Tải bản đầy đủ (.pdf) (149 trang)

Khu vực dịch vụ ở Việt Nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 149 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ





ĐÀO THỊ THU TRANG




Khu vực dịch vụ ở Việt Nam thực trạng và giải pháp




luËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ chÝnh trÞ













Hµ néi - 2005





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ




ĐÀO THỊ THU TRANG




Khu vực dịch vụ ở Việt Nam thực trạng và giải pháp

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 5.02.01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ





Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Quang Ty




Hµ néi - 2005



1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài
Trong thế giới ngày nay, dịch vụ là một bộ phận cơ hữu của mọi nền kinh
tế quốc dân. Cùng với khu vực nông nghiệp và công nghiệp, khu vực dịch vụ đóng
vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Song
hành với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng, khu vực dịch vụ ngày càng thể
hiện khả năng nổi trội trong đóng góp vào tăng trƣởng GDP, giải quyết việc làm
và hàng loạt vấn đề kinh tế - xã hội thiết yếu khác. Hiện nay, những động thái mới
của nền kinh tế thị trƣờng toàn cầu đang đặt ra những yêu cầu mới đối với khu vực
dịch vụ, đòi hỏi tất cả các nƣớc càng phải quan tâm đầy đủ và sâu sắc hơn đến khu
vực đặc biệt quan trọng này, và điều đáng lƣu ý là thách thức đối với các nƣớc
đang phát triển lại càng lớn.
Ở các nƣớc phát triển, dịch vụ là khu vực kinh tế mũi nhọn. Riêng ở Hoa
Kỳ, khu vực dịch vụ chiếm đến 80% GDP, ở EU và Nhật Bản tỷ lệ này tuy thấp
hơn nhƣng cũng ở mức 60% - 70%. Singapore, nƣớc đi đầu trong ASEAN, cũng
có tỷ trọng dịch vụ chiếm hơn 70% GDP. Năm 2004, tỷ trọng của khu vực dịch
vụ trong GDP toàn thế giới chiếm 64%. Những số liệu này cho thấy khu vực
dịch vụ giữ vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu [48].

Ở Việt Nam hiện nay, khu vực dịch vụ bƣớc đầu đã thể hiện vai trò quan
trọng, ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tăng trƣởng GDP hằng năm. Theo số liệu
thống kê, dịch vụ chiếm 38,1% năm 2004 [48]. Từ sự cọ xát với thực tế chuyển đổi
sang kinh tế thị trƣờng, trong những năm vừa qua, nhận thức chung của xã hội đối
với khu vực dịch vụ cũng đã đƣợc đổi mới, tƣ tƣởng coi dịch vụ là phi sản xuất
đƣợc thay thế bằng nhận thức đúng đắn hơn, thừa nhận dịch vụ là một bộ phận của
quá trình sản xuất xã hội và có vai trò nhất định trong việc nâng cao giá trị giă tăng
của sản phẩm hàng hoá. Trong quá trình đổi mới kinh tế và mở cửa với thế giới,
Đảng và Nhà nƣớc ta ngày càng quan tâm tới việc phát triển khu vực dịch vụ. Các


2
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc từ khóa VI đến khóa IX và nhiều nghị quyết
của Trung ƣơng liên tục nhấn mạnh vai trò của khu vực dịch vụ, và gần đây đƣa ra
mục tiêu “toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt tốc độ tăng
trƣởng bình quân 7 - 8%/năm, đến năm 2010 chiếm từ 42 đến 43% GDP, 25 đến
27% tổng số lao động” [44, tr.179]. Tuy nhiên,tình hình phát triển khu vực dịch vụ
ở nƣớc ta trên thực tế đang nảy sinh nhiều vấn đề, tỷ trọng dịch vụ trong GDP một
số năm gần đây có biểu hiện giảm dần.
Hiện nay, trƣớc những đòi hỏi và áp lực của hội nhập kinh tế quốc tế,
chúng ta đang đàm phán với ASEAN về mở cửa thị trƣờng dịch vụ và phải khẩn
trƣơng tiến hành các cuộc đàm phán song phƣơng với hàng loạt đối tác quan
trọng về thƣơng mại dịch vụ để có thể gia nhập WTO vào cuối năm 2005. Trong
bối cảnh đó, Việt Nam phải nhanh chóng hoàn thiện khu vực dịch vụ theo phân
ngành của Tổ chức Thƣơng mại thế giới và tập trung phát triển các ngành dịch
vụ mới có thể theo kịp sự phát triển của các nƣớc- nơi mà khu vực dịch vụ đã
chiếm một tỷ trọng rất lớn trong nền kinh tế.
Nhƣ vậy, phát triển nhanh và có chất lƣợng các ngành dịch vụ đang là vấn
đề vừa bức xúc vừa cơ bản của nền kinh tế Việt Nam. Nó không những đáp ứng
yêu cầu của tăng trƣởng kinh tế mà còn đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Điều

đó cũng có nghĩa là để vƣơn tới nền sản xuất ở trình độ cao, cần phải đặc biệt
quan tâm tới sự phát triển của khu vực dịch vụ.
Xuất phát từ tình hình nói trên, chúng tôi chọn đề tài “Khu vực dịch vụ ở
Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển” để thực hiện luận văn tốt
nghiệp cao học.
Từ công trình nghiên cứu này, các nhà hoạch định chính sách kinh tế có thể
tìm thấy những luận cứ phục vụ trực tiếp cho việc phát triển khu vực dịch vụ của
Việt Nam gắn với bối cảnh hội nhập và phát triển của thế giới hiện nay. Tình
hình trong nƣớc và những tác động từ bên ngoài đang đòi hỏi chúng ta đang phải
chủ động và khẩn trƣơng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và trình
độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, nâng cao chất lƣợng của nền kinh


3
tế, tạo ra những ngành, những sản phẩm mũi nhọn để hàng hoá và dịch vụ nƣớc
ta chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trong nƣớc cũng nhƣ trên thế giới. Với điều
kiện đi theo đúng quy luật và xu hƣớng tất yếu của sự phát triển kinh tế, việc chú
trọng phát triển khu vực dịch vụ sẽ giúp Việt Nam thực hiện “rút ngắn” những
bƣớc đi của mình để theo kịp trình độ của khu vực và quốc tế. Vì thế có thể
khẳng định đề tài này là rất cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, ở trong nƣớc đã có nhiều công trình
nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là theo hƣớng gắn với quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Ở đây có thể đơn cử một số công trình tiêu biểu
nhƣ: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng CNH-HĐH nền kinh tế” do Ngô
Đình Giao chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 1994), “Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng điểm mũi nhọn ở Việt Nam
hiện nay” do Đỗ Hoài Nam chủ biên (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, năm
1996)
Tuy nhiên, cho đến nay, do trên thực tế khu vực dịch vụ ở Việt Nam chƣa

