Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Xóa đói giảm nghèo ở khu vực duyên hải miền Trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.53 MB, 112 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


LÊ ĐỨC AN


XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở KHU VỰC DUYÊN HẢI
MIỀN TRUNG

Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị
Mã số: 60 31 01

TÓM TẮT LUẬN VĂN
THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH VĂN THÔNG






Hà Nội - 2008






ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


LÊ ĐỨC AN



XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
Ở KHU VỰC DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01

TÓM TẮT LUẬN VĂN
THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ







Hà Nội - 2008





MỤC LỤC

Trang
Phần mở đầu
1
Chương 1: Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về đói, nghèo và
xoá đói, giảm nghèo.
6
1.1 Các quan niệm về đói nghèo và các thước đo. Những ảnh
hưởng của đói nghèo đối với xã hội.
6
1.1.1 Các quan niệm về đói nghèo
6
1.1.2 Tiêu chí xác định chuẩn đói nghèo quốc tế và ở Việt Nam
8
1.1.3 Những ảnh hưởng của đói nghèo đối với xã hội
10
1.2 Các cách tiếp cận về nguyên nhân đói nghèo trong lịch sử
12
1.2.1 Quan điểm của Mantuýt
12
1.2.2 Quan điểm của Các Mác về tích lũy tư bản và bần cùng hóa
giai cấp vô sản
12
1.2.3 Quan điểm của một số nhà xã hội học tư sản hiện đại
13
1.3 Khái quát về đói nghèo và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam
15
1.3.1 Tình trạng đói nghèo ở Việt Nam
15

1.3.2 Các nguyên nhân dẫn tới đói nghèo
17
1.3.3 Tình hình xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam
22
1.4 Một số kinh nghiệm của một số vùng của Việt Nam về thực
hiện xoá đói giảm nghèo.
25
1.4.1. Kinh nghiệm về xoá đói giảm nghèo ở vùng Tây Nguyên
25
1.4.2 Kinh nghiệm về xoá đói giảm nghèo ở Đồng bằng sông Cửu
Long
27
1.4.3 Kinh nghiệm về xoá đói giảm nghèo ở một số tỉnh miền núi
phía Bắc
29
Chương 2: Thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm
nghèo ở khu vực duyên hải miền Trung
32
2.1 Giới thiệu khái quát về tinh hình kinh tế - xã hội ở khu
vực duyên hải miền Trung.
32
2.1.1 Vị trí địa lý
32
2.1.2 Dân cư và lao động
33
2.1.3 Kinh tế và cơ cấu kinh tế
35
2.1.4 Cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội
38



2.1.5 Các lĩnh vực văn hóa – xã hội, khoa học công nghệ và môi
trường
40
2.2 Thực trạng công tác xoá đói giảm nghèo ở khu vực duyên
hải miền Trung
44
2.2.1 Thực trạng đói nghèo và nguyên nhân của đói nghèo ở khu
vực duyên hải miền Trung
44
2.2.2 Tình hình xoá đói giảm nghèo ở khu vực duyên hải miền
Trung
52
2.3 Đánh giá chung về kết quả của công tác xoá đói, giảm
nghèo
59
2.3.1 Những thành tựu đạt được
59
2.3.2 Những hạn chế, tồn tại trong việc xóa đói giảm nghèo
63
2.4 Những vấn đề cấp bách cần giải quyết để phục vụ cho công
tác xóa đói giảm nghèo
67
2.4.1 Cải thiện một bước cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội nhất là hạ
tầng giao thông, thủy lợi, điện và nước sinh hoạt cho người dân.
Phát triển các hoạt động sự nghiệp giáo dục và y tế
67
2.4.2 Xã hội hóa các hoạt động xóa đói, giảm nghèo
69
2.4.3 Đẩy mạnh các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến

ngư và phát triển ngành nghề nhằm giải quyết việc làm, tăng thu
nhập.
71
Chương 3: Định hướng và các giải pháp chủ yếu đẩy mạnh
công tác xoá đói giảm nghèo ở khu vực duyên hải miền Trung
73
3.1 Định hướng về công tác xoá đói giảm nghèo ở khu vực
duyên hải miền Trung
73
3.1.1 Quan điểm chung về công tác xoá đói giảm nghèo
73
3.1.2 Định hướng và mục tiêu xoá đói giảm nghèo đối với khu vực
duyên hải miền Trung
76
3.2 Các giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác xoá đói giảm
nghèo ở khu vực duyên hải miền Trung
78
3.2.1 Xây dựng chương trình xoá đói nghèo sát với điều kiện cụ
thể của khu vực miền Trung
78
3.2.2 Giải pháp về cơ chế, chính sách nhất là các chính sách về đất
đai, tài chính và tín dụng
81


3.2.3 Đẩy mạnh công tác đào tạo, tập huấn cho người nghèo, nhất
là phụ nữ, người dân tộc về kiến thức, kỹ năng sản xuất kinh
doanh
83
3.2.4 Giải pháp về các chính sách cứu trợ xã hội.

84
3.3 Một số kiến nghị để thực hiện tốt công tác xoá đói giảm
nghèo ở khu vực duyên hải miền Trung
86
3.3.1 Quản lý phát triển vùng kết hợp với xóa đói, giảm nghèo
86
3.3.2 Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và tạo việc làm
cho người lao động
86
3.3.3 Hoàn thiện thể chế, trao quyền nhiều hơn cho cấp cơ sở và
khuyến khích sự tham gia của cộng đồng
87
3.3.4 Huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển
89
3.3.5 Các chính sách liên kết
92
3.3.6 Khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lý để bảo vệ môi
trường bền vững và giảm nghèo
92
Kết luận
94
Tài liệu tham khảo
96























DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.
ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á.
Bộ LĐTBXH: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội.
MPI: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
NXB: Nhà xuất bản
ODA: Viện trợ phát triển chính thức.
UNDP: Chương trình Phát triển Liên hợp Quốc.
UBND: Ủy ban nhân dân.
WB: Ngân hàng Thế giới.
WTO: Tổ chức thương mại thế giới.
XĐGN: Xóa đói giảm nghèo.
XHCN: Xã hội chủ nghĩa.













DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Trang
Biểu 1.1: Tỷ lệ hộ đói nghèo

16
Biểu 2.1: Dân cư và thành phần dân cư vùng duyên hải miền Trung.

34
Biểu 2.2: Quy mô dân số trong tuổi lao động và lực lượng lao động ở
khu vực duyên hải miền Trung (1996 -2007).

35
Biểu 2.3: GDP bình quân đầu người năm 2007 khu vực duyên hải
miền Trung.

36
Biểu 2.4: Cơ cấu kinh tế của khu vực giai đoạn 2000 -2007 (%).


37
Biểu 2.5: Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới (năm 2005) vùng duyên hải
miền Trung.

45
Biểu 2.6: Thực trạng hộ nghèo vùng duyên hải miền Trung so với cả
nước (năm 2005).

46
Biểu 2.7: Kết quả giảm tỷ lệ hộ nghèo vùng duyên hải miền Trung giai
đoạn 2001 – 2005 (Theo chuẩn nghèo 2001).

52
Biểu 2.8: Tăng trưởng GDP theo giá cố định (2001 - 2007),%

60
Biểu 3.1: Tóm tắt các tiềm năng lớn theo vùng địa lý.

80









1
PHẦN MỞ ĐẦU.

1.Tính cấp thiết của đề tài.
Ngày nay, trong bối cảnh quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới
thì bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển đều phải tham gia vào quá trình đó.
Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế đã làm cho thế giới có những sự thay đổi căn
bản. Rất nhiều nước nắm bắt được cơ hội và có các chính sách phù hợp do đó đã
góp phần phát triển kinh tế.
Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, bên
cạnh đó nạn đói nghèo trên thế giới vẫn tiếp tục gia tăng. Theo các thống kê cho
thấy, chênh lệch giữa thu nhập của 20% dân số thuộc lớp người giàu nhất và của
20% dân số thuộc lớp người nghèo nhất trên thế giới trong năm 1960 là 30 lần
thì đến năm 1990 đã tăng lên đến 60 lần và đến năm 1997 là 74 lần. Nghèo đói
đã và đang diễn ra trên khắp các châu lục với những mức độ khác nhau, đặc biệt
là ở những nước lạc hậu, chậm phát triển.
Ở Việt Nam, qua hơn 20 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn
về kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đó thì tình trạng đói
nghèo vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi phía Bắc, ở khu
vực duyên hải miền Trung và Tây Nguyên đã trở thành một thách thức đối với
sự phát triển của đất nước. Ở khu vực duyên hải miền Trung tình trạng đói
nghèo vẫn diễn ra hết sức trầm trọng, tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn cao so với trung
bình của cả nước, số hộ tái nghèo do thiên tai, bệnh dịch còn nhiều, có nguy cơ
gây nên những hậu quả tiêu cực đến tình hình kinh tế, xã hội của khu vực. Chính
vì vậy, trong giai đoạn hiện nay cùng với những nỗ lực để tăng trưởng kinh tế thì
xoá đói giảm nghèo cũng là một vấn đề được Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan
tâm, được đặt thành một bộ phận của chiến lược dài hạn, trung hạn và hàng năm
về phát triển kinh tế – xã hội từ Trung ương đến cơ sở vì đây là một trong những
yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững.
Trong thời kỳ đổi mới, sự phát triểu kinh tế của khu vực duyên hải miền
Trung đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ. Tiềm năng phát triển của khu



2
vực sẽ được phát huy và có nhiều cơ hội hơn khi chuyển mạnh sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN và mở cửa, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới,
đã gia nhập tổ chức thương mại Thế giới (WTO). Phát triển kinh tế mạnh sẽ tạo
điều kiện giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, nhất là các vấn đề xã hội bức xúc
như việc làm, xoá đói giảm nghèo, an sinh xã hội… Tuy nhiên, so với cả nước
thì khu vực duyên hải miền Trung vẫn còn chậm phát triển, chưa tương xứng với
yêu cầu tăng trưởng của đất nước. Địa hình khó khăn chủ yếu ở khu vực này
khiến cho tốc độ phát triển nông nghiệp thấp, trong khi đó thiếu cơ sở hạ tầng và
dịch vụ khuyến nông cũng như thiếu các phương tiện thị trường, kém phát triển
công nghệ và rủi ro là nguyên nhân chính dẫn tới tốc độ tăng trưởng thấp.
Những nhân tố này cũng dẫn tới mức độ đầu tư thấp từ khu vực tư nhân để tạo
thêm việc làm và thu nhập cho người dân. Chính vì vậy, quá trình giảm nghèo
vẫn còn chậm ở nhiều tỉnh trong khu vực và có sự khác biệt giữa các nhóm dân
cư, sự khác biệt về vùng và phân bổ nguồn lực. Do đó, việc thực hiện công tác
xoá đói giảm nghèo ở khu vực duyên hải miền Trung để góp phần thu hẹp
khoảng cách với các vùng trong cả nước cũng là một vấn đề quan trọng. Thực
hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo trong phạm vi cả nước nói chung và khu
vực duyên hải miền Trung nói riêng là một trong những yếu tố quan trọng góp
phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững và qua đó thực hiện
được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Chính vì tính cấp thiết như vậy nên luận văn đã lựa chọn đề tài nghiên cứu
“Xoá đói giảm nghèo ở khu vực duyên hải miền Trung”.
2. Tình hình nghiên cứu.
Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình, báo cáo khoa học, luận văn
thạc sỹ nghiên cứu về vấn đề đói, nghèo và xoá đói giảm nghèo ở các cấp độ
khác nhau:
- “Tình trạng nghèo khổ ở các nước đang phát triển” – Ngân hàng Thế
giới.



