Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 131 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ





PHÍ MẠNH PHONG





Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam




luËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ chÝnh trÞ











Hµ néi - 2006





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ




PHÍ MẠNH PHONG




Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam


Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 5.02.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Quang Ty






Hµ néi - 2006




MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn 5
1.1- Những vấn đề lý luận về thể chế kinh tế thị trường 5
1.1.1- Quan niệm và phân loại thể chế, phân biệt thể chế kinh tế
với cơ chế kinh tế, chế độ kinh tế, mô hình kinh tế 5
1.1.1.1- Quan niệm về thể chế 5
1.1.1.2- Phân loại thể chế 8
1.1.1.3- Phân biệt thể chế với cơ chế kinh tế, chế độ kinh tế,
mô hình kinh tế 9
1.1.2- Cấu trúc cơ bản của thể chế kinh tế thị trường 12
1.1.2.1- Thể chế sở hữu 12
1.1.2.2- Thể chế cạnh tranh 15
1.1.2.3- Thể chế các thị trường 17
1.1.2.4- Thể chế nhà nước 23
1.1.3- Chức năng và vai trò của thể chế kinh tế đối với phát triển
kinh tế 25
1.1.3.1- Chức năng của thể chế kinh tế 25
1.1.3.2- Vai trò của thể chế đối với phát triển kinh tế 26
1.2- Thể chế kinh tế thị trường ở một số nước trên thế giới 29

1.2.1- Thể chế kinh tế thị trường ở các nước tư bản phát triển 29
1.2.1.1- Thể chế kinh tế thị trường tự do Mỹ 30
1.2.1.2- Thể chế kinh tế thị trường xã hội Cộng hoà
liên bang Đức 35
1.2.2- Thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc
Trung Quốc 38
1.2.2.1- Mục tiêu cải cách thể chế kinh tế và xây dựng
thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa 38


1.2.2.2- Một số nội dung cải cách thể chế kinh tế 40

Chương 2: Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay – Xuất xứ
lịch sử và thực trạng 47
2.1- Tổng quan quá trình hình thành thể chế kinh tế thị trường ở
Việt Nam 47
2.1.1- Sự tan rã của thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung 47
2.1.1.1- Những đặc trưng cơ bản của thể chế kinh tế
kế hoạch hoá tập trung 47
2.1.1.2- Khủng hoảng kinh tế – xã hội và sự cần thiết phải
đổi mới 49
2.1.2- Về tiến trình đổi mới hệ thống thể chế kinh tế 51
2.2- Thực trạng thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam trên một số
bình diện quan trọng 59
2.2.1- Chế độ sở hữu và các chủ thể cơ bản 59
2.2.1.1- Quan niệm về chế độ sở hữu và cơ cấu các
thành phần kinh tế 59
2.2.1.2- Vấn đề vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước 61
2.2.1.3- Tình trạng kém hiệu quả của doanh nghiệp
nhà nước và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 64

2.2.1.4- Vấn đề phát triển khu vực kinh tế tư nhân 68
2.2.2- Thể chế cạnh tranh 69
2.2.2.1- Vấn đề quyền tự do kinh doanh 69
2.2.2.2- Vấn đề độc quyền của các tổng công ty 71
2.2.2.3- Vấn đề cạnh quốc tế và bảo hộ 72
2.2.3- Hệ thống thể chế các thị trường và vấn đề xác lập, phát triển
đồng bộ các thị trường 73
2.2.3.1- Thị trường đất đai 73


2.2.3.2- Thị trường lao động 75
2.2.3.3- Thị trường khoa học – công nghệ 77
2.2.3.4- Thị trường tài chính 79
2.2.4- Thể chế nhà nước 81
2.2.4.1- Đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế 81
2.2.4.1- Năng lực của nhà nước 83
Chương 3: Quan điểm định hướng và các giải pháp hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường ở Việt Nam 88
3.1- Bối cảnh mới và quan điểm định hướng 88
3.1.1- Bối cảnh mới nhìn từ bên trong và bên ngoài 88
3.1.1.1- Tình hình trong nước 88
3.1.1.2- Tình hình quốc tế 90
3.1.2- Quan điểm định hướng 97
3.1.2.1- Quan điểm phát triển hiện đại và định hướng XHCN 97
3.1.2.2- Quan điểm về tính đồng bộ, tính khả thi, tính ổn định 100
3.2- Những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường ở Việt Nam 101
3.2.1- Đổi mới tư duy 101
3.2.2- Hoàn thiện chế độ pháp lý về sở hữu 103
3.2.3- Bảo đảm các quyền tự do kinh doanh 103

3.2.4- Hoàn thiện thể chế tạo lập đồng bộ các thị trường 104
3.2.4.1- Thị trường đất đai 105
3.2.4.2- Thị trường lao động 106
3.2.4.3- Thị trường khoa học – công nghệ 107
3.2.4.4- Thị trường tài chính 108
3.2.5- Cải cách thể chế nhằm năng cao năng lực của Nhà nước
Việt Nam trong nền kinh tế thị trường 109
PHẦN KẾT LUẬN 115


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1- Sự cần thiết của đề tài
Một trong những thành tựu căn bản của Việt Nam trong 20 năm đổi
mới 1986 – 2006 là đã hình thành được khuôn khổ lý luận ban đầu về
kinh tế thị trường. Từ khuôn khổ lý luận đó và trong mối liên hệ với thể
chế chính trị, mô hình phát triển tổng quát hiện nay của Việt Nam đã được
xác định với tên gọi “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Sự
ra đời của mô hình mới này bắt nguồn từ thực tiễn của đất nước, gắn với
những sáng kiến của nhân dân và chính thức được khởi xướng bởi sự đột
phá về tư duy lý luận của đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12/1986). Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng
định quá trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình
chuyển hoá nền kinh tế còn nhiều tính tự cấp, tự túc thành nền kinh tế
hàng hoá. Đại hội VII (1991) khẳng định đường lối “phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản
lý của Nhà nước, và theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Và từ những
thành tựu kinh tế - xã hội đạt được, Đại hội VIII (1996) tiếp tục khẳng
định “Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành

tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan và cần thiết
cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã
được xây dựng”. Đại hội IX (2001) của Đảng đã tổng kết lý luận và thực
tiễn và đưa ra vấn đề xây dựng thể chế kinh tế thị trường và nhấn mạnh
“xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa” là một mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010
[25]. Tuy nhiên, cho đến nay, những vấn đề lý luận cơ bản về kinh tế thị
trường ở Việt Nam nhìn dưới góc độ thể chế vẫn đang được giới nghiên
cứu và hoạch định chính sách tìm tòi và tranh luận, trong đó nổi lên