đƣợc quan tâm phát triển đúng mức, nên việc nghiên cứu sâu về khu vực này chƣa
nhiều. Ở đây cũng có thể chỉ ra một số công trình có giá trị tham khảo nhƣ: “Phát
triển và quản lý nhà nƣớc về kinh tế dịch vụ”, do Bùi Tiến Quý chủ biên - (NXB
Khoa học và Kỹ thuật, năm 2000); “Giáo trình kinh tế các ngành dịch vụ- thƣơng
mại” (Trƣờng ĐH KTQD); “Việt Nam tích cực chuẩn bị gia nhập WTO trong một
số lĩnh vực dịch vụ” do Đinh Văn Ân chủ biên- (NXB Văn hoá - Thông tin, năm
2004). Ngoài ra, còn có một số tác giả đã nghiên cứu về từng ngành dịch vụ nhƣ:
bƣu chính-viễn thông, tài chính- ngân hàng, dịch vụ công, du lịch, thƣơng mại,
giao thông vận tải…
Nhƣ vậy, việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản gắn với phát triển khu vực
dịch vụ ở Việt Nam dƣới góc độ khoa học kinh tế chính trị là rất cần thiết và có
thể đƣợc xem là một hƣớng đi mới. Song, đứng trƣớc một chủ đề phức tạp, hơn
nữa nguồn tài liệu tham khảo lại khá khan hiếm, chúng tôi đã gặp không ít khó


4
khăn trong quá trình thực hiện đề tài này, và do vậy nội dung của luận văn khó
tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục đích nghiên cứu
Luận chứng về xu hƣớng tất yếu, tầm quan trọng của khu vực dịch vụ
trong cơ cấu nền kinh tế; phân tích thực trạng của khu vực dịch vụ ở Việt Nam
hiện nay; trên cơ sở đó đƣa một số quan điểm định hƣớng và hệ giải pháp góp
phần thúc đẩy khu vực dịch vụ phát triển rút ngắn một cách hợp lý để bắt kịp yêu
cầu hội nhập khu vực và quốc tế.
 Nhiệm vụ nghiên cứu :
- Phân tích đặc điểm, vai trò, điều kiện phát triển của khu vực dịch vụ
trong nền kinh tế thị trƣờng hiện đại; bƣớc đầu đúc rút một vài bài học kinh
nghiệm của một số nƣớc trên thế giới trong việc phát triển khu vực dịch vụ có thể
tham khảo đối với Việt Nam .

- Phân tích thực trạng phát triển của khu vực dịch vụ Việt Nam trong 20
năm đổi mới, chủ yếu là từ năm 1990 đến năm 2005, chỉ ra những thành tựu,
những vấn đề đang đặt ra.
- Đề xuất một số quan điểm định hƣớng và giải pháp chủ yếu góp phần
thúc đẩy sự phát triển của khu vực dịch vụ trong bối cảnh mới của đất nƣớc
và thế giới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tƣợng nghiên cứu
Dƣới góc độ kinh tế chính trị, đề tài nghiên cứu sự vận động phát triển của
khu vực dịch vụ của Việt Nam trong qúa trình chuyển đổi sang kinh tế thị
trƣờng.
 Phạm vi nghiên cứu


5
Đề tài tập trung nghiên cứu sự phát triển của khu vực dịch vụ Việt Nam từ
năm 1990 đến năm 2005 trong một số khía cạnh cụ thể, lấy việc phân tích một số
ngành dịch vụ quan trọng làm ví dụ thực chứng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện mục tiêu và các nhiệm vụ đặt ra, chúng tôi đã sử dụng các
phƣơng pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, kết hợp với các phƣơng pháp lôgic và lịch sử; phân tích và tổng hợp,
thống kê, so sánh
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn:
Đề tài đƣa ra cách nhìn mới về khu vực dịch vụ nói chung. Từ việc phân
tích thực trạng của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế thị trƣờng Việt Nam hiện
nay, đề tài đƣa ra sự đánh giá tổng quan về toàn bộ khu vực quan trọng này; từ
đó, đề xuất một số giải pháp để phát triển khu vực dịch vụ một cách hợp lý.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

đƣợc bố cục thành 3 chƣơng :
Chƣơng 1: Khu vực dịch vụ nhìn từ góc độ lý luận và kinh nghiệm quốc tế.
Chƣơng 2: Thực trạng của khu vực dịch vụ ở Việt Nam trong 20 năm đổi mới
(1986 - 2005)
Chƣơng 3 : Quan điểm định hƣớng và giải pháp phát triển khu vực dịch vụ ở
Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010.








6





CHƢƠNG 1
KHU VỰC DỊCH VỤ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LÝ LUẬN
VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHU VỰC DỊCH VỤ TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG HIỆN ĐẠI
1.1.1 Khái niệm về khu vực dịch vụ
Dịch vụ là con đẻ của nền sản xuất hàng hoá. Nền sản xuất hàng hoá phát
triển mạnh tất yếu đòi hỏi một sự lƣu thông trôi chảy, thông suốt và liên tục để
thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con ngƣời, và trong những mối quan hệ cơ

bản đó, các hoạt động dịch vụ tất yếu nảy sinh và ngày càng phát triển.
Đến những năm cuối thế kỷ XX, dịch vụ đã trở thành một khu vực đặc
biệt quan trọng của các nền kinh tế quốc dân và nó là đối tƣợng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học nhƣ: kinh tế học, văn hoá học, hành chính học, luật học,
khoa học quản lý. Từ đó, đã hình thành nhiều cách quan niệm và khái niệm về
dịch vụ theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Với tư cách là đối tượng nghiên cứu chung của nhiều ngành khoa học:
“Dịch vụ là khái niệm chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết quả của chúng không
tồn tại dƣới dạng hình thái vật thể. Hoạt động dịch vụ bao trùm lên tất cả các lĩnh
vực với trình độ cao, chi phối rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội, môi
trƣờng của từng quốc gia, từng khu vực nói riêng và toàn thế giới nói chung.
Dịch vụ không chỉ bao gồm những lĩnh vực truyền thống nhƣ vận tải, du lịch,
thƣơng mại, ngân hàng, bƣu điện, bảo hiểm, truyền thông liên lạc mà còn lan toả


7
đến các khu vực rất mới nhƣ bảo vệ môi trƣờng, dịch vụ văn hoá, dịch vụ hành
chính, tƣ vấn pháp luật, tƣ vấn tình cảm…” [24, tr. 7].
Theo cách hiểu trong phân loại ngành nghề: “Dịch vụ là các nghề khác
phục vụ sản xuất xã hội và đời sống nhân dân ngoài sản nghiệp I (nông nghiệp)
và sản nghiệp II (công nghiệp). Đặc điểm chủ yếu của dịch vụ là phục vụ sản
xuất công nghiệp và đời sống nhân dân, không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm vật
chất nên nó còn đƣợc gọi theo nghĩa rộng là “sản nghiệp mang tính phục vụ” hay
sản nghiệp thứ III” [43,tr. 575]
Theo cách hiểu dưới góc độ Marketing: “Dịch vụ là phần mềm của sản
phẩm, hỗ trợ cho khách hàng trƣớc, trong và sau khi bán” [24,tr. 6].
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho
những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và đƣợc trả công” [41]. Đây là
cách hiểu chung nhất dƣới góc độ ngôn ngữ, từ vựng.
Một định nghĩa khác về dịch vụ đƣợc giải thích rõ ràng hơn trong Từ điển

