Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 119 trang )







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ


NGÔ THỊ THU HÀ


Phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc và bài học
kinh nghiệm đối với Việt Nam



LUẬN VĂN THẠC SỸ



Người hướng dẫn: TS. Vũ Đức Thanh





Hà nội - 2004







MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân ở
Trung Quốc
1.1 Khái luận về kinh tế tư nhân 4
1.1.1 Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân 4
1.1.2 Đặc điểm của kinh tế tư nhân 8
1.1.3 Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường 10
1.2 Kinh tế Trung Quốc trước cải cách và yêu cầu bức thiết của sự
phát triển kinh tế tư nhân 15
1.2.1 Khái quát về nền kinh tế Trung Quốc trước cải cách 15
1.2.2 Kinh tế tư nhân Trung Quốc trước cải cách 16
1.2.3 Yêu cầu bức thiết của sự phát triển kinh tế tư nhân 18
1.3 Những chuyển biến nhận thức đặt cơ sở cho chính sách phát
triển kinh tế tư nhân Trung Quốc thời kỳ cải cách 25
1.3.1 Quan niệm về kinh tế tư nhân trước cải cách 25
1.3.2 Những đột phá lý luận 25

Chương 2: Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Trung Quốc
2.1 Chính sách chủ yếu và tình hình phát triển kinh tế tư nhân sau
cải cách 33
2.1.1 Giai đoạn 1978 – 1987: Sự phục hồi kinh tế tư nhân 33
2.1.2 Giai đoạn 1988 –1992: Kinh tế tư nhân từng bước khẳng định
vị trí trong nền kinh tế 42

2.1.3 Giai đoạn 1992 đến nay: Kinh tế tư nhân được khuyến khích
và hỗ trợ phát triển 46
2.1.4 Đặc điểm phát triển của khu vực kinh tế tư nhân Trung Quốc 53
2.2 Đánh giá thực trạng khu vực kinh tế tư nhân ở Trung Quốc
hiện nay 57
2.2.1 Những đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế 57
2.2.2 Những vấn đề còn tồn tại trong khu vực kinh tế tư nhân ở Trung
Quốc 66

Chương 3: Vận dụng kinh nghiệm Trung Quốc nhằm phát triển kinh tế
tư nhân ở Việt Nam
3.1 Thực trạng kinh tế tư nhân Việt Nam. Những nét tương đồng
và khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc trong sự phát triển
kinh tế tư nhân 77
3.1.1 Khái quát về chính sách phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
thời kỳ Đổi mới 77
3.1.2 Tình hình phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam thời kỳ Đổi mới 80
3.1.3 Những nét tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Trung
Quốc trong phát triển kinh tế tư nhân – cơ sở để vận dụng
kinh nghiệm Trung Quốc 86
3.2 Một số bài học kinh nghiệm Trung Quốc và định hướng vận
dụng để phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam 90
3.2.1 Đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và kinh tế tư nhân 90
3.2.2 Xây dựng thể chế tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế tư nhân 96

KẾT LUẬN 111





- 1 -

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chỉ hơn hai thập kỷ tién hành cải cách kinh tế, Trung Quốc đã làm thay đổi
hoàn toàn bộ mặt kinh tế xã hội của đất nước mình trước con mắt kinh ngạc và
thán phục của bạn bè thế giới. Thành công nhất của cuộc cải cách kinh tế về mặt
lý luận là Trung Quốc đã xác lập được lý luận kinh tế thị trường XHCN tạo nên
cơ chế vận hành hoàn toàn mới, thúc đẩy sức sản xuất phát triển. Sự hình thành
kinh tế thị trường XHCN đã giúp kinh tế tư nhân Trung Quốc được khuyến
khích phát triển. Hơn hai mươi năm qua, kinh tế tư nhân ở Trung Quốc phát
triển rất nhanh, đóng góp rất lớn vào sự tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước
(GDP), trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường XHCN
mang màu sắc Trung Quốc. Sự thành công rực rỡ của công cuộc cải cách kinh tế
ở Trung Quốc nói chung, sự lớn mạnh và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân
nói riêng khiến cho các nước phải nghiên cứu, học hỏi đặc biệt là các nước có
nền kinh tế chuyển đổi.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng núi liền núi, sông liền
sông, có nhiều điểm tương đồng về địa lý, lịch sử, chính trị và xã hội. Hơn nữa,
cải cách kinh tế ở Trung Quốc và đổi mới kinh tế ở Việt Nam đều đưa đất nước
theo con đường kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Nghiên cứu quá trình
phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc giúp chúng ta có được những kinh
nghiệm quý báu từ sự thành công và thất bại của bạn. Nó có giá trị tham khảo
cho việc đổi mới tư duy lý luận, hoạch định các đường lối, chính sách trong
công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta.
Vì thế, tôi mạnh dạn lựa chọn, đi sâu vào nghiên cứu đề tài này.
2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài

- 2 -

Mục tiêu: Xem xét thực trạng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Trung
Quốc kể từ khi tiến hành cải cách kinh tế, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đối
với Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân.
Phạm vi: Luận văn một mặt đề cập đến các chính sách kinh tế vĩ mô của
Chính phủ Trung Quốc đối với việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân, mặt khác
phân tích thực trạng của khu vực kinh tế tư nhân ở các khía cạnh như số lượng
doanh nghiệp, số vốn đăng ký và thực hiện, vai trò và những đóng góp của khu
vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế và tình hình các cơ sở sản xuất, kinh doanh
tư nhân nói chung.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác – Lênin và các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như tổng
hợp, phân tích, thống kê, so sánh…dựa trên các nguồn tài liệu thu thập được về
kinh tế tư nhân.
4. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, kinh tế tư nhân ở Trung Quốc được nhiều người,
nhiều tổ chức, nhiều giới quan tâm nghiên cứu. Năm 2001, Tề Quế Trân cho ra
mắt bạn đọc cuốn :” Trung Quốc 20 năm cải cách mở cửa cải cách chế độ sở
hữu”. Năm 2002, TS Nguyễn Kim Bảo cùng tập thể tác giả đã cho xuất bản
cuốn “Thể chế kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa có đắc sắc Trung Quốc”
trong đó đã đề cập một cách hệ thống về những đột phá lý luận về chế độ sở hữu
ở Trung Quốc, là cơ sở để khu vực kinh tế tư nhân ra đời và phát triển. Cũng có
rất nhiều công trình nghiên cứu, bài báo quan tâm dến đề tài này. Bài “Phát
triển doanh nghiệp nông thôn: Kinh nghiệm tƣơng phản giữa Trung Quốc
và Việt Nam” của tác giả Đinh Trọng Thắng đăng trên Tạp chí Nghiên cứu kinh
tế số 303- tháng 8/2003 là một ví dụ. Ngoài ra cũng có rất nhiều tổ chức quan
tâm đến sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Trung Quốc. Chương trình phát
triển Dự án Mê-Kông (MPDF) và tập đoàn tài chính quốc tế (IFC) sau một thời