2
những vấn đề về khái niệm, cơ chế vận hành, động lực, cơ cấu hay mối
quan hệ giữa thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, cạnh tranh và
độc quyền, nhà nước và thị trường…. Có thể nói, các nhà lý luận Việt
Nam còn phải bỏ nhiều công sức để nghiên cứu và khái quát thành lý luận
để tạo bước đột phá mới trong quá trình đổi mới tư duy, tạo nên động lực
mới cho sự phát triển.
Xuất phát từ tình hình nêu trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài
này với mong muốn bước đầu tìm hiểu một cách hệ thống lý luận về thể
chế kinh tế thị trường và thực tiễn xây dựng thể chế kinh tế thị trường ở
một số nước, quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam dưới góc độ thể chế
kinh tế để rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho việc đổi
mới tư duy lý luận và hoạch định đường lối chính sách ở nước ta thời gian
tới.
2- Tình hình nghiên cứu
Vấn đề thể chế kinh tế thị trường đã và đang được các nhà kinh tế,
nhà lý luận, các tổ chức quan tâm, đặc biệt ở các nước phương Tây đã
hình thành và phát triển trường phái kinh tế học thể chế vào khoảng cuối
thế kỷ XIX với các nhà tư tưởng như Veblen, Misen, Murdan … đặc biệt

nhà kinh tế Ronald H.Coase với tác phẩm “Cấu trúc thể chế của sản xuất”
và Douglass C.North với tác phẩm “Động thái kinh tế qua thời gian” đã
được trao giải thưởng Nobel.
-Về sách:
“Các thể chế, sự thay đổi thể chế và hoạt động kinh tế”, tóm tắt
công trình được giải Nobel của Douglass C.North, giáo sư kinh tế học và
sử học tại Đại học Tổng hợp St.Louis, Nxb Khoa học xã hội và Trung tâm
Nghiên cứu Bắc Mỹ, Hà nội 1998. Báo cáo phát triển thế giới của Ngân
hàng thế giới 2002 với chủ đề “Xây dựng thể chế hỗ trợ thị trường”, Nxb
CTQG, Hà nội 2002. “Thể chế, cải cách thể chế và phát triển” của tác giả
Đinh Văn Ân, Võ Trí Thành - Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung


3
ương, Nxb Thống kê, Hà nội 2002. “Một số vấn đề về kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, chủ biên GS.TS Vũ Đình
Bách, Nxb CTQG, 2004. “Thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có
đặc sắc Trung Quốc” chủ biên Nguyễn Kim Bảo, Nxb Khoa học xã hội,
2002. “Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay” của đồng tác giả
PGS.TS Nguyễn Văn Thạo và TS Nguyễn Hữu Đạt, Nxb CTQG, 2004. Đề
tài cấp nhà nước: KX01.06 “Về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” chủ nhiệm đề tài PGS. TS Hà Huy Thành.v.v…
- Tạp chí:
Một số bài viết nghiên cứu chuyên đề: “Xây dựng thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Lý luận
chính trị của Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Một số bài viết trong Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế số 324, tháng 5 – 2005, số 326, tháng 7 – 2005.v.v…
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu toàn
diện về quá trình cải cách thể chế kinh tế ở Việt Nam cả lý luận và thực
tiễn dưới giác độ kinh tế chính trị.

3- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Đánh giá thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam từ đó tìm ra những
thành tựu và hạn chế
- Đề ra các giải pháp để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở Việt
Nam
Để đạt được các mục đích trên đề tài sẽ tập trung giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Khái quát hoá hệ thống lý luận về thể chế kinh tế thị trường
- Tìm hiểu kinh nghiệm trong việc xây dựng thể chế kinh tế thị
trường ở một số nước trên thế giới
- Tìm hiểu quá trình xây dựng thể chế kinh thị trường ở Việt Nam
4- Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1- Đối tượng nghiên cứu


4
Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam đang trong quá trình hình
thành và phát triển


5
4.2- Phạm vi nghiên cứu
Thể chế kinh tế thị trường là vấn đề rất rộng lớn, trong khuôn khổ một
luận văn cao học, chúng tôi chỉ nghiên cứu một số thể chế kinh tế cơ bản
trong cơ cấu rất nhiều thể chế hợp thành thể chế kinh tế thị trường ở Việt
Nam, đó là: Thể chế sở hữu, thể chế cạnh tranh và thể chế một số thị
trường yếu tố sản xuất quan trọng, thể chế nhà nước về quản lý kinh tế vĩ
mô, tập trung vào thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay.
5- Phƣơng pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

của chủ nghĩa Mác-Lênin làm cơ sở phương pháp luận nghiên cứu.
- Dùng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh…dựa trên
các tài liệu thu thập được về vấn đề nghiên cứu.
6- Dự kiến đóng góp của luận văn
- Khái quát hoá hệ thống lý luận về thể chế kinh tế thị trường
- Đánh giá thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp cơ bản cho quá trình hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam
7- Kết cấu luận văn
Ngoài các phần mục lục, mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo,
luận văn có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay – xuất
xứ lịch sử và thực trạng
Chương 3: Quan điểm định hướng và giải pháp hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường ở Việt Nam