Bách khoa Việt Nam: “Dịch vụ là những hoạt động phục vụ nhằm thoả mãn
những nhu cầu sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt. Tuỳ theo trƣờng hợp, dịch vụ bao
gồm: một công việc ít nhiều chuyên môn hoá, việc sử dụng hẳn hay tạm thời một
tài sản, việc sử dụng phối hợp một tài sản lâu bền và sản phẩm của một công
việc cho vay vốn. Do nhu cầu rất đa dạng tuỳ theo sự phân công lao động nên có
nhiều loại dịch vụ: dịch vụ phục vụ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phục vụ sinh
hoạt công cộng, dịch vụ cá nhân dƣới hình thức những dịch vụ gia đình, những
dịch vụ tinh thần dựa trên những nghiệp vụ đòi hỏi tài năng đặc biệt (nghiên cứu,
môi giới, quảng cáo ), những dịch vụ liên quan đến đời sống sinh hoạt công
cộng (sức khoẻ, giáo dục, giải trí…), những dịch vụ về chỗ ở… Sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ tác động lẫn nhau chặt chẽ. Dịch vụ là một điều kiện để phát
triển sản xuất, kinh doanh. Dịch vụ pháp lý, tài chính, tiền tệ, vận tải, thông tin
liên lạc có vai trò rất quan trọng. Du lịch là một lĩnh vực có ý nghĩa kinh tế lớn.
Sự phát triển dịch vụ hợp lý, có chất lƣợng cao là một biểu hiện của nền kinh tế
phát triển và một xã hội văn minh. Do ý nghĩa kinh tế-xã hội to lớn nên hoạt


8
động dịch vụ trở thành lĩnh vực kinh tế quan trọng, có vị trí lớn trong cơ cấu
kinh tế của các quốc gia có tốc độ phát triển cao” [16].
Dịch vụ còn được hiểu là “một hoạt động hay lợi ích cung ứng nhằm để
trao đổi, chủ yếu là tồn tại vô hình và không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu.
Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền hoặc không gắn liền với sản phẩm vật
chất. Chẳng hạn, khi thuê phòng ở khách sạn, ghi tên tiền gửi ngân hàng, khám
bệnh, xin ý kiến của chuyên gia tƣ vấn… trong tất cả các trƣờng hợp này ta đều
có đƣợc một dịch vụ” [27,tr. 7].
Theo C.Mac: Dịch vụ là hình thức lao động đƣợc cung cấp do tính chất hữu
ích nhất định vốn có của nó, tồn tại với tƣ cách là một sự phục vụ. Ở đây, lao động
đƣợc ngƣời mua quan tâm với tƣ cách là giá trị sử dụng và tiền để chi tiêu cho lao
động này với tƣ cách là phƣơng tiện lƣu thông (để phân biệt với sức lao động là hàng

hoá đặc biệt đƣợc tƣ bản mua để tạo ra giá trị thặng dƣ cho nhà tƣ bản) [22, tr 564-
580].
Nhƣ vậy, trong cấu trúc tổng thể của nền kinh tế thị trƣờng thì dịch vụ tồn
tại với tính cách là một bộ phận cơ hữu. Theo cách tiếp cận dƣới góc độ khoa học
kinh tế, ngƣời ta thƣờng chia nền kinh tế thành hai khu vực là khu vực sản xuất và
khu vực dịch vụ. Khu vực sản xuất tạo ra những sản phẩm hàng hoá là những vật
phẩm có hình thái hiện vật, còn khu vực dịch vụ tạo ra những sản phẩm có hình
thái phi hiện vật, không nhìn thấy đƣợc mà ngƣời tiêu dùng chỉ cảm nhận đƣợc
khi sử dụng loại dịch vụ đó. Các dịch vụ này là những hoạt động phục vụ nhu cầu
sản xuất và đời sống sinh hoạt của con ngƣời.
Từ những cách quan niệm khác nhau nhƣ đã trình bày ở trên, có thể rút ra
một định nghĩa chung nhất về dịch vụ: Dịch vụ là những hoạt động mang tính
xã hội, tạo ra những sản phẩm hàng hoá không tồn tại dưới hình thái vật thể
nhằm thoả mãn kịp thời, thuận lợi, hiệu quả hơn các nhu cầu trong sản xuất
và đời sống của con người.
Quan niệm khác nhau về dịch vụ, một mặt tuỳ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử; mặt khác, còn liên


9
quan đến phƣơng pháp luận của giới nghiên cứu khoa học xã hội và kinh tế ở từng
nƣớc. Những quan niệm khác nhau cũng ảnh hƣởng khác nhau tới chất lƣợng dịch
vụ, quy mô và tốc độ phát triển dịch vụ cũng nhƣ tốc độ tăng trƣởng và phát triển
kinh tế ở mỗi quốc gia.
Nhƣ vậy, khu vực dịch vụ là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, bao
gồm hệ thống các ngành dịch vụ tạo ra những sản phẩm hàng hóa có giá trị, có
mối quan hệ tương hỗ với khu vực nông nghiệp và công nghiệp và có ảnh hưởng
đến sự phát triển của cả nền kinh tế.
Dịch vụ là lĩnh vực “mở”. Nó ra đời, tồn tại và phát triển để đáp ứng nhu cầu
của ngƣời sử dụng. Do đó, sự xuất hiện của dịch vụ là tất yếu khách quan, xuất phát

từ sự hợp tác phân công lao động, tiến bộ khoa học - công nghệ, cũng nhƣ của đời
sống cộng đồng. Tuy nhiên, trên giác độ kinh tế hàng hoá, dịch vụ không bao hàm
những hoạt động lao động nhằm mục đích tự phục vụ cho quá trình hoạt động của
chủ thể sản xuất hoặc tự phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt cá nhân của bản thân
ngƣời nào đó.
1.1.2 Phân loại dịch vụ
Dịch vụ là một lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội phong phú và đa dạng.
Càng ngày dịch vụ càng phát triển theo xu hƣớng chuyên môn hoá, và xu hƣớng
đó về cơ bản đƣợc quyết định bởi diễn biến và trình độ chuyên môn hóa của nền
sản xuất xã hội. Dịch vụ có mặt ở rất nhiều lĩnh vực nhƣ: sản xuất, tiêu dùng (vật
chất, tinh thần), quản lý, xã hội… Có nhiều cách phân loại dịch vụ theo các tiêu
thức khác nhau:
1.1.2.1 Phân loại theo ngành nghề
Theo các ngành nghề phục vụ khác nhau, có thể phân chia thành các loại
hình dịch vụ mang tính chuyên ngành nhƣ:
- Giao thông vận tải;
- Thông tin bƣu điện;
- Thƣơng mại;
- Phục vụ sản xuất (thông tin, tƣ vấn);


10
- Phục vụ ăn uống;
- Dự trữ cung ứng vật tƣ;
- Tiền tệ – Ngân hàng;
- Bảo hiểm;
- Phục vụ sinh hoạt dân cƣ;
- Văn hoá- văn nghệ;
- Du lịch;
- Giáo dục;

- Y tế;
- Nghiên cứu khoa học- kỹ thuật- công nghệ,…
1.1.2.2 Phân loại dịch vụ theo chủ thể thực hiện
Tƣơng ứng với cách tiếp cận theo chủ thể thực hiện, dịch vụ đƣợc phân
chia thành một số loại hình chủ yếu dƣới đây:
- Một là, dịch vụ công: Ở đây, nhà nƣớc đóng vai trò là chủ thể cung cấp
các dịch vụ cơ bản cho các đối tƣợng xã hội khác nhau. Theo GS. Jim Arstrong,
các dịch vụ công mà nhà nƣớc cung ứng bao gồm:
 Chính sách, pháp luật, hoạt động liên chính phủ, an ninh quốc gia,
duy trì các thể chế dân chủ cơ bản;
 Các hoạt động lập quy, thi hành pháp luật, cảnh sát, cứu hoả…;
 Các hoạt động kết cấu hạ tầng (bao gồm kết cấu hạ tầng kỹ thuật và
kết cấu hạ tầng xã hội) ;
 Cung ứng phúc lợi xã hội (trƣờng học, nhà ở, trợ cấp cho các nhóm
xã hội yếu thế…);
 Cung cấp thông tin và tƣ vấn (trung tâm giới thiệu việc làm ).
Nhƣ vậy, dịch vụ công đƣợc hiểu là mọi hoạt động phục vụ các lợi ích
chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân, do
nhà nƣớc trực tiếp đảm nhận hay uỷ nhiệm cho các cơ sở ngoài nhà nƣớc thực
hiện nhằm đảm bảo trật tự và công bằng xã hội. [23, tr.24].