- 3 -

gian tiến hành nghiên cứu khu vực kinh tế tư nhân Trung Quốc đã cho ra đời
cuốn:” Doanh nghiệp tƣ nhân Trung Quốc đang nổi lên – Triển vọng trong
thế kỷ mới” nhằm chia sẻ những kinh nghiệm của Trung Quốc với các nhà
hoạch định chính sách và giới doanh nghiệp các nước khác…
Tuy nhiên, hầu hết các tác giả mới chỉ nghiên cứu dưới những góc độ nhất
định. Vấn đề phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc cần được tiếp tục nghiên
cứu, xem xét một cách toàn diện hơn và trình bày một cách hệ thống hơn.
5. Dự kiến đóng góp
Khẳng định sự cần thiết khách quan phải phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở
Trung Quốc. Phân tích đánh giá thực trạng quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở
Trung Quốc. Tổng kết những kết quả đã đạt được và những vấn đề còn tồn tại
cần tiếp tục giải quyết trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc.
Trên cơ sở đó, rút ra những bài học kinh nghiệm cần nghiên cứu ứng dụng và
những sai lầm cần tránh đối với phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam.
6. Nội dung đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân ở
Trung Quốc
Chƣơng 2: Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Trung Quốc
Chƣơng 3: Vận dụng kinh nghiệm Trung Quốc nhằm phát triển kinh tế tư
nhân ở Việt Nam








- 4 -

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƯ NHÂN Ở TRUNG QUỐC

1.1. KHÁI LUẬN VỀ KINH TẾ TƢ NHÂN
1.1.1 Sở hữu tƣ nhân và kinh tế tƣ nhân
Để tồn tại và phát triển, con người phải không ngừng chiếm hữu những
của cải của tự nhiên nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình. Chiếm hữu hay
sản xuất trước hết chính là mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên. Trình
độ phát triển của chiếm hữu thể hiện ở cách thức, phương tiện và kết quả mà nó
thu được, nói lên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Song sự chiếm hữu hay sản xuất không thể là một hành vi cá nhân. Nói
cách khác, trong quá trình chiếm hữu giới tự nhiên, con người phải có những
quan hệ với nhau – tức là phải có những quan hệ xã hội mà thể hiện cơ bản là sự
thừa nhận lẫn nhau về những cơ sở và kết quả của sự chiếm hữu. Đó chính là sở
hữu.
Vậy, sở hữu là hình thức xã hội của quá trình chiếm hữu của cải vật chất,
trong đó thể hiện quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất.
Trong thực tế lịch sử, quan hệ sở hữu hình thành và từng bước hoàn thiện, khi
đạt đến độ ổn định và phổ biến thì trở thành những quy ước xã hội (thành văn
hoặc không thành văn), được cộng đồng xã hội chính thức thừa nhận. Khi các
nhà nước ra đời, nhằm ổn định xã hội, các nhà nước thể chế hoá quyền sở hữu
bằng pháp luật – chế độ sở hữu được thiết lập.
Cũng vì thế, sở hữu bao hàm những nội dung kinh tế xác định và đồng
thời, cũng xác định về mặt pháp lý. Quyền sở hữu xác định quyền năng của chủ
thể sở hữu trong việc sử dụng, định đoạt và hưởng lợi từ việc khai thác các đối

- 5 -
tượng sở hữu – các điều kiện của sản xuất, trong đó quan trọng nhất là các tư
liệu sản xuất.

Sở hữu là một phạm trù lịch sử. Sự phát triển của các hình thức sở hữu là
do sự phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Hình thức sở hữu nguyên thuỷ
trong lịch sử loài người là sở hữu của các cộng đồng người – sở hữu tập thể. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất đã đưa đến sự phá vỡ hình thức sở hữu tập thể
sơ khai và hình thành sở hữu tư nhân.
Sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu trong đó, một cá nhân có quyền hợp
pháp trong việc chiếm hữu, sử dụng, hưởng lợi và định đoạt các điều kiện của
sản xuất – các tư liệu sản xuất. Sở hữu tư nhân đối với các tư liệu sản xuất là cơ
sở làm hình thành kinh tế tư nhân.
Kinh tế tư nhân có thể hiểu là các hoạt động kinh tế của các chủ thể trong
xã hội dựa trên quyền sở hữu của tư nhân về các điều kiện chủ yếu của sản xuất
và do đó, quyền của tư nhân trong việc quyết định cách thức tổ chức sản xuất
cũng như chi phối những kết quả của quá trình này.
Hình thức đầu tiên của kinh tế tư nhân là hoạt động kinh tế của các cá
nhân và gia đình họ – hình thức kinh tế cá thể phổ biến trong các nền kinh tế của
xã hội phong kiến và trước đó. Đáng chú ý là trong điều kiện của xã hội phong
kiến, trong khi các hình thức sở hữu phong kiến – sở hữu của vua quan phong
kiến và địa chủ, lãnh chúa chiếm địa vị thống trị và chi phối xã hội, vẫn tồn tại
loại hình sở hữu tư nhân của nông dân và thợ thủ công về công cụ, ruộng đất và
tài sản, đây là cơ sở cho sự tồn tại của kinh tế tiểu nông và nghề thủ công độc
lập. Trong một thời gian dài, kinh tế tư hữu nhỏ hoạt động theo phương thức tự
cung tự cấp.
Cùng với sự phát triển của sở hữu tư nhân (kinh tế tư nhân) và phân công
lao động xã hội, kinh tế hàng hoá xuất hiện. Theo quan niệm Mác – xít, sở hữu
tư nhân và phân công lao động chính là tiền đề của kinh tế hàng hoá. Đến lượt
nó, sự phát triển của kinh tế hàng hoá lại thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của

- 6 -
phân công lao động xã hội và sở hữu tư nhân. Hay nói khác đi, mỗi bước phát
triển của kinh tế hàng hoá, phân công lao động lại được đánh dấu bởi một trình

độ cao hơn và sở hữu tư nhân cũng như kinh tế tư nhân cũng có những bước
phát triển tương ứng.
Kinh tế hàng hoá giản đơn của người tiểu chủ, dưới tác động của các quy
luật thị trường, đặc biệt là bởi quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản chủ nghĩa,
đã phát triển thành kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Nền tảng của nền kinh tế
hàng hoá tư bản chủ nghĩa là sở hữu của tư bản tư nhân đối với tư liệu sản xuất.
Khác với kinh tế tư nhân của những người tiểu chủ, kinh tế tư nhân tư bản chủ
nghĩa hoạt động trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê. Chủ nghĩa tư bản tư nhân
đạt được trình độ phát triển cao nhất trong thế kỷ XIX.
Tuy nhiên, sự thống trị của kinh tế tư bản tư nhân trong chủ nghĩa tư bản
không đồng nghĩa với việc thủ tiêu hoàn toàn sở hữu tư nhân cá thể và các hình
thức hoạt động của kinh tế tiểu chủ. Trái lại, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản,
vẫn tồn tại đông đảo những ngời tư hữu nhỏ và kinh tế tư nhân trực tiếp sản xuất
và quản lý sản xuất. Mặt khác, không giống như một số tiên đoán của các nhà
kinh tế Mác-xít, kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa không phải là hình thức cuối
cùng của sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân. Sự phát triển của lực lượng sản
xuất, của nền kinh tế thị trờng đã từng bước chuyển hoá nền kinh tế do tư bản tư
nhân thống trị thành nền kinh tế hỗn hợp trong thế giới hiện đại. Ngày nay, ở các
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhất, cùng với sở hữu của tư bản tư nhân,
nền kinh tế còn được cấu thành bởi khu vực kinh tế nhà nước (trên cơ sở sở hữu
nhà nước), kinh tế tiểu chủ, kinh tế hợp tác xã và nhiều hình thức kinh tế hỗn
hợp khác.
Một sự thật khác cũng chứng tỏ sức sống của kinh tế tư nhân - đó là trư-
ờng hợp các nền kinh tế trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Mở đầu bằng Cách
mạng tháng Mười Nga và sự xác lập của Liên bang Xô-viết – nhà nước xã hội
chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, chủ nghĩa xã hội đã nhanh chóng phát triển