3
- “Vấn đề nghèo ở Việt Nam” – Sách do Công ty ADUKI tổ chức nghiên
cứu và Cơ quan hợp tác phát triển quốc tế Thuỵ Điển xuất bản năm 1995.
- “Đói nghèo và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam” của Ts Chu Tiến Quang
(Chủ biên) – NXB Nông nghiệp Hà Nội 2001.
- Chiến lược về toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo của
Chính phủ năm 2002.
- Nghèo. Báo cáo phát triển Việt Nam 2004 (Báo cáo chung của các nhà
tài trợ), Hà Nội, tháng 12 -2003.
- Xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp. Luận văn
thạc sỹ. Hoàng Triều Hoa – Khoa Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội. Năm
2004.
- Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số Việt Nam: Thực trạng và
giải pháp. Luận văn thạc sỹ. Lê Ngọc Thanh – Khoa Kinh tế - Đại học Quốc gia
Hà Nội. Năm 2004.
- Ban chỉ đạo quốc gia thực hiện Chiến lược về tăng trưởng và xoá đói
giảm nghèo (CPRGS). Việt Nam – Tăng trưởng và Giảm nghèo, tháng 11-2004.
- Văn kiện chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006
– 2010, tháng 2 – 2005.
- Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Chương trình mục tiêu quốc gia
về giảm nghèo giai đoạn 2006-2010. Hà Nội, tháng 7 năm 2005.
- Xoá đói giảm nghèo trong quá trình phát triển bền vững ở vùng Tây
Nguyên. Hà Nội, tháng 2 năm 2005.
- Báo cáo “Những thách thức chính trong tăng trưởng và giảm nghèo ở
Đồng bằng Sông Cửu Long Việt Nam “– Viện Chiến lược phát triển – Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, tháng 9 năm 2005.


4

- Báo cáo Những thách thức chính trong tăng trưởng và giảm nghèo ở
vùng miền núi phía Bắc Việt Nam – Viện Chiến lược phát triển – Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, tháng 8 năm 2005.
- Tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam – Trung tâm thông tin
và dự báo kinh tế xã hội Quốc gia, năm 2007.
Ngoài ra còn có một số đề tài nghiên cứu về công tác xoá đói giảm nghèo
của WB, ADB, UNDP… Tuy nhiên, việc nghiên cứu về thực trạng đói nghèo,
nguyên nhân và một số biện pháp để xoá đói giảm nghèo ở khu vực duyên hải
miền Trung trong bối cảnh mới của đất nước vẫn chưa được đề cập thoả đáng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo
ở khu vực Duyên hải miền Trung, để tìm ra những giải pháp thiết thực nhằm đẩy
mạnh công tác xoá đói giảm nghèo ở khu vực duyên hải miền Trung nước ta.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về đói nghèo và kinh nghiệm
thực tiễn về công tác xoá đói giảm nghèo ở một số địa phương ở nước ta trong
thời gian qua.
+ Phân tích thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo ở các
tỉnh duyên hải miền Trung.
+ Nghiên cứu đề ra các giải pháp nhằm thúc đẩy công tác xóa đói giảm
nghèo ở các tỉnh duyên hải miền Trung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu tình trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm
nghèo ở khu vực duyên hải miền Trung trong quá trình phát triển kinh tế từ năm
1995 đến nay. Vấn đề nghèo đói có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác
nhau, xong luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ kinh tế chính trị.


5

5. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong quá trình
nghiên cứu, luận văn có sử dụng các phương pháp như: thống kê, so sánh, điều
tra thực tiễn phân tích, tổng hợp và hệ thống hoá.

6. Đóng góp của luận văn .
Phân tích thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo ở khu vực
duyên hải miền Trung trong thời gian qua, những thành tựu và thách thức của
công tác xoá đói, giảm nghèo ở khu vực này. Luận văn có những đóng góp mới
như sau:
- Hệ thống hoá được những vấn đề lý luận về tình trạng nghèo đói và
nguyên nhân nghèo đói dưới các góc độ tiếp cận khác nhau trong lịch sử.
- Nghiên cứu kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo ở một số địa phương và rút
ra những bài học kinh nghiệm thiết thực cho công tác XĐGN ở khu vực duyên
hải miền Trung.
- Phân tích thực trạng nghèo đói ở khu vực và chỉ ra những nguyên nhân
dẫn tới tình trạng nghèo đói ở khu vực duyên hải miền Trung.
- Chỉ ra được những giải pháp thiết thực nhằm xoá đói giảm nghèo phù
hợp với điều kiện ở khu vực duyên hải miền Trung.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh muc tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương.
Chương 1: Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về đói, nghèo và xoá đói,
giảm nghèo.
Chương 2: Thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo ở khu
vực duyên hải miền Trung.


6

Chương 3: Định hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh việc
xoá đói giảm nghèo ở khu vực duyên hải miền Trung.