11
- Hai là, dịch vụ xã hội (ngoài dịch vụ công): Ở đây chủ thể cung ứng các
dịch vụ là các tổ chức xã hội, họ thực hiện các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cộng
đồng, nâng cao dân trí, khuyến nông, các hoạt động của tổ chức từ thiện…
- Ba là, dịch vụ chủ yếu nhằm mục đích lợi nhuận: Ở đây chủ thể là các đơn vị
kinh doanh, họ thực hiện các dịch vụ ngân hàng, hàng không, khách sạn, công ty bảo
hiểm, công ty buôn bán bất động sản, công ty lắp đặt, sửa chữa các thiết bị nội thất, tƣ
vấn tài chính… phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

1.1.2.3 Phân loại dịch vụ theo đối tượng phục vụ
Theo tiêu chí này, dịch vụ bao gồm hai loại hình:
- Dịch vụ công cộng: là loại dịch vụ phục vụ nhu cầu chung của cả cộng
động mà tƣ nhân không thể cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, không bảo
đảm lợi ích xã hội (cung cấp dịch vụ điện, nƣớc sinh hoạt, dịch vụ xử lý thoát
nƣớc thải nƣớc mƣa, dịch vụ thu gom xử lý rác thải, dịch vụ vận tải công cộng,
dịch vụ giáo dục, dịch vụ văn hoá thông tin…).
- Dịch vụ tư nhân: là loại dịch vụ phục vụ riêng cho từng nhu cầu cá nhân,
thƣờng do tƣ nhân cung cấp (dịch vụ may đo, dịch vụ ăn uống…).
1.1.2.4 Phân loại dịch vụ theo lĩnh vực phục vụ:
- Dịch vụ sinh hoạt cá nhân: là những dịch vụ thoả mãn nhu cầu sinh hoạt
của mỗi cá nhân (dịch vụ ăn uống, dịch vụ văn nghệ…).
- Dịch vụ có tính sản xuất (gắn với sản xuất trực tiếp): là những dịch vụ
nhằm dịch chuyển, bảo quản hay phục hồi những giá trị sử dụng đã tạo ra trong
lĩnh vực sản xuất vật chất. Chúng bảo tồn hoặc xét về tổng thể có tác dụng làm
giảm chi phí lao động xã hội kết tinh trong của cải vật chất. Do đó lao động dịch
vụ có tính chất sản xuất, trực tiếp tham gia vào việc tạo ra thu nhập quốc dân
(dịch vụ vận tải hàng hoá, dịch vụ lƣu kho, dịch vụ tƣ vấn tài chính, thông tin
liên lạc phục vụ sản xuất, thƣơng nghiệp, dịch vụ sửa chữa tƣ liệu sản xuất…)
1.1.3 Vai trò và đặc điểm của khu vực dịch vụ
Việc phân tích vai trò và đặc điểm của khu vực dịch vụ cho dù là ở mức độ
khái quát, vẫn là rất cần thiết. Qua đó, có thể đúc rút đƣợc những luận cứ phục vụ


12
trực tiếp cho việc tổ chức và phát triển các loại hình dịch vụ hợp lý và hiệu quả
hơn.
1.1.3.1 Vai trò của khu vực dịch vụ
Theo quan niệm phổ biến hiện nay, dịch vụ đƣợc coi là một ngành sản
xuất, có vai trò to lớn đối với sự hoạt động và phát triển của nền kinh tế quốc dân

và đời sống con ngƣời. Vai trò quan trọng của khu vực dịch vụ thể hiện trên các
quan hệ cơ bản dƣới đây:
Một là, vai trò phục vụ xã hội:
Sự xuất hiện của các hoạt động dịch vụ ngay từ đầu đã hƣớng vào mục
đích phục vụ xã hội (phục vụ sản xuất và đời sống con ngƣời). Tính mục đích
đƣợc xác định ngay từ đầu là do bản thân hoạt động dịch vụ là những lao động
có ích, tồn tại với tƣ cách là những “sự phục vụ”.
Nhìn chung, sản phẩm của ngành dịch vụ tuy không tồn tại dƣới hình
thái vật thể, nhƣng chúng vẫn có những điểm giống nhƣ sản phẩm của ngành
nông nghiệp hay công nghiệp ở chỗ cũng đƣợc sản xuất nhằm thoả mãn nhu
cầu của ngƣời tiêu dùng. Sản phẩm dịch vụ là những hàng hoá có ích. Trong
đời sống tiêu dùng, sản phẩm dịch vụ thƣờng tồn tại dƣới dạng những hàng
hoá thoả mãn nhu cầu về tinh thần (ví dụ: du lịch, văn hoá- văn nghệ, thông
tin liên lạc…). Trong sản xuất, dịch vụ thoả mãn nhu cầu thúc đẩy phát triển
sản phẩm, vốn, công nghệ (ví dụ: dịch vụ thƣơng mại, vận tải hàng hoá đến
tay ngƣời tiêu dùng, dịch vụ tƣ vấn tài chính, ngân hàng…). Ngoài ra, ngành
dịch vụ còn cung cấp những hoạt động mang tính phục vụ xã hội là các dịch
vụ công do nhà nƣớc và các tổ chức xã hội thực hiện góp phần nâng cao dân
trí, chăm sóc đời sống dân cƣ, có ý nghĩa trong việc giúp nhà nƣớc giải quyết
những vấn đề xã hội (ví dụ: giáo dục, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng…).
Hai là, thúc đẩy phân công lao động xã hội:
Dịch vụ xuất hiện do tác động của quá trình chuyên môn hoá sản xuất. Chi
phí mà một ngƣời bỏ ra để mua một hoạt động dịch vụ thƣờng thấp hơn chi phí
do ngƣời đó tự thực hiện phục vụ mình trong cả sản xuất lẫn hoạt động tiêu


