, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến hoạt động
xuất khẩu nông sản nói chung mà chưa nghiên cứu chuyên sâu vào hoạt động
xuất khẩu cà phê, nhất là trong bối cảnh Việt Nam trở thành thành viên chính
thức của WTO. Vì vậy, vấn đề làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh
cho cà phê vẫn luôn cần phải được tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích

- Trên cơ sở tìm ra được những nguyên nhân căn bản làm giảm năng lực
cạnh tranh của cà phê Việt Nam để từ đó khuyến nghị một số giải pháp khắc
phục những yếu kém ấy.
Nhiệm vụ
- Xác định các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh và lợi thế cạnh
tranh của sản phẩm cà phê.
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của cà phê xuất
khẩu ở Việt Nam thời gian qua.
- Tìm ra nguyên nhân của tình trạng năng lực cạnh tranh thấp kém của
cà phê ở Việt Nam và tìm giải pháp khắc phục.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Nghiên cứu năng lực cạnh tranh sản phẩm.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Sản phẩm cà phê của Việt Nam.


4
+ Về thời giam: Từ năm 2000 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
- Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
đặc biệt là phương pháp của kinh tế chính trị.
- Ngoài ra đề tài này cũng sử dụng thêm phương pháp phân tích tổng
hợp, phương pháp thống kê, dự báo và một số mô hình minh họa các số liệu
về tình hình sản xuất, xuất khẩu cà phê thời gian qua.
6. Đóng góp của luận văn.
- Đưa ra hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh và các nhân tố
tạo dựng lợi thế cạnh tranh bền vững của cà phê Việt Nam.
- Khuyến nghị các giải pháp thích hợp giúp ngành cà phê Việt Nam đạt
được lợi thế cạnh tranh bền vững trong quấ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn.

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn được chia làm 3
chương :
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế về cạnh tranh
và nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm.
Chƣơng 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam từ năm
2000 đến nay.
Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê Việt
Nam.




5
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
VỀ CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM

1.1. Cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các nhân tố ảnh hƣởng đến năng
lực cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh, các cấp độ cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1.1. Cạnh tranh
Cạnh tranh là khái niệm được dùng phổ biến trong các nghiên cứu gần
đây, nhưng thế nào là cạnh tranh thì vẫn còn những cách hiểu khác nhau. Các
học giả thuộc trường phái tư sản cổ điển cho rằng "Cạnh tranh là cuộc đấu
tranh đối kháng giữa các nhà sản xuất hàng hoá nhằm giành điều kiện thuận
lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nhằm thu lợi nhuận tối đa". Theo
cách hiểu này thì cạnh tranh là hoạt động tranh đua giữa nhiều người sản xuất
và kinh doanh trong nền kinh tế thị trường bị chi phối bởi quan hệ cung cầu
nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất. Theo từ
điển Encarta thì, cạnh tranh là hành động ganh đua nhằm chiến thắng hoặc

thực hiện một việc tốt hơn những người khác [34]. Theo cách hiểu này thì
cạnh tranh đơn giản là hoạt động ganh đua của các cá nhân nhằm giành lợi thế
hơn những cá nhân khác. Trong Đại từ điển tiếng Việt, "cạnh tranh được hiểu
là việc tranh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau, nhằm
giành phần hơn, phần thắng về mình”và "năng lực cạnh tranh là khả năng
giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh của những hàng hóa cùng loại trên cùng
một thị trường mục tiêu"[6]. Quan điểm này nói rõ hơn về cạnh tranh bình
đẳng giữa những cá nhân hoặc tập thể có cùng điều kiện ganh đua nhằm giành
phần lợi nhất về mình.


6
Cũng đề cập đến “cạnh tranh”một số nhà khoa học Việt Nam cho
rằng, cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hoá - dịch vụ (mua và
bán) và đó là phương thức để giành lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế. Nói
khác đi, mục đích trực tiếp của cạnh tranh trên thị trường của các chủ thể kinh
tế là giành lợi thế để hạ thấp giá các yếu tố “đầu vào”của chu trình sản xuất
kinh doanh sao cho mức chi phí thấp nhất. Như vậy, trên quy mô toàn xã hội,
cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và do đó
nó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác, đi
cùng với tối đa hoá lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh cũng là
yếu tố thúc đẩy quá trình tĩch luỹ và tập trung tư bản không đồng đều ở các
doanh nghiệp. Như vậy, cạnh tranh cũng là môi trường phát triển mạnh mẽ
cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được với các điều kiện thị trường, đào
thải các doanh nghiệp ít khả năng thích ứng với thị trường, dẫn đến quá trình
tập trung hoá kinh tế trong từng ngành, vùng, quốc gia
Các khái niệm cạnh tranh kể trên đều đề cập đến nội dung chủ yếu của
cạnh tranh ở các góc độ khác nhau song vẫn chưa thực sự đầy đủ, bởi vì có
nhiều hình thức cạnh tranh không chỉ bằng giá. Ngoài ra, ở mỗi thời kỳ lịch
sử khác nhau thì quan niệm và nhận thức về cạnh tranh là khác nhau và phạm