CHƯƠNG 1
MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÓI, NGHÈO VÀ
XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO.
1.1 Các quan niệm về nghèo đói và các thước đo. Những ảnh hưởng
của nghèo đói đối với xã hội.
1.1.1. Các quan niệm về nghèo đói.
Nghèo đói là một trong những vấn đề xã hội mà hầu hết các quốc gia đều
gặp phải trong quá trình phát triển kinh tế của mình. Do đó, trong chiến lược
phát triển của mỗi quốc gia, để có thể thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội thì vấn đề xoá đói nghèo là một trong những mục tiêu
quan trọng nhất.
Trong năm 1999, Ngân hàng Thế giới đã thực hiện một cuộc điều tra về
người nghèo ở một số nước trong đó có Việt Nam. Thông qua các ý kiến của
người nghèo qua trả lời phỏng vấn, các nhà nghiên cứu đã xác định được 5 nội
dung xung quanh về vấn đề nghèo đói:
- Nghèo đói là một hiện tượng kinh tế – xã hội phức tạp. Những yếu tố
dẫn đến nghèo đói khác nhau rất lớn giữa các nền kinh tế và các nhóm xã hội,
các phương pháp dùng để đo sự nghèo đói cũng rất khác nhau.
- Nghèo đói thường được coi là sự thiếu các thứ vật chất cần thiết cho
cuộc sống trong đó lương thực là đặc biệt quan trọng cùng với đất đai và nhà ở.


7
Vì vậy, thu nhập thấp và các điều kiện sinh hoạt vật chất thấp kém là những

thước đo quan trọng của nghèo đói.
- Có những yếu tố tâm lý quan trọng liên quan tới nghèo đói, đặc biệt là
cảm giác không có quyền hành. Những người nghèo thường cảm thấy bị coi
thường trong cách đối xử của cá nhân hoặc cộng đồng. Điều này thường thấy
trong trường hợp họ xin trợ giúp tạm thời hoặc lâu dài.
- Sự thiếu cơ sở hạ tầng cũng tác động đến nghèo đói và thường được coi
là một biến chính liên quan đến nghèo đói. Điều này được thể hiện rõ ở việc có
hay không có các nguồn nước vì đây là một yếu tố quan trọng trong sinh hoạt
hàng ngày và trong sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, giao thông cũng là một
yếu tố quan trọng trong việc tiếp cận với thị trường và tiêu thụ sản phẩm.
- Những người nghèo nhấn mạnh đến sự thiếu các phương tiện sản xuất và
đặc biệt là sự thiếu vốn cho sản xuất và kinh doanh, cùng các kỹ năng sản xuất,
kiến thức kinh doanh.
Như vậy, trong quan niệm về nghèo đói bao gồm sự thiếu hụt trên nhiều
khía cạnh khác nhau. Nghèo về vật chất, thiếu vốn, thiếu phương tiện sản xuất,
thiếu các cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho sản xuất và cuộc sống; Đồng thời
nghèo cũng gây ra những ảnh hưởng tâm lý nhất định như cảm giác không được
tôn trọng, hay bị các cá nhân và cộng đồng coi thường dẫn đến tâm lý tự ti, ngại
tiếp xúc.
Để đánh giá về mức độ nghèo đói, người ta có thể dựa vào nhiều tiêu chí
khác nhau để đánh giá. Dưới đây là một vài tiêu chí chủ yếu:
Lấy lương thực làm cơ sở để đánh giá (đánh giá mức độ nghèo qua lượng
lương thực mà gia đình tiêu thụ hàng năm).
Lấy tài sản làm cơ sở (nhà cửa tồi tàn, không có tư liệu sản xuất).
Lấy thu nhập làm cơ sở (Căn cứ trên thu nhập bình quân đầu người hàng
năm).


8
Lấy những chỉ dẫn cụ thể làm cơ sở (tỷ lệ bỏ học, tỷ lệ trẻ em suy dinh

dưỡng, tỷ lệ thất nghiệp…).
Lấy tài sản kết hợp với thu nhập làm cơ sở.
Trên cơ sở và những quan niệm về nghèo đói như trên, tại hội nghị chống
đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc,
Thái Lan tháng 9/1993 đã đưa ra một định nghĩa chung về nghèo đói: Nghèo là
tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu
cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ
theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và phong tục tập quán của địa phương.
Từ định nghĩa trên ta có thể thấy nghèo là một bộ phận dân cư không có khả
năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu (ăn, ở, mặc, y tế, văn hoá, giáo dục, giao
tiếp). Đây được xem là một định nghĩa chung nhất về nghèo, một định nghĩa có
tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện những nét chính yếu về
nghèo. Ngoài định nghĩa trên, thì theo Ngân hàng Thế giới “nghèo là tình trạng
không có khả năng có mức sống tối thiểu”.
1.1.2. Tiêu chí xác định chuẩn đói nghèo quốc tế và ở Việt Nam.
1.1.2.1. Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo quốc tế.
Phương pháp xác định đường đói nghèo theo chuẩn quốc tế do Tổng cục
Thống kê, Ngân hàng Thế giới xác định và được thực hiện trong các cuộc khảo
sát mức sống dân cư ỏ Việt Nam (năm 1992 – 1993 và năm 1997 - 1998).
Đường đói nghèo ở mức thấp gọi là đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm.
Đường đói nghèo thứ hai ở mức chung hơn gọi là đường đói nghèo chung (bao
gồm cả mặt hàng lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm).
+ Đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm: Được xác định theo chuẩn
mà hầu hết các nước đang phát triển cũng như Tổ chức Y tế Thế giới đã xây
dựng mức Kcal tối thiểu cần thiết cho mỗi thể trạng con người, là chuẩn về nhu
cầu 2.100 Kcal/người/ngày. Những người có mức chi tiêu dưới mức chi cần
thiết để đạt được lượng Kcal này được gọi là nghèo về lương thực, thực phẩm.