6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ
TRƢỜNG
1.1.1- Quan niệm và phân loại thể chế, phân biệt thể chế kinh tế
với cơ chế kinh tế, chế độ kinh tế, mô hình kinh tế
Trong những thập kỷ gần đây, ở nước ta và trên thế giới, khái niệm,

thuật ngữ “thể chế” ngày càng được đề cập nhiều trong các hoạt động
kinh tế xã hội, trong các văn bản của nhà nước, các diễn đàn, hội thảo
khoa học, trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ngày nay, ở mọi quốc
gia, người ta càng thấy được vai trò quan trọng của cải cách thể chế đối
với tăng trưởng và phát triển kinh tế, đặc biệt là đối với các nước có nền
kinh tế chuyển đổi như Việt Nam. Ronald Harry Coase, nhà kinh tế học
đoạt giải Nobel năm 1991 với công trình “Cấu trúc thể chế của sản xuất”
cho rằng: “Những nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đang chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, và các nhà lãnh đạo của họ cũng muốn làm
điều đó, song không có những thể chế thích hợp thì không thể có được
nền kinh tế thị trường ở bất kỳ mức độ nào” [21, tr.36-37]. Vậy thể chế là
gì?
1.1.1.1- Quan niệm về thể chế
Trong lịch sử tư tưởng kinh tế, kinh tế học thể chế hay học thuyết
kinh tế thể chế là một bộ phận của kinh tế học. Các nhà kinh tế của các
trường phái kinh tế học thể chế đã đưa ra các quan niệm khác nhau về thể
chế.
Thorstein Veblen, người sáng lập ra trường phái kinh tế thể chế cũ ở
Mỹ vào những năm đầu của thế kỷ XX, đưa ra quan niệm: “Thể chế là
tính qui chuẩn của hành vi hoặc qui tắc xác định hành vi trong tình huống
cụ thể, được các thành viên của một nhóm xã hội chấp nhận về cơ bản, và


7
sự tuân thủ các qui tắc đó là do bản thân tự kiểm soát hoặc do quyền lực
bên ngoài khống chế” [1,tr.10-11].
Ostrom đưa ra định nghĩa: “Thể chế là tập hợp các qui tắc được sử
dụng nhằm xác định ai được phép ra quyết định trong một phạm vi nào đó
những hành động được phép hoặc bị hạn chế, những qui tắc tập hợp nào
sẽ được sử dụng, những thủ tục nào phải được tuân theo, thông tin gì phải

được cung cấp hoặc không được cung cấp, và phần thưởng gì sẽ được
dành cho những cá nhân tuỳ thuộc vào hành động của họ ….” [24,tr.211-
212].
Douglass.C. North, nhà kinh tế học người Mỹ, với công trình
“Động thái kinh tế qua thời gian” đoạt giải Nobel năm 1993, đại biểu của
trường phái kinh tế thể chế mới cho rằng: “ Thể chế là những qui phạm
được con người tạo ra, cấu thành nên sự tác động qua lại của con người.
Nó bao gồm những qui phạm mang tính chính thức (các qui tắc, luật lệ,
hiến pháp), những qui phạm không chính thức (những chuẩn mực về ứng
xử, những tập quán, những qui tắc ứng xử tự đặt ra), và những đặc trưng
về mặt thực thi chúng. Chúng cùng nhau xác định cấu trúc khuyến khích
của các xã hội, và cụ thể hơn, của các nền kinh tế ” [21,tr.18]. Như vậy,
thể chế là những luật lệ do con người tạo ra nhằm mục đích định hình và
điều tiết các quan hệ của con người, các quan hệ có thể là chính trị, kinh
tế, xã hội…
Ngân hàng thế giới (2002) trong Báo cáo phát triển thế giới 2002
với chủ đề “Xây dựng thể chế hỗ trợ thị trường”, cho rằng: “Thể chế là
những qui tắc, kể cả các chuẩn mực, về hành vi mà dựa vào đó các tác
nhân tương tác với nhau. Thể chế còn là các tổ chức để thực hiện các qui
tắc, chuẩn mực nhằm đạt kết quả mong muốn” [11,tr.7-8]. Thể chế bao
gồm ba khía cạnh: các qui tắc, cơ chế thi hành và các tổ chức (gắn với
hành vi của chúng). Ba khía cạnh trên cũng có thể được nhìn nhận dưới
hai góc độ: Một là tập hợp các qui tắc nhằm điều tiết, điều chỉnh mối quan


8
hệ giữa các tác nhân có sự ràng buộc lẫn nhau, theo nghĩa này thì quyền
sở hữu tư nhân, thị trường, quyền và nghĩa vụ dân sự …đều là các thể chế,
hai là, sự mở rộng định nghĩa đến các thực thể tham gia vào việc thực thi
các qui tắc và các nguồn lực cần thiết để làm việc đó, theo nghĩa này,

công đoàn, toà án, viện kiểm sát, chính phủ…đều là các thể chế. Nếu gắn
với lý thuyết trò chơi thì cũng có thể nhìn nhận thể chế như một “trò
chơi” với luật chơi (các qui tắc) và người chơi (chính phủ, toà án, hiệp
hội, công ty…), và mức cân bằng trong kết cục trò chơi. Ở đây, thể chế
được xem như một hệ thống niềm tin được chia sẻ tập thể và tự duy trì
theo cách chơi thường xuyên lặp lại.
Từ những quan niệm trên về thể chế, chúng ta có thể rút ra quan
niệm tổng về thể chế kinh tế: “Thể chế kinh tế là tập hợp các qui tắc, cơ
chế thi hành và các tổ chức do con người đặt ra nhằm điều chỉnh các quan
hệ kinh tế”. Người Trung Quốc quan niệm rằng: “Thể chế kinh tế là hình
thức cụ thể của phương thức, phương pháp, qui tắc cụ thể của việc tổ chức
vận hành kinh tế trong một chế độ kinh tế, xã hội nhất định. Thể chế kinh
tế là sự biểu hiện cụ thể của một chế độ kinh tế xã hội” [3,tr.13].
Từ những tìm hiểu trên, chúng ta có thể đưa ra quan niệm về thể chế
kinh tế thị trường: “Thể chế kinh tế thị trường là tổng thể các qui tắc, cơ
chế thi hành và tổ chức do con người đặt ra nhằm điều chỉnh các quan hệ
kinh tế diễn ra trong hệ thống kinh tế thị trường”.
Trên cơ sở nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương thức
sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính
trị, tinh thần, thể hiện ở hai khía cạnh:
- Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất quyết định đến hình
thức xã hội của sản xuất tức là quan hệ sản xuất và sự tác động trở lại của
quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và sự tác động trở
lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.