- 7 -
thành một hệ thống kinh tế sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Hệ thống xã hội
chủ nghĩa hình thành trên cơ sở thủ tiêu sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và mọi

loại hình kinh tế tư nhân, thiết lập sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất và phát
triển như một hệ thống đối lập với chủ nghĩa tư bản. Mặc dù đã đạt được những
thành tựu kinh tế nổi bật, song hệ thống kinh tế dựa trên nền tảng của chế độ
công hữu đã bộc lộ rõ những hạn chế của nó ở sự trì trệ, kém hiệu quả và kém
năng động. Thập kỷ cuối của thế kỷ hai mươi đã chứng kiến sự sụp đổ của hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới sau 70 năm tồn tại, và bằng những cách thức
khác nhau, các quốc gia trong hệ thống này đã chuyển sang kinh tế thị trường,
khôi phục sự tồn tại của kinh tế tư nhân.
Như đã nói trên kia, kinh tế tư nhân gắn liền với loại hình hoạt động kinh
tế của những chủ thể nắm quyền sở hữu tư nhân về các điều kiện sản xuất. Như-
ng sự phát triển lâu dài, trải qua nhiều thời kỳ lịch sử rất khác nhau, với những
vai trò rất khác nhau đã dẫn đến những cách hiểu và đánh giá khác nhau về kinh
tế tư nhân.
Tại các nền kinh tế phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, mọi hoạt
động kinh tế không thuộc khu vực kinh tế nhà nước đều được coi là kinh tế tư
nhân. Quan niệm như thế về khu vực kinh tế tư nhân là một quan niệm rộng rãi
nhất. Quan niệm này phù hợp với một thực tế là: từ các công ty tư nhân đến các
hợp tác xã, từ công ty hợp doanh của một nhóm người đến các công ty cổ phần
xuyên quốc gia, chúng đều là những đơn vị kinh doanh không phải của nhà n-
ước, và ở đâu, bao giờ cũng vậy, người ra quyết định cho hoạt động của doanh
nghiệp cũng vẫn là tư nhân hoặc đại diện cho những cá nhân khác. Thêm vào
đó, việc xếp mọi loại hình kinh tế không do nhà nước tiến hành vào khu vực
kinh tế tư nhân giúp cho nhà nước có được cách quản lý thống nhất, không phân
biệt đối với những hoạt động kinh tế này.
Tại các nền kinh tế phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa trước đây
và đang chuyển đổi hiện nay, cách hiểu về kinh tế tư nhân rất khác với cách hiểu

- 8 -
trên đây. Những nghiên cứu của Mác về chủ nghĩa tư bản đã vạch ra bản chất ăn
bám, bóc lột của tư bản tư nhân và do đó, chủ nghĩa tư bản cần được thay thế

bằng chủ nghĩa xã hội. Sau Mác, Lê-nin cũng lại cho rằng, kinh tế hàng hoá nhỏ
của người tiểu nông, tiểu chủ hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản và do
đó chủ nghĩa xã hội cần cải tạo họ trở thành những người lao động tập thể. Tuân
theo những di huấn này, mọi loại hình kinh tế tư nhân bị kỳ thị và đã bị cải tạo
triệt để trong các quốc gia chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa. Trước
thời điểm hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ, ở các quốc gia này đã diễn ra quá
trình bùng phát của kinh tế tư nhân dới nhiều hình thức. Trong khi cơ cấu của hệ
thống kinh tế công cộng chưa bị phân giải, nền kinh tế là một hệ thống nhiều
thành phần và nhà nước giữ một thái độ phân biệt đáng kể giữa chúng, theo một
trình tự ưu tiên mà kinh tư nhân theo đúng nghĩa của nó xếp ở bậc cuối cùng.
Ngày nay, ở các quốc gia này, với những mức độ khác nhau, các loại hình kinh
tế phi nhà nước đang có xu hướng được xếp chung vào khu vực kinh tế tư nhân
theo một tiêu chí thống nhất.
Trong luận văn này, Kinh tế tư nhân hiểu theo nghĩa hẹp: Bao gồm các
đối tượng không thuộc sở hữu nhà nước, loại trừ các doanh nghiệp tập thể và các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1.1.2 Đặc điểm của kinh tế tƣ nhân
Nếu so với kinh tế nhà nước hoặc các loại hình kinh tế tập thể khác, kinh tế
tư nhân có một số đặc điểm nổi bật. Quan trọng nhất là:
- Kinh tế tư nhân có quan hệ quyền tài sản rõ ràng, doanh nghiệp có toàn bộ
quyền tài sản pháp nhân, trở thành thực thể pháp nhân được hưởng quyền lợi
dân sự và gánh vác trách nhiệm dân sự.
- Doanh nghiệp sử dụng toàn bộ tài sản pháp nhân, dựa theo pháp luật mà tự
chủ kinh doanh, tự chịu lỗ lãi, nộp thuế theo quy định, chịu trách nhiệm đối với
sự bảo tồn và gia tăng giá trị vốn đầu tư của những nhà đầu tư

- 9 -
- Người đầu tư được hưởng quyền hạn, lợi ích của người sở hữu theo lượng
vốn của họ đầu tư vào doanh nghiệp tức là họ được hưởng lợi nhuận theo vốn ,
được tham gia quyết định những quyết sách quan trọng và bầu cử những người

quản lý doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp bị phá sản, người đầu tư chỉ chịu trách
nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp, tuỳ theo lượng vốn đầu
tư của mình vào doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp căn cứ vào tình hình cung cầu của thị trường mà tổ chức sản
xuất kinh doanh nhằm mục đích nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh
doanh. Chính phủ không trực tiếp can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp cạnh tranh và tự đào thải trong thị trường, các doanh
nghiệp thua lỗ kéo dài, nợ vượt vốn sẽ cho phá sản theo luật định.
- Thể chế tổ chức quản lý doanh nghiệp khoa học, hình thành cơ chế kinh
doanh kết hợp giữa khuyến khích và giám sát chế ước lẫn nhau.
Có thể kết luận về đặc điểm của kinh tế tư nhân như sau: Quyền tài sản rõ
ràng, quyền lợi và trách nhiệm phân minh, chính quyền và doanh nghiệp tách
rời, quản lý khoa học.
Từ những đặc điểm trên cũng cho thấy ưu, nhược điểm của kinh tế tư nhân:
+ Ưu điểm:
Trong khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp phải sử dụng vốn của chính
mình để huy động những nguồn lực khác và sau đó tự tiến hành sản xuất kinh
doanh. Các doanh nghiệp tư nhân luôn phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Đó là
động lực để doanh nghiệp tư nhân sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả nhất.
Để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp tư nhân phải khai thác và sử dụng có hiệu
quả mọi nguồn lực xã hội nhằm thoả mãn hơn nữa những đòi hỏi khắt khe của
thị trường, điều mà doanh nghiệp nhà nước chưa chắc đã làm tốt được. Như
trình bày trên kia, lịch sử phát triển qua các thời đại, các mô hình kinh tế – xã
hội đã chứng tỏ sức sống và những ưu điểm của kinh tế tư nhân.
+ Nhược điểm:

- 10 -
Kinh tế tư nhân hoạt động trên cơ sở những nguồn lực do một người làm chủ.
Do vậy, trong điều kiện không tìm được những hỗ trợ từ các thể chế và chủ thể
khác, kinh tế tư nhân thường gặp khó khăn về vốn, về phát triển công nghệ và về

giải quyết những vấn đề liên quan đến cộng đồng trong kinh doanh. Mặt khác,
do các doanh nghiệp tư nhân xem lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu nên đôi khi
dẫn đến những xung đột thị trường, cạnh tranh không lành mạnh. Hiện tượng
các doanh nghiệp tư nhân né tránh những kiểm soát của Nhà nước, trốn thuế …
không phải là không có. Một điều nữa mà doanh nghiệp tư nhân làm chưa thật
tốt là việc đảm bảo quyền lợi và an toàn của người lao động.
Tuy có một số nhược điểm nêu trên nhưng vai trò của kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế thị trường là không thể phủ nhận.
1.1.3 Vai trò của kinh tế tƣ nhân trong nền kinh tế thị trƣờng
Trong nền kinh tế thị trường, sự tăng trưởng và phát triển của khu vực kinh tế tư
nhân và sự phát triển của cộng đồng gắn liền với nhau trong mối quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển sẽ đem lại thu nhập cao hơn,
y tế và giáo dục tốt hơn cho người dân trong cộng đồng. Mặt khác, đối với các
doanh nghiệp, thu nhập cao hơn có nghĩa là thị trường rộng lớn hơn, sức khoẻ và
giáo dục tốt hơn thì lực lượng lao động có năng suất cao hơn và năng suất cao
hơn sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế
thị trường được thể hiện trên nhiều khía cạnh của đời sống xã hội như phát triển
kinh tế, phát triển xã hội và có ảnh hưởng tích cực đến khu vực kinh tế công.
* Đối với phát triển kinh tế:
Mục tiêu kinh tế của phát triển là nhằm tạo cho người dân có mức thu nhập cao
hơn thông qua sự tăng trưởng nhanh trong tổng sản phẩm quốc nội. Trong nền
kinh tế thị trường, điều này có thể đạt được cùng với nỗ lực của khu vực công và
khu vực tư nhân.
Thứ nhất, một trong những đóng góp quan trọng của khu vực tư nhân đối
với phát triển kinh tế là khả năng huy động vốn cho việc sản xuất các hàng hoá

- 11 -
và dịch vụ. Nguồn vốn là yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất. Ở các
nước đang phát triển nguồn vốn rất khan hiếm, đặc biệt với các nền kinh tế
chuyển đổi như Trung Quốc và Việt Nam thì nguồn vốn càng khan hiếm hơn khi

các tổ chức tài chính chưa phát triển và không có khả năng huy động tiền tiết
kiệm từ dân cư, cũng như hạn chế của ngân sách trong việc phân bổ vốn cho đầu
tư. Do đó, khả năng huy động vốn của khu vực kinh tế tư nhân trở nên rất quan
trọng. Nếu các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân được đặt trong một
môi trường kinh doanh bình đẳng và được tạo cơ hội thuận lợi thì các chủ doanh
nghiệp có thể tự tin mạo hiểm với khoản tiền tiết kiệm quý giá của bản thân họ,
thậm chí của họ hàng và bạn bè họ để theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Môi trường
kinh doanh bình đẳng sẽ khiến các chủ doanh nghiệp cảm thấy có thể kiểm soát
ở mức độ nào đó các hoạt động kinh doanh của họ. Tuy nhiên, do hệ thống tài
chính kém phát triển nên các khoản tiền tiết kiệm có thể trở thành vốn sẵn có
của các doanh nghiệp nhưng lại tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nằm
ngoài các thể chế tài chính chính thức.
Thứ hai, phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo ra các cơ hội việc làm. Một
kết quả của việc huy động và hình thành vốn của các doanh nghiệp tư nhân là
tạo ra các cơ hội việc làm cho các thành viên khác trong cộng đồng. Việc làm sẽ
mang lại thu nhập cho những người lao động và nâng cao mức sống của gia đình
họ. Chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân khác với các nhà quản lý
các doanh nghiệp nhà nước ở chỗ họ có quyền quyết định lớn hơn trong việc
thuê mướn lao động. Họ có quyền quyết định số lượng lao động, yêu cầu những
kỹ năng cần thiết của người lao động trong doanh nghiệp của mình. Vì vậy,
không những các doanh nhân hoàn toàn có thể tăng số lượng lao động làm thuê
theo ý mình mà còn có thể nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực
trong cộng đồng.
Thứ ba, phát triển kinh tế tư nhân góp phần ứng dụng và quảng bá công
nghệ. Một yếu tố quan trọng để tạo được hiệu quả trong sản xuất là công nghệ

- 12 -
phù hợp. Thực tế cho thấy môi trường cạnh tranh khắc nghiệt và bản chất không
bao giờ tự hài lòng của các chủ doanh nghiệp thúc đẩy họ tìm kiếm các công
nghệ phù hợp hơn cho quá trình sản xuất của các doanh nghiệp. Sự phù hợp về

