Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tiểu luận Nghiên cứu khoa học trong giáo dục đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.64 KB, 19 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP.HCM


Môn: Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC


GVHD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Nhóm thực hiện: 2
Học viên thực hiện

S
ố báo danh

1.Đ
ặng Nguyễn Hải Âu

08

2.Võ
Đ
ình B
ảy

09


3.Võ Th
ị Kim Cúc

16

4.Đ
ỗ Khoa

47

5.Nguy
ễn Thị Mỹ Lệ

52

6.Nguy
ễn Thị Ho
ài Linh

54

7.Nguy
ễn Đ
ình Ph
ụng

78

8.Nguy
ễn Hồng Tâm


90

9.Phan Th
ị Mỹ Trang

113

10.Tr
ần Tú Trinh

116







Tp. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 11 năm 2013
2


PHẦN MỞ ĐẦU

Trong bối cảnh giao lưu và hội nhập của nước ta hiện nay, để khoa học, công nghệ đáp
ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, các nhà nghiên cứu, những người làm công tác
khoa học, nhất là giảng viên tại các trường đại học và cao đẳng phải là lực lượng nòng
cốt trong việc nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu đó vào mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Sở dĩ nói giảng viên là lực lượng nòng cốt là bởi ở bậc đại học, người

thầy đồng thời phải thực hiện hai nhiệm vụ: giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Hai
nhiệm vụ này có quan hệ chặt chẽ và tương hỗ lẫn nhau; nếu chỉ thực hiện được một
trong hai nhiệm vụ ấy thì có nghĩa, người thầy đó chưa hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Như vậy, nghiên cứu khoa học là một nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu của mỗi
giảng viên, nhất là với mục tiêu “mỗi trường đại học là một viện nghiên cứu”.

3


PHẦN NỘI DUNG
1. Lý thuyết về nghiên cứu khoa học:
1.1 Một số khái niệm:
1.1.1 Khái niệm nghiên cứu khoa học(NCKH):
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động tìm kiếm, xem xét, điều tra, hoặc thử nghiệm
Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức,… đạt được từ các thí nghiệm NCKH để phát
hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, và để sáng tạo
phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn. Con người muốn làm
NCKH phải có kiến thức nhất định về lĩnh vực nghiên cứu và cái chính là phải rèn luyện
cách làm việc tự lực, có phương pháp từ lúc ngồi trên ghế nhà trường.
Nghiên cứu khoa học bao gồm 2 hệ thống tri thức: tri thức kinh nghiệm và tri thức
khoa học.
Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động sống hàng
ngày trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên.
Quá trình nầy giúp con người hiểu biết về sự vật, về cách quản lý thiên nhiên và hình
thành mối quan hệ giữa những con người trong xã hội. Tri thức kinh nghiệm được con
người không ngừng sử dụng và phát triển trong hoạt động thực tế. Tuy nhiên, tri thức
kinh nghiệm chưa thật sự đi sâu vào bản chất, chưa thấy được hết các thuộc tính của sự
vật và mối quan hệ bên trong giữa sự vật và con người. Vì vậy, tri thức kinh nghiệm chỉ
phát triển đến một hiểu biết giới hạn nhất định, nhưng tri thức kinh nghiệm là cơ sở cho
sự hình thành tri thức khoa học.

Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống nhờ hoạt
động NCKH, các họat động này có mục tiêu xác định và sử dụng phương pháp khoa học.
Không giống như tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu
thập được qua những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động xã
hội, trong tự nhiên. Tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các ngành và bộ
môn khoa học (discipline) như: triết học, sử học, kinh tế học, toán học, sinh học,…
Khái niệm đề tài:
4

Đề tài là một hình thức tổ chức NCKH do một người hoặc một nhóm người thực
hiện. Một số hình thức tổ chức nghiên cứu khác không hoàn toàn mang tính chất
nghiên cứu khoa hoc, chẳng hạn như: Chương trình, dự án, đề án. Sự khác biệt giữa
các hình thức NCKH này như sau:
Đề tài: được thực hiện để trả lời những câu hỏi mang tính học thuật, có thể chưa để
ý đến việc ứng dụng trong hoạt động thực tế.
Dự án: được thực hiện nhằm vào mục đích ứng dụng, có xác định cụ thể hiệu quả về
kinh tế và xã hội. Dự án có tính ứng dụng cao, có ràng buộc thời gian và nguồn lực.
Đề án: là loại văn kiện, được xây dựng để trình cấp quản lý cao hơn, hoặc gởi cho
một cơ quan tài trợ để xin thực hiện một công việc nào đó như: thành lập một tổ chức;
tài trợ cho một hoạt động xã hội, Sau khi đề án được phê chuẩn, sẽ hình thành
những dự án, chương trình, đề tài theo yêu cầu của đề án.
Chương trình: là một nhóm đề tài hoặc dự án được tập hợp theo một mục đích xác
định. Giữa chúng có tính độc lập tương đối cao. Tiến độ thực hiện đề tài, dự án trong
chương trình không nhất thiết phải giống nhau, nhưng nội dung của chương trình thì
phải đồng bộ.
1.1.2 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: là bản chất của sự vật hay hiện tượng cần xem xét và làm rõ
trong nhiệm vụ nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu được khảo sát trong trong phạm vi nhất
định về mặt thời gian, không gian và lãnh vực nghiên cứu.