13
dùng. Đó chính là cơ sở kinh tế khiến cho các hoạt động dịch vụ xuất hiện, tồn
tại và ngày càng phát triển. Ban đầu, hoạt động dịch vụ chỉ ở một vài lĩnh vực
hạn hẹp. Nhƣng khi dịch vụ càng phát triển, các lĩnh vực đƣợc mở rộng thì nó

càng thúc đẩy phân công lao động xã hội, tạo điều kiện tăng năng suất lao động
xã hội. Các nguồn lực về vốn, công nghệ, lao động đƣợc di chuyển hợp lý nhờ
mạng lƣới ngày càng dày đặc của các hoạt động dịch vụ. Trong nền kinh tế thị
trƣờng, bên cạnh sự phát triển của những ngành dịch vụ truyền thống nhƣ vận
tải, thƣơng mại, tài chính- ngân hàng…, càng ngày càng xuất hiện nhiều ngành
dịch vụ mới, phục vụ nhu cầu đa dạng của nền sản xuất và đời sống xã hội nhƣ:
nghiên cứu công nghệ, quảng cáo, tƣ vấn, dịch vụ công nghệ điện tử… Trong đó,
hoạt động nghiên cứu và giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng đối với phát triển
nền kinh tế của mỗi nƣớc và toàn cầu. Tất cả những lĩnh vực này giúp cho loài
ngƣời đặt lại nền móng cho một nền kinh tế mới.
Ba là, dịch vụ là phương tiện hữu hiệu kết nối các ngành sản xuất
Dịch vụ là cầu nối giữa các yếu tố “đầu ra” và “đầu vào” trong quá trình
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động,
hiệu quả và đảm bảo sự thuận tiện, phong phú và các chuẩn mực văn minh cho
các lĩnh vực đời sống tinh thần và vật chất của xã hội. Ngành dịch vụ và ngành
công nghiệp có mối quan hệ tƣơng hỗ lẫn nhau ngày càng tăng. Các nhà sản xuất
công nghiệp ngày càng phải chi phí nhiều hơn cho các công ty dịch vụ nhƣ:
quảng cáo, quản lý tài chính, hệ thống phân phối nhanh hơn… Đặc biệt là trong
môi trƣờng cạnh tranh ngày càng khốc liệt, vai trò của dịch vụ đối với các nhà
sản xuất ngày càng tăng lên, và điều đó cũng liên quan ngay cả đối với ngành
nông nghiệp. Dịch vụ trong hoạt động thƣơng mại, tiêu thụ sản phẩm đóng vai
trò kích cầu rất lớn, phục vụ khách hàng tốt hơn, rút ngắn thời gian quyết định
mua hàng của ngƣời tiêu dùng, đẩy nhanh tốc độ lƣu thông hàng hoá - tiền tệ. Số
lƣợng các nhà sản xuất công nghiệp thừa nhận ngành dịch vụ là chỗ dựa không
thể thiếu đƣợc đối với hoạt động kinh tế của họ ngày càng nhiều. Đấy cũng là lý
do làm cho tỷ trọng của dịch vụ trong GDP của hầu hết các nƣớc ngày càng tăng.


14
Vào giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, tỷ trọng của dịch vụ chiếm trên 60% sản

xuất và công ăn việc làm toàn cầu, riêng ở Mỹ, dịch vụ chiếm đến 80% GDP.
Thƣơng mại dịch vụ cũng chiếm đến 20% thƣơng mại thế giới. Tuy tỷ trọng đó
còn khiêm tốn nhƣng nhiều loại hình dịch vụ từ lâu đã đƣợc coi là những hoạt
động quan trọng của quốc nội và ngày càng năng động trên phạm vi toàn cầu, nhất
là những ngành có chiều hƣớng sử dụng các công nghệ mới nhƣ viễn thông, ngân
hàng điện tử, y tế…
Đôi khi các nhà sản xuất không tách biệt hoạt động sản xuất sản phẩm
hữu hình với các hoạt động dịch vụ. Họ có thể cung cấp cả hai loại hàng hoá này
để bổ sung cho nhau, tạo nên một sự thống nhất và thuận tiện nhất cho tiêu dùng
của ngƣời mua. Ví dụ trong hoạt động của hãng SONY: khoảng 1/5 thu nhập của
hãng là từ kinh doanh phim ảnh và âm nhạc; nếu cộng thêm cả các hoạt động
thiết kế, marketing, tài chính, bảo hành thì các dịch vụ chiếm ít nhất khoảng
1/2 công việc kinh doanh của hãng.
Bốn là, dịch vụ góp phần làm nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững
hơn:
Ở các nƣớc khác nhau, tỷ trọng của ngành dịch vụ so với các ngành sản
xuất khác trong GDP cũng khác nhau. Các nƣớc phát triển có tỷ trọng ngành
dịch vụ lên tới 60-70% GDP; ở các nƣớc đang phát triển thì tỷ lệ này thấp
hơn, chỉ chiếm khoảng 40- 55% GDP. Tuy nhiên, nhìn tổng quát về xu hƣớng
thì có thể khẳng định ngành dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng còn cao hơn trong
GDP, và mức độ tăng trƣởng của nó rất nhanh. Đồng thời với sự giảm sút
tƣơng đối về tỷ trọng của ngành công nghiệp và đặc biệt là của ngành nông
nghiệp, tỷ trong của ngành dịch vụ trong GDP tăng lên, nó không chỉ bù lại
mà còn có vai trò ngày càng lớn đối với sự tăng trƣởng GDP của các quốc gia.
Nếu năm 1985, tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP của Pháp là 65,5%, của Mỹ
là 66,9%, của Nhật Bản là 55,9% thì con số này vào năm 2000 lần lƣợt là
70,9%, 72% và 66,4%. Ngay cả ở các nƣớc đang phát triển (là những nƣớc
đang tập trung đẩy mạnh tăng trƣởng công nghiệp) thì tỷ trọng ngành dịch vụ



15
cũng biến chuyển theo chiều hƣớng tăng dần, điều đó đã và đang diễn ra bên
trong nền kinh tế thị trƣờng của Việt Nam, Philippin, Thái Lan, Ấn Độ…
Các dịch vụ cũng tăng trƣởng nhanh nhất trong thƣơng mại thế giới,
chiếm 20% tổng giao dịch và 30% xuất khẩu của Mỹ. Các ngành dịch vụ cũng
chiếm tới 40% vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài. Những đóng góp đáng kể và tác
động ngày càng lớn của ngành dịch vụ tất yếu tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu
tổng thể của nền kinh tế mọi quốc gia theo hƣớng phát triển hợp lý và hiệu quả
hơn.
Ở các nƣớc đang phát triển, dịch vụ còn đóng vai trò thúc đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá bởi nó tạo ra các luồng phân phối các nguồn
lực đầu tƣ và hàng hoá nhanh và hiệu quả hơn; đồng thời giúp tiết kiệm thời gian
lao động xã hội, tạo điều kiện để tập trung cho sản xuất công nghiệp nhiều hơn.
Và điều quan trọng hơn đối với nhóm nƣớc này, là hoạt động dịch vụ đã và sẽ
cung cấp nguồn tri thức, khoa học và công nghệ cần thiết để tiến hành công
nghiệp hoá rút ngắn thông qua những dịch vụ thông tin liên lạc toàn cầu, dịch vụ
giáo dục, dịch vụ tƣ vấn về những vấn đề phát triển…

Bảng 1.1: Tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong GDP (%)
Tên nƣớc và vùng lãnh thổ
1985
1991
1997
1999
2000
2001
2004


16

Pháp
Đức
Hà Lan
Vƣơng quốc Anh
Mỹ
Nhật Bản
Hàn Quốc
Hồng Kông
Đài Loan
Singapore
Thái Lan
Việt Nam
Philippin
Ấn §é
Australia
65.5

63,7

66,9
55,9
45,4

47,9
62,8
52,3

40,2
45,5
61,2

68.2

67,5

71,1
55,6
45,9

54,9
62,0
48,5
35,5
44,5
46,6

70,7
66,6
68,6
67,8
71,1
64,7
51,6
85,2
62,2
65,1
50,2
42,1
49,0
44,9
69,9

71,1
67,7
70,3
70,2
-
66,4
52,4
85,5
65,5
65,2
49,9
40,1
52,2
47,8
70,7

70,9
67,6
-
70,2
72
-
52,9
-
67,2
65,6
49,5
39,1
52,9
48,2

-
-
-
-
-
-
54,1
-
-
-
49,8
39,1
53,6
48,4

73
68
-
72.7
79.4
74.1
56.3
88.6
67.4
67.4
44.3
38.1
53.2
48
68.4










Nguån: Tµi liÖu kinh tÕ- x· héi c¸c n-íc vµ vïng l·nh thæ trªn thÕ giíi -
Tæng côc Thèng kª, n¨m 2003,