công nghệ không phải lúc nào cũng hàm ý là công nghệ tiên tiến nhất mà ở đây
là công nghệ phù hợp với những điều kiện của quá trình sản xuất xét về mặt cấu
thành chi phí và các nguyên vật liệu đầu vào sẵn có. Nếu đem so sánh với các
doanh nghiệp nhà nước thì rõ ràng các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế
tư nhân phải đối mặt trực tiếp với những chi phí thực tế về sản xuất, lao động,
vốn, nguyên vật liệu. Quá trình tìm kiếm công nghệ phù hợp của một doanh
nghiệp góp phần vào việc phân bố một cách có hiệu quả nguồn lực khan hiếm
trong nền kinh tế.
Thứ tư, phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo nguồn thu thuế cho Chính
phủ. Thông qua hệ thống thuế, các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả sẽ đóng
góp vào tăng nguồn thu cho ngân sách. Các khoản đóng góp này giúp duy trì bộ
máy hoạt động của Chính phủ, là nguồn quan trọng để xây dựng phần lớn các cơ
sở hạ tầng kinh tế xã hội cần thiết. Để đảm bảo vững chắc nguồn thu này, điều
quan trọng là cơ cấu thuế, quy trình thu thuế, quá trình kiểm toán cần được phát
triển phù hợp sao cho việc trốn thuế và các tác nhân xấu ảnh hưởng tới sự tăng
trưởng và hiệu quả được tối thiểu hoá.
* Đối với phát triển xã hội
Xét về tổng thể, mục tiêu của phát triển xã hội là tạo nên sự công bằng về cơ
hội cho tất cả các thành viên trong xã hội bất kể vị thế kinh tế và xã hội của họ
thông qua các dự án xã hội. Những dự án này bao gồm giáo dục và đào tạo, sức
khoẻ, nhà ở, trợ giúp cho sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Về trách nhiệm xã hội, nhiều công ty thuộc khu vực kinh tế tư nhân xem
trách nhiệm xã hội như là trách nhiệm của họ, hành động với tư cách như những
công dân tốt trong xã hội, nhằm đảm bảo rằng những mối quan tâm của xã hội
như môi trường, an toàn của khách hàng… Tại một số quốc gia, các doanh

- 13 -
nghiệp tư nhân thường tuân thủ tốt hơn những quy định về môi trường so với
các doanh nghiệp nhà nước.
Về việc thực hiện các dự án xã hội, ở nhiều quốc gia cho thấy một thực tế là

các dự án xã hội thành công thường là các dự án do các tổ chức phi chính phủ
thuộc khu vực tư nhân thực hiện, chứ không phải là các dự án do các cơ quan
thuộc chính phủ trực tiếp thực hiện. Có thể thấy một thực tế là các dự án cho các
doanh nghiệp nhỏ vay vốn do các cơ quan thuộc chính phủ thực hiện có tỷ lệ
hoàn trả rất thấp, trong khi đó tỷ lệ hoàn trả này lại tăng lên đáng kể khi chúng
được giao cho các tổ chức phi chính phủ của khu vực tư nhân quản lý thực hiện
thông qua các hợp đồng. Lý do là khi các tổ chức thuộc chính phủ tổ chức thực
hiện thì những người vay vốn thường có ấn tượng rằng họ không thực sự cần
thiết phải hoàn trả lại những khoản vốn này vì đây là tiền chính phủ, mà tiền
chính phủ là tiền của mọi người. Tuy nhiên, vấn đề lại hoàn toàn khác khi việc
thực hiện dự án do các tổ chức phi chính phủ thuộc khu vực tư nhân thực hiện.
Người vay cảm thấy mục đích thực sự của dự án và phải đảm bảo chắc chắn
rằng những khoản vay của họ sẽ được hoàn trả. Hơn nữa, người đi vay có thể có
cảm giác nghĩa vụ do các tổ chức phi chính phủ tạo ra cho họ, những cảm giác
mà những nhân viên thuộc chính phủ có thể đã không chỉ rõ cho những người
vay thấy.
* Đối với khu vực kinh tế công
Mặc dù khu vực tư nhân và khu vực công cộng đều có vai trò riêng trong
nền kinh tế thị trường, tuy nhiên có rất nhiều công cụ nhằm nâng cao hiệu quả
trong hoạt động cung cấp dịch vụ công cộng có nguồn gốc ban đầu từ khu vực
kinh tế tư nhân.
Tại những quốc gia có sự phối hợp giữa khu vực tư nhân và khu vực công
cộng trong việc xây dựng kế hoạch, chính sách phát triển, các viên chức chính
phủ thừa nhận rằng các đồng nghiệp ở khu vực tư nhân đã tạo ra những suy nghĩ
khách quan, tiến bộ, mới mẻ hơn khi giải quyết công việc. Về mặt bản chất, các

- 14 -
viên chức chính phủ thường có xu hướng tương đối thụ động và bảo thủ hơn so
với các đồng nghiệp năng động, sáng tạo và cầu tiến hơn ở khu vực tư nhân vốn
đã quen với môi trường cạnh tranh bên ngoài. Các viên chức chính phủ và các

doanh nhân làm việc cùng nhau sẽ tạo ra những chính sách, kế hoạch mang tính
thực tế hơn, tập trung hơn. Ở phần lớn các nền kinh tế thị trường, doanh nhân
thường được mời vào một vị trí tạm thời ở khu vực công, từ đó họ có thể có cơ
hội truyền tải phương pháp làm việc, cách tổ chức sắp xếp công việc cho các
nhân viên chính phủ.
Một trong những khó khăn mà các nhà kế hoạch và hoạch định chính sách
trong nền kinh tế thị trường gặp phải là việc dự báo tác động và kết quả của các
chính sách vì họ phải dựa trên các phản ứng của khu vực tư nhân đối với các
chính sách này. Bằng cách đưa khu vực tư nhân tham gia một cách chủ động vào
quá trình hoạch định và xây dựng chính sách, vân đề khó khăn này sẽ dược tối
thiểu hoá. Nhờ có sự tham gia của các đại diện khu vực kinh tế tư nhân, chúng ta
có thể hình dung được tác động có thể có của một chính sách nhất dịnh xét dưới
góc độ phản ứng khu vực doanh nghiệp. Khu vực tư nhân có thể cung cấp những
chỉ dẫn trong việc lựa chọn chính sách, và cũng nhờ có khu vực này mà chính
sách mang tính kịp thời và cập nhật hơn. Tham gia của khu vực tư nhân vào việc
xây dựng chính sách và giám sát thực hiện cũng đảm bảo việc đạt được các mục
tiêu của chính sách đề ra.
Việc tham gia hiệu quả của khu vực tư nhân trong việc xây dựng chính sách
đòi hỏi khu vực tư nhân phải được tổ chức sao cho những vấn đề cần phải có
chính sách mới hay cần phải có sự thay đổi chính sách có thể được thảo luận
một cách tự do, độc lập ở khu vực tư nhân và họ có quyền tự do bầu cử cho
những người đại diện của họ vào các cơ quan xây dựng chính sách. Sự thành
công trong việc tham gia của khu vực tư nhân phụ thuộc vào việc các tổ chức tư
nhân này được tổ chức hiệu quả và vững chắc như thế nào. Kinh nghiệm ở các
nước cho thấy trình độ giáo dục của chủ doanh nghiệp và quy mô doanh nghiệp

- 15 -
không phải là những nhân tố quan trọng đảm bảo tham gia có hiệu quả với tư
cách là một đối tác của chính phủ trong hoạt động kế hoạch, xây dựng chính
sách và giám sát thực hiện.