1.1.3 Mục đích và mục tiêu nghiên cứu:
Khi viết đề cương nghiên cứu, một điều rất quan trọng là làm sao thể hiện được mục
tiêu và mục đích nghiên cứu mà không có sự trùng lấp lẫn nhau. Vì vậy, cần thiết để
phân biệt sự khác nhau giữa mục đích và mục tiêu.
- Mục đích: là hướng đến một điều gì hay một công việc nào đó trong nghiên cứu mà
người nghiên cứu mong muốn để hoàn thành, nhưng thường thì mục đích khó có thể
đo lường hay định lượng. Nói cách khác, mục đích là sự sắp đặt công việc hay điều gì
đó được đưa ra trong nghiên cứu. Mục đích trả lời câu hỏi "nhằm vào việc gì?", hoặc
"để phục vụ cho điều gì?" và mang ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu, nhắm đến đối
tượng phục vụ sản xuất, nghiên cứu.
5

- Mục tiêu: là thực hiện điều gì hoặc hoạt động nào đó cụ thể, rõ ràng mà người
nghiên cứu sẽ hoàn thành theo kế hoạch đã đặt ra trong nghiên cứu. Mục tiêu có thể đo
lường hay định lượng được. Nói cách khác, mục tiêu là nền tảng hoạt động của đề tài
và làm cơ sở cho việc đánh giá kế hoạch nghiên cứu đã đưa ra, và là điều mà kết quả
phải đạt được. Mục tiêu trả lời câu hỏi “làm cái gì?”.
1.2 Mục tiêu của nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học phục vụ hoàn thiện mục tiêu đổi mới chương trình đào tạo,
cập nhật và hiện đại hóa nội dung môn học, xây dựng hệ thống tài liệu học tập: giáo
trình, tài liệu tham khảo, nhằm đáp ứng yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng
đào tạo.
Thông qua nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực
nghiên cứu của đội ngũ giảng viên và các nhà nghiên cứu của nhà trường, từ đó đáp
ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo phù hợp với nhu cầu xã
hội.
Đối với sinh viên, nghiên cứu khoa học giúp nâng cao khả năng nghiên cứu của
sinh viên và hỗ trợ tốt việc tiếp thu các môn học khác ngoài môn học nghiên cứu.
1.3 Vai trò của nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học có vai trò rất lớn trong đời sống khoa học kĩ thuật và xã hội.

Kết quả nghiên cứu khoa học không chỉ mang lại lợi ích về mặt khoa học, học thuật
mà còn có giá trị lớn trong đời sống xã hội. Kết quả nghiên cứu khoa học sau khi
được kiểm nghiệm trở thành tri thức khoa học của thế giới góp phần phát triển khoa
học.
Trong các trường đại học theo xu hướng hội nhập hiện nay có hai đối tượng tham
gia nghiên cứu khoa học là sinh viên và giảng viên.
Đối với giảng viên:
Có thể khẳng định, hoạt động NCKH và chuyển giao công nghệ (CGCN) góp phần
quan trọng vào việc nâng cao trình độ khoa học của giảng viên, nâng cao chất lượng
đào tạo, đồng thời khẳng định vị thế và uy tín của trường với xã hội bởi:
Bối cảnh hiện nay, khi mà thế giới đang trở nên “phẳng” hơn thì vai trò của các
trường đại học và chất lượng giáo dục tại các trường đại học càng trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết. Với chức năng giảng dạy, đại học đào tạo những chuyên gia có kĩ
6

năng cao và có văn hóa; với chức năng nghiên cứu, trường đại học là trung tâm sáng
tạo ra tri thức mới và chuyển giao công nghệ cho nền kinh tế, do đó, cũng có thể xem
các trường đại học là một phương tiện nối kết công dân trong một xã hội. Hiện nay,
bất cứ một trường đại học nào cũng đều có hai nhiệm vụ chính và quan trọng nhất đó
chính là: đào tạo và nghiên cứu khoa học (NCKH). Đây là hai hoạt động có mối quan
hệ hữu cơ, hai nhiệm vụ cơ bản chiến lược của nhà trường, trong đó việc giảng viên
nhà trường tích cực tham gia các hoạt động NCKH là một trong những biện
pháp quan trọng - bắt buộc - cần thiết để hướng đến nâng cao chất lượng đào tạo,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng khắt khe của xã hội.
M ột cách khái quát nhất, giảng viên tại các trường đại học có hai chức năng quan
trọng, có tính chất cơ bản, đó là: giảng dạy và NCKH. Thực tiễn và lý luận đều chứng
minh một cách rõ ràng rằng, NCKH và giảng dạy có mối quan hệ hữu cơ với nhau, gắn
kết chặt chẽ với nhau và hỗ trợ cho nhau. Để thích ứng hơn trong giai đoạn hội nhập
và phát triển như hiện nay, việc tham gia vào những hoạt động NCKH sẽ có những lợi
ích cơ bản như sau:

- NCKH giúp giảng viên có điều kiện đào sâu hơn, nắm bắt chặt chẽ hơn kiến thức
chuyên môn mà mình đang trực tiếp giảng dạy, kịp thời điều chỉnh, bổ sung những nội
dung kiến thức chưa chuẩn xác trong bài giảng của mình. Người giảng viên tham gia
NCKH một mặt vừa củng cố lại kiến thức chuyên môn của mình, mặt khác vừa có
điều kiện mở rộng, hiểu biết nhiều hơn từ những kiến thức từ các chuyên ngành khác;
- Quá trình tham gia NCKH sẽ góp phần phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, khả
năng làm việc độc lập, trau dồi tri thức và các phương pháp nhận thức khoa học của
giảng viên. Đồng thời hình thành ở giảng viên những phẩm chất của nhà nghiên cứu.
Chúng ta đều biết rằng, trong quá trình tham gia NCKH, giảng viên có thể là thành
viên hoặc là chủ nhiệm của một đề tài các cấp. Trong quá trình thực hiện đề tài, tự bản
thân giảng viên sẽ nảy sinh ra nhiều hướng giải quyết khác nhau. Quá trình này sẽ giúp
chính bản thân giảng viên rèn luyện và phát triển thêm tư duy độc lập, “tư duy phản
biện”, biết bảo vệ lập trường khoa học của mình. Cũng trong quá trình thực hiện, triển
khai đề tài, tự bản thân giảng viên sẽ phát triển và hoàn thiện hơn các kỹ năng cần thiết
cho việc giảng dạy và nghiên cứu. Thiết nghĩ, đó là những phẩm nhất mà một người
giảng viên chuyên nghiệp trong bối cảnh số hóa cần nên phải có.
7