vi cũng như cấp độ cũng khác nhau. Xét theo hướng tiếp cận của nội dung đề
tài, chúng tôi trình bày khái niệm cạnh tranh như sau: Cạnh tranh là một quá
trình tranh đấu mà trong đó, các chủ thể kinh tế chủ động ganh đua nhau, tìm
mọi biện pháp (kể cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn kinh doanh) để đạt được mục
tiêu kinh tế chủ yếu của mình như: hướng đến vị thế thống lĩnh thị trường, tạo
dựng lòng trung thành của khách hàng, cũng như đảm bảo tiêu thụ có lợi
nhất, tối đa hóa lợi nhuận. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong
quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích: đối với người kinh doanh là lợi
nhuận, còn đối với người tiêu thụ là tối đa hóa độ thỏa dụng, đối với các quốc


7
gia là người dân được hưởng cuộc sống hạnh phúc, ấm no, an toàn, lâu dài và
khỏe mạnh so với người dân của quốc gia khác.
1.1.1.2. Năng lực cạnh tranh
Theo diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp (HLFIC) của Tổ chức
Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), năng lực cạnh tranh là "khả năng của
các doanh nghiệp, các ngành, các quốc gia hoặc khu vực tạo ra thu nhập
tương đối cao hơn và mức độ sử dụng lao động cao hơn, trong khi vẫn đối
mặt với cạnh tranh quốc tế"{20}. Khái niệm này đã phản ánh đầy đủ nội hàm
của năng lực cạnh tranh ở cả cấp độ doanh nghiệp, ngành và cấp độ quốc gia.
Trong phạm trù quản trị chiến lược, năng lực cạnh tranh hay lợi thế cạnh
tranh của một ngành được hiểu là khả năng của một ngành đạt được tỉ suất lợi
nhuận cao hơn tỉ suất lợi nhuận bình quân của ngành. Khái niệm này chỉ rõ
bản chất của lợi thế cạnh tranh là hướng tới mục tiêu lợi nhuận nhưng lại
không giúp nhiều cho việc phân tích các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh
được hiểu là khả năng của một ngành đạt được tỉ suất lợi nhuận cao hơn tỉ
suất lợi nhuận bình quân của ngành.
Có thể thấy, năng lực cạnh tranh là một trong những khái niệm khó có
sự thống nhất vì nó được áp dụng với cả hai cấp độ: cấp vi mô bao gồm năng

lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các ngành kinh doanh và cấp vĩ mô bao
gồm năng lực cạnh tranh của quốc gia và thậm chí là của một khu vực hoặc
đôi lúc chúng ta lại thấy nó được sử dụng theo nghĩa hẹp như quan hệ giữa tỉ
giá với xuất nhập khẩu. Đối với một doanh nghiệp hoặc một ngành kinh
doanh, năng lực cạnh tranh gắn với mục tiêu duy trì sự tồn tại và thu được lợi
nhuận trên thị trường nội địa hoặc thị trường quốc tế trong khi đối với một
quốc gia, năng lực cạnh tranh lại gắn với mục tiêu cải thiện mức sống và phúc
lợi cho người dân. Hai cấp độ này không tách rời mà thực tế chúng bổ sung
cho nhau.


8
Năng lực cạnh tranh thường được sử dụng đồng nghĩa với sức cạnh
tranh. Sức cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ
cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị
phần của đồng nghiệp . Một ngành được coi là có sức cạnh tranh và được đánh
giá là có thể đứng vững cùng các nhà sản xuất khác, khi các sản phẩm thay thế
hoặc các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn các sản phẩm
cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng
và dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. Nhìn chung, khi xác định sức cạnh tranh
của một doanh nghiệp hay một ngành cần xem xét đến tiềm năng sản xuất kinh
doanh một hàng hoá hay một dịch vụ ở mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức
giá phổ biến mà không phải trợ cấp. Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công
nghiệp của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã đưa ra một khái
niệm vừa phản ánh được cho cả doanh nghiệp, ngành và quốc gia là “Sức cạnh
tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc
tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”[20].
Như vậy, có thể thấy các thuật ngữ năng lực cạnh tranh, sức cạnh tranh,
khả năng cạnh tranh và tính cạnh tranh đều có cùng nội hàm và có thể thay
thế lẫn nhau.