Năm là, dịch vụ có vai trò ngày càng lớn đối với vấn đề tạo việc làm,
giảm thất nghiệp:
Dịch vụ bao gồm nhiều lĩnh vực ngày càng đa dạng và với những yêu cầu
về trình độ lao động cũng rất khác nhau, nên có khả năng thu hút rất nhiều lao
động. Mặc dù mức độ tăng trƣởng về việc làm là khác nhau đối với từng lĩnh vực
(chẳng hạn, trong giai đoạn từ 1980 đến 1991, dịch vụ pháp lý tăng đến 106%,
dịch vụ kinh doanh tăng 67%, y tế 59%, dịch vụ giải trí tăng 53%, dịch vụ về giao
thông liên lạc tăng 13%), nhƣng khu vực dịch vụ vẫn luôn là khu vực thu hút
nhiều lao động nhất. Nếu nhƣ lao động trong ngành nông nghiệp giảm xuống do
giảm tỷ trọng sản xuất, và lao động trong ngành công nghiệp giảm xuống do áp
dụng khoa học công nghệ hiện đại, sử dụng nhiều máy móc, tăng năng suất lao
động, thì dịch vụ lại là ngành có khả năng giải quyết tình trạng thất nghiệp cho
nền kinh tế. Khu vực dịch vụ đã thu hút 2/3 lao động ở các nƣớc Tây Âu, hơn 50%


17
lao động ở các nƣớc đang phát triển. Dịch vụ còn thu hút số lƣợng lớn lao động
phụ nữ cả ở lĩnh vực lao động trí óc và lao động chân tay. Nhƣ vậy, nó cũng đóng

vai trò rất lớn trong việc giải phóng phụ nữ. Khu vực dịch vụ càng phát triển thì
khả năng tạo công ăn việc làm của nó càng lớn.
Sáu là, dịch vụ đóng vai trò cầu nối giữa các nền kinh tế:
Dịch vụ là cầu nối giữa các vùng trong nƣớc, là cầu nối giữa nền kinh tế
quốc gia với nền kinh tế thế giới. Thông qua những hoạt động của mình, nó tạo
điều kiện thực hiện quá trình hợp tác, hội nhập trong phát triển kinh tế của các
quốc gia, dân tộc. Hiện nay, con ngƣời có thể dễ dàng di chuyển tới một nƣớc khác
nhờ vào dịch vụ vận tải hàng không, biết đƣợc những thông tin kinh tế-xã hội, tiếp
thu đƣợc những tri thức khoa học công nghệ, tinh hoa nhân loại nhanh chóng nhờ
mạng thông tin toàn cầu. Dịch vụ cũng là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối
ngoại,
1.1.3.2 Đặc điểm của khu vực dịch vụ
Khu vực dịch vụ đƣợc phân biệt với khu vực sản xuất chủ yếu là bởi các
đặc điểm riêng có của mỗi khu vực. Dƣới đây, chúng tôi xin phân tích khái quát
một số đặc điểm cơ bản của khu vực dịch vụ:
Thứ nhất, sản phẩm của khu vực dịch vụ cũng là hàng hoá
Sở dĩ có thể cho rằng sản phẩm dịch vụ cũng là hàng hoá bởi chúng cũng
có hai thuộc tính cơ bản của hàng hoá thông thƣờng, đó là giá trị sử dụng và giá
trị.
Giá trị sử dụng của sản phẩm dịch vụ thể hiện: ngƣời mua tìm đến dịch vụ
bởi tính hữu ích của các hoạt động lao động đƣợc tồn tại với tính cách là sự phục
vụ. Ví dụ: ngƣời ta mua vé hay trả tiền để nghe một ngƣời ca sĩ hát và ngƣời ca
sĩ cung cấp một dịch vụ là tiếng hát để đáp ứng nhu cầu giải trí hay thẩm mỹ của
ngƣời nghe. Sản phẩm dịch vụ có thể đáp ứng nhu cầu cho sản xuất nhƣ vận
chuyển hàng hoá vật chất từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ,
Giá trị của sản phẩm dịch vụ đƣợc đo bằng hao phí lao động sống để tạo
ra những hoạt động phục vụ cung cấp cho ngƣời sử dụng. Nếu là dịch vụ ca hát


18

của ngƣời ca sĩ thì giá trị sản phẩm dịch vụ này là hao phí về cơ bắp, thể lực, trí
lực của ngƣời ca sĩ đó để sản xuất và tái sản xuất hoạt động dịch vụ. Cũng nhƣ
vậy, nếu là dịch vụ của ngƣời thầy giáo, giá trị sản phẩm dịch vụ là những hao
phí cơ bắp, trí lực khi ngƣời giáo viên đó nghiên cứu hay giảng bài và sinh sống
để tái sản xuất ra hoạt động dịch vụ trên.
Nhƣ vậy, sản phẩm dịch vụ cũng là hàng hoá và nó góp vào tổng sản
phẩm quốc dân cũng nhƣ hàng hoá nông nghiệp và hàng hoá công nghiệp.
Thứ hai, dịch vụ có tính vô hình hay phi vật thể
Hàng hoá dịch vụ khác biệt với hàng hoá công nghiệp và nông nghiệp ở
chỗ nó có tính vô hình hay phi vật thể.
C.Mac đã từng bàn đến đặc điểm này của hoạt động dịch vụ khi nhận
định: “Trong những trƣờng hợp mà tiền đƣợc trực tiếp trao đổi lấy một lao động
không sản xuất ra tƣ bản, tức là trao đổi lấy lao động không sản xuất, thì lao
động đó đƣợc mua với tƣ cách là một sự phục vụ… lao động đó cung cấp những
sự phục vụ không phải với tƣ cách là một đồ vật, mà với tƣ cách là một sự hoạt
động” [22, tr.207].
Lao động dịch vụ không đƣợc cố định hay không đƣợc vật thể hoá trong
một vật thể cá biệt nào đó. Những công việc của ngƣời làm dịch vụ thƣờng “biến
mất” ngay sau khi chúng đƣợc kết thúc và rất ít khi để lại dấu vết hay một giá trị
nào đó để sau này có thể cho ta nhận đƣợc một số lƣợng dịch vụ ngang nhƣ thế.
Dịch vụ là hàng hoá vô hình.
Ta không thể nhìn thấy hay thử đƣợc mùi vị hoặc nghe đƣợc chúng trƣớc
khi tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ. Ví dụ: ngƣời nghe không thể biết trƣớc
đƣợc ngƣời ca sĩ hát nhƣ thế nào nếu chƣa bắt đầu thƣởng thức (sử dụng dịch
vụ), ngƣời sinh viên không thể biết trƣớc đƣợc nhận thức của mình nếu chƣa vào
giảng đƣờng nghe giảng viên giảng bài. Ngƣời bệnh không thể biết trƣớc kết quả
khám nghiệm của mình nếu chƣa đi khám bệnh.
Khi tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ, ngƣời mua chỉ cảm nhận đƣợc. Ví
dụ: ngƣời ta cảm nhận đƣợc nội dung bộ phim bằng cảm xúc khi xem phim. Kết