- Quá trình tham gia các hoạt động NCKH cũng đồng thời là quá trình giúp giảng
viên tự cập nhật thông tin, kiến thức một cách thực sự hiệu quả. Hơn nữa, NCKH giúp
cho giảng viên tìm hiểu thêm lượng kiến thức mới từ những nguồn khác nhau để đánh
giá và hoàn thiện lại những kiến thức của chính bản thân mình. Với một số hình thức
có thể triển khai như: thông qua các diễn đàn trao đổi học thuật, tranh luận các vấn đề
có tính chất “mở”, hội nghị khoa học giảng viên, báo cáo của các chuyên gia qua các
hoạt động này, giảng viên sẽ tìm tòi, phát hiện ra được những vấn đề còn khúc mắc để
có thể nhờ đến sự tư vấn của đồng nghiệp, hoặc nhờ các chuyên gia am tường về lĩnh
vực này;
- Thông qua việc NCKH, sẽ tăng thêm sự hiểu biết về ngành nghề, góp phần hình
thành và bồi dưỡng tình cảm nghề nghiệp cho giảng viên. Đây là điều cần thiết và
quan trọng trong quá trình giảng dạy và hoạt động chuyên môn của giảng viên. Điều

này sẽ giúp giảng viên có thể hòa nhập tốt hơn, chủ động hơn trong công việc của
mình.
- Quá trình thực hiện các hoạt động NCKH là cơ hội tốt để giảng viên có môi trường,
cơ hội bồi dưỡng năng lực NCKH. Đây cũng là cơ sở cần thiết để tiến hành đổi mới
nội dung, phương pháp giảng dạy. Điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
- Trong quá trình tham gia NCKH, nếu đạt kết quả tốt, sẽ là yếu tố quan trọng góp
phần nâng cao vị thế và uy tín của chính bản thân giảng viên, đồng thời khẳng định vị
thế và uy tín của trường với xã hội. Vì, một trong những tiêu chí để đánh giá, xếp hạng
các trường đó chính là mảng NCKH của giảng viên, công nhân viên chức của trường.
- Ngoài ra, giảng viên tham gia NCKH sẽ có được các mối quan hệ xã hội cần thiết
trong quá trình công tác. Quá trình thực hiện đề tài NCKH, giảng viên sẽ học hỏi được
rất nhiều từ các giảng viên đồng nghiệp, từ các thành viên tham gia đề tài.
- NCKH tạo điều kiện cho giảng viên tìm ra phương pháp giảng dạy có hiệu quả nhất.
- Hoạt động NCKH sẽ góp phần quan trọng để khẳng định uy tín của nhà trường với
các trường bạn trong toàn quốc. Mỗi bài viết tham gia hội thảo được đánh giá cao, mỗi
công trình NCKH ở các cấp, mỗi bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành với tên cán
bộ, giảng viên gắn với tên nhà trường là một lần thương hiệu và uy tín của nhà trường
được thể hiện. Danh tiếng tốt của nhà trường, không phải là cái gì đó chung chung,
trừu tượng mà nó phải được thể hiện thông qua thành tích đóng góp của từng cán bộ,
8

giảng viên, sinh viên của nhà trường. Thành tích của cá nhân góp phần làm nên thành
tích của tập thể.
Đối với sinh viên:
Nghiên cứu khoa học là hoạt động trí tuệ giúp sinh viên vận dụng phương pháp
luận và phương pháp nghiên cứu khoa học trong học tập và trong thực tiễn, trong đó
sinh viên bước đầu vận dụng một cách tổng hợp những tri thức đã học để tiến hành
hoạt động nhận thức có tính chất nghiên cứu, bước đầu góp phần giải quyết những vấn
đề khoa học do thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp đặt ra để từ đó có thể đào sâu, mở
rộng và hoàn thiện vốn hiểu biết của mình.

Hoạt động nghiên cứu khoa học mang lại những ý nghĩa thiết thực đối với sinh
viên. Bằng nhiều hình thức khác nhau như viết tiểu luận, báo cáo thực tập, làm khóa
luận, nghiên cứu khoa học sẽ rèn luyện cho sinh viên khả năng tư duy sáng tạo, khả
năng phê phán, bác bỏ hay chứng minh một cách khoa học những quan điểm, rèn
luyện kỹ năng phân tích, tổng hợp kiến thức, tư duy lôgic, xây dựng tinh thần hợp tác,
giúp đỡ nhau trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở đó, nghiên cứu khoa
học sẽ tạo ra những bước đi ban đầu để sinh viên tiếp cận với những vấn đề mà khoa
học và cuộc sống đang đặt ra, gắn lý luận với thực tiễn.
Trong quá trình nghiên cứu, sinh viên phải thường xuyên làm việc tích cực, độc lập
với sách báo, tư liệu, thâm nhập thực tế, điều tra khảo sát, phỏng vấn Nhờ đó, không
những tầm hiểu biết của sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học được mở rộng mà họ
còn dần dần nắm được phương pháp, cách thức tổ chức nghiên cứu, sắp xếp công việc,
khả năng giao tiếp và niềm tin khoa học, từng bước hình thành những tố chất và bản
lĩnh cần có của người cán bộ khoa học trong tương lai.
Trong công tác đào tạo đại học ở nước ta hiện nay, NCKH được xem là một “mắt
xích” quan trọng không thể thiếu được trong việc góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo, tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
2. Thực trạng nghiên cứu khoa học hiện nay:
2.1 Thực trạng chung về nghiên cứu khoa học hiện nay:
Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên
trong các trường đại học, cao đẳng đã có những đóng góp đáng kể vào thành tích
chung cho ngành giáo dục. Tuy nhiên, thực tế vẫn cho thấy, tại các cơ sở giáo dục này
9