Từ khái niệm năng lực cạnh tranh có thể đưa ra khái niệm về năng lực
cạnh tranh của ngành cà phê như sau: năng lực cạnh tranh của cà phê là khả
năng cung ứng các sản phẩm hoặc dịch vụ với giá trị gia tăng cao hơn, hoặc
khác biệt hóa so với đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường mục tiêu trên cơ
sở tạo dựng và khai thác một cách hiệu quả các nguồn lực của ngành và thực
hiện các tiên đoán tương lai về cơ hội thị trường. Để đạt được giá trị gia tăng
cao hơn, một ngành, một doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có giá thành thấp
hơn giá thành của các đối thủ cạnh tranh, hoặc có sự khác biệt sản phẩm trên
một phương diện nào đó để có thể định giá bán của mình cao hơn so với giá
của đối thủ cạnh tranh, hoặc là phải có được cả hai yếu tố này. Trong trường


9
hợp thứ nhất, chúng ta nói doanh nghiệp đó có lợi thế cạnh tranh bằng chi phí
thấp và có thể thực hiện các chiến lược hạ chi phí; còn trong trường hợp thứ
hai, doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh bằng sự khác biệt (về chất lượng, dịch
vụ, giao hàng, ) để có thể sử dụng các chiến lược khác biệt hóa.
Như vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh là kết quả của sự nỗ lực có
chủ định của doanh nghiệp hoặc ngành kinh doanh nhằm tạo dựng và khai
thác một cách hiệu quả và hiệu suất các nguồn lực mà doanh nghiệp sở hữu
hoặc có khả năng tiếp cận. Doanh nghiệp kinh doanh có thể tạo dựng được
năng lực cạnh tranh trên cơ sở tiếp cận và khai thác tốt các yếu tố môi trường
kinh doanh thuận lợi của quốc gia khi phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế.
Cần lưu ý rằng, năng lực cạnh tranh cũng bao hàm cả các yếu tố tạo dựng nên
nó như sự khác biệt hóa với đối thủ trên thị trường mục tiêu. Năng lực cạnh
tranh không chỉ đánh giá dựa trên những nguồn lực hiện tại mà nó đánh giá
dựa trên việc tiên đoán đúng về các cơ hội thị trường trong tương lai.
1.1.1.3. Các cấp độ cạnh tranh
Tùy theo các tiêu chí khác nhau người ta phân chia năng lực cạnh tranh ra
thành các cấp độ khác nhau. Dưới đây là các cách phân loại cạnh tranh phổ biến.

(*). Cạnh tranh cấp độ quốc gia
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 1997, “Năng lực cạnh tranh
của một quốc gia là năng lực của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy
trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối
và các đặc trưng kinh tế khác”. Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có
thể được hiểu là việc xây dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm
bảo phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao,
bền vững. Môi trường cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa rất lớn đối với việc
thúc đẩy quá trình đầu tư, tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà kinh doanh, các
doanh nghiệp theo các tín hiệu thị trường được thông tin đầy đủ. Mặt khác,


10
môi trường cạnh tranh thuận lợi sẽ tạo khả năng cho chính phủ hoạch định
chính sách phát triển, cải thiện đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập
ngày càng có hiệu quả, đồng thời có ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Cạnh tranh cấp độ quốc gia thể hiện ở các khía cạnh về độ mở cửa nền kinh
tế, vai trò của chính phủ, các yếu tố về tài chính, công nghệ, cơ sở hạ tầng, lao động,
thể chế pháp luật và năng lực quản trị.
Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba
nhóm lớn để đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia là: Sáng tạo kinh tế, khoa
học công nghệ, tài chính, quốc tế hoá. Trong đó, trọng số của sáng tạo kinh tế,
khoa học công nghệ đã tăng mạnh từ 1/9 lên 1/3. Năm 2004 hệ thống tiêu chí
được điều chỉnh và duy trì đến năm 2005 và phân thành nhóm chỉ tiêu cạnh
tranh doanh nghiệp và nhóm chỉ tiêu cạnh tranh tăng trưởng.
(*). Cạnh tranh ngành.
Là khả năng bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị
phần của sản phẩm, dịch vụ do ngành đó cung cấp cho thị trường. Cạnh
tranh ngành thể hiện ở việc thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản

xuất đầu vào nhằm giảm thiểu chi phí và đạt lợi ích kinh tế cao, bền vững.
(*). Cạnh tranh sản phẩm
Năng lực cạnh tranh sản phẩm là khả năng đáp ứng, thoả mãn yêu cầu
của người tiêu dùng, của nhà sản xuát về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, tốt
hơn các sản phẩm khác cùng loại. Bất kỳ một sản phẩm nào đáp ứng tốt nhất
nhu cầu của người tiêu dùng và được người tiêu dùng chấp nhận rộng rãi thì
được coi là sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá được hình thành bởi năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng
hoá và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là hai phạm trù khác nhau nhưng