19
quả của hoạt động dịch vụ có thể để lại là sự thay đổi trạng thái của ngƣời tiêu
dùng hay của một sự vật nào đó đƣợc hoạt động dịch vụ tác động. Ví dụ: ngƣời
bị bệnh sau khi mua dịch vụ chữa bệnh của bác sĩ thì khỏi bệnh, trạng thái thể
chất của anh ta chuyển từ ốm yếu sang khoẻ mạnh. Một vật khi đƣợc chuyên chở
vận tải thì thay đổi trạng thái về mặt không gian.
Chúng ta cũng cần phải phân biệt tính phi vật thể và tính phi vật chất.
C.Mac coi vận tải là một ngành dịch vụ, không kể nó chuyên chở ngƣời hay
hàng hoá, là lĩnh vực sản xuất vật chất thứ tƣ, sau công nghiệp khai thác, nông
nghiệp và công nghiệp chế biến. Dịch vụ gắn với giá trị sử dụng của hàng hoá
nên cũng đƣợc coi nhƣ là một ngành sản xuất vật chất và toàn bộ giá trị của nó
đƣợc cộng thêm vào giá trị hàng hoá hữu hình. Sản phẩm của dịch vụ không
nhìn thấy đƣợc, chỉ cảm nhận đƣợc nên nó là hàng hoá phi vật thể.
Thứ ba, các sản phẩm dịch vụ khi tiêu dùng không dẫn đến việc chuyển
quyền sở hữu
Quá trình mua bán sản phẩm dịch vụ không kèm theo sự chuyển nhƣợng
quyền sở hữu. Khách hàng mua sản phẩm dịch vụ nhiều nhất chỉ có khả năng
nhận một loại tƣợng trƣng hay bằng chứng. Ví dụ: khi mua dịch vụ ca hát của
ngƣời ca sĩ, ta chỉ có thể thƣởng thức giọng ca của ngƣời ca sĩ lúc đó chứ không
thể biến nó thành giọng hát của ta đƣợc.
Kỹ năng dịch vụ không mất đi sau khi đã cung ứng. Sau một ca phẫu
thuật, bác sĩ không mất đi khả năng phẫu thuật, sau một bài giảng, giảng viên
không mất đi khả năng giảng bài Sự thành công hay chất lƣợng của sản phẩm
dịch vụ tồn tại và hƣớng tới sự hoàn thiện hơn trong sự lặp lại hoạt động của
những ngƣời cung ứng dịch vụ.
Thứ tư, sản xuất và tiêu dùng dịch vụ có tính không tách rời về thời gian
Việc sản xuất và tiêu dùng dịch vụ thƣờng diễn ra đồng thời và sản phẩm
dịch vụ thƣờng không tách khỏi hành vi sản xuất ra nó, không tồn tại tách rời
ngƣời thực hiện nó. Ví dụ: dịch vụ của ngƣời ca sĩ đem lại cho ngƣời nghe sự

thoả mãn về nhu cầu thẩm mỹ, nhƣng cái mà ngƣời nghe thƣởng thức chỉ tồn tại


20
dƣới hình thái hoạt động không tách rời khỏi bản thân ngƣời ca sĩ, và khi lao
động của ngƣời ca sĩ, tức tiếng hát của anh ta chấm dứt, thì cảm giác của ngƣời
nghe cũng chấm dứt; ngƣời nghe cảm thấy vui hoặc phấn chấn với bản thân hoạt
động đó, nhờ sự tác động của nó vào thính giác.
Cũng có một số loại hình dịch vụ nhất định mà kết quả của chúng có thể
tồn tại nhƣ một giá trị sử dụng có hình thái độc lập tách khỏi ngƣời sản xuất và
ngƣời tiêu dùng, do đó chúng có thể duy trì sự tồn tại của mình trong khoảng
thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng, có thể lƣu thông trong khoảng thời gian đó
với tƣ cách là những hàng hoá có thể bán đƣợc, nhƣ những tác phẩm nghệ thuật
(tranh, tƣợng ), các tác phẩm văn học (sách, báo ), tồn tại tách rời hoạt động
nghệ thuật của ngƣời đã sáng tạo ra chúng. Nhƣng thực ra, cái mà tác phẩm đó
có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ở đây không phải là bản thân yếu tố vật chất
của sản phẩm tồn tại độc lập đó, mà là “cái hồn” của tác phẩm ấy.
Thứ năm, sản phẩm dịch vụ có tính không lưu trữ được
Sản phẩm dịch vụ không thể lƣu giữ đƣợc, ngƣời mua tiêu dùng ngay sản
phẩm dịch vụ khi nó đƣợc thực hiện và nó sẽ biến mất khi hoạt động dịch vụ
chấm dứt. Khác với các hàng hoá thông thƣờng có thể lƣu giữ và tái sử dụng,
hàng hoá dịch vụ chỉ tiêu dùng một lần nên không có hiện tƣợng hao mòn nhƣ
khi con ngƣời tiêu dùng các sản phẩm vật chất hữu hình.
Thứ sáu, các sản phẩm dịch vụ có tính không ổn định và khó xác định
chất lượng
Chất lƣợng dịch vụ dao động trong một khoảng rất rộng và tuỳ thuộc
vào hoàn cảnh tạo ra dịch vụ (tức là tùy thuộc vào ngƣời cung ứng, thời gian,
địa điểm cung ứng). Vì ngành dịch vụ là ngành lấy con ngƣời làm trung tâm
(sản phẩm của ngành dịch vụ là sự phục vụ) nên sự chênh lệch của các sản
phẩm dịch vụ rất lớn. Ví dụ: cùng một diễn giả và cùng một chủ đề nào đó,

nhƣng sức hấp dẫn của mỗi buổi thuyết trình lại tuỳ theo trạng thái tinh thần
của diễn giả đó. Ngoài ra, giữa ngƣời phục vụ và ngƣời tiêu dùng, giữa những
ngƣời tiêu dùng khác nhau thƣờng có sự khác biệt về cá tính và sở thích nên


21
cho dù là các sản phẩm dịch vụ giống nhau nhƣng chất lƣợng khó đƣợc thừa
nhận là giống nhau. Ví dụ: cùng cung cấp dịch vụ khách sạn, nhƣng chất lƣợng
giữa các khách sạn không hoàn toàn giống nhau bởi cá tính và cách thức phục
vụ ở mỗi khách sạn đƣợc ngƣời chủ quyết định khác nhau. Và trong cùng một
khách sạn, có những khách hàng rất thích cách thức phục vụ vẫn thƣờng đƣợc
cung ứng nhƣng lại có những khách hàng không vừa ý [41].
Thứ bảy, thông tin ở thị trường dịch vụ thường không đối xứng
Ở thị trƣờng dịch vụ, hiện tƣợng “thông tin không đối xứng” xảy ra
thƣờng xuyên hơn so với các thị trƣờng hàng nông phẩm hoặc hàng công nghiệp.
Ngƣời bán hiểu rõ về sản phẩm dịch vụ của mình, nhƣng ngƣời mua thƣờng biết
ít hơn nhiều, do tính vô hình của hàng hoá dịch vụ quyết định. Để cho thị trƣờng
sản phẩm dịch vụ phát triển thì phải làm giảm sự không chắc chắn khi mua.
Ngƣời mua phải tìm kiếm những dấu hiệu chứng tỏ chất lƣợng dịch vụ nhƣ:
thƣơng hiệu, điểm bán, trang thiết bị thực hiện, biểu tƣợng, giá cả, giấy tờ chứng
nhận khả năng… Ngƣời cung ứng dịch vụ cũng phải củng cố thêm niềm tin cho
khách hàng bằng cách tăng tính “hữu hình” của dịch vụ, chứng minh bằng sự ổn
định của chất lƣợng, mô tả rõ ràng về dịch vụ của mình… Hiện nay, dịch vụ phát
triển cũng một phần nhờ vào sự phát triển của khoa học thông tin hiện đại, cung
cấp thông tin nhiều, chính xác và kịp thời tới ngƣời tiêu dùng.
Thứ tám, các sản phẩm dịch vụ có tính thay thế
Các sản phẩm dịch vụ có thể thay thế cho nhau; đồng thời, giữa sản phẩm
dịch vụ với hàng hoá thông thƣờng (hàng hoá công nghiệp, nông nghiệp) có
quan hệ thay thế triệt tiêu nhau. Cùng với quá trình thay đổi cơ cấu của nền kinh
tế thị trƣờng và của hoạt động tiêu dùng, đã và đang diễn ra một xu hƣớng có