đang có sự thiên lệch của giảng viên – lực lượng cơ bản làm công tác nghiên cứu - đối
với 2 hoạt động: nghiên cứu và giảng dạy, mà ưu thế thuộc về giảng dạy. Điều này
dẫn tới việc các công trình nghiên cứu khoa học không mang lại hiệu quả như mong
muốn, thậm chí chỉ “xếp chật tủ”. Để khắc phục tồn tại, nâng cao chất lượng hoạt
động nghiên cứu khoa học và thực hiện mục tiêu “mỗi trường đại học là một viện
nghiên cứu”, chúng ta cần thực hiện đồng bộ các giải pháp (cả vĩ mô và vi mô) để

những công trình nghiên cứu thực sự đem lại hiệu quả.
Công bằng mà nói, trong những năm vừa qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của
đội ngũ giảng viên trong các trường đại học, cao đẳng đã có những đóng góp đáng kể
vào thành tích chung của ngành giáo dục và nền khoa học nước nhà. Nhiều sáng kiến,
phát minh được áp dụng vào thực tế, nhiều kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào các
lĩnh vực đã tạo ra hiệu quả nhất định trong đời sống kinh tế- xã hội… .
Bảng 1: Các công trình NCKH của Việt Nam và thế giới (2011 – 2012)


Đơn vị
NĂM 2011
NĂM 2012


KHU VỰC THẾ GIỚI KHU VỰC THẾ GIỚI
Vi
ện Khoa học v
à
công nghệ VN
519 1.967 561 2.058
ÐH Quốc gia
TP.HCM
720 2.765 744 2.774
ÐH Quốc gia Hà
Nội
775 2.965 854 3.155
(Nguồn:

Qua bảng 1 cho thấy, các công trình nghiên cứu khoa học ở 3 đơn vị điển hình ở
Việt Nam chiếm một tỷ lệ đáng kể trong các công trình nghiên cứu khoa học trên thế

giới, và có sự gia tăng qua các năm từ năm 2011 sang 2012.
Song, với sự phát triển nhanh chóng của đất nước như hiện nay thì có thể đánh giá
một cách thẳng thắn: đội ngũ cán bộ khoa học nói chung, lực lượng giảng viên tại các
trường đại học, cao đẳng nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu (cả về số lượng và chất
lượng) để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Ở các trường đại học, cao đẳng
trực thuộc Đảng ủy khối các trường Đại học, Cao đẳng tình trạng này cũng không khả
10

quan hơn. Mặc dù hiện nay, chẳng hạn như tại Hà Nội toàn Khối có 1.357 giáo sư và
phó giáo sư, 2.947 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 5.826 thạc sĩ, 9.908 cử nhân, kỹ sư và
tương đương, với số lượng đề tài, dự án các cấp được thực hiện hàng năm là khá lớn:
trong 2 năm (2008 - 2009), toàn Khối đã triển khai và nghiệm thu 70 đề tài nghiên cứu
cấp nhà nước, hơn 2.000 đề tài cấp Bộ và tương đương,nhiều công trình khoa
học và những cải tiến ứng dụng được đăng trên các tạp chí danh tiếng thế giới…; song
ta nhận thấy vẫn có một tình trạng khá phổ biến, đó là:
- Số lượng giảng viên tham gia (và được tham gia) nghiên cứu không nhiều, một
tỷ lệ khá lớn trong số đó chưa thật nhiệt tình và say mê nghiên cứu; vì thế, nhiều công
trình nghiên cứu, dù ở những cấp cao như đề tài cấp Bộ… vẫn còn hạn chế về chất
lượng nghiên cứu với hàm lượng khoa học thấp.
- Tình trạng đối phó trong nghiên cứu khá phổ biến: Theo quy định của hầu hết
các trường, giảng viên phải thực hiện một số lượng giờ nghiên cứu khoa học nhất định,
từ đó quy ra phải có bao nhiêu bài báo, đề tài… mang tính chất khoán. Vì thế, nhiều
giảng viên chỉ thực hiện cốt cho đủ giờ mà thôi, còn không quan tâm lắm đến chất
lượng công trình mà mình công bố. Những bài báo ấy vẫn được đăng, đề tài ấy vẫn
được nghiệm thu nhưng nhiều khi do nể nang, quen biết nên người thực hiện vẫn
“hoàn thành kế hoạch”.
- Nhiều công trình nghiên cứu không có giá trị: Do tư tưởng đối phó – “làm cho
xong”, cũng như nhiều khi mục đích đặt ra nặng về lợi ích kinh tế nên việc “cắt- dán”
(copy – paste) hay “xào- nấu lại” là khá phổ biến trong hoạt động nghiên cứu. M ột
công trình được đánh giá xuất sắc khi nghiệm thu, cũng không hề có những đoạn văn

“đạo” nhưng lại chẳng có đóng góp gì mới trên phương diện khoa học. Lý do là bởi kỹ
năng và trình độ “nấu” của người thực hiện đề tài đã ở mức chuyên nghiệp. Ngoài ra,
việc nghiên cứu những gì “ta có sẵn” cũng được áp dụng để nhằm giảm thiểu chi phí
thực hiện…, dẫn tới rất nhiều công trình sau khi nghiệm thu đều được đóng bìa cứng
xếp vào tủ kính “nhìn cho đẹp”…Chắc chắn những công trình ấy không thể đem lại
nâng cao trình độ của người nghiên cứu, không mang lại hiệu quả mà ngược lại, còn
gây lãng phí thời gian và tiền bạc.
Chất lượng thấp của các công trình còn thể hiện qua số lượng các bài báo khoa học
được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế. Theo số liệu của GS. Nguyễn Văn
11