11
có quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có được do
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra; nhưng năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hoá mà có, năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa như đã
đề cập (nguồn lực và năng lực bản thân doanh nghiệp). Tuy nhiên, năng lực
cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá có ảnh hưởng lớn và thể hiện năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Trong phân tích có thể thông qua năng lực cạnh tranh
của sản phẩm để đo lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bởi đây là các
yếu tố dễ định lượng và nhận biết được. Tuy nhiên để phân tích sâu hơn năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp, xét về mặt dài hạn và các nhân tố bền vững
thì phải phân tích các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh.
1.1.2.1. Các yếu tố đầu vào.
Yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của các ngành cụ thể là các
nhân tố liên quan đến sản xuất cần thiết cho cạnh tranh trong một ngành nhất
định. Các nhân tố này có thể chia thành: nhân tố vốn, nguồn nhân lực, nguồn
nguyên liệu.

- Yếu tố vốn: Là lượng tiền cần có của bất kỳ một doanh nghiệp hay một
ngành nào để tạo dựng những yếu tố cơ bản ban đầu và duy trì hoạt động,
phát triển mở rộng cho các ngành, các doanh nghiệp ấy. Tuỳ vào từng loại
hình doanh nghiệp mà nguồn vốn lớn hay nhỏ. Vốn nhiều hay ít quyết định
chất lượng trang thiết bị, nguyên liệu đầu vào, do đó quyết định chất lượng
sản phẩm của doanh nghiệp. Yếu tố vốn được đánh giá là một trong những
nhân tố quan trọng nhất có tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, mọi doanh nghiệp đều không thể phát triển mạnh nếu không
huy động được lượng vốn đủ cho mục tiêu của mình.


12
- Nguồn nhân lực: Là lực lượng lao động cần phải có của mọi doanh
nghiệp dù lớn hay nhỏ. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp, gồm cả các nhà
quản trị doanh nghiệp và người lao động, trong đó trình độ các nhà quản trị có
tác động lớn đến toàn bộ các chỉ số khác nhau của quá trình sản xuất; từ năng
suất lao động đến chiến lược kinh doanh, tổ chức lao động và tiêu thụ sản
phẩm. Đây là nhân tố quan trọng thứ hai quyết định đến năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp, của sản phẩm.
Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng quan trọng, do đó, việc nâng cao
trình độ lao động ở các doanh nghiệp cũng ngày càng được quan tâm hơn.
Chất lượng nguồn nhân lực thường tạo ra những lợi thế ban đầu cho doanh
nghiệp và cần phải được nâng cao thường xuyên.
- Nguồn nguyên liệu: Là những vật liệu thô ban đầu làm đầu vào cho quá
trình sản xuất của các doanh nghiệp.
Chất lượng của nguồn nguyên liệu đầu vào có tác động rất lớn đến chất
lượng của sản phẩm đầu ra. Với những nguồn nguyên liệu đầu vào có chất
lượng tốt, ít tạp chất sẽ làm giảm thời gian và chi phí sơ chế cho doanh
nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất ra.
- Công nghệ: Là những tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng vào quá

trình sản xuất. Yếu tố công nghệ cũng ngày càng trở lên quan trọng trong
cạnh tranh. Bất cứ một doanh nghiệp nào áp dụng được khoa học công nghệ
cao vào sản xuất đều có lợi thế cạnh tranh rất lớn. Công nghệ giúp các doanh
nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới mẫu mã, giảm thời gian sản
xuất, giảm chi phí giành nhiều lợi nhuận.
1.1.2.2. Chiến lược kinh doanh
Là cách thức hoạt động của mỗi doanh nghiệp trong việc đưa sản phẩm
ra thị trường nhằm giành được thị phần cao nhất. Mỗi doanh nghiệp sẽ có một
chiến lược kinh doanh khác nhau dựa trên cơ sở phân tích lợi thế cạnh tranh
của doanh nghiệp so với đối thủ khác(kể cả những doanh nghiệp trong cùng