9

+ Đường đói nghèo chung tính thêm các chi phí cho các mặt hàng phi
lương thực, thực phẩm. Tính cả chi phí này với đường đói nghèo về lương thực,
thực phẩm ta có đường đói nghèo chung.
Theo cách tính trên, năm 1993 đường đói nghèo chung của Việt Nam là
1,16 triệu VNĐ/năm/người (cao hơn đường đói nghèo lương thực thực phẩm là
55%); năm 1998 là 1,79 triệuVNĐ/năm/người (cao hơn đường đói nghèo lương
thực, thực phẩm là 39%).
1.1.2.2. Tiêu chí xác định chuẩn đói nghèo của Việt Nam.
Chuẩn hộ nghèo được áp dụng chưa thống nhất trong các thời kỳ khác
nhau. Giai đoạn từ năm 1996 - 2000 chuẩn nghèo được quy định theo 3 khu vực
(tính theo mức thu nhập bình quân đầu người trong một hộ gia đình, quy ra gạo):
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg gạo/người/tháng (tương
đương 55.000 VNĐ).
+ Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20kg/người/tháng (tương
đương 70.000 VNĐ).
+ Vùng thành thị: dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90.000 VNĐ).
Từ năm 2001, căn cứ vào quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, nguồn lực
tài chính 2001 – 2005 và mức sống thực tế của người dân từng vùng, Bộ Lao
động, Thương binh và Xã hội đã đưa ra chuẩn đói nghèo mới. Cụ thể là:
+ Khu vực nông thôn miền núi: 80.000đ/người/tháng.
+ Khu vực nông thôn đồng bằng: 100.000đ/người/tháng.
+ Khu vực thành thị: 150.000đ/người/tháng.
Chuẩn nghèo giai đoạn 2006 -2010 được xác định theo phương pháp dựa
trên nhu cầu chi tiêu cho lương thực, thực phẩm và phi lương thực thực phẩm.
Phần chi cho lương thực thực phẩm bảo đảm năng lượng hàng ngày cho một
người là 2100 Kcal, chiếm khoảng 60% tổng chi tiêu; phần chi cho phi lương
thực và thực phẩm (mặc, nhà ở, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại, giao tiếp xã hội)


10

chiếm khoảng 40%. Tổng chi tiêu cho lương thực thực phẩm và phi lương thực
thực phẩm quy ra tiền gọi là chuẩn nghèo. Trong giai đoạn này, chỉ sử dụng 2
chuẩn nghèo cho khu vực nông thôn và thành thị, cụ thể là:
+ Khu vực nông thôn: Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người
dưới 200.000đ/người/tháng (dưới 2.400.000đ/năm).
+ Khu vực thành thị: Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người
dưới 260.000đồng/tháng (dưới 3.120.000đồng/năm).
Ngoài ra có chú ý tới yếu tố về nhà ở, tài sản, đất đai, tay nghề, công cụ
sản xuất.
Theo chuẩn mới này, năm 2005 cả nước có khoảng 4,6 triệu hộ nghèo
(thành thị khoảng 519 ngàn hộ, nông thôn khoảng hơn 4 triệu hộ). Tỷ lệ hộ
nghèo chung cả nước so với tổng số hộ 22%. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2007 là
14,75% và dự kiến năm 2010 còn khoảng 12%.
1.1.3. Những ảnh hưởng của đói nghèo đối với xã hội.
- Ảnh hưởng đến phát triển kinh tế:
Đối với các nước đang phát triển trên thế giới nói chung và ở Việt Nam
nói riêng thì nghèo đói luôn luôn gắn liền với tình trạng lạc hậu về mặt kinh tế,
cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu đồng bộ và đây cũng là một trở ngại lớn đối với
các nước trong quá trình hội nhập và phát triển. Nhìn chung, nghèo đói có tác
động tiêu cực đến phát triển kinh tế thể hiện ở sự phát triển chậm của lực lượng
sản xuất, tỷ lệ thất nghiệp cao, không có đủ sức mạnh về vật chất để đầu tư lớn
cho phát triển kinh tế. Nghèo đói dẫn đến tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh
tế còn thấp, hiệu quả của nền kinh tế chưa cao, nhiều lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, ngành sản phẩm chưa đủ năng lực cạnh tranh do việc đầu tư ít và dàn
trải. Những khó khăn trên cũng dẫn đến việc huy động, sử dụng và quản lý các
nguồn lực của nền kinh tế còn kém hiệu quả, sức sản xuất chưa được giải phóng
và phát huy hết hiệu quả và làm cho nền kinh tế ngày càng chậm phát triển.


11

Nghèo đói cũng dẫn tới việc chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp, thể hiện
ở việc chuyện dịch cơ cấu kinh tế chậm (tỷ trọng nông nghiệp vẫn chiếm phần
lớn trong cơ cấu thành phần kinh tế), hiệu quả sử dụng vốn thấp, công nghệ
chậm đổi mới, tốc độ tăng GDP giảm. Bên cạnh đó, nghèo đói cũng dẫn tới ít có
điều kiện đầu tư cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là kết cấu hạ tầng
nông thôn từ đó dẫn tới tốc độ phát triển kinh tế chậm, nhất là ở khu vực nông
thôn và làm cho tỷ lệ nghèo càng gia tăng.
Ở Việt Nam hiện nay, xoá đói giảm nghèo đang được Đảng và Nhà nước
ta đặc biệt quan tâm mà mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất là nâng cao mức
sống của mọi người dân. Đặc biệt ở khu vực duyên hải miền Trung với hàng loạt
các chính sách hỗ trợ phát triển đã tạo ra những thay đổi cơ bản, tỷ lệ thất nghiệp
giảm, thu nhập tăng, đầu tư cho các chương trình phúc lợi xã hội được cải thiện,
do đó góp phần làm giảm tỷ lệ đói nghèo.
- Ảnh hưởng về mặt xã hội:
Nghèo đói không chỉ có tác động tiêu cực đến kinh tế mà còn có ảnh
hưởng không nhỏ đến các vấn đề xã hội. Thực tế ở nhiều nơi cho thấy, khi tỷ lệ
nghèo đói tăng cao thì sẽ dẫn tới sự bất ổn về an ninh, xã hội. Có thể nói, tệ nạn
xã hội tỷ lệ thuận với việc nghèo đói. Trong khi ở những đô thị lớn việc giải
quyết trợ cấp được thực hiện dễ dàng, đảm bảo được mức sống tối thiểu cho
người dân thì ở nhũng vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thì việc thực hiện các
trợ cấp còn hạn chế và chưa đầy đủ. Những tệ nạn xã hội như trộm cắp, ma tuý
gây ra những rối loạn trong xã hội ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức xã hội.
Trong khi tiêu chí để đánh giá đói nghèo ngày càng được mở rộng ra thì các tệ
nạn xã hội vẫn tồn tại như một minh chứng cho sự kém phát triển và lạc hậu.
Ngoài ra, nghèo đói còn dẫn đến việc chi phí cho y tế, giáo dục và phúc lợi xã
hội ở mức thấp dẫn đến tình trạng giáo dục và y tế thường xuyên ở mức độ thấp
kém, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng tăng cao, tỉ lệ bỏ gia tăng.
Nghèo đói còn dẫn tới bất bình đẳng giới gia tăng.