Tuấn - Đại học New South Wales – Australia, tại một Hội thảo do Dự án Giáo dục 2 tổ
chức tại Hà Nội vào tháng 12/2010 thì trong vòng 10 năm (1996- 2005), tổng số bài
báo khoa học mà Việt Nam công bố là 3456 bài, trong đó nhiều nhất là thuộc lĩnh vực
Y sinh (24,3%), rồi đến Toán – Vật lý, Hoá học, Nông nghiệp… (Xem Bảng 2), còn
khối Kinh tế, Khoa học xã hội và Công nghệ sinh học chỉ có lần lượt 2,5%, 1,6% và
1,3%. Như vậy, trung bình mỗi năm chúng ta chỉ có hơn 345 bài báo được công bố, đó
là chưa tính đến số lượng và số lượt các bài được trích dẫn cũng rất thấp (23,1% chưa
được trích dẫn lần nào, 44,5% được trích từ 1 – 5 lần).
Bảng 2: % các bài báo KH tính cho từng nước và lĩnh vực NC (1996 – 2005)
Lĩnh vực NC Số lượng bài báo KH / Quốc gia
Việt Nam

Thái Lan

Philippines

Singapore

Y

-

Sinh học

24.3

42.8

25.0

16.6

Kỹ thuật

10.5

16.4

9.3

40.4

Nông n
ghiệp

12.6

9.2

28.7


0.9

Toán


Vật lý

23.9
2.3

4.2

10.6

(Nguồn: Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Đình Nguyên, Chất lượng NCKH ở Việt Nam qua
chỉ số trích dẫn)
- Sự gắn kết giữa nghiên cứu và giảng dạy còn thấp: Nhiều giảng viên theo đuổi
hướng nghiên cứu khác xa với môn học do mình đảm nhiệm nên mục tiêu “bổ sung
cho nội dung giảng dạy” sau khi nghiên cứu không đem lại kết quả. Cũng tương tự
như vậy, trong một số trường đại học còn cả các viện nghiên cứu nhưng việc gắn kết,
sử dụng các kết quả nghiên cứu phục vụ giảng dạy và học tập còn chưa được đặt ra:
người giảng dạy vẫn giảng dạy còn người nghiên cứu vẫn nghiên cứu một cách độc
lập, tách rời nhau.
12

- Đa số các nghiên cứu chưa hướng tới phục vụ trực tiếp cho địa phương nơi
trường đang tọa lạc: Những năm gần đây, tuy đã có những công trình của một số các
trường trên địa bàn cả nước đã hướng đến giải quyết những vấn đề “nổi cộm”, “cấp
thiết” của Việt Nam và có những đóng góp nhất định, nhưng số lượng đề tài còn chưa

tương xứng với tiềm năng của các nhà khoa học. Thực tế cho thấy, nước ta vẫn còn
nhiều vấn đề cấp thiết chưa được giải quyết, trong khi đó, phần lớn các nghiên cứu đều
có đối tượng, phạm vi nghiên cứu rộng. Điều đó không những không mang lại lợi ích
cho nền giáo dục Việt Nam mà nhiều khi, do khoảng cách quá xa, điều kiện đi lại
không thuận lợi và nguốn kinh phí có hạn, nên số liệu cũng như giải pháp đưa ra thiếu
tính thực tế, dẫn tới kém giá trị và tính khả thi không cao.
2.2 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghiên cứu khoa học chưa mang đến
hiệu quả trong giáo dục hội nhập:
Theo phạm vi chuyên đề này, nghiên cứu khoa học chưa mang đến hiệu quả
trong giáo dục hội nhập là do một số nguyên nhân cơ bản sau đây:
- Hầu hết các giảng viên có khả năng nghiên cứu (và đủ điều kiện để được duyệt
thực hiện đề tài) đều là những người đã có thâm niên công tác, có học hàm, học vị và
cả thành tích nghiên cứu cũng như giảng dạy…; tuy nhiên, họ lại thường là lãnh đạo,
quản lý nên thời gian dành cho nghiên cứu thường không nhiều và phải “tranh thủ”.
- Giảng viên phải giảng dạy quá nhiều: Theo Quyết định số 64/2008/QĐ-
BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, giảng viên có chức danh càng cao thì
số giờ giảng dạy càng nhiều (Giáo sư, GVCC = 360 giờ; Phó giáo sư, GVC = 320 giờ ;
Giảng viên = 280 giờ). Đây đã là số giờ chuẩn tương đối nhiều, song trên thực tế, ở
khá nhiều trường đại học, cao đẳng, số giờ mà giảng viên thực dạy còn lớn hơn nữa,
thường là gấp đôi số định mức, thậm chí có người dạy tới 1.000 – 1.500 tiết/năm. Với
số giờ giảng nhiều như vậy nên giảng viên không còn thời gian (và cả sức lực) dành
cho việc nghiên cứu.
- Chất lượng của đội ngũ giảng viên: Theo số liệu báo cáo đã nêu, tính đến
8/2010, toàn Khối có tổng số 20.038 giảng viên đang giảng dạy, nghiên cứu trong các
trường đại học, cao đẳng; trong đó, số giáo sư và phó giáo sư là 1.357 (chiếm 6,77%),
2.947 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học (chiếm 14,71%), 5.826 thạc sĩ (chiếm 29,07%). Với tỷ
lệ này thì rõ ràng, việc đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và chất lượng nghiên cứu khoa
13

học cũng là vấn đề khá khó khăn, bởi nếu để giảng dạy thì có thể chỉ cần đến trình độ