9
Trong khi đó, ta thấy rằng, điểm đặc thù của thể chế nói chung và
thể chế kinh tế, thể chế kinh tế thị trường nói riêng mang tính chủ quan

(do con người đặt ra), là phạm trù ý thức, thuộc kiến trúc thượng tầng, áp
đặt vào tiến trình kinh tế xã hội mang tính khách quan, hay thể chế là cái
thứ hai chịu sự quyết định của bản thân tiến trình hiện thực, hay trình độ
phát triển kinh tế thị trường sẽ quyết định hình thức thể chế kinh tế thị
trường phù hợp tương ứng. Cố nhiên, thể chế không phải là yếu tố thụ
động, thể chế tác động trở lại đối với tiến trình kinh tế xã hội, tuỳ thuộc
vào mức độ tiếp cận của thể chế đến các qui luật khách quan của sự vận
động tiến trình kinh tế xã hội, cũng như phản ánh xu thế vận động trong
tương lai của tiến trình khách quan đó như thế nào mà thể chế có thể thúc
đẩy sự phát triển hay cản trở, thậm chí đẩy lùi sự phát triển kinh tế – xã
hội.
1.1.1.2- Phân loại thể chế
Có thể phân loại thể chế theo nhiều tiêu chí khác nhau
- Xét theo lĩnh vực hoạt động, bao gồm thể chế chính trị, thể chế
kinh tế, thể chế văn hoá, thể chế giáo dục, thể chế môi trường tức là có
bao nhiêu lĩnh vực hoạt động mà con người đặt ra các thể chế để điều
chỉnh nó thì có bấy nhiêu loại thể chế. Trong từng lĩnh vực, thể chế lại
được phân thành các cấp độ thấp hơn, đó là các thể chế áp dụng cho các
lĩnh vực chuyên ngành, ví dụ thể chế tài chính tiền tệ, thể chế lao động
đều nằm trong thể chế kinh tế.
- Xét theo mức độ hợp thức hóa, thể chế được phân thành thể chế
chính thức và thể chế phi chính thức. Thể chế chính thức là những thể chế
do nhà nước đặt ra bao gồm từ hiến pháp, các bộ luật, nghị định, qui định
từ trung ương và các địa phương, cho đến các qui tắc được phê chuẩn và
áp dụng bởi các tổ chức công cộng và tư nhân hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật. Thể chế phi chính thức là những qui tắc, qui định, chuẩn mực
do nhân dân , cộng đồng dân cư đặt ra đó là các phong tục, tập quán, thoả


10

thuận… thường vận hành bên ngoài hệ thống pháp luật chính thức, là
những qui phạm xã hội bất thành văn, ví dụ các chuẩn mực về thừa kế đất
đai, các hương ước trong làng xã. Xã hội càng phát triển, thể chế chính
thức ngày càng đóng vai trò quan trọng, tác động đến hầu hết mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Người ta cũng có thể phân chia xã hội hiện đại thành các khu vực
bao gồm nhà nước, thị trường và xã hội dân sự (cộng đồng), tương ứng có
ba khu vực thể chế là thể chế nhà nước, thể chế thị trường và thể chế cộng
đồng. Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi chỉ đề cập đến hai khu vực
thể chế là thị trường và nhà nước, là những thể chế cơ bản trong cấu trúc
của thể chế kinh tế thị trường hiện đại.
1.1.1.3- Phân biệt thể chế kinh tế với cơ chế kinh tế, chế độ kinh
tế, mô hình kinh tế
* Cơ chế kinh tế
Cơ chế kinh tế của toàn bộ nền kinh tế xã hội chính là sự ăn khớp
ngẫu nhiên giữa cơ chế tương ứng của các yếu tố cấu thành, ví dụ cơ chế
giá cả, cơ chế lãi suất, cơ chế tiền lương, v.v…
Cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau,
điều tiết lẫn nhau, tự điều hoà, tự tổ chức của các yếu tố như giá cả, cung
cầu, thị trường, v.v… trực tiếp phát huy tác dụng trên thị trường, của nền
kinh tế thị trường. Nó là cơ chế bên trong của kinh tế thị trường, là tính
tất nhiên khách quan của sự liên hệ giữa các chủ thể thị trường và các yếu
tố thị trường trong nền kinh tế thị trường. Sự liên hệ bên trong của các
chủ thể thị trường và các yếu tố thị trường, về mặt khách quan đã hình
thành cơ chế tự điều tiết của thị trường đối với hoạt động kinh tế mà theo
Adam Smith thì đó chính là “bàn tay vô hình”, điều tiết hoạt động của thị
trường.
Theo quan niệm của người Trung Quốc, cơ chế kinh tế biểu thị
quan hệ chế ước và chức năng của mối liên hệ và tác dụng lẫn nhau giữa