Một nhân tố quan trọng khác là sự sẵn sàng của các viên chức chính phủ
trong việc chia sẻ trách nhiệm với khu vực tư nhân trong quá trình ra quyết định
và cung cấp những thông tin cần thiết cho quá trình này. Chính phủ phải thể hiện
sự sẵn sàng của mình cho khu vực tư nhân thấy và từ đó các tổ chức của khu vực
tư nhân có thể chuẩn bị tinh thần và nhiệt tình tham gia với tư cách như những
đối tác ngang bằng trong quá trình hoạch định chính sách.
1.2 KINH TẾ TRUNG QUỐC TRƢỚC CẢI CÁCH VÀ YÊU CẦU BỨC
THIẾT CỦA SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN
1.2.1 Khái quát về nền kinh tế Trung Quốc trƣớc cải cách
Đặc điểm của kinh tế Trung Quốc trước cải cách là tăng trưởng không đi
đôi với phát triển. Mặc dù tỉ lệ tăng trưởng thời kỳ này khá cao, khoảng
8%/năm nhưng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tính theo đầu người là 52 USD
(năm 1952) và tăng lên 210 USD (năm 1975), vẫn chưa vượt qua giới hạn 265
USD của những quốc gia có thu nhập thấp. Hơn nữa tốc độ tăng trưởng cao
không được duy trì liên tục mà giảm dần theo thời gian: tốc độ tăng trưởng công
nghiệp bình quân hàng năm thời kỳ phục hồi kinh tế (1949 – 1952) là 34,8%,
thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953 – 1957) giảm còn 18% và sau kế
hoạch 5 năm lần thứ hai còn 10%. Lý do được giải thích bởi xuất phát điểm thấp
của nền kinh tế vừa trải qua chiến tranh. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, tăng
trưởng ở Trung Quốc đạt được những con số như vậy có thể do những phương
thức thống kê chưa chuẩn xác (chỉ tính chỉ số các sản phẩm đã sản xuất chứ
không phải số sản phẩm đã bán ra). Mặt khác, trong mức tăng trưởng đó có sự
đóng góp đa số từ sản xuất công nghiệp (11%/năm) mà ngành này được trợ cấp
chủ yếu từ nguồn ngân sách Nhà nước vốn đang rất dồi dào.

- 16 -
Mô hình “Xô viết” mà Trung Quốc khuôn đúc nguyên xi của Liên Xô sử
dụng một hệ thống kế hoạch lớn bao phủ toàn bộ nền kinh tế. Mục tiêu bức thiết
sau khi giải phóng đất nước là thực hiện công nghiệp hoá. Mọi nguồn lực trong
xã hội từ con người tới tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất đều đổ vào ngành

sản xuất công nghiệp, trước hết là công nghiệp gang thép. Khẩu hiệu “vượt
Nhật, đuổi kịp Mỹ” được tuyên truyền sâu rộng khắp nơi, thôi thúc guồng máy
công nghiệp làm việc không ngừng nghỉ. Người người luyện gang thép, nhà nhà
luyện gang thép và tiến tới toàn dân luyện gang thép. Kết quả là đến cuối năm
1959, sản lượng gang thép toàn quốc đã đạt đến 13,87 triệu tấn, giá trị tích luỹ
xã hội lên tới 43,9% và do vậy chỉ tiêu năm 1960 đã được nâng lên 18,4 triệu
tấn. Tuy nhiên trong tổng khối lượng gang thép khổng lồ này có tới hàng triệu
tấn thép không đủ tiêu chuẩn và do đó không thể sử dụng được, gây ra sự lãng
phí vô cùng to lớn về sức người và của. Hơn thế nữa, việc tập trung quá mức
vào luyện gang thép khiến nông nghiệp bị bỏ bê, sản lượng lương thực liên tục
bị sụt giảm dẫn đến nạn đói xảy ra ngay sau đó. Năm 1958, sản lượng lương
thực đạt 200 triệu tấn, đến năm 1959 giảm còn 170 triệu tấn và năm 1960 chỉ
còn 143,5 triệu tấn. Nền kinh tế trở nên rệu rã, phát triển không đồng đều. Nếu
trong công nghiệp, tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt 11% thì ngành nông nghiệp
và dịch vụ lần lượt chỉ đạt 3,2% và 4,2%. Mặt khác, công cuộc công nghiệp hoá
lại lấy phát triển công nghiệp nặng làm đầu và cuốn mọi nguồn lực vào sản xuất
tư liệu sản xuất, trong khi đó tư liệu tiêu dùng phục vụ đời sống nhân dân khan
hiếm trầm trọng khiến cho người dân vốn đã thiếu thốn nay càng khó khăn hơn.
Như vậy, với “Đại nhảy vọt”, “Ba ngọn cờ hồng”, “Toàn dân làm gang
thép”, “Công xã nhân dân”… đã đưa Trung Quốc vào thảm hoạ lạc hậu, đói
nghèo, toàn bộ nền kinh tế trở nên trì trệ, méo mó.
1.2.2 Kinh tế tƣ nhân ở Trung Quốc trƣớc cải cách
Sau ngày thành lập nước, năm 1949, Trung Quốc nhanh chóng hình thành
khu vực kinh tế nhà nước lớn mạnh với sự giúp đỡ của Liên Xô lúc bấy giờ. Vào

- 17 -
năm 1949, doanh nghiệp tư nhân chiếm 63,3% sản lượng công nghiệp nhưng
đến năm 1952, tỷ lệ này đã giảm xuống còn 39%. Trong thời gian đó, chính phủ
kiểm soát khu vực tư nhân thông qua biện pháp quốc hữu hoá. Đến năm 1952,
56% sản phẩm đầu ra của khu vực tư nhân là theo đặt hàng của nhà nước hay

được tiêu thụ thông qua nhà nước. Bên cạnh đó, một vài doanh nghiệp tư nhân
cũng chuyển sang hình thức công tư hợp doanh. Năm 1952, doanh nghiệp tư
nhân chỉ còn chiếm 39% trong tổng sản lượng công nghiệp (giảm 24,3% so với
năm 1949), sản lượng của khu vực tư nhân chiếm 5,7% tổng sản lượng quốc
dân. Năm 1953, trong Đường lối chung cho thời kỳ quá độ, Đảng Cộng sản
Trung Quốc đã đưa ra một lịch trình hoàn thành việc cải tạo xã hội chủ nghĩa
các doanh nghiệp tư nhân và hộ thủ công trong vòng 15 năm, đánh dấu sự “biến
mất dần dần” của khu vực tư nhân trong suốt thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất (1953 – 1957) và lần thứ hai (1957 – 1961).
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất được gọi là giai đoạn cải tạo xã hội chủ
nghĩa, sử dụng phương pháp thiết lập hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể để thực thi các mục tiêu kinh tế. Trong nông nghiệp, Trung Quốc
tiến hành xây dựng các “hợp tác xã nông nghiệp sơ cấp” và “hợp tác xã nông
nghiệp cao cấp” nhằm hoàn thiện chế độ sở hữu tập thể và xoá bỏ chế độ tư hữu
về ruộng đất. Trong công nghiệp và thương nghiệp, các “tổ sản xuất” và “hợp
tác xã thử nghiệm” ra đời với phương thức đóng góp, hoạt động và phân phối
gần như các Hợp tác xã nông nghiệp ở nông thôn. Đối với thương nghiệp tư bản
tư nhân, Trung Quốc mở rộng hình thức công ty hợp doanh, chuyển đổi kinh tế
tư bản tư nhân sang kinh tế Nhà nước. Khu vực Nhà nước và tập thể lấp dần
không gian kinh tế của khu vực tư nhân.
Tiếp đó, với những thành công bước đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất,
kế hoạch 5 năm lần thứ hai diễn ra từ 1957 – 1961 đã đẩy mạnh hơn nữa cuộc
xoá sổ kinh tế tư nhân. Phong trào toàn dân luyện gang thép đã huy động toàn
bộ sức người, sức của vào các lò luyện gang thép. Ở nông thôn, các hợp tác xã