12
Tình trạng nghèo đói đã dẫn tới những bất bình đẳng về mặt xã hội đó là
những bất công mà cá nhân phụ nữ và trẻ em gái phải chịu đựng do nghèo đói.
Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông nghiệp và chiếm tỷ lệ cao
trong số lao động tăng thêm trong ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, phụ nữ chỉ
chiếm 25% thành viên các khoá khuyến nông về chăn nuôi và 10% các khoá
khuyến nông về trồng trọt.
Phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo, thường
gặp nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định
trong hộ gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng
một loại công việc. Phụ nữ có học vấn thấp dẫn tới tỷ lệ tử vong trẻ em sơ sinh
và bà mẹ cao hơn, sức khoẻ của gia đình bị ảnh hưỏng và trẻ em bỏ học gia tăng.
Nghèo đói cũng dẫn tới bất bình đẳng giới gia tăng.
Như vậy, nghèo đói không chỉ tác động mạnh đến kinh tế mà nó ảnh
hưởng lớn đế nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

1.2 Các cách tiếp cận về nguyên nhân đói nghèo trong lịch sử.
1.2.1. Quan điểm của Mantuýt
Học thuyết của Mantuýt về: Nhân khẩu thừa và tình trạng nghèo khổ.
Mantuýt (1776 - 1834) là một nhà kinh tế học cổ điển Anh. Theo ông thì
lương thực, thực phẩm tăng lên không nhanh bằng dân số, vì thế các luật về
những người nghèo và về cứu trợ chắc chắn sẽ thất bại vì chúng khuyến khích
những người nghèo nhất tăng lên gấp bội. Ông cho rằng khả năng nhân dân số
lên là vô cùng lớn hơn khả năng đất đai sản xuất ra thực phẩm cho con người.
Theo ông, một khi dân số không bị dừng lại bởi một trở ngại nào, nó sẽ tăng lên
gấp đôi cứ mỗi 25 năm và tăng lên từ thời kỳ này sang thời kỳ khác như vậy
theo cấp số nhân còn những tư liệu sinh hoạt thì trong những điều kiện thuận lợi
nhất bao giờ cũng chỉ tăng theo cấp số cộng. Mantuýt cho rằng hạn chế dân số là
một trong những điều kiện cần thiết để bảo đảm cho các dân cư có một hoàn



13
cảnh có thể chấp nhận được về mức sống của họ, lượng thực phẩm có sẵn phải
qui định nhịp độ dân số gia tăng. Theo ông, nguyên nhân sinh ra nghèo khổ, thất
nghiệp là do dân số tăng quá nhanh, người nghèo sinh đẻ quá nhiều và nó như là
một định mệnh. Tuy nhiên, cách nhìn nhận của ông về việc tăng dân số gây ra
tình trạng nghèo đói còn sơ sài, chưa đưa ra được những thống kê xác thực cũng
như không có một cơ sở khoa học xác thực nào, phản ánh cách nhìn tự nhiên chủ
nghĩa, trái với bản chất xã hội của con người.
1.2.2. Quan điểm của Các Mác về tích lũy tư bản và bần cùng hóa giai
cấp vô sản.
Theo Mác, nguyên nhân cơ bản, sâu xa nhất dẫn đến phân hóa giai cấp,
phân hóa giàu nghèo là có hoặc không có quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
dẫn tới bất bình đẳng về phân phối thu nhập. Mác cũng cho rằng quá trình tích
luỹ tư bản có tính hai mặt đó là: Tích luỹ sự giàu sang về phía giai cấp tư sản và
tích luỹ sự bần cùng về phía giai cấp vô sản.
Bần cùng hoá giai cấp vô sản biểu hiện dưới hai hình thức: Bần cùng hoá
tương đối và bần cùng hoá tuyệt đối.
- Bần cùng hoá tương đối là cùng với tăng cường lực lượng sản xuất phần
sản phẩm phân phối cho giai cấp công nhân tuy có tăng tuyệt đối, nhưng lại
giảm tương đối so với phần giành cho giai cấp tư sản.
- Bần cùng hoá tuyệt đối có nghĩa là mức sống của một bộ phận giai cấp
công nhân ngày càng không được đảm bảo so với nhu cầu thì mức sống của họ
ngày càng giảm hơn trước. Tuy thu nhập tăng lên nhưng vẫn không đáp ứng
những nhu cầu thiết yếu trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể (trừ những người bị
thất nghiệp thì mức sống giảm tuyệt đối). Tuy nhiên, khi bàn về bần cùng hoá
tuyệt đối cần lưu ý luận điểm là bản thân những nhu cầu tự nhiên như thức ăn,
quần áo, chất đốt, nhà ở v.v… cũng khác nhau tuỳ theo đặc điểm của từng nước.
Mặt khác, quy mô của cái gọi là những nhu cầu thiết yếu, cũng như những
phương thức thoả mãn những nhu cầu đó, bản thân chúng cũng là một sản phẩm