13
hệ thống ngành nghề), các chiến lược phân tích thị trường tập trung vào sản
phẩm, dịch vụ, hoặc những mảng thị trường nhất định.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi bắt đầu hoạt động cũng phải có chiến lược
kinh doanh của mình, và chiến lược kinh doanh có thể thay đổi trong quá trình
hoạt động tuỳ vào tình hình của mỗi doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh có
ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, tới sự thành bại
của một doanh nghiệp. Bởi lẽ, chiến lược kinh doanh là hướng đi của doanh
nghiệp và khi đã đánh giá sai thị trường, đi sai hướng phát triển thì doanh
nghiệp sẽ phải chịu rất nhiều rủi ro.
1.1.2.3. Chất lượng và giá cả hàng hoá
Sản phẩm có chất lượng là những hàng hóa và dịch vụ đáng tin cậy,
thực hiện tốt các chức năng đã được thiết kế. Sản phẩm chất lượng cao sẽ
mang lại uy tín cho doanh nghiệp, do đó tạo ra khả năng cạnh tranh bền vững.
Hơn thế nữa, sản phẩm có chất lượng cũng có tác động nâng cao hiệu suất chi
phí, nhờ vậy giảm chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm. Chất lượng sản
phẩm cao hơn có nghĩa là công nhân sẽ không lãng phí thời gian làm ra các
phế phẩm hay đưa ra những dịch vụ kém chất lượng, thời gian để sửa lỗi sẽ ít

hơn. Điều này sẽ mang lại năng suất lao động cao hơn và giảm chi phí sản
xuất. Nói tóm lại, chất lượng sản phẩm cao không những giúp doanh nghiệp
bán sản phẩm với giá cao hơn mà còn giúp họ giảm chi phí sản xuất. Như vậy,
chất lượng sản phẩm có tác động kép đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Đối với nhiều ngành, chất lượng sản phẩm đang dần thay thế về mặt
chi phí và việc nâng cao chất lượng đã trở thành yếu tố bắt buộc cho sự sống
còn của doanh nghiệp. Trong bối cảnh hiện nay đối với mặt hàng cà phê nói
riêng thì việc nâng cao chất lượng là việc làm mang tính bắt buộc nếu muốn
nâng cao hình ảnh của một nước sản xuất cà phê lớn nhất nhì thế giới, đồng
thời đem lại nguồn lợi lớn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê,
người trồng cà phê và cả nền kinh tế.


14
Khi sản phẩm được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả thời gian, thiết kế,
dịch vụ hậu mãi, chất lượng sản phẩm cũng được hiểu theo nghĩa rộng hơn
bao hàm cả chất lượng của thiết kế, các quá trình, dịch vụ hậu mãi là những
yếu tố quan trọng tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm của doanh nghiệp so với
đối thủ cạnh tranh.
Giá cả hàng hoá cũng là một trong những yếu tố cực kỳ quan trọng
trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp quyết định đến sự thành
bại trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Và tiêu chí quan trọng nhất quyết
định đến yếu tố giá cả đó là hiệu suất sử dụng chi phí đầu vào của mỗi doanh
nghiệp. Doanh nghiệp là nơi biến đổi các đầu vào sản xuất thành đầu ra sản
phẩm. Đầu vào bao gồm các yếu tố sản xuất cơ bản như lao động, vốn, đất
đai, quản lý, bí quyết công nghệ, Sản phẩm đầu ra bao gồm hàng hóa và
dịch vụ của doanh nghiệp. Tính hiệu suất được đo lường bằng quan hệ giữa
giá trị đầu ra (số lượng sản phẩm được sản xuất) và chi phí cần thiết (đầu
vào). Hiệu suất càng cao thì chi phí sản xuất càng thấp. Chính vì vậy, tính
hiệu suất giúp doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh về mặt chi phí.

Yếu tố quyết định đến hiệu suất của doanh nghiệp là năng suất, trong
đó có năng suất lao động. Năng suất lao động được đo lường bằng giá trị tăng
thêm tính trên mỗi đơn vị nguồn lực. Như vậy, doanh nghiệp nào có năng suất
cao nhất chắc chắn sẽ có chi phí sản xuất thấp nhất. Nói cách khác, doanh
nghiệp đó có lợi thế cạnh tranh về mặt chi phí.
1.1.2.4. Uy tín của doanh nghiệp
Uy tín của doanh nghiệp là hình ảnh, là tên tuổi của một doanh nghiệp đã
được khẳng định bằng chất lượng, bằng thời gian kiểm định thực tế.
Tất cả các doanh nghiệp khi làm tốt chiến lược sản phẩm sẽ tạo ra được uy tín
nhất định. Trong giai đoạn cạnh tranh khốc liệt như hiện nay cũng như trong
bất cứ hoàn cảnh nào của nền kinh tế thì uy tín của doanh nghiệp luôn là yếu
tố sống còn đối với bất cứ doanh nghiệp nào.Uy tín của doanh nghiệp có được