- 18 -
được tập trung thành các “công xã nhân dân” với quy mô lớn hơn gấp nhiều lần
(khoảng 5000 hộ), chiếm 91,1% số dân cả nước, thủ tiêu hoàn toàn đơn vị kinh
tế gia đình. Ở thành thị, quá trình “quốc hữu hoá” về cơ bản đã hoàn thành việc
cải tạo toàn bộ doanh nghiệp tư nhân thành doanh nghiệp nhà nước hoặc tập thể

và xây dựng hàng loạt xí nghiệp quốc doanh theo mô hình “to, dày, dài” (sản
lượng, quy mô và kế hoạch). Các Hợp tác xã thủ công nghiệp được quá độ lên
chế độ sở hữu toàn dân. Sở hữu tư nhân bị xóa bỏ.
Bước sang giai đoạn 1961 – 1965, Trung Quốc phải tiến hành một loạt
các biện pháp điều chỉnh kinh tế để khắc phục hậu quả của cuộc “Đại nhảy vọt”.
Tuy vẫn duy trì công xã nhân dân nhưng lúc này quyền sở hữu đất đai đã được
giao cho các xã, tổ, đội sản xuất, một số tư liệu được giao lại cho nông dân như
các thửa ruộng phần trăm, nhà ở, đất vườn bị trưng thu trước đây, kinh tế phụ
gia đình được hồi phục. Chính quyển Trung ương đã hé mở cánh cửa cho các
doanh nghiệp cá thể quy mô nhỏ được hoạt động, bao gồm cả các hộ thủ công.
Tuy nhiên, giai đoạn tồn tại thứ hai này diễn ra khá ngắn ngủi vì cuộc
“Đại cách mạng văn hóa” bùng nổ từ năm 1966 đến 1978 đã triệt tiêu hoàn toàn
khu vực kinh tế tư nhân. Cơ chế kinh tế của Trung Quốc lại quay trở về thời kỳ
của “Đại nhảy vọt”, các biện pháp kinh tế được tiến hành chặt chẽ hơn, nền kinh
tế được tổ chức kiểu quân sự nghiêm ngặt và chủ nghĩa bình quân được áp dụng
triệt để. Kinh tế tư nhân bị xoá bỏ hoàn toàn.
1.2.3 Yêu cầu bức thiết của sự phát triển kinh tế tƣ nhân
* Bối cảnh quốc tế:
Cuối những năm 80s, thế giới đã chứng kiến sự sụp đổ của Liên Xô và hệ
thống các nước XHCN ở Đông Âu, kéo theo đó là một loạt những cuộc khủng
hoảng trầm trọng và kéo dài. Trước tình hình đó, yêu cầu đặt ra cấp bách đối với
các nước XHCN là phải cải tổ cơ bản toàn bộ nền kinh tế.
Qua hơn 10 năm thực hiện cải cách (1989 – 2000), không chỉ Liên Xô
(cũ) mà những quốc gia Đông Âu đều lần lượt bước ra khỏi “vũng lầy” suy thoái

- 19 -
và đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Trong khu vực này,
GDP tính theo đầu người năm 1999 (tính theo PPP) đạt bình quân 10.009 USD
trong đó Ba Lan có tốc độ tăng trưởng cao nhất vào năm 1995: 7%, sau đó là
6,8% vào năm 1996 và 5,2% vào năm 2000 với mức GDP bình quân đầu người

là 8.832 USD. Hungary có mức tăng trưởng thấp hơn song luôn giữ ổn định ở
mức 4% cùng với GDP bình quân đầu người tương đối cao: 11.273 USD. Bên
cạnh đó, các nước như Slovenia, Slovakia, CH Sec … cũng giữ được vận tốc
tăng trưởng trung bình 2%/năm và GDP bình quân đầu người rất cao: xấp xỉ
13.000 USD
1
. Đạt được những thành công đó, ngoài những nguyên nhân khách
quan như: tình hình phát triển khá thuận lợi của kinh tế thế giới, giá dầu mỏ tăng
mang lợi cho nước Nga… còn phải kể đến yếu tố chủ quan bên trong mà quan
trọng hơn cả là phong trào tư nhân hoá diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp khu vực
này.
Ở Nga, nổi bật nhất là hoạt động tư nhân hoá đất đai nông nghiệp và bất
động sản được thực hiện trên nền tảng các điều kiện bổ sung của Hiến pháp Liên
bang Nga. Tiếp theo đó, Nga tiến hành cải cách nông nghiệp qua 3 giai đoạn,
giai đoạn đầu tiên và trọng yếu nhất là” thực hiện tư nhân hoá, cùng với tự do
hoá giá cả, chuyển sang thị trường, công nhận về mặt hình thức các xí nghiệp
nông nghiệp và tạo lập khu vực trang trại tư nhân”.
Ở khu vực Đông Âu, phong trào tư nhân hoá còn diễn ra sôi nổi và trên
quy mô rộng lớn hơn nhiều. Chính phủ các nước chủ trương “thiết lập kinh tế thị
trường dựa trên chế độ sở hữu tư nhân” (trước đó, khu vực kinh tế tư nhân hầu
như không tồn tại). Sau khi chuyển đổi hệ thống từ kế hoạch hoá tập trung sang
kinh tế thị trường, tất cả các nước Đông Âu cùng nhất loạt mở rộng khu vực tư
nhân qua 2 con đường chủ yếu: xây dựng mới song song với tư nhân hoá các
doanh nghiệp sở hữu Nhà nước. Ba Lan là một trong hai nước đầu tiên (cùng
Tiệp Khắc) khởi xướng phong trào bằng “liệu pháp shock” và sau đó CH Séc,

1
“Kinh tế Đông Âu: 10 năm nhìn lại”, tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 3(71)2001, tr18.