thạc sĩ, nhưng để nghiên cứu và nghiên cứu có chất lượng thì phải cần có học vị cao
hơn (mặc dù không thể phủ nhận, vẫn có những nhà nghiên cứu xuất sắc dù học vị của
họ không cao). Thêm vào đó, trình độ ngoại ngữ và khả năng sử dụng internet của một
bộ phận lớn giáo sư và phó giáo sư còn khá hạn chế ( theo đánh giá của GS-TSKH Đỗ
Trần Cát – nguyên Tổng thư ký Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước) nên sẽ gây
khó khăn lớn trong việc nghiên cứu.
- Định hướng nghiên cứu khoa học nhưng chưa thật khoa học: Hiện chúng ta vẫn
khá phổ biến tình trạng người muốn thực hiện đề tài thì cứ đăng ký theo “thế mạnh”,
theo “vốn có sẵn” của mình. Vì thế nên dù hướng nghiên cứu có được thông qua Hội
đồng khoa học nhiều lần thì cũng vẫn là xét duyệt theo đăng ký, phụ thuộc vào người
đăng ký, chứ ít khi xuất phát từ nhu cầu thực của trường, của ngành hay của xã hội.
- Thù lao được trả chưa xứng với công sức bỏ ra: Kinh phí cấp cho các đề tài
nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Bộ hoặc Thành phố còn tạm ổn cho hoạt động nghiên
cứu, nhưng với các công trình nghiên cứu cấp trường hoặc bài báo thì số kinh phí
thường rất thấp ( từ 15 - 20 triệu/đề tài và 500.000đ – 700.000đ/bài báo); vì thế, không
khuyến khích được giảng viên nghiên cứu và chất lượng công trình cũng không thể
cao.
- Thiếu sự liên kết giữa các trường: Hầu hết các trường đều không có sự liên kết,
trao đổi nên nhiều khi hướng nghiên cứu bị trùng lặp, nhất là với các trường không
cùng Bộ chủ quản. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng lại những kết
quả đã công bố và gây ra lãng phí.
- Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng nhà nước với các nhà khoa học
của các trường: Dù hiện nay nước ta có một đội ngũ các nhà khoa học đông đảo (chủ
yếu là của các trường đại học, cao đẳng), nhưng dường như từ cả 2 phía đều chưa thật
sự quan tâm đến việc khai thác chất xám của các nhà khoa học để xây dựng, phát triển
đất nước và trách nhiệm của mỗi người với tư cách là công dân Việt Nam. Vì thế, mới
chỉ có một số ít nhà khoa học cùng với cơ quan nhà nước chung tay giải quyết những
vấn đề nổi cộm của nền giáo dục, còn lại thì hầu như đều đứng ngoài cuộc. Rõ ràng là
với tiềm năng của mình, họ có thể cống hiến nhiều hơn cho đất nước, nếu có một cơ
chế phối hợp chặt chẽ và hiệu quả hơn giữa lãnh đạo với các trường.

14

Có thể thấy, thực trạng bức tranh nghiên cứu khoa học, công nghệ và nguyên
nhân của những hạn chế cần khắc phục đã phân tích ở trên chính là tình trạng chung
của nền khoa học Việt Nam.
3. Một số khuyến nghị để nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học:
Nhằm mục đích nâng cao vị thế của các trường đại học trong NCKH và xác định
cho mình một đích đến trên bản đồ khoa học thế giới, chúng ta cần xem xét một cách
nghiêm túc các giải pháp mà nhiều trường đại học trên thế giới đã áp dụng rất thành
công. Trên cơ sở đó lựa chọn cho mình một hướng đi phù hợp với bối cảnh Việt Nam
và nguồn lực của mỗi trường đại học.
3.1 Tái cấu trúc tổ chức hoạt động trường đại học: Tái cấu trúc tổ chức hoạt
động trường đại học theo hướng nghiên cứu nhiều hơn thay vì các mô hình trường đại
học tập trung chủ yếu giảng dạy. Nhà nước nên chủ trương xây dựng các phòng nghiên
cứu trọng điểm quốc gia và đặt tại các trường đại học theo mô hình các trường đại học
nghiên cứu như ở Mỹ, Pháp, Trung Quốc thay vì duy trì các viện nghiên cứu độc lập
nằm ngoài trường đại học. Bắt đầu cho việc làm lớn này bằng một việc làm nhỏ cụ thể
có thể kể đến là Ban Giám hiệu trường Đại học Tôn Đức Thắng đã chia giảng viên làm
ba nhóm: giảng viên chuyên giảng dạy (không NCKH), giảng viên nghiên cứu (vừa
dạy, vừa nghiên cứu) và nghiên cứu viên (chỉ chuyên nghiên cứu). Việc làm này nhằm
tránh trường hợp giảng viên NCKH theo kiểu đối phó cũng như góp phần nâng cao
chất lượng công trình nghiên cứu theo chuẩn quốc tế.
3.2 Giới hạn giờ giảng của giảng viên: M ột nghịch lý đặt ra là với những
người có đủ điều kiện và khả năng nghiên cứu thì lại cũng chính họ là những người
có thể đảm nhiệm và phải đảm nhiệm số giờ giảng nhiều hơn (theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo); bởi thế, quỹ thời gian của họ được dành phần lớn cho việc
giảng dạy. Trong thực tế, giảng viên tại các trường đã và đang giảng dạy rất nhiều giờ
(gấp 200%, 300%, thậm chí 400% định mức). Vì thế, thời gian dành cho nghiên cứu
hầu như không còn. Để khắc phục tình trạng này, cần có chính sách giới hạn số giờ
giảng của giảng viên. Trước hết, Bộ Giáo dục & Đào tạo nên xem xét để giảm định

mức giờ giảng của chức danh Giáo sư, Phó giáo sư, để họ dành thời gian nhiều hơn
cho việc nghiên cứu. Với các trường, cần có sự khống chế số giờ giảng tối đa được
phép của giảng viên, tránh hiện tượng giảng viên chỉ là “thợ dạy”.
15