15
sau khi sản phẩm của doanh nghiệp đã ra thị trường, chính vì vậy uy tín của
doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng sản phẩm cũng như chiến
lược quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp. Và khi đã làm tốt những yếu tố
trên đây thì uy tín doanh nghiệp chính là thước đo sự phát triển của bất cứ
doanh nghiệp nào, nếu giữ được uy tín thì doanh nghiệp sẽ liên tục phát triển
và ngược lại. Chính vì vậy, có thể nói rằng, tất cả những yếu tố trên đây là
một chuỗi mắt xích quan trọng tạo nên sức mạnh nội tại cho mỗi sản phẩm.
Uy tín sẽ tôn vinh giá trị của doanh nghiệp lên những tầm cao mới kéo theo
các lợi ích kinh tế to lớn, do đó, khi một doanh nghiệp bị mất uy tín hay đơn
thuần chỉ là những dấu hiệu làm méo mó hình ảnh, doanh nghiệp sẽ phải gánh
chịu những hậu quả nặng nề không thể đo đếm được. Chúng ta có những ví dụ
hết sức điển hình như:
Thị trường máy văn phòng trên thế giới đã chứng minh sự sụp đổ của
thương hiệu Xerox Hoa Kỳ, khi tập đoàn này bị phanh phui ra trước công
luận những hành động gian lận tài chính của mình. Từ một tập đoàn với

thương hiệu nổi tiếng thế giới, là nơi đã phát minh ra các loại máy in, máy
photocopy công nghệ cao, đã xây dựng nên thương hiệu Xerox nổi tiếng, đã
bị đưa đến bên bờ vực phá sản.
Ví dụ trên đây phần nào cho thấy uy tín có giá trị như thế nào đối với
doanh nghiệp, và những hệ luỵ khôn lường khi doanh nghiệp bị sụt giảm hoặc
đánh mất uy tín của mình.
1.1.2.5. Các đối thủ cạnh tranh
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường đều có rất
nhiều đối thủ cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh là những doanh nghiệp trong
cùng một ngành, một quốc gia hoặc ở các quốc gia khác sản xuất các sản
phẩm cùng loại, cùng bán ra thị trường.
Các đối thủ cạnh tranh là một nhân tố quan trọng tác động mạnh mẽ
đến các doanh nghiệp. Trong chiến tranh ta có câu “biết mình biết người thì


16
trăm trận trăm thắng”, áp dụng vào chiến lược phát triển sản phẩm của bất kỳ
doanh nghiệp nào cũng luôn đúng. Mỗi sản phẩm doanh nghiệp làm ra luôn
phải xem xét đến tất cả những doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh với mình
xem mình có những điểm mạnh và yếu ở đâu để kịp thời khắc phục. Vì cạnh
tranh là yếu tố luôn luôn tồn tại trong kinh doanh, cạnh tranh là động lực của sự
phát triển, chính vì vậy tất cả mọi doanh nghiệp khi xây dựng chiến lược phát
triển đều phải đặt chiến lược cạnh tranh vào một trong những yếu tố quan trọng
nhất đối với sự sống còn của doanh nghiệp. Xem xét và nghiên cứu cặn kẽ
được đối thủ cạnh tranh của mình thì cơ hội chiến thắng và phát triển của
doanh nghiệp sẽ là rất lớn. Trong kinh doanh, đối với những đối thủ mạnh các
doanh nghiệp yếu hơn cần tránh đối đầu trực tiếp, tránh nguy cơ bị loại khỏi thị
trường, tiến tới liên kết các doanh nghiệp lại với nhau tạo thành những tập đoàn
mạnh.
1.1.2.6. Sự khác biệt của hàng hoá cung ứng cho thị trường

Trong khi chất lượng sản phẩm và hiệu suất chi phí thể hiện khả năng
cạnh tranh hiện tại của doanh nghiệp, khả năng đổi mới thể hiện khả năng duy
trì và phát triển năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp trong tương lai.
Đổi mới bao gồm những tiến bộ về các loại sản phẩm, quá trình sản xuất, hệ
thống quản lý, cơ cấu tổ chức và các chiến lược do doanh nghiệp đưa ra nhằm
mục tiêu cuối cùng là phải đổi mới được kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm.
Ngày nay, đổi mới được coi là một yếu tố quan trọng mang lại lợi thế
cạnh tranh bền vững, tạo ra sự khác biệt riêng có đối với các đối thủ cạnh tranh.
Mặc dù không phải đổi mới nào cũng thành công nhưng khi đã thành công, nó
sẽ tạo ra năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Lý do là đổi mới thành công sẽ
mang lại cho doanh nghiệp yếu tố “duy nhất”mà các doanh nghiệp khác không
có (cho đến khi họ bắt chước được). Yếu tố duy nhất này khiến doanh nghiệp
khác biệt với đối thủ và bán được sản phẩm với giá cao.