11
các yếu tố cấu thành trong thể chế kinh tế nhất định. Nó tồn tại trong cả
quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng của tái sản xuất xã
hội.
Cơ chế kinh tế còn phát huy tác dụng trong vận hành thể chế kinh tế
nên được gọi là cơ chế vận hành kinh tế. Trong sự vận hành chỉnh thể của
cơ chế kinh tế xã hội bao gồm vận hành cục bộ của các yếu tố cấu thành
của nó .
Như vậy, cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết do các quy luật
khách quan chi phối trong hệ thống kinh tế thị trường. Trên cơ sở nhận
thức các quy luật khách quan đó, con người đặt ra cơ chế vận hành kinh
tế. Do vậy, thể chế kinh tế và cơ chế vận hành kinh tế là hai mặt của một
vấn đề. Thể chế kinh tế xây dựng khuôn khổ, xác định phạm vi hoạt động
cho các chủ thể hành vi phải tuân theo trong hệ thống. Còn cơ chế vận
hành kinh tế chỉ ra cho các chủ thể phương thức hoạt động trong phạm vi
đã được qui định và quan hệ giữa họ. Có thể so sánh theo cách mà
Thomas L.Friedman hình dung giữa hệ thống kinh tế xã hội với chiếc
Computer: nếu hệ thống kinh tế xã hội là chiếc Computer thì hệ thống
kinh tế thị trường và cơ chế hoạt động của nó là phần cứng, còn thể chế
kinh tế là phần mềm. Cùng với phần cứng chứa đựng nền kinh tế và cơ
chế hoạt động của nó, thì cần có phần mềm để vận hành sự hoạt động đó.
* Chế độ kinh tế
Người Trung Quốc quan niệm rằng, chế độ kinh tế là tổng hoà các
mối quan hệ sản xuất chiếm địa vị thống trị trong xã hội, là tiêu chí căn
bản của một hình thái kinh tế - xã hội có tính ổn định [3,tr.13].Ví dụ,
trong hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, quan hệ địa chủ - nông dân,
trong đó giai cấp địa chủ là người sở hữu ruộng đất, và các tư liệu sản
xuất chủ yếu khác trong xã hội, là quan hệ chiếm địa vị thống trị trong
chế độ kinh tế phong kiến; trong hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa,

quan hệ giữa tư sản - vô sản, trong đó giai cấp tư sản là người sở hữu tư


12
liệu sản xuất trong xã hội, là quan hệ chiếm địa vị thống trị của chế độ
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Còn thể chế kinh tế là hình thức cụ thể của
phương thức, phương pháp, quy tắc cụ thể của việc tổ chức vận hành kinh
tế trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định. Thể chế kinh tế là hình thức
thực hiện chế độ kinh tế có tính khả biến. Thể chế kinh tế và chế độ kinh
tế là hai khái niệm có sự liên hệ với nhau. Cùng một chế độ kinh tế ở các
nước khác nhau, có thể có thể chế kinh tế khác nhau. Ví dụ, trong chế độ
kinh tế tư bản chủ nghĩa, có sự phân chia thành thể chế kinh tế thị trường
tự do, thể chế kinh tế thị trường có sự can thiệp của nhà nước, thể chế
kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi…. Trong một quốc gia, ở mỗi giai
đoạn phát triển khác nhau, có thể áp dụng thể chế kinh tế khác nhau. Các
chế độ kinh tế khác nhau có thể áp dụng thể chế kinh tế giống nhau, ví dụ
chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa và chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa đều áp
dụng những nguyên tắc phổ biến của thể chế kinh tế thị trường.
* Mô hình kinh tế (mô thức kinh tế)
Mô hình kinh tế là tập hợp các yếu tố cấu thành và mối quan hệ
giữa chúng tạo nên cấu trúc đặc trưng của một kiểu tổ chức kinh tế. Ví
dụ, mô hình “kinh tế chỉ huy” với cấu trúc đặc trưng thể hiện mối quan hệ
giữa nhà nước và các chủ thể kinh tế khác, nhà nước là người quyết định
việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, và phân phối cho ai, còn các
chủ thể khác là người thực hiện các quyết định đó. Mô hình kinh tế thị
trường, thị trường là người quyết định chủ yếu việc sản xuất cái gì, như
thế nào và cho ai thông qua các quan hệ cung cầu và hệ thống giá cả. Và
tương ứng với mỗi sự lựa chọn mô hình kinh tế là lựa chọn các qui tắc, cơ
chế vận hành và tổ chức tương ứng hay chính là thể chế kinh tế. Trong
mỗi mô hình kinh tế theo nghĩa trên người ta lại có thể phân chia hẹp hơn,

ví dụ trong mô hình kinh tế thị trường lại được chia thành mô hình kinh tế
thị trường tự do kiểu Mỹ, mô hình kinh tế thị trường xã hội, mô hình kinh


13
tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc… và tương ứng
thể chế cũng vậy.
Tóm lại, kinh tế thị trường là một hệ thống được thiết lập trên
những mối quan hệ kinh tế tất yếu khách quan giữa các yếu tố của thị
trường, (cung cầu, giá cả, cạnh tranh…), mà đứng đằng sau đó là những
chủ thể kinh tế (doanh nghiệp nhà nước, hộ gia đình, cá nhân), đại diện
cho những quan hệ và những lợi ích nhất định và vận động theo các quy
luật kinh tế khách quan (quy luật giá trị, cung cầu, lợi nhuận …). Nói
cách khác, kinh tế thị trường được xác lập và vận hành với những nguyên
lý hay nó đã vạch ra những giới hạn, qui tắc để con người cứ theo đó mà
hành động. Trong khi đó, thể chế là những qui tắc, giới hạn do con người
đặt ra để ràng buộc hoạt động của con người trong một khuôn khổ, trật tự
và theo đó để hành động. Điều này có nghĩa là kinh tế thị trường với
những mối quan hệ, quy luật khách quan của nó cần đựơc con người nhận
thức và thể chế hoá thành các qui tắc, giới hạn… buộc mọi người phải
tuân theo. Từ đây, chúng ta có thể rút ra định nghĩa về thể chế kinh tế thị
trường: “Thể chế kinh tế thị trường là hệ thống (tập hợp) các qui tắc, giới
hạn, cơ chế thực thi và các tổ chức gắn liền với nó do con người đặt ra
nhằm rằng buộc mối quan hệ kinh tế của con người thích ứng với các
nguyên lý của hệ thống kinh tế thị trường, làm chuẩn mực cho mọi hoạt
động kinh tế”.
1.1.2- Cấu trúc cơ bản của thể chế kinh tế thị trƣờng
Kinh tế thị trường là một hệ thống phức tạp với rất nhiều bộ phận
cấu thành và các mối quan hệ diễn ra trong đó, nhưng nó được vận hành
theo những cơ chế nhất định hay theo những quy luật khách quan. Do vậy,