3.3 Cần có định hướng cho hoạt động nghiên cứu: Hiện nay, ta đang theo cơ
chế “xét duyệt” nhiệm vụ nghiên cứu và “đấu thầu” đề tài. Việc làm này đã đem lại
những tác dụng nhất định trong nghiên cứu; tuy nhiên, như đã trình bày, thường
những cá nhân tham gia đều đưa những hướng nghiên cứu vốn là thế mạnh của mình
(tất nhiên là phải thuyết phục được Hội đồng xét duyệt về tính cấp thiết), trong khi đó,
có nhiều vấn đề thực sự cần thiết và mang lại hiệu quả, nhưng do quá “hóc búa” hoặc
khó khăn khi triển khai nên không ai thực hiện. Do vậy, bên cạnh việc đấu thầu đề tài,
cần có cơ chế “giao” những đề tài này cho những cá nhân/đơn vị có khả năng thực
hiện để tài.
3.4 Chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học: Các trường đại học
cần tập trung sự quan tâm cao nhất của mình trong việc nâng cao chất lượng đào tạo
sau đại học, đặc biệt là năng lực sáng tạo và đổi mới của nghiên cứu sinh tiến sĩ.
Nghiên cứu sinh tiến sĩ thường được yêu cầu có bài đăng trên tạp chí trong nước
trước khi bảo vệ luận án là một việc làm đúng. Tuy nhiên, nhà trường cũng cần có
chính sách khuyến khích họ một cách cao nhất nếu bài báo được đăng trên các tạp chí
quốc tế uy tín hay ít nhất trên các tạp chí trong nước nằm trong hệ thống Scopus hoặc
ISI. Các học viên cao học cũng được khuyến khích công bố trên các tạp chí và các hội
nghị trong nước trước khi bảo vệ luận văn. Bên cạnh đó, trường đại học cũng nên chủ
trương tăng dần tỷ lệ học viên sau đại học so với sinh viên đại học, từ đó cho phép
xây dựng những nhóm nghiên cứu chuyên ngành với thành viên đông đảo là các sinh
viên thạc sĩ và tiến sĩ làm việc ở các phòng nghiên cứu.
3.5 Hợp tác chiến lược với các đại học nước ngoài: Các trường đại học Việt
Nam cần đưa ra các chương trình hợp tác chiến lược với đại học nước ngoài và thậm
chí, nếu được, thuê các nhà khoa học đến làm việc, giảng dạy và nghiên cứu, giúp sức
chuyển đổi các trường đại học thành những viện nghiên cứu đẳng cấp thế giới. Đồng

thời, khuyến khích gửi các nhà khoa học và sinh viên trong nước sang học tập ở nước
ngoài, cũng như nỗ lực thu hút sinh viên nước ngoài, đặc biệt là sinh viên sau đại học
thông qua nhiều chương trình trao đổi sinh viên, liên kết đào tạo, chương trình hợp tác
nghiên cứu, cung cấp học bổng.
3.6 Công bố nghiên cứu: Các trường đại học cần xem việc công bố nghiên cứu
trở thành một tiêu chí bắt buộc đối với người học tiến sỹ, thạc sỹ và đương nhiên cả
16

giáo sư, phó giáo sư. Coi trọng việc đăng các bài báo trên các tạp chí nổi tiếng thế giới
là mục tiêu sống trong học tập hay nghề nghiệp. Từng bước quốc tế hóa tiêu chuẩn
đánh giá khoa học. Ở các nước Đông Á, chức danh giáo sư, phó giáo sư hay giảng viên
đều được đề bạt và đánh giá dựa vào số lượng công trình khoa học quốc tế công nhận,
cũng như các cơ quan quản lý và nhà tài trợ đều hướng đến việc sử dụng công bố khoa
học quốc tế là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá xem xét việc cấp tài trợ hay
nghiệm thu các đề tài nghiên cứu.
3.7 Quốc tế hoá tập san khoa học: Các trường đại học từng bước xây dựng
ngày càng nhiều các tập san khoa học trong nước bằng tiếng Anh với hệ thống bình
duyệt theo tiêu chuẩn quốc tế (hệ thống ISI công nhận). Các bài báo khi đăng ở các tạp
chí được ISI công nhận sẽ được tính trong hệ thống khi xếp hạng quốc tế. Vì vậy, việc
cải thiện chất lượng bài viết cần nhiều thời gian và là công việc lâu dài thì việc chuyển
ngôn ngữ xuất bản và quy trình bình duyệt của các tập san sao cho phù hợp với chuẩn
của các tập san quốc tế là điều vô cùng cần thiết và cấp bách.
3.8 Thành lập nhóm nghiên cứu: Nhìn từ thành công của các trường đại học
trên thế giới tại Hàn Quốc và Trung Quốc, chúng ta cũng cần thành lập các nhóm
nghiên cứu do những giáo sư hàng đầu trong một lĩnh vực đứng đầu. Giáo sư ấy và các
cộng sự (là trợ giảng, nghiên cứu sinh, tiến sỹ) cùng nhau nghiên cứu và cho ra sản
phẩm khoa học mang tính mới, góp phần cho sự phát triển của xã hội. Trong các nhóm
nghiên cứu, giáo sư là người quan trọng nhất vì họ là người liên kết với các doanh
nghiệp, cơ quan bộ ngành, chính quyền trung ương và địa phương để có đơn đặt hàng.
Thậm chí, họ còn tìm đến các giáo sư về hưu để kết hợp giữa kiến thức, kinh nghiệm,