- 20 -

Estonia cũng sử dụng phương pháp này. Cùng với Ba Lan, Hungary thực hiện tư
nhân hoá bằng cách bán dần từng xí nghiệp cho các ông chủ trong nước hoặc
nước ngoài (biện pháp tuần tự). Tuy nhiên, các nước dù tiến hành dưới hình thức
nào thì cũng đi tới kết quả thu hẹp khu vực kinh tế Nhà nước, sở hữu Nhà nước
và mở rộng khu vực kinh tế tư nhân, sở hữu tư nhân.
Theo Ngân hàng tái thiết Châu Âu, năm 2000, đóng góp của khu vực kinh
tế tư nhân ở các nước đang chuyển đổi là tương đối lớn. Cụ thể:
Hungary và CH Séc: đóng góp 80% GDP
Estonia: đóng góp 75% GDP
Ba Lan: đóng góp 65% GDP
Slovenia: đóng góp 55% GDP
Như vậy, kinh tế tư nhân ở Nga và Đông Âu từ chỗ không tồn tại nay trở
thành khu vực quan trọng thậm chí quyết định trong nền kinh tế quốc dân, đã và
đang góp phần tô lại bức tranh sáng sủa ở những quốc gia này.
Trên thế giới, chương trình phi quốc hữu hoá đầu tiên sau chiến tranh (với
cái tên tư nhân hoá) đã diễn ra ở Đức vào đầu những năm 60s khi Chính phủ bán
hãng Volkswagen và công ty công nghiệp VEBA cho khu vực tư nhân. Ngay
sau đó, hoạt động này xuất hiện ngày càng nhiều và trở thành một chương trình
kinh tế mang ý nghĩa sống còn đối với rất nhiều quốc gia.
Trong khu vực ASEAN, các nước đi đầu trong phong trào tư nhân hoá
bao gồm: Singapo, Malaysia, Thái Lan… Mục tiêu cuối cùng của chương trình
mở rộng khu vực tư nhân của các chính phủ ở đây là: Thứ nhất, nâng cao hiệu
quả và năng suất trong khu vực quốc doanh; thứ 2, tăng cường khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp quốc doanh nói riêng và các thực thể kinh tế nói chung;
thứ ba là giảm bớt gánh nặng ngân sách Nhà nước.
Trong thời kỳ những năm 1950 – 1980, tình trạng yếu kém của khu vực
kinh tế Nhà nước đã khiến Chính phủ phải thực hiện một loạt những hoạt động
hỗ trợ gây thâm hụt ngân sách nặng nề, kèm theo đó là tệ “cạnh tranh không

- 21 -

trung thực”, “độc chiếm Nhà nước” làm cho nền kinh tế trở nên méo mó và trì
trệ. Cuối cùng, Chính phủ các nước phải tìm đến biện pháp tư nhân hoá - chuyển
một phần hoặc tất cả quyền sở hữu các tài sản Nhà nước sang tay tư nhân, giúp
phổ biến hoá bộ phận tài sản này và làm cách kéo cho toàn bộ nền kinh tế phát
triển. Dù hình thức có khác nhau tuỳ thuộc quan điểm và chế độ của từng nước
song làn sóng tư nhân hoá đã thực sự bắt đầu.
Sự phát triển và lớn mạnh của khu vực kinh tế tư nhân trên thế giới đã tác
động mạnh mẽ tới chiến lược cải cách của CHND Trung Hoa. Cũng nằm trong
quỹ đạo chuyển đổi hệ thống, Trung Quốc nắm bắt rất rõ tầm quan trọng của
việc mở rộng kinh tế tư nhân. Không sử dụng thuật ngữ “tư nhân hoá” do một số
vấn đề nhạy cảm trong nước song Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện chuyển
giao dần dần (một phần hoặc toàn bộ) tài sản từ khu vực nhà nước sang cho tư
nhân, thúc đẩy khu vực này trở thành bộ phận năng động nhất trong nền kinh tế
thị trường.
*Bối cảnh trong nước:
Thứ nhất là: Trung Quốc từng bước chuyển sang kinh tế thị trường.
Do thể chế kinh tế kế hoạch trước đây đã bộc lộ rõ nhiều bất cập nên
muốn cho nền kinh tế thực sự biến đổi về chất, Trung Quốc cần tiến hành thay
thế chế độ kế hoạch hoá tập trung bằng thể chế kinh tế thị trường. Quá trình
chuyển đổi sang cơ chế kinh tế mới diễn ra khá lâu dài ở Trung Quốc, xuyên
suốt trong cuộc cải cách lịch sử. Bắt đầu từ nông thôn, cải cách đi dần từ “chế độ
trách nhiệm” chia theo đội sản xuất sang hình thức “khoán hộ”, ở thành thị, Nhà
nước cũng bắt đầu mở rộng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, giảm bớt kế
hoạch pháp lệnh đối với sản xuất và tiêu thụ… Tuy mới chỉ là thử nghiệm
nhưng những hoạt động này bước đầu đã phá vỡ nền kinh tế kế hoạch hoá, báo
hiệu thời đoạn biến đổi thể chế kinh tế ở Trung Quốc theo hướng thị trường. Lúc
này, kế hoạch được chia làm hai loại: kế hoạch theo pháp lệnh và kế hoạch theo
chỉ đạo, nghĩa là ngoài những kế hoạch bắt buộc còn có một loại khác để hướng

- 22 -

dẫn, điều tiết cơ chế tự do của thị trường. Đồng thời, quy luật giá trị đã được
công nhận, thể hiện ở sự xoá bỏ từng bước độc quyền Nhà nước về giá thu mua
ngũ cốc và xoá bỏ giá cả do Nhà nước quy định về thịt, cá, trứng, rau quả (năm
1985), máy thu hình đen trắng, tủ lạnh, máy giặt (1986)… Trên cơ sở đó, Trung
Quốc thực hiện cải cách hàng loạt từ nông thôn rồi lan ra thành thị: cải cách tiền
lương và giá cả(1988), cải cách nông nghiệp, công nghiệp, tài chính – ngân
hàng, ngoại thương… và đặc biệt cho phép doanh nghiệp tư nhân tồn tại từ năm
1987.
Sau sự kiện Thiên An Môn, quá trình cải cách chững lại một thời gian
song ngay sau đó, với sức mạnh không gì ngăn cản nổi, thể chế kinh tế thị
trường lại trỗi dậy mãnh liệt ở Trung Quốc như một tất yếu không thể đảo
ngược. Đến đầu năm 1990, phạm vi của các chính sách điều chỉnh đã chuyển
sang hướng kích thích thị trường. Hệ thống “hai giá song song” bị từ bỏ với một
số loại nguyên liệu và vào tháng 11/1992, thị trường chứng khoán Thượng Hải
chính thức được thành lập. Sau bài phát biểu của Đặng Tiểu Bình năm 1992
nhân chuyến đi thăm một số tỉnh miền Nam đã cởi bỏ mọi nghi hoặc về con
đường đi tới kinh tế thị trường ở Trung Quốc. “Kinh tế kế hoạch hoá không tự
nó là XHCN, CNTB cũng sử dụng kế hoạch. Ngược lại, Kinh tế thị trường
không có nghĩa tự nó là CNTB, vì CNXH cũng có thị trường của nó. Kế hoạch
và thị trường, cả hai đều là những phương tiện kinh tế mà thôi”
1
. Không chỉ trên
văn bản pháp lý mà kể từ đây kinh tế thị trường đã chính thức được thừa nhận
trong hệ tư tưởng của người Trung Quốc. Không còn sự phân biệt CNTB và
CNXH qua cơ chế “kế hoạch” hay “thị trường”, thay vào đó, quy luật giá trị đã
lấy lại vị trí quan trọng và bắt đầu thực hiện chức năng điều chỉnh vốn có của
nó. Các nguồn lực sản xuất trong xã hội được phân bổ hợp lý hơn dựa trên sự
khan hiếm thực sự, giá cả được quyết định theo quan hệ cung – cầu. Nhà nước

1

Trung Quốc đi tới kinh tế thị trường, NXB Thế giới,1998, tr 62.

×