điều này đòi hỏi hệ thống thể chế kinh tế thị trường phải có cấu trúc chặt
chẽ và đồng bộ. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ tìm hiểu một số
thể chế cơ bản nhất trong hệ thống cấu trúc thể chế kinh tế thị trường đó


14
là : thể chế sở hữu, thể chế cạnh tranh, thể chế một số thị trường cơ bản,
thể chế nhà nước ở góc độ bộ máy hành chính quản lý kinh tế vĩ mô.
1.1.2.1 Thể chế sở hữu
K.Marx viết: “Muốn cho những vật phẩm quan hệ với nhau như
những hàng hoá thì những người giữ hàng hoá phải đối xử với nhau như
những người mà ý chí của họ chi phối các vật đó, thành thử người này
phải thể theo ý chí người kia, tức là mỗi người trong hai người đều phải
nhờ vả một hành động tự nguyện đối với cả hai bên mới có thể chiếm hữu
hàng hoá của người kia bằng cách nhượng lại hàng hoá của mình. Do đó
họ phải công nhận lẫn nhau là những người tư hữu” [19,tr.25]. Nói cách
khác, sản phẩm lao động của người ta chỉ có thể chuyển thành hàng hoá
trong điều kiện những sản phẩm ấy thuộc về một chủ sở hữu riêng, tư
nhân đối với sản phẩm đó. K.Marx nhấn mạnh: “Chỉ có những sản phẩm
của lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện
với nhau như những hàng hoá” [19,tr.25]. Như vậy, hệ kinh tế thị trường
là hệ kinh tế của các chủ thể kinh tế tự chủ, độc lập và được xác lập trên
nền tảng quan hệ giá trị, có hình thái tồn tại là quan hệ hàng hóa – tiền tệ
mà đứng đằng sau quan hệ này chính là các chủ sở hữu hàng hoá và tiền
tệ. Do vậy, việc xác lập, duy trì, bảo hộ sở hữu tài sản của các chủ thể
kinh tế là nền tảng, là điều cốt yếu cho nền kinh tế thị trường được xác lập
và phát triển. Vấn đề sở hữu phải được thể chế hoá thành quyền sở hữu
bao hàm ba quyền cơ bản là : quyền sử dụng, quyền thụ hưởng lợi ích /thu
nhập do có quyền sử dụng, quyền loại trừ và quyền trao đổi. Với học
thuyết Tân Cổ điển coi quyền sở hữu là đương nhiên, thì các nhà kinh tế

của Trường phái Thể chế mới cho rằng “có những khó khăn nhất định
trong việc xác định quyền sở hữu, việc khẳng định quyền sở hữu cũng
như việc thực thi hợp đồng đều có những chi phí nhất định gọi là chi phí
giao dịch” [1,tr.15], khi mà việc xác định quyền sở hữu tốn rất nhiều chi
phí thì nó ảnh hưởng xấu đến các giao dịch hoặc giao dịch có thể không


15
diễn ra. Khi của cải hợp pháp không được bảo vệ bởi pháp luật, bị xâm
hại tuỳ tiện, bị chiếm đoạt thì các giao dịch thị trường không thể diễn ra,
và như vậy, trò chơi kinh tế thị trường sẽ chấm dứt hay không thể diễn ra
khi mà luật chơi không có, không rõ ràng hay việc thực thi luật chơi
không tốt.
Từ những lập luận trên ta thấy, thể chế sở hữu là yếu tố quan trọng
nhất trong cấu trúc thể chế kinh tế thị trường. Các chủ thể kinh tế độc lập
được pháp luật bảo vệ quyền sở hữu là các pháp nhân, các cá nhân, các hộ
gia đình. Các thể chế sở hữu bao gồm hiến pháp, các bộ luật xác định
quyền tài sản của các chủ thể (cá nhân, pháp nhân, tổ chức…) và các cơ
quan tư pháp bảo hộ quyền tài sản,v.v…
Hệ quả của việc xác lập và bảo vệ quyền sở hữu là xác lập các chủ
thể kinh doanh và quyền tự do kinh doanh của họ. Kinh doanh là tổng thể
các hoạt động sản xuất và trao đổi để làm tăng giá trị của tư bản, là kết
quả của quá trình hoạt động kinh tế của một hay một nhóm các chủ sở hữu
tư bản nhất định. Với ý nghĩa như vậy, kinh doanh là nội dung cơ bản của
hệ kinh tế thị trường, và thể chế về các chủ thể tự do kinh doanh là bộ
phận cơ bản cấu thành của thể chế kinh tế thị trường, với những nội
dung cơ bản:
Thứ nhất, xác nhận quyền và nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh,
tạo lập vị thế và sự bình đẳng của các chủ thể khi tham gia giao dịch .
Thứ hai, xác lập khung khổ và môi trường pháp lý kinh doanh hay

xác định sân chơi và luật chơi cho hoạt động kinh doanh nhằm:
- Bảo đảm quyền tự do kinh doanh, không có sự cản trở về mặt
pháp lý cho việc tham gia hay không tham gia hay rút lui khỏi hoạt động
kinh doanh.
- Ngăn chặn, loại trừ các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp. Các
chủ thể kinh doanh có quyền tự do di chuyển tư bản, tự do lựa chọn