17
Tốc độ đổi mới nhanh hơn hay thời gian đổi mới ngắn hơn sẽ tạo ra lợi thế đi
trước của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. Tỷ lệ đổi mới thành công cao
hơn đồng nghĩa với hiệu suất chi phí tốt hơn.
1.1.2.7. Môi trường kinh tế và pháp lý
Môi trường kinh tế và pháp lý là khuôn khổ, phạm vi hoạt động của
doanh nghiệp. Môi trường kinh tế có tác động gián tiếp làm tăng khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp. Môi trường kinh tế thông thoáng, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển kinh doanh và ngược lại. Môi trường
pháp lý là những thể chế pháp luật giúp doanh nghiệp hoạt động trong khuôn
khổ có lợi cho nền kinh tế. Mọi hoạt động vượt ra ngoài khuôn khổ pháp lý
đều gây hại cho nền kinh tế, làm giảm sức cạnh tranh.
1.2. Vai trò của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là xu thế tất yếu, là động lực
thúc đẩy phát triển. Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề mà bất cứ

doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển cũng đều phải làm. Việc nâng
cao năng lực cạnh tranh có những vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển
của các doanh nghiệp, thể hiện ở:
1.2.1. Tăng doanh thu, thị phần và lợi nhuận cho doanh nghiệp
Doanh thu và lợi nhuận là hai yếu tố quan trọng nhất mà bất cứ doanh
nghiệp nào cũng cần phải giành lấy phần lớn nhất. Tất cả những việc mà các
doanh nghiệp phải làm để tăng năng lực cạnh tranh cho mình đều nhằm mục
đích tăng doanh thu và thu thật nhiều lợi nhuận. Để tối đa hoá lợi nhuận các
doanh nghiệp luôn phải nâng cao khả năng cạnh tranh thông qua việc đổi mới
công nghệ, hợp lý sản xuất để đa dạng hoá mẫu mã và nâng cao chất lượng,
hạ giá thành sản phẩm. Một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh
cao khi được khách hàng đánh giá sản phẩm của họ có chất lượng tốt, giá
thành rẻ hơn so với các mặt hàng cùng chủng loại, khi đó doanh nghiệp sẽ


18
tăng được doanh số bán hàng, doanh thu cũng tăng theo. Bên cạnh đó, việc
nâng cao năng lực cạnh tranh cũng giúp cho doanh nghiệp mở rộng thị
trường, tăng thị phần. Mỗi loại sản phẩm, dịch vụ có chất lượng tốt, giá thành
rẻ sẽ được người tiêu dùng chấp nhận trên phạm vi rộng lớn, do đó, thị phần
của doanh nghiệp sẽ tăng theo khi doanh nghiệp nâng cao chất lượng cũng là
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
1.2.2. Tạo dựng thương hiệu và nâng cao vị thế của doanh nghiệp
Kinh tế thị trường ngày càng cạnh tranh khốc liệt, vai trò của thương
hiệu ngày càng được đề cao. Thương hiệu là hình ảnh của doanh nghiệp được
tạo nên thông qua chất lượng và uy tín của doanh nghiệp. Hàng hoá của một
doanh nghiệp có chất lượng tốt, doanh nghiệp làm ăn có uy tín sẽ nâng cao
khả năng cạnh tranh trên thị trường, từ đó dần tạo dựng thương hiệu cho
doanh nghiệp. Ngược lại, khi doanh nghiệp đã có thương hiệu, sản phẩm sản
xuất ra sẽ có thị trường tiêu thụ ngày càng rộng lớn, doanh thu ngày càng tăng

lên giúp doanh nghiệp đứng vững trên thị trường.
1.3. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Năng lực cạnh tranh sản phẩm được đánh giá từ nhiều góc độ khác
nhau .Những tiêu chí cơ bản thường được sử dụng đó là:
1.3.1. Thị trường và thị phần
Vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện qua thị phần và tốc độ
tăng trưởng doanh số của sản phẩm chính của doanh nghiệp.
Thị trường là những địa bàn mà một doanh nghiệp chiếm lĩnh được để phân
phối hàng hoá hoặc các dịch vụ của mình. Qua thị trường người ta cũng có thể
đánh giá được thị phần của một doanh nghiệp bằng phương pháp điều tra số
liệu của các doanh nghiệp cùng cung cấp một loại hàng hoá hoặc dịch vụ trên
thị trường. Doanh nghiệp nào đưa được nhiều sản phẩm đến tay người tiêu