tiến bộ khoa học công nghệ vào nghiên cứu. Hiện nay trên Internet xuất hiện trang
mạng xã hội ReseachGate.net dành cho các nhà khoa học với hơn 2,4 triệu thành viên,
được ví như facebook của giới khoa học. Chúng ta có thể dùng nó để hợp tác không
chỉ với nhà khoa học trong nước mà còn cả nước ngoài.
3.9 Cải thiện tốt hơn cơ sở dữ liệu và cơ sở hạ tầng phục vụ cho nghiên
cứu: Một trong những yếu kém lớn của trường đại học là nguồn cơ sở dữ liệu và cơ sở
hạ tầng phục vụ cho hoạt động NCKH. Việc nghiên cứu sẽ tốt hơn rất nhiều khi các
nhà khoa học trong nước tiếp cận được các bài báo liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu
của mình từ các tạp chí uy tín thế giới. Hiện nay rất ít trường đại học sẵn sàng chi tiền
17

cho việc mua cơ sở dữ liệu nước ngoài, một phần do hạn chế về ngân sách và phần
khác do chưa chọn được nguồn mua khi trường đào tạo quá nhiều ngành. Cơ sở hạ
tầng cho nghiên cứu cũng rất cần thiết bởi lẻ sau khi tham khảo các bài nghiên cứu,
nhà khoa học có khi phải làm thí nghiệm, mày mò nghiên cứu trên các thiết bị, từ đó
mới có thể đề xuất và đưa ra nghiên cứu mới, rồi đăng bài báo chất lượng.
3.10 Chính sách khen thưởng thỏa đáng: Các nước đều có chính sách đãi ngộ,
thưởng cũng như hình thức khuyến khích tài chính cho các nhà khoa học có công trình
công bố trên các tập san quốc tế uy tín cao. Ví dụ, các viện nghiên cứu và đại học ở
Trung Quốc có chính sách thưởng tiền đáng kể (lên tới 32.000 USD ở Trường Đại học
Y Quảng Đông cho công bố đăng trên Nature hay Science) cho các nhà khoa học nếu
họ công bố công trình trên các tập san quốc tế uy tín có chỉ số ảnh hưởng cao.
Có cơ chế, biện pháp phối hợp, trao đổi nghiên cứu giữa các trường đại học, cao
đẳng trên địa bàn cả nước. Các trường cùng khối ngành, nhóm ngành có thể phối hợp
tổ chức các Hội thảo khoa học, tạo cơ hội cho giảng viên cùng tiến hành các đề tài
nghiên cứu, trao đổi giảng viên… để phát huy được thế mạnh của mỗi trường, đồng
thời tránh sự trùng lặp, chồng chéo các hướng nghiên cứu, gây lãng phí cả thời gian,
chất xám và tiền bạc…
Lãnh đạo nhà nước cần quan tâm và phối hợp chặt chẽ hơn với các trường đóng
trên địa bàn để khai thác được thế mạnh của từng trường trong việc nghiên cứu, triển

khai để giải quyết các vấn đề cấp thiết bằng cách: Ngoài việc gửi thông báo đề xuất
hướng nghiên cứu cho các đơn vị, Sở Khoa học, Công nghệ có thể tổ chức những buổi
họp giữa Sở với lãnh đạo các trường để lấy ý kiến của họ về hướng nghiên cứu mới, về
những vấn đề cần giải quyết trong thời gian trước mắt; thậm chí có thể “đặt hàng” các
trường về những lĩnh vực mà họ chuyên sâu, như giải quyết vấn đề giao thông, ngập
úng, ô nhiễm môi trường hay xây dựng nếp sống văn minh, thanh lịch của người Việt
Nam, phát triển du lịch… Nếu có sự phối kết hợp, chúng tôi chắc chắn, các nghiên cứu
sẽ đem lại hiệu quả thiết thực hơn.

18

KẾT LUẬN

NCKH ở các trường đại học có tầm quan trọng đặc biệt. Nó không những là nhiệm
vụ của giảng viên, là một trong hai hoạt động cơ bản của trường đại học, góp phần
nâng cao hiệu quả đào tạo mà còn giúp giảng viên, sinh viên thu nhận được những
thông tin khoa học, tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.
Vì vậy, công tác NCKH cần được đẩy mạnh hơn nữa để thực sự trở thành động lực
cho sự phát triển bền vững của các trường đại học, góp phần đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục đại học ở Việt Nam.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
SÁCH:
1. Phạm Lan Hương, 2013, Giáo dục hội nhập quốc tế, đại học Quốc gia Tp.HCM.
2. Cục Thông tin KH&CN Quốc gia, trích từ đề án “Phát triển khoa học và công
nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.
3. Đề án “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” , 2010.
4. Đề án “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”, 2012.
5. World Bank, www.data.worldbank.org và OECD, Science, Technology and
Industry Outlook 2010, Tr. 116 và Tr.198.
NGHỊ QUYẾT:
1. Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005.

WEBSITE:
1. />hoc-gop-phan-nang-cao-chat-luong-dao-tao-tai-cac-truong-Dai-hoc-hien-nay/13669.ajc
2. />so/59/5305002.epi
19

3. />nang-dao-tao-nhe-nghien-cuu-1975286/
4. /trien-khai-nghi-quyet-doi-moi-can-ban-va-toan-
dien-gdampdt-day-manh-nghien-cuu-khoa-hoc-de-doi-moi-giao-duc-dai-hoc-1975350/
5. />CUU KHOA-HOC-TRONG-CAC-TRUONG-DAI-HOC-CAO-DANG TREN-DIA-BAN-
THU-DO/
6.
ap-
nang-cao-hiu-qu-nghien-cu-khoa-hc-sinh-vien.html

7. />chuc-va-hoat-dong-KHCN/201112/183330.datviet
8. g-nen-lam-khoa-hoc-theo-co-che-ke-
hoach-hoa/20129/231532.datviet
9. />hon-ai
10.
/>cuu-cap-tien-si
-
11. html
12. />hoc.html
13. />KH-CN-c1026/Toa-dam-Doi-moi-co-che-tai-chinh-tron g-hoat-don g-KH-CN-n3622





×