16
phương thức kinh doanh, tự do lựa chọn đối tác kinh doanh, tự do ký kết
hợp đồng… và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả kinh doanh.
Quyền tự do kinh doanh là một bộ phận hợp thành trong hệ thống
các quyền tự do của công dân, là việc thể chế hoá nguyên lý tự do là tiền
đề cho sự hình thành và phát triển của các giao dịch hay của kinh tế thị
trường. Nguyên lý này đã được các nhà triết học Khai sáng đưa ra từ thế
kỷ XVII, XVIII, như Locke, Rousseau, v.v… Họ khẳng định tự do cá
nhân là tiền đề không thể thiếu được của kinh tế thị trường, nếu nguyên lý
này bị vi phạm thì sẽ không thể có sự phát triển của kinh tế thị trường.
Quyền tự do kinh doanh là một phần hợp thành và đóng vai trò quan trọng
trong hệ thống các quyền tự do của con người, nó có trở thành hiện thực
và phát huy tác dụng trong thực tiễn hay không, tuỳ thuộc vào việc nhà
nước có đáp ứng được những đòi hỏi mà quyền tự do kinh doanh đặt ra để
kịp thời thể chể hoá và bảo vệ bằng pháp luật.
1.1.2.2- Thể chế cạnh tranh
Cạnh tranh từ lâu đã được biết đến như một lực lượng quan trọng
đem lại sự phát triển kinh tế. Tự do cạnh tranh là thuộc tính cơ bản của
nền kinh tế thị trường, nếu không có tự do cạnh tranh thì không có kinh tế
thị trường theo nghĩa đích thực. Vì vậy, một dân tộc bắt tay vào xây dựng
kinh tế thị trường thì việc làm trước hết là xoá bỏ các yếu tố cản trở tự do
cạnh tranh. Ở Tây Âu, ngay từ thế kỷ XVIII, các thể chế phong kiến lỗi

thời và chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch cực đoan của chủ nghĩa trọng thương,
về cơ bản đã được xoá bỏ. Ở Thuỵ Điển, thế kỷ XIX, chính phủ đã xoá bỏ
các phường hội, những tổ chức hỗ trợ cho độc quyền khu vực thành thị ở
một số ngành nghề, để thúc đẩy sản xuất ở nông thôn. Cùng với quá trình
phát triển kinh tế thị trường là quá trình tích tụ và tập trung tư bản càng
cao và đến mức độ nào đó dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền, thủ
tiêu cạnh tranh, do vậy, gây thiệt hại cho xã hội. Do vậy, trong nền kinh tế


17
thị trường hiện đại, hệ thống pháp luật đồng thời phải bảo đảm quyền tự
do cạnh tranh và chống độc quyền.
Dưới góc độ pháp lý, cạnh tranh bao hàm hai khía cạnh: lành mạnh
và không lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh là sự cạnh tranh trong khuôn
khổ pháp luật, trong sự tôn trọng lợi ích của tất cả các đối thủ cạnh tranh,
lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng. Cạnh tranh không lành
mạnh là những hành vi cạnh tranh trái với qui định của pháp luật, đi
ngược lại các nguyên tắc của xã hội, của tập quán và truyền thống kinh
doanh lành mạnh, xâm phạm lợi ích của nhà nước, của xã hội, của người
tiêu dùng và của nhà kinh doanh khác.
Do vậy, khi bắt đầu xây dựng nền kinh tế thị trường thì cần thiết
phải tạo ra môi trường pháp lý (các thể chế do nhà nước ban hành) bảo
đảm cạnh tranh lành mạnh, đồng thời ngăn chặn và loại trừ những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, cũng như kiểm soát được tình trạng độc
quyền (được xem là hệ quả khó tránh khỏi của tự do cạnh tranh). Các thể
chế cạnh tranh bao gồm hiến pháp, các bộ luật và các cơ quan có chức
năng bảo vệ cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền,v.v…
Hộp 1.1: Adam Smith viết về cạnh tranh, trong cuốn “The wealth of
nations” - Sự giàu có của các dân tộc (1776)
Trung Quốc dường như đã đình trệ quá lâu. Đã từ rất lâu, có lẽ Trung

Quốc đã có được đầy đủ những yếu tố bổ sung cho sự giàu có, mà những yếu tố
đó phù hợp đặc điểm luật lệ và thể chế của nước này. Nhưng những gì mà nước
này nhận được chẳng đáng kể so với những gì mà lẽ ra nó có thể có với đất đai,
khí hậu và các điều kiện của mình, nếu như nó có được các luật lệ và thể chế
khác đi. Một nước không chú ý hay coi thường việc buôn bán với nước ngoài,
chỉ cho phép tầu thuyền của nước ngoài được cập một hay hai cảng ở trong
nước thì không thể giao dịch một lượng hàng hoá tương đương như nó có thể
tiến hành nếu có thể chế và luật pháp khác. Ở một nước nơi mặc dù những
người giàu có hay chủ các khoản vốn lớn được hưởng nhiều sự bảo đảm an
toàn, còn người nghèo và các chủ khoản vốn nhỏ không được bảo vệ …thì khối


18
lượng vốn được sử dụng tại tất cả các ngành kinh doanh khác nhau được tiến
hành ở trong nước không bao giờ có thể ngang bằng với mức mà tính chất và
mức độ của hoạt động kinh doanh đó có thể có. Ở từng ngành khác nhau, sự
chèn ép người nghèo tạo ra sự độc quyền của người giàu, những người bằng
cách thâu tóm toàn bộ hoạt động thương mại có thể kiếm được khoản lợi nhuận
kếch xù.
Nguồn: Trích theo Ngân hàng thế giới, Báo cáo phát triển thế giới 2002.
Nxb CTQG, Hà nội 2002.