19
dùng hơn thì doanh nghiệp đó chiếm thị phần lớn hơn và ngược lại. Thị phần
là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp chiếm lĩnh.
Thị phần = Doanh số bán hàng của doanh nghiệp/Tổng doanh số của thị trƣờng.
Thị phần nói rõ phần sản phẩm tiêu thụ của riêng doanh nghiệp so với tổng
sản phẩm tiêu thụ trên thị trường. Để giành giật mục tiêu thị phần trước đối
thủ, doanh nghiệp thường phải có chính sách giá phù hợp thông qua mức
giảm giá cần thiết, nhất là khi bắt đầu thâm nhập thị trường mới.
1.3.2. Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất là số tiền mà một nhà sản xuất hay doanh nghiệp phải
chi để mua các yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất hàng hoá nhằm
mục đích thu lợi nhuận. Trong nền kinh tế hàng hoá, bất cứ một doanh nghiệp
nào cũng phải quan tâm đến chi phí sản xuất. Việc giảm được chi phí sản xuất
cũng đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, chi phí sản xuất chỉ là
một phần của chi phí sản phẩm. Khi cấu thành giá của một sản phẩm, phải
xem xét toàn bộ chi phí, không thể chỉ nhìn thấy mỗi chi phí sản xuất. Có ba

yếu tố chính cấu thành chi phí sản xuất đó là: nguyên liệu trực tiếp, lao động
trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Trong kinh tế, chi phí sản xuất chiếm một vị
trí cực kỳ quan trọng và có quan hệ với nhiều vấn đề khác nhau của một
doanh nghiệp cũng như của xã hội. Chi phí sản xuất không chỉ là mối quan
tâm của doanh nghiệp, của nhà sản xuất mà còn là mối quan tâm của người
tiêu dùng và của cả xã hội. Giảm chi phí sản xuất làm tăng lợi nhuận của
doanh nghiệp, tăng tính cạnh tranh của hàng hoá, đồng thời cũng làm tăng lợi
ích cho người tiêu dùng.
1.3.3. Lợi nhuận
Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa, nên sau khi bán hàng hoá theo đúng giá trị, nhà tư bản không chỉ bù lại
đủ số tiền đã ứng ra, mà còn thu được một số tiền lời ngang bằng m. Số tiền
lời này gọi là lợi nhuận, ký hiệu là p. Lợi nhuận là giá trị thặng dư khi được


20
quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra, là kết quả hoạt động của toàn
bộ tư bản đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Công thức tính lợi nhuận: p = W - k.
Công thức W = k + m chuyển thành W = k + p, có nghĩa là giá trị hàng hóa tư
bản chủ nghĩa bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận. Lợi
nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, nó phản ánh sai lệch bản
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Cái khác nhau giữa bỏ m và p ở chỗ, khi nói
m là hàm ý so sánh nó với v, còn khi nói p lại hàm ý so sánh với (c + v); p và m
thường không bằng nhau, p có thể cao hơn hoặc thấp hơn m, phụ thuộc vào giá
cả bán hàng hóa do quan hệ cung - cầu quy định. Nhưng xét trên phạm vi toàn
xã hội, tổng số lợi nhuận luôn ngang bằng tổng số giá trị thặng dư.
1.3.4. Giá trị kim ngạch xuất khẩu
Giá trị kim ngạch xuất khẩu thể hiện ở giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị
hàng hóa xuất khẩu. Một mặt hàng được coi là có giá trị gia tăng cao khi mỗi

đơn vị số lượng hàng hóa đó xuất đi mà thu về được một khoản lợi nhuận cao
nhất. Đối với một ngành hàng cũng vậy nếu cùng số lượng xuất đi so với các
đối thủ khác mà lại thu về được một khoản lợi nhuận lớn hơn thì người ta nói
rằng ngành hàng của nước đó có giá trị hàng xuất khẩu cao, vị thế cạnh tranh
của ngành hàng đó là lớn nhất. Công thức tính hệ số lợi thế so sánh (RCA) do
nhà kinh tế học Balassa đề xuất vào năm 1965 giúp ta xác định được tương
đối lợi thế cạnh tranh của mối sản phẩm của mỗi nước:
RCA2 = (Xj – Mj)/(Xj + Mj)
Xj là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j và Mj là kim ngạch nhập khẩu
sản phẩm j của một quốc gia.
Hệ số RCA2 có giá trị từ -1(hoàn toàn không có lợi thế so sánh) đến
+1(có lợi thế so sánh rõ rệt). Nếu hệ số RCA2 có giá trị lớn hơn 0 thì nước i
có lợi thế so sánh ở sản phẩm j, còn nếu hệ số RCA2 có giá trị nhỏ hơn 0 thì

×