của lịch sử và vì thế mà phụ thuộc phần lớn vào trình độ văn minh của mỗi


14
nước, ngoài ra cũng còn phụ thuộc rất nhiều vào những điều kiện và do đó
những thói quen và những nhu cầu sinh hoạt trong đó giai cấp những người lao
động được hình thành.
- Theo một số nhà nghiên cứu, hiện nay ở những nước tư bản chủ nghĩa
phát triển, người ta quan niệm rằng những người có mức thu nhập bằng nửa mức
thu nhập bình quân tính theo đầu người hàng năm là người nghèo và những
người có mức thu nhập thấp hơn mức ấy được gọi là sống dưới mức nghèo khổ.
- Ở những nước đang phát triển, người ta xét 4 tiêu chuẩn: thiếu dinh
dưỡng, trình độ học vấn thấp, thiếu sự chăm sóc về y tế và tuổi thọ thấp để đánh
giá mức bần cùng tuyệt đối. Theo cách tính này, trên thế giới hiện có khoảng 1,2
tỷ người được liệt vào tình trạng bần cùng tuyệt đối.
Do đó, xóa đói giảm nghèo hiện vẫn đang là vấn đề thời sự mang tính
toàn cầu.
1.2.3 Quan điểm của một số nhà xã hội học tư sản hiện đại.
- Mác Veibơ (1864 -1920): Quan điểm của ông về phân tầng xã hội đó là
một cách thức mà sự phân phối quyền lực trong xã hội được thể chế hóa và ông
cũng nhìn nhận nguồn gốc phân chia giai cấp gắn với phân chia giữa những
người có sở hữu và người không có sở hữu. Ông cũng nhấn mạnh rằng, ngoài sự
phân chia đó phải chú ý đến sự hình thành các nhóm xã hội trên cơ sở tín nhiệm.
Các nhóm xã hội này được xác nhận không phải bởi vị trí của họ trong sản xuất
mà chính ở năng lực của họ. Theo Mác Veibơ, bản thân người có phương tiện
kinh tế chưa hẳn có quyền lực và uy tín, mà nó có thể tạo ra bởi nhân tố khác,
chẳng hạn giáo dục, trình độ, văn hóa.
Mác Veibơ nhấn mạnh đến khả năng thị trường, xem đây là nguyên nhân
đầu tiên của bất bình đẳng xã hội hơn là yếu tố tài sản. Như vậy, trong nền kinh
tế thị trường, vấn đề tiếp cận thị trường là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến số

phận của các cá nhân. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận thị trường của mỗi người
không giống nhau. Theo Mác Veibơ, có cả nhân tố tự nhiên, bẩm sinh cũng như
nhân tố xã hội quy định khả năng tiếp cận này. Ở mỗi người đều có sự khác


15
nhau về năng lực, trí tuệ, đạo đức. Sự không đồng đều này chính là nguồn gốc tự
nhiên của sự bất bình đẳng và do đó con người có xu hướng xoá bỏ nó thông qua
những cố gắng xã hội.
Tóm lại, ở Mac Veibơ ta tìm thấy trong nghiên cứu về phân tầng và phân
hóa giàu nghèo đều nhấn mạnh đến ba yếu tố: tài sản, trí tuệ và quyền lực theo
quan điểm về nền kinh tế thị trường của xã hội học tư sản hiện đại.
- Kudơnhét (1901) là một nhà kinh tế học người Mỹ. Ông đã đưa ra quan
điểm về phân hoá phụ thuộc vào các giai đoạn phát triển và quy mô tổng sản
phẩm quốc dân.
Theo ông, khi thu nhập bình quân đầu người thấp thì mức độ bất bình
đẳng cũng thấp. Bất bình đẳng sẽ tăng lên theo đà tăng trưởng kinh tế và chỉ
giảm khi xã hội đạt đến một trình độ phát triển kinh tế – xã hội nhất định. Giai
đoạn đầu, bắt đầu tăng trưởng kinh tế nhưng đồng thời bất công xã hội cũng tăng
lên. Giai đoạn giữa khi tăng trưởng kinh tế đã đạt tới mức cao, bất công xã hội
cũng đạt đến mức cao nhất. Lúc này, nhờ tăng trưởng kinh tế mà xã hội đã có
thể quan tâm đến sự phân phối công bằng cho mọi người. Giai đoạn cuối, đồng
thời với tăng trưởng kinh tế vẫn tiếp tục tăng lên, công bằng xã hội cũng tăng
lên.
Những người theo quan điểm trên đây cho rằng tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội có mẫu thuẫn trái ngược nhau, muốn tăng trưởng kinh tế thì
nhất định phải hy sinh công bằng xã hội, hoặc bỏ qua việc thực hiện công bằng
xã hội trong thời gian nhất định, đợi đến khi kinh tế phát triển cao thì mới có thể
thực hiện được.
Bằng phương pháp khảo sát nghiên cứu định lượng, Kudơnhét đã tìm ra

được nhiều quy luật kinh nghiệm tạo ra sự giàu có của các quốc gia trong đó có
quy luật tăng trưởng. Theo ông, tăng trưởng diễn ra trong sự biến động của cơ
cấu kinh tế, nó thay đổi tỷ trọng các ngành hoạt động, các khu vực hoạt động tuỳ


16
theo các tiến triển về năng suất và sự định hướng nhu cầu tới những sản phẩm
mới.
1.3 Khái quát về đói nghèo và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam
1.3.1. Tình trạng đói nghèo ở Việt Nam.
Tính theo chuẩn nghèo mới năm 2005, đến cuối năm 2007, cả nước còn
2,8 triệu hộ nghèo (chiếm 14,75), giảm được 3,35% so với năm 2004. Tuy tỉ lệ
hộ nghèo giảm nhanh, song tốc độ giảm nghèo giữa các vùng không đều. Các
vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên tỷ lệ hộ nghèo còn cao gấp từ 1,7
đến 2 lần so với tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước. Hơn 90% hộ nghèo sống ở
nông thôn. Kết quả xoá đói giảm nghèo được đánh giá là chưa bền vững do có
một tỷ lệ khá lớn hộ gia đình nằm ngay cận trên chuẩn nghèo nếu gặp thiên tai,
lũ lụt thi khả năng tái nghèo sẽ rất lớn. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số trong
tổng số hộ nghèo của cả nước từ năm 1992 đến năm 2007 có chiều hướng tăng
lên cho thấy tốc độ giảm nghèo của dân tộc thiểu số chậm hơn tốc độ chung của
cả nước.