tính phổ biến: trong khi tỷ trọng nhu cầu các hàng hoá hữu hình giảm xuống một
cách tƣơng đối thì tỷ trọng nhu cầu các hàng hoá dịch vụ lại tăng lên. Khi nền
sản xuất hàng hoá hữu hình càng phát triển làm bão hoà nhu cầu về loại hàng
hoá này thì nhu cầu về hàng hoá vô hình sử dụng một lần càng đƣợc nâng lên.


22
Thứ chín, khu vực dịch vụ bao gồm những ngành nghề với các sản phẩm
có tính phức tạp cao
Dịch vụ là một hệ thống ngành, nghề phức tạp, sản phẩm dịch vụ đa dạng
đƣợc quyết định bởi tính vô hình, tính không ổn định và khó xác định chất
lƣợng, tính không lƣu trữ đƣợc… Chính vì vậy mà nó có khả năng đáp ứng nhu
cầu cao của ngƣời tiêu dùng.
Nghiên cứu về tính phức tạp của nhóm ngành nghề dịch vụ là một công
việc cần thiết, qua đó để có thể định ra đƣợc những phƣơng pháp quản lý sản
phẩm dịch vụ và những chiến lƣợc kinh tiêu hợp lý. Cách thức điều tiết hoạt
động dịch vụ cũng khác biệt so với hoạt động sản xuất hàng hoá hữu hình. Đó
là phải điều tiết cầu, khó điều tiết cung. Ví dụ: nếu nhà cung cấp dịch vụ bƣu
điện muốn hạn chế số ngƣời gọi điện trong khoảng thời gian từ 7h đến 16h
hằng ngày thì không thể điều tiết cung bằng cách cung cấp ít hơn số lƣợng
dịch vụ đƣợc mà chỉ có thể dùng biện pháp khuyến mại, giảm giá cƣớc khi gọi
điện thoại về ban đêm. Biện pháp đó sẽ có tác dụng khuyến khích những ai
không có nhu cầu trao đổi thông tin gấp vào ban ngày sẽ hạn chế hoặc chuyển
các cuộc gọi sang ban đêm.
1.1.4 Điều kiện phát triển của khu vực dịch vụ
Trong nền kinh tế thị trƣờng ngày nay, các ngành dịch vụ rất đa dạng, liên
quan đến động thái và chất lƣợng phát triển của nhiều ngành công nghiệp, nông
nghiệp và nhu cầu của hàng tỷ con ngƣời; hơn nữa, bản chất của dịch vụ là hoạt
động phục vụ. Chính vì vậy, sự phát triển của khu vực dịch vụ khá phức tạp. Có
nhiều ngành dịch vụ truyền thống đã xuất hiện từ lâu cùng với các ngành công

nghiệp, nông nghiệp nhƣ giao thông vận tải, thƣơng mại…, nhƣng cũng có
những ngành dịch vụ chỉ có khi con ngƣời đạt đƣợc trình độ công nghệ hiện đại
nhƣ: bƣu chính viễn thông, hàng không, internet, thƣơng mại điện tử,
Thế kỷ XX đánh dấu sự ra đời và phát triển của rất nhiều ngành dịch vụ.
Điều này đồng nghĩa với sự hình thành một khu vực kinh tế mới - đó là khu vực
dịch vụ. Nó cùng với hai khu vực truyền thống là công nghiệp và nông nghiệp


23
tạo thành ba đỉnh của nền kinh tế, và giữa chúng có những mối quan hệ qua lại
ngày càng phức tạp và chặt chẽ, tạo ra những động lực mới cho sự phát triển
kinh tế - xã hội. Đến những năm cuối thế kỷ XX, khu vực dịch vụ đã trở thành
một khu vực phát triển sôi động trong nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là ở các
nƣớc có trình độ cao. Một số nhà nghiên cứu dự báo rằng ở những thập kỷ đầu
thế kỷ XXI, hv dịch vụ dựa trên công nghệ cao sẽ phát triển rất mạnh cùng với
sự ra đời của nền kinh tế tri thức.
1.1.4.1 Khu vực dịch vụ chỉ có thể phát triển khi nền kinh tế chấp nhận
sự tồn tại khách quan và tất yếu của nó.
Điều này chỉ xảy ra trong nền kinh tế thị trƣờng, ở đó, các sản phẩm dịch
vụ cũng là hàng hoá. Hoạt động của nền sản xuất xã hội không chỉ bao gồm
những hoạt động sản xuất vật chất mà còn bao gồm những hoạt động dịch vụ.
Quan điểm kinh tế đó tác động mạnh đến sản xuất, lƣu thông, tiêu dùng và tạo
điều kiện cho các hoạt động dịch vụ nảy sinh, phát triển ngày càng sôi động, đáp
ứng và thoả mãn những nhu cầu rất đa dạng của sản xuất và tiêu dùng trong
những không gian kinh tế ngày càng mở rộng.
Ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa trƣớc đây, với sự khống chế và chi phối của
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các ngành dịch vụ không đƣợc thừa nhận là
ngành sản xuất xã hội mà chỉ đƣợc xem là những hoạt động thứ yếu, lệ thuộc vào
các ngành sản xuất vật chất. Trong môi trƣờng gần nhƣ hoàn toàn phi thị trƣờng,
sản phẩm xã hội chỉ bao gồm các tƣ liệu sản xuất và các vật phẩm tiêu dùng, hoạt

động dịch vụ không tạo ra giá trị. Chính vì vậy, các hoạt động dịch vụ không đƣợc
khuyến khích phát triển. Trong hoạt động sản xuất và sinh hoạt đời sống, hầu nhƣ
mọi ngƣời đều phải tự cung tự cấp các hoạt động dịch vụ. Chẳng hạn, một nhà
máy sản xuất một loại hàng hoá nào đó thì thƣờng phải tự thực hiện mọi công
đoạn từ sản xuất đến phân phối sản phẩm. Đa phần các cá thể xã hội ít đƣợc
hƣởng các hoạt động phục vụ giải trí thƣ giãn, họ tự cắt may, nấu nƣớng ở nhà…
Trong nền kinh tế này, các ngành dịch vụ có tính truyền thống (nhƣ ngành vận tải,

×