Canada và Mỹ là hai quốc gia đầu tiên đưa ra luật cạnh tranh, kiểm
soát độc quyền, lần lượt vào năm 1889 và 1890. Rất nhiều các nhà nước
châu Âu có luật cạnh tranh, kiểm soát độc quyền sau chiến tranh thế giới
II kết thúc (1945). Phần lớn các nước đang phát triển và các nước có nền
kinh tế chuyển đổi chưa có luật cạnh tranh tính đến cuối thập kỷ 90 thế kỷ
XX.

1.1.2.3- Thể chế các thị trường

Kinh tế thị trường trong quá trình phát triển đồng nghĩa với việc hệ
thống các thị trường được xác lập và phát triển đầy đủ, đồng bộ bao gồm
thị trường hàng hoá dịch vụ tiêu dùng và hệ thống các thị trường các yếu
tố sản xuất. Do vậy, hệ thống thể chế kinh tế thị trường tương ứng cũng
phải được hình thành và phát triển đầy đủ và đồng bộ. Trong khuôn khổ
luận văn chỉ đề cập các thể chế thị trường yếu tố sản xuất. Theo cách tiếp
cận của kinh tế học thể chế mới hay còn gọi là kinh tế học về chi phí giao
dịch, “thị trường là một thể chế kinh tế để thực hiện các giao dịch kinh
tế”; và từ cách tiếp cận này, dưới đây chúng tôi xin đề cập đến một số thể
chế thị trường cơ bản.
* Thể chế thị trường tài chính
Tiền và tiền chuyển hoá thành tư bản là những quan hệ, những
phạm trù kinh tế trung tâm của kinh tế thị trường. Tiền tệ lưu thông như


19
thế nào và chuyển hoá như thế nào thành tư bản là cái trục xuyên suốt tiến
trình phát triển kinh tế thị trường. Trong quá trình phát triển của kinh tế
thị trường, tiền tệ lưu thông với tốc độ ngày càng nhanh và ngày nay là rất
nhanh, chúng được tập trung và chuyển hoá thành tư bản, hay mang lại
giá trị thặng dư thông qua sự phát triển của hệ thống ngân hàng và tài
chính.
Tuy nhiên, thị trường tài chính, tiền tệ tồn tại vấn đề bất cân xứng
thông tin, lượng thông tin có được đối với hai bên giao dịch là khác nhau.
Thông tin bất cân xứng có thể dẫn đến hai tình huống: lựa chọn ngược và
rủi ro đạo đức. Lựa chọn ngược luôn là vấn đề đối với thị trường tài
chính, tiền tệ vì rủi ro tín dụng xấu lại có thể rơi vào những người tích cực
đi vay và dễ được lựa chọn cho vay nhất. Kết quả là người cho vay có thể
quyết định không cấp bất cứ khoản cho vay nào mặc dù vẫn có những
khoản cho vay tốt với cùng điều kịên. Hay người nắm giữ chính sách bảo

hiểm thất bại trong việc thực hiện các biện pháp giảm thiểu rủi ro, người
đi vay lao vào thực hiện các dự án nhiều rủi ro khi lãi suất tăng (do có bảo
lãnh).
Thông tin bất cân xứng làm tăng đáng kể chi phí giao dịch và hạn
chế khả năng hoạt động có hiệu quả của thị trường. Theo nghĩa này, chi
phí giao dịch có thể nhìn nhận đơn giản là một cách thức mô tả nguyên
nhân thất bại của thị trường. Nó là tăng rủi ro tài chính và gây khủng
hoảng tài chính tiền tệ. Các vấn đề này trở nên nghiêm trọng khi thị
trường tài chính, tiền tệ càng ít có khả năng chuyển tải tiết kiệm sang đầu
tư một cách có hiệu quả, và kết cục là các hoạt động kinh tế bị suy giảm
đáng kể. Nếu niềm tin của các nhà đầu tư và công chúng không còn thì thị
trường tài chính và hệ thống ngân hàng có thể rơi vào cảnh hỗn loạn và
vòng xoáy: Lựa chọn ngược, rủi ro đạo đức, suy thoái kinh tế, khủng
hoảng, sẽ gia tăng. Do vậy, một thể chế thích hợp cho thị trường tài chính
tiền tệ nhằm giảm các chi phí giao dịch sẽ tạo ra những khuyến khích thúc


20
đẩy hiệu quả. Các thể chế thị trường tài chính bao gồm các bộ luật, các tổ
chức nhà nước, tư nhân về tài chính – tiền tệ,v.v…
* Thể chế thị trường hàng hoá sức lao động (thị trường lao
động)
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ giữa tư bản và lao động là mối
quan hệ kinh tế cơ bản. K.Marx viết: “Tư bản chỉ phát sinh ở nơi mà
người chủ của những tư liệu sản xuất tìm được người lao động tự do với
tư cách là người bán sức lao động của mình ở trên thị trường” [20,tr.57].
Kinh nghiệm ở các nước phương Tây cho thấy, việc xây dựng kinh tế thị
trường ngay từ bước khởi đầu thấy đều phải gắn với việc giải phóng cá
nhân, mà trước hết về mặt thân thể khỏi các trói buộc của chế độ phong
kiến. Diễn biến này khá điển hình ở Anh, Pháp hay trong lòng chế độ nô

lệ ở Mỹ. Kết quả, người lao động được tự do thân thể, có quyền sở hữu
sức lao động của mình và được quyền đem bán nó.




Hộp 1.3: Các quy định về lao động và các hạn chế trong thị trường lao
động
Hầu hết các quốc gia đều có luật và các quy định để bảo vệ người lao
động. Người ta chia các quy định này thành 5 loại sau:
1. Thiết lập và bảo vệ quyền của người lao động, bao gồm quyền được tổ
chức và liên kết với nhau, quyền được đòi quyền lợi tập thể và quyền tham gia
vào các hoạt động công nghiệp.
2. Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương, bao gồm các yêu cầu về tuổi lao
động tối thiểu, sự công bằng về trả công, các cơ hội tuyển dụng và các điều
khoản đặc biệt cho phụ nữ.

×