Biểu 1.1: Tỷ lệ hộ nghèo đói 2004- 2007 (theo chuẩn nghèo năm 2005)

Tỷ lệ hộ
nghèo năm
2004(%)
Số hộ nghèo

2007 (hộ)
Tỷ lệ hộ nghèo
2007 (%)
2007 so với 2004
giảm (%)
1. Đông Bắc
23,20
475.898
21,13
2,07
2. Tây Bắc
46,10
140.310
37,45
8,65
3. ĐB sông Hồng
12,90
426.431
9,62
3,28
4. Bắc Trung Bộ
29,40
635.430
25,51
3,89


17
5. DH min Trung
21,30

293.830
16,26
5,04
6. Tõy Nguyờn
29,20
204.992
22,95
6,25
7. ụng Nam B
6,10
70.302
4,33
1,77
8. B sụng Cu Long
15,30
565.261
12,42
2,87
Ton quc
18,10
2.812.527
14,75
3,35
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu t, năm 2007.
- Đặc điểm về nghèo đói của Việt Nam giai đoạn
này cũng có những điểm khác trớc. Sau hơn 20 năm đổi
mới, thu nhập và mức sống của đại đa số ngời dân đã
đợc cải thiện, do vậy đặc điểm nghèo đói cũng có sự
thay đổi, trớc đây là nghèo về lơng thực thực phẩm
(nhu cầu về ăn no, mặc ấm) cơ bản đợc giải quyết, đến

nay và trong những năm tới là nghèo về các nhu cầu phi
lơng thực thực phẩm (nhu cầu về nhà ở, chăm sóc sức
khoẻ khi ốm đau, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao
tiếp xã hội). Sự phân hoá giàu nghèo đang có xu hớng
tiếp tục gia tăng, cơ hội tiếp cận và thụ hởng các
thành quả của sự phát triển cũng có sự khác biệt giữa
nhóm giàu và nhóm nghèo.
- Nghèo ở Việt Nam rất đa dạng và đợc thể hiện
chủ yếu ở một số dạng sau:
+ Nghèo thể hiện thiếu ăn từ 1 2 tháng, chủ yếu
ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng lũ lụt, hạn
hán, ớc tính mỗi năm có trên 1 triệu lợt ngời thiếu
ăn (200 220 nghìn lợt hộ), chiếm khoảng 15% hộ
nghèo và 1,2% số hộ toàn quốc chủ yếu là dân tộc Vân
Kiều, Pa Cô, Hmông, Jarai, Dao, Ba Na


18
+ Nghèo thể hiện ở nhà tạm bợ (còn khoảng 500 nghìn hộ); tài sản, đồ
dùng lâu bền không có hoặc có những giá trị rất thấp, hầu hết hộ nghèo dân tộc
tài sản chỉ ở mức 1 triệu đến 2 triệu đồng (vùng Tây Nguyên và vùng núi cao).
+ Nghèo thể hiện ở chỗ nông dân không có hoặc thiếu đất sản xuất; năm
1993 khoảng 8% hộ nông dân nghèo không có đất sản xuất; năm 1998 khoảng
9% nhưng đến năm 2002 là 11%; tỷ lệ này tiếp tục tăng vào năm 2005; tập trung
ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long 39%; Đông Nam Bộ 31%; Tây Nguyên 3%,
Duyên hải Miền Trung 9%.
+ Nghèo thể hiện ở việc thiếu điều kiện cơ bản để phát triển sản xuất ở
những vùng hạ tầng cơ sở kém phát triển, công cụ sản xuất thô sơ, thiếu vốn và
chưa tiếp cận được thị trường tiêu thụ sản phẩm.
+ Nghèo thể hiện ở việc thiếu kiến thức sản xuất (trên 70%) do trình độ

văn hoá thấp và mù chữ (15,2%) hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông – lâm
- ngư - nghiệp (92%), không có chuyên môn kỹ thuật (96,3%).
+ Nghèo tiềm năng còn thể hiện ở nhóm dân cư không có đất sản xuất do
chuyển đổi mục đích trong quá trình đô thị hoá, song không kịp chuyển đổi nghề
nghiệp hoặc không có tay nghề.
1.3.2. Các nguyên nhân dẫn tới đói nghèo.
1.3.2.1 Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn:
Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn
của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ
không thể đầu tư vào nguồn lực của họ. Ngược lại nguồn lực hạn chế lại cản trở
họ thoát khỏi nghèo đói. Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có
đất có xu hướng tăng lên, đặc biệt là ở Đồng bằng sông Cửu Long. Thiếu đất đai
ảnh hưởng lớn đến việc sản xuất lương thực của người nghèo dẫn tới việc không
có khả năng đa dạng hoá sản xuất để có thể lựa chọn các loại cây trồng có giá trị
kinh tế cao hơn. Đa số người nghèo vẫn chủ yếu lựa chọn phương thức sản xuất
tự cung, tự cấp, các phương thức sản xuất truyền thống với giá trị thấp